Tài liệu Luận văn Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng công thương Bến Thuỷ - thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An: Luận văn tốt nghiệp: “Giải pháp tăng cường huy 
động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Công 
Thương Bến Thuỷ - Thành Phố Vinh - Tỉnh 
Nghệ An” 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
LỜI NÓI ĐẦU 
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề vốn đang là đòi hỏi cấp bách trong sự 
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá của nước ta. Nó đóng vai trò quyết 
định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Để đáp ứng nhu cầu 
vốn cho nền kinh tế, nước ta cần phải có các biện pháp, chính sách nhằm huy 
động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Ở nước ta thị trường chứng 
khoán chưa phát triển do vậy lượng vốn huy động được bằng con đường tài 
chính trực tiếp thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá 
khác còn rất nhỏ so với nhu cầu vốn của nền kinh tế. Do vậy quá trình nhận 
và truyền vốn trên thị trường chủ yếu được thực hiện thông qua các ngân hàng 
thương mại và thị trường tín dụng. Có thể nói ở Việt Nam ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
73 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1313 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng công thương Bến Thuỷ - thành phố Vinh - tỉnh Nghệ An, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn tốt nghiệp: “Giải pháp tăng cường huy 
động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Công 
Thương Bến Thuỷ - Thành Phố Vinh - Tỉnh 
Nghệ An” 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
LỜI NÓI ĐẦU 
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề vốn đang là đòi hỏi cấp bách trong sự 
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá của nước ta. Nó đóng vai trò quyết 
định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Để đáp ứng nhu cầu 
vốn cho nền kinh tế, nước ta cần phải có các biện pháp, chính sách nhằm huy 
động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Ở nước ta thị trường chứng 
khoán chưa phát triển do vậy lượng vốn huy động được bằng con đường tài 
chính trực tiếp thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá 
khác còn rất nhỏ so với nhu cầu vốn của nền kinh tế. Do vậy quá trình nhận 
và truyền vốn trên thị trường chủ yếu được thực hiện thông qua các ngân hàng 
thương mại và thị trường tín dụng. Có thể nói ở Việt Nam hơn 80% lượng 
vốn trong nền kinh tế là do hệ thống ngân hàng cung cấp. Do đó vai trò của 
Ngân hàng trong hoạt động huy động vốn cho nền kinh tế là cực kỳ quan 
trọng. 
Như vậy công tác huy động vốn của ngân hàng đóng vai trò quan trọng 
trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động của ngân hàng nói riêng. 
Trong thời gian học tập tại trường và thời gian thực tập chi nhánh Ngân hàng 
Công Thương Bến Thuỷ - Thành Phố Vinh - Tỉnh Nghệ An tôi đã cố gắng 
nghiên cứu và tìm hiểu kỹ về công tác huy động vốn và chọn đề tài chuyên đề 
tốt nghiệp: “Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng 
Công Thương Bến Thuỷ - Thành Phố Vinh - Tỉnh Nghệ An” 
Chuyên đề tập trung vào nghiên cứu các phương thức huy động vốn của ngân 
hàng thương mại, các nhân tố ảnh hưởng đến các phương thức đó. Thực 
trạng về công tác huy động vốn của ngân hàng công thương Bến Thuỷ (các 
phương thức huy động vốn mà ngân hàng áp dụng, các nhân tố ảnh hưởng tới 
nó), từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị. 
Chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận được hình thành gồm có 3 
chương. 
Chương I. Vai trò của vốn và hoạt động huy động vốn của Ngân 
hàng Thương mại. 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
Chương II. Thực trạng huy động vốn của chi nhánh Ngân hàng 
Công Thương Bến Thuỷ. 
Chương III. Giải pháp tăng cường huy động vốn của chi nhánh 
Ngân hàng Công Thương Bến Thuỷ. 
Do thời gian nghiên cứu lý luận và thực tập còn ngắn với trình độ hiểu 
biết còn hạn chế do vậy chuyên đề này còn có nhiều thiếu sót. Rất mong nhận 
được sự đóng góp và chỉ bảo của các thầy cô và các bạn đọc. Em xin chân 
thành cảm ơn thầy GS.TS. Lê Đức Lữ đã tận tình chỉ bảo và các cô chú, anh 
chị công tác ở phòng kinh doanh, phòng nguồn vốn, phòng kế toán và các cán 
bộ nhân viên khác trong ngân hàng đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt 
nghiệp này. Rất chân thành cảm ơn. 
 Vinh tháng 5 năm 2003 
Sinh viên thực hiện 
 Lê Anh Tú 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
CHƯƠNG I 
VAI TRÒ CỦA VỐN VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN 
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 
I. NHỮNG NGHIỆP VỤ CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 
1. Định nghĩa Ngân hàng Thương mại. 
 Lịch sử đã ghi nhận sự phát sinh, phát triển của ngành Ngân hàng được 
quyết định bởi quá trình phát triển của các quan hệ hàng hoá- tiền tệ. Đồng 
thời cũng còn những yếu tố khác có ảnh hưởng quyết định đến cấu trúc và sự 
phát triển của hệ thống ngân hàng; như chế độ pháp quyền, điều kiện chiến 
tranh và tình trạng khủng hoảng kinh tế, tài chính... 
 Từ thời cổ đại, ở những nước có nền thương mại phát triển sớm đã xuất hiện 
những nhóm thương nhân chuyên nghề kinh doanh các dịch vụ tiền tệ nhưng 
chưa có một cơ cấu tổ chức nào được coi như một ngân hàng theo đúng chức 
danh của nó. Trong nhiều thế kỷ của thời trung cổ, nghề kinh doanh này đã 
phải trải qua bao nỗi thăng trầm bởi chiến tranh tàn khốc, không thể phát triển 
được. Phải chờ cho đến đầu thế kỷ thứ 12, khi chiến tranh đã dịu bớt, kinh tế 
hàng hoá đã có bước phát triển, nhất là khu vực Tây âu. Khi đó, một tổ chức 
được mệnh danh là ngân hàng được thành lập ở Venise nước Ý vào năm 
1171, tuy về thực chất chỉ là một tổ chức tài chính được thiết lập để thực hiện 
sự tài trợ cho chiến tranh, nhưng nội dung hoạt động của nó đã bao hàm cả 
nghiệp vụ ngân hàng. 
 Cho đến đầu thế kỷ 15, một số tổ chức kinh doanh tiền tệ được thành lập, 
được xem như những ngân hàng thực thụ như: Ngân hàng Barcelone, Ngân 
hàng Valenee của Tây Ban Nha, những tổ chức này đã thực hiện các nghiệp 
vụ nhận tiền ký thác, cấp tín dụng, chuyển ngân và làm các nghiệp vụ thu- chi 
tiền cho khách hàng với ý nghĩa là những nghiệp vụ kinh doanh cơ bản. 
 Sự phát triển của Ngân hàng Thương mại phải kể từ thời kỳ phục hưng, và 
đặc biệt là từ khoảng thế kỷ 17 cho đến nay. Thời kỳ kinh tế hàng hoá phát 
triển nhanh chóng, mạnh mẽ, nền thương mại không ngừng mở rộng, các 
quan hệ hàng hoá- tiền tệ phát triển bao trùm đời sống kinh tế- xã hội đã tạo 
ra những tiền đề kinh tế phát sinh và phát triển nghề Ngân hàng. 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 Ở Việt nam, trong bước chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý của 
Nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định 
hướng xã hội chủ nghĩa. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, 
được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể 
hỗn hợp đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các 
doanh nghiệp không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác 
và cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật. Theo hướng đó, nền kinh 
tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo ra những tiền đề cần thiết và đòi hỏi sự ra 
đời của nhiều loại hình ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Từ năm 1986, hoà 
vào công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của đất nước theo sự chỉ đạo 
của Đảng và Nhà nước, hệ thống ngân hàng được tổ chức lại theo Nghị định 
53/HĐBT được tách ra làm hai cấp: Ngân hàng Nhà nuớc đảm nhận công tác 
phát hành tiền và điều tiết lưu thông tiền tệ, còn chức năng kinh doanh được 
thực hiện bởi các Ngân hàng Thương mại. 
 Năm 1991, sự ra đời của các Ngân hàng Thương mại cổ phần cùng các 
Ngân hàng Thương mại quốc doanh đã góp phần rất lớn vào công cuộc phát 
triển đất nước. Luật “Tổ chức tín dụng” của Việt nam ban hành vào ngày 
12/12/1997 đã định nghĩa Ngân hàng Thương mại như sau: 
 “Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt 
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Hoạt động 
ngân hàng là một hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội 
dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín 
dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”. 
2. Những nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại. 
 Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động kinh 
doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng giống 
như một doanh nghiệp thương mại, đều hướng đến mục đích cuối cùng là tối 
đa hoá lợi nhuận. Ngân hàng Thương mại tìm kiếm lợi nhuận bằng cách đi 
vay và cho vay lại. So với các doanh nghiệp thương mại dịch vụ khác thì hàng 
hoá của Ngân hàng Thương mại là một loại hàng hoá đặc biệt, đó là tiền vốn. 
Giá cả của loại hàng hoá này biểu hiện ra bên ngoài là các mức lãi suất huy 
động hoặc lãi suất cho vay, nó chịu tác động bởi quan hệ cung - cầu vốn trên 
thị trường và trên cơ sở khoản lợi nhuận đạt được khi đưa vốn vay vào sản 
xuất kinh doanh. Vì vậy lợi nhuận chủ yếu của hoạt động ngân hàng sẽ là 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
khoản chênh lệch giữa chi phí trả lãi huy động với thu nhập từ lãi cho vay. 
Để có hàng hoá kinh doanh, ngân hàng phải đưa ra một giá mua hợp lý cũng 
như đa dạng các hình thức huy động. 
 Đồng thời ngân hàng cũng đa dạng hoá các hình thức cho vay nhằm phân 
tán giảm thiểu rủi ro. Với vị thế kinh doanh Ngân hàng Thương mại thực hiện 
các dịch vụ trung gian hưởng hoa hồng. Ngày nay, hệ thống Ngân hàng 
Thương mại phát triển mạnh mẽ, tham gia sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực 
kinh tế xã hội. Sự đa dạng và phong phú các nghiệp vụ kinh doanh đã làm cho 
Ngân hàng Thương mại trở thành một tổ chức kinh doanh không thể thiếu 
trong tiến trình phát triển kinh tế. 
2.1. Nghiệp vụ nhận tiền gửi: 
 Đây là một hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Ngân hàng nhận 
được các khoản tiền gửi của khách hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ 
hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng 
nhận tiền gửi của cá nhân, của tổ chức và các doanh nghiệp. Ngân hàng phải 
hoàn trả gốc và lãi cho khách hàng khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu 
cầu sử dụng đến rút tiền ở ngân hàng. 
2.2. Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng: 
 Nguồn vốn huy động sau khi đã thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ (nghiệp vụ 
liên quan đến việc điều hành ngân quỹ của ngân hàng nhằm duy trì năng lực 
thanh toán bình thường), sẽ được sử dụng để cho vay. Nghiệp vụ cho vay là 
nghiệp vụ đặc trưng nhất của Ngân hàng Thương mại. Nó tạo ra hình thức tín 
dụng ngân hàng và ngân hàng sẽ tiến hành phân phối có trọng điểm nguồn 
vốn đã hình thành trong nghiệp vụ huy động, điều tiết vốn từ nơi thừa đến nơi 
thiếu, bổ sung vốn cho sản xuất kinh doanh. Đối với ngân hàng, đây là nghiệp 
vụ quan trọng nhất, sử dụng phần lớn nguồn vốn và tạo ra thu nhập chủ yếu. 
 Dựa vào tính chất và hình thức cho vay nghiệp vụ tín dụng được phân 
thành: 
 2.2.1. Căn cứ vào mục đích: 
 - Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây 
dựng bất động sản nhà ở, đất đai. 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 - Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung 
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại 
và dịch vụ. 
 - Cho vay nông nghiệp. 
 - Thuê mua và các loại khác. 
 2.2.2. Căn cứ vào thời hạn cho vay. 
 - Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng, chủ yếu 
được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn 
hạn của các doanh nghiệp. 
 - Cho vay trung hạn: Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt 
năm thì loại cho vay này có thời hạn từ 1 đến 3 năm. 
 Tín dụng trung hạn thường sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải 
tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, xây dụng các dự án 
mới có quy mô nhỏ với thời hạn thu hồi vốn nhanh. 
 - Cho vay dài hạn: Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 3 năm 
(Việt nam). 
 Loại tín dụng này thường để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như: xây dựng 
nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp 
mới. 
 2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng. 
 - Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố 
hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào sự uy tín của 
bản thân khách hàng. 
 - Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng nhưng phải 
có tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. 
 2.2.4. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng. 
 - Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được 
cung cấp bằng tiền. Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng và được 
thực hiện bằng các kỹ thuật như tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời 
vụ,... 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 - Cho vay bằng tài sản: là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa 
dạng, ví dụ như tài trợ thuê mua. 
 2.2.5. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả. 
 - Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và 
lãi theo định kỳ. 
 - Cho vay hoàn trả theo yêu cầu. 
 2.2.6. Ngoài các loại cho vay trên, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ 
bảo lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với loại nghiệp vụ này, 
ngân hàng không phải cung cấp tiền, nhưng khi người được bảo lãnh không 
thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì ngân hàng phải thay thế để thực 
hiện nghĩa vụ thanh toán. Vì thế, nghiệp vụ này còn được gọi là tín dụng bằng 
chữ ký. Tín dụng bằng chữ ký bao gồm: tín dụng chấp nhận, tín dụng chứng 
từ, bảo lãnh của ngân hàng. 
 2.3. Nghiệp vụ đầu tư : 
 Ngân hàng tham gia vào đầu tư, mua bán chứng khoán trên thị trường 
chứng khoán nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận từ lợi tức chứng khoán và từ 
chêch lệch thị giá chứng khoán mua bán trên thị trường. 
 Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện hùn vốn, liên doanh qua đó trực tiếp góp 
vốn vào các doanh nghiệp để thành lập công ty, xí nghiệp mới. 
2.4. Nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại. 
 Các ngân hàng có thể tham gia mua bán ngoại tệ, huy động vốn ngoại tệ 
nhằm đáp ứng nhu cầu của đầu tư cho vay cũng như kiếm lời. Việc kinh 
doanh ngoại tệ còn góp phần thúc đẩy trong công tác thanh toán quốc tế, tài 
trợ cho xuất nhập khẩu,... 
 2.5. Các hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng: 
 - Dịch vụ chuyển tiền: Ngân hàng theo sự uỷ nhiệm của khách hàng sẽ 
chuyển tiền để đáp ứng nhu cầu chi dùng của họ. Có hai phương thức chuyển 
tiền là chuyển tiền bằng điện và chuyển tiền bằng thư. 
 - Thu chi hộ tiền hàng: Theo những lệnh uỷ nhiệm thu hoặc uỷ nhiệm chi, 
ngân hàng sẽ tiến hành trích tiền trên tài khoản tiền gửi của khách hàng 
chuyển trả tiền hàng hoá, dịch vụ đã nhận hoặc thực hiện thu hộ tiền hàng khi 
nhận được chứng từ khách hàng nhờ thu hộ... 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 - Nghiệp vụ uỷ thác: Là nghiệp vụ mà ngân hàng thực hiện theo sự uỷ thác 
của khách hàng trong việc quản lý tài sản, chuyển giao tài sản thừa kế, bảo 
quản chứng khoán, vàng bạc, giấy tờ có giá... để hưởng hoa hồng. 
 - Mua bán hộ: Theo sự uỷ nhiệm của khách hàng ngân hàng thực hiện 
nghiệp vụ phát hành hộ trái phiếu hoặc chứng khoán cho các công ty, hoặc 
phát hành trái khoán Chính phủ. Thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng có được 
một khoản thu nhập dưới hình thức hoà hồng phát hành. Ngân hàng có thể 
tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường theo lệnh của khách hàng với 
tư cách là một trung gian môi giới trên thị trường tiền tệ và thị trường chứng 
khoán. 
II. VAI TRÒ CỦA VỐN ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 
1. Vốn của Ngân hàng thương mại. 
1.1. Khái niệm về vốn. 
 Vốn của các ngân hàng thương mại phần lớn là các khoản tiền tệ tạm thời 
nhàn rỗi trong sản xuất kinh doanh được gửi vào ngân hàng với những mục 
đích khác nhau. Ngân hàng đóng vai trò tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong 
nền kinh tế để chuyển đến các nhà đầu tư có nhu cầu về vốn, thúc đẩy nền 
kinh tế phát triển. Vốn và các hoạt động về huy động vốn quyết định trực tiếp 
đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương 
mại. Vốn đóng vai trò chi phối và quyết định đối với việc thực hiện các chức 
năng của ngân hàng thương mại. 
1.2. Cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại bao gồm: 
 1.2.1. Vốn chủ sở hữu : 
 Vốn chủ sở hữu là vốn tự có của ngân hàng, nó là vốn điều lệ khi ngân hàng 
mới đi vào hoạt động và được bổ sung thường xuyên. Vốn điều lệ phải lớn 
hơn hoặc bằng vốn pháp định do ngân hàng nhà nước trung ương quy định. 
Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng sẽ tuỳ thuộc vào quy mô và hoạt 
động của nó. Tuỳ theo loại hình ngân hàng mà vốn điều lệ được hình thành có 
thể khác nhau. Vốn điều lệ của ngân hàng có nguồn gốc hình thành do ngân 
sách nhà nước cấp phát ban đầu nếu là ngân hàng thương mại quốc doanh, 
còn nếu là ngân hàng thương mại cổ phần thì sẽ do các cổ đông đóng góp. 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 Các quỹ dự trữ của ngân hàng: Được coi là nguồn vốn tự có và được bổ 
sung hằng năm từ lợi nhuận ròng của ngân hàng. Theo khoản 1 điều 87 luật 
các tổ chức tín dụng thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 quy định về việc 
trích lập các quỹ từ lợi nhuận, các ngân hàng thương mại phải tiến hành trích 
lập các quỹ: 
 - Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Được trích lập hằng năm theo tỷ lệ 5% 
trên tổng lợi nhuận sau thuế hằng năm tới mức tối đa do ngân hàng nhà nước 
quy định. 
 - Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro : Để dự phòng và bù đắp thiệt hại có nguy cơ 
ăn mòn vốn do những rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, các ngân 
hàng được trích từ lợi nhuận ròng hằng năm theo tỷ lệ 10% cho tới khi bằng 
100% vốn điều lệ. 
 Hai quỹ này bắt buộc phải trích lập tại các tổ chức tín dụng, không được 
dùng các quỹ này để trả lợi tức cổ phần hoặc chuyển ra nước ngoài. 
 Mặt khác, với tư cách là một đơn vị kinh doanh, ngân hàng còn tiến hành 
trích lập các quỹ từ lợi nhuận thu được: 
 - Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng. 
 - Quỹ phúc lợi, khen thưởng. 
 Các quỹ này tỷ lệ trích lập theo quyết định của đại hội cổ đông hoặc theo 
chỉ đạo của nhà nước. 
 Vốn riêng của ngân hàng được dùng để mua sắm tài sản cố định, các 
phương tiện cần thiết cho hoạt động kinh doanh ngân hàng, nhưng không quá 
50% vốn tự có, để tài trợ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng và được sử 
dụng để hùn vốn liên doanh, mua cổ phần... 
 Vốn tự có và các quỹ so với tổng số vốn hoạt động của ngân hàng chỉ chiếm 
một phần nhỏ. 
 1.2.2. Vốn huy động: 
 Các khoản tiền gửi loại này không thuộc sở hữu của ngân hàng nhưng ngân 
hàng được quyền sử dụng đối với những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi này. 
Đây là khoản vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn. Các hoạt 
động sử dụng vốn tồn tại và phát triển được là nhờ nguồn vốn huy động này. 
 1.2.2.1. Vốn tiền gửi của khách hàng: 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 Đây là khoản vốn hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, chiếm tỷ trọng 
cao nhất trong nguồn vốn. Tuy nhiên, một bộ phận đáng kể trong vốn tiền 
gửi này luôn luôn biến động, do vậy khi sử dụng ngân hàng luôn phải dự trữ 
để đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả. Dựa vào yếu tố thời gian và tính 
chất của những khoản tiền gửi, tiền gửi của khách hàng có hai loại: Tiền gửi 
kỳ hạn và tiền gửi không kỳ hạn. 
 - Tiền gửi không kỳ hạn. 
 Là loại tiền gửi có thể rút ra theo yêu cầu của người gửi tiền mà không tôn 
trọng một kỳ hạn ký thác nào. Đây là khoản tiền gửi thường xuyên biến động 
ngân hàng không thể định ra kế hoạch sử dụng trước được mà chỉ dựa vào 
kinh nghiệm quản lý, ngân hàng có thể tận dụng ở một mức độ cho phép. 
Mục đích của người gửi tiền là sử dụng những dịch vụ trung gian thanh toán 
của ngân hàng thương mại như giữ hộ, thu chi hộ,... Ngân hàng không phải 
trả lãi hoặc có trả lãi nhưng với một mức lãi suất rất thấp chỉ mang tính chất 
tượng trưng. Kinh nghiệm trong quản lý ngân hàng cho thấy mặc dù tài 
khoản tiền gửi không kỳ hạn của từng khách hàng có biến động do khách 
hàng thường xuyên có những khoản thu và những khoản chi, nhưng trên tài 
khoản tổng hợp luôn có số “dư có” bình quân tương đối ổn định. Vì vậy ngân 
hàng có thể động viên những khoản vốn tạm thời nhàn rỗi trên các tài khoản 
không kỳ hạn làm nguồn vốn kinh doanh. 
 - Tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi tiền 
chỉ được rút ra khi đến thời hạn quy định. Đây là bộ phận tiền huy động 
mang tính chất ổn định và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tiền huy động từ 
khách hàng. Ngân hàng sử dụng chủ yếu để cho vay có kỳ hạn. Chính điểm 
thuận lợi này mà ngân hàng phải trả lãi cao vì mục đích của người gửi tiền là 
lợi nhuận. 
 1.2.2.2. Vốn vay. 
 Ngoài việc huy động tiền gửi theo các hình thức truyền thống, ngân hàng 
thương mại có thể bổ sung vốn hoạt động của mình bằng cách đi vay từ các tổ 
chức và các tầng lớp dân cư thông qua phát hành trái phiếu hoặc kỳ phiếu 
ngân hàng, nhưng phải được ngân hàng Nhà nước chấp nhận, Kỳ phiếu ngân 
hàng được phát hành rộng rãi. Những người mua kỳ phiếu ngân hàng sẽ trực 
tiếp cho ngân hàng vay với lãi suất cố định thông báo trước. Các tờ giấy nhận 
nợ này sẽ được ngân hàng thanh toán khi tới hạn ghi trên mặt kỳ phiếu. Ngoài 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
ra ngân hàng thương mại còn có thể vay ở ngân hàng nhà nước dưới hình thức 
tái chiết khấu hoặc tái cầm cố các thương phiếu chứng từ có giá. Vay của các 
ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác thông qua thị trường tiền tệ 
liên ngân hàng. Ngân hàng thương mại cũng có thể vay ở ngân hàng nước 
ngoài hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Vậy các ngân hàng thương mại 
đi vay khi nào? 
 - Ngân hàng vay để đáp ứng nhu cầu khả năng thanh khoản của ngân hàng. 
 Vì hoạt động chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng là nhận tiền gửi và 
với trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền 
để sử dụng. Do vậy có những trường hợp số tiền dự trữ và số tiền mà ngân 
hàng nhận được trước đó trong ngày ít hơn số tiền mà khách hàng rút ra thì 
ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán tiền cho khách hàng, nghĩa 
là ngân hàng thiếu tiền trả cho khách hàng.Vậy ngân hàng phải đi vay. 
 - Ngân hàng vay hộ cho khách hàng. 
 Vì hoạt động cơ bản của ngân hàng là tài trợ cho nền kinh tế nên khi có 
khách hàng có nhu cầu vay vốn ngân hàng và đảm bảo các yêu cầu mà ngân 
hàng đề ra thì ngân hàng sẽ cho vay. Tuy nhiên, với những khoản vay với số 
lượng lớn, thời gian dài mà ngân hàng lại không muốn dùng toàn bộ số tiền 
mình có để đầu tư cho dự án này (vì rủi ro cao) vì như thế sẽ mất đi toàn bộ 
những cơ hội đầu tư khác. Vì vậy ngân hàng sẽ thay mặt khách hàng phát 
hành trái phiếu nhằm thu gom tiền trong nền kinh tế để phục vụ cho dự án. 
Người ta chỉ phát hành trái phiếu vừa đủ số tiền mà dự án cần dùng và trong 
một thời hạn bằng thời gian tồn tại của dự án. 
 - Ngân hàng vay để cho vay. 
 Hầu như toàn bộ số tiền trong lưu thông đã trở thành tiền gửi tại các ngân 
hàng, nghĩa là các ngân hàng chia nhau nắm giữ lượng tiền trong lưu thông. 
Để tăng lượng tiền gửi của mình, các ngân hàng thường tăng lãi suất để thu 
hút các khoản tiền gửi ở các ngân hàng khác chảy về. Nhưng thực tế khi một 
ngân hàng tăng lãi suất tiền gửi, để tránh sự chảy vốn các ngân hàng khác 
cũng sẽ đồng loạt tăng lãi suất lên làm chi phí ngân hàng tăng lên mà lượng 
tiền gửi lại thay đổi không đáng kể. Do vậy khi thiếu vốn để tài trợ cho các dự 
án mà ngân hàng cho là có hiệu quả thì ngân hàng sẽ thực hiện chính sách đi 
vay. Do tính chất hoạt động không đồng đều giữa các ngân hàng về huy động 
vốn và sử dụng vốn nên những ngân hàng thiếu vốn có thể vay vốn ở những 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
ngân hàng thừa vốn chưa sử dụng hết. Mặt khác khi ngân hàng dự đoán được 
sự gia tăng về nhu cầu tín dụng trong tương lai mà nguồn vốn thì có xu hướng 
tăng không đáp ứng đủ nhu cầu vốn sử dụng trong thời kỳ tới thì ngân hàng 
cũng sẽ đi vay. 
 - Ngân hàng vay để giảm chi phí nguồn tiền cho giai đoạn sau. 
 Vào cuối kỳ hạch toán, nếu các chủ ngân hàng dự tính được thu nhập của kỳ 
đó lớn nghĩa là kỳ đó họ phải chịu thuế nhiều. Nếu họ cũng dự tính được kỳ 
sau họ sẽ có những khoản chi phí lớn thì họ có thể phát hành kỳ phiếu nhắn 
hạn trả lãi trước nhằm tăng chi phí cho kỳ này và giảm chi phí cho kỳ sau. 
 1.2.2.3. Vốn tiếp nhận. 
 Ngày nay, hệ thống ngân hàng thương mại được tổ chức theo mô hình của 
tổng công ty và các công ty con gồm ngân hàng mẹ và hệ thống các chi nhánh 
ngân hàng trực thuộc. Có một phương thức huy động vốn được sử dụng rất 
hiệu quả hiện nay là chu chuyển nguồn vốn điều hoà. Do tình hình kinh tế xã 
hội của các vùng hoạt động của ngân hàng chi nhánh là khác nhau. Những chi 
nhánh ngân hàng mà hoạt động sử dụng vốn vượt quá khả năng huy động vốn 
thì đầu kỳ lập kế hoạch lên ngân hàng mẹ và xin được nhận một lượng vốn 
điều hào cần thiết cho hoạt động sử dụng vốn của mình. Những ngân hàng mà 
khả năng huy động vốn vượt quá khả năng sử dụng vốn thì đầu kỳ cũng lập kế 
hoạch sẽ điều chuyển một lượng vốn về ngân hàng mẹ để được hưởng một lãi 
suất điều hoà. Như vậy ngân hàng mẹ chịu trách nhiệm điều chuyển vốn từ 
nơi thừa sang nơi thiếu của các chi nhánh ngân hàng trong nền kinh tế. Chi 
phí nhận nguồn vốn điều hoà thấp hơn chi phí nguồn vốn huy động nhưng tại 
sao các ngân hàng đều nhận nguồn vốn điều hoà sau khi đã lập kế hoạch về 
lượng vốn huy động được trong kỳ sau, bởi vì tính độc lập của nó với ngân 
hàng mẹ. Đây là một phương thức huy động vốn rất hiệu quả được áp dụng 
nhiều trên thế giới hiện nay. 
 1.2.2.4. Vốn uỷ thác đầu tư. 
 Một số ngân hàng con thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đại lý. Khi đó trong 
cơ cấu vốn của ngân hàng con còn có thêm khoản mục vốn uỷ thác đầu tư. 
Khoản vốn này hình thành chủ yếu hình thành là do các tổ chức tài chính 
nước ngoài, trong nước uỷ thác cho ngân hàng một khoản tiền để ngân hàng 
thực hiện cho vay các dự án của mình. Có thể là các khoản vay của Chính Phủ 
được uỷ thác. 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 Trên đây là cơ cấu vốn chính của các ngân hàng thương mại. Vốn huy động 
là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, 
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của hoạt động sử dụng vốn. Tuy nhiên, 
các ngân hàng thương mại phải tuân thủ theo luật định về mức vốn huy động 
tối đa không vượt quá hai mươi lần vốn thuộc sở hữu của ngân hàng và phải 
chấp hành tốt các quy định về tỷ lệ dự trữ... 
2. Vai trò của vốn đối với Ngân hàng thương mại. 
 Như mọi đơn vị kinh doanh khác, muốn hoạt động kinh doanh được tiến 
hành cần phải có tư liệu sản xuất. Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh 
doanh tiền tệ nên phải có tiền mới có thể hoạt động kinh doanh được. Hoạt 
động tìm kiếm tư liệu sản xuất của ngân hàng thương mại là hoạt động huy 
động vốn. Như vậy, huy động vốn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động 
của các ngân hàng thương mại. 
 Thứ nhất, vốn là cơ sở để ngân hàng tiến hành hoạt động kinh doanh. Đối 
với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có 
vốn, vì vốn phản ánh năng lực kinh doanh. Điều này thể hiện ở vốn tự có, vốn 
huy động, vốn đi vay của ngân hàng. Nếu vốn tự có giữ vai trò quan trọng 
trong việc thành lập thì sau khi đi vào hoạt động, vốn huy động quyết định tới 
quy mô đầu tư, cho vay nên sẽ ảnh hưởng tới thu nhập của ngân hàng. 
 Vậy, nếu ngân hàng không có vốn thì không thể tiến hành hoạt động kinh 
doanh. Bởi vì, với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là 
phương tiện kinh doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Trên thực 
tế, ngân hàng nào có khối lượng vốn lớn hơn thì ngân hàng đó có thế mạnh 
cạnh tranh trong kinh doanh. 
 Thứ hai: Vốn ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô các hoạt động của ngân hàng 
thương mại. 
 Vốn của ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng hay thu hẹp tín 
dụng, hoạt động bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ hay trong hoạt động thanh 
toán của các ngân hàng thương mại. Thông thường so với các ngân hàng nhỏ, 
các ngân hàng lớn có những khoản mục về đầu tư cho vay đa dạng hơn, 
phạm vi và khối lượng cho vay của các ngân hàng này cũng lớn hơn. Trong 
khi các ngân hàng lớn hoạt động trên phạm vi toàn thế giới thì các ngân hàng 
nhỏ lại giới hạn phạm vi hoạt động chủ yếu trong một khu vực nhỏ, trong 
nước. Nếu khả năng về vốn của ngân hàng đó dồi dào thì ngân hàng có thể 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
mở rộng được các hoạt động của mình và đáp ứng được nhu cầu về vốn của 
khách hàng về cho vay, bảo lãnh, đầu tư... 
 Ví dụ như : 
 - Đầu tư cổ phần hoặc liên doanh không quá 50% vốn tự có. 
 - Cho vay đối tượng ưu đãi không quá 5% vốn tự có. 
- Cho vay tối đa một khách hàng không quá 15% vốn tự có. 
- Kinh doanh ngoại hối không quá 30 lần vốn tự có. 
 Bên cạnhvốn lớn hay nhỏ thì chúng ta không thể coi nhẹ vai trò của tính ổn 
định của vốn. Một ngân hàng có lượng vốn ổn định thì sẽ dễ dàng trong việc 
hoạch định việc cung ứng đầu tư cho vay. Ngân hàng đó có thể dự kiến tương 
đối chính xác lượng vốn cung ứng, cho nên sẽ dự kiến được lợi nhuận trong 
tương lai khá chính xác. 
 Thứ ba: Vốn giúp ngân hàng chủ động trong kinh doanh. 
 Ngân hàng không thể hoạt động kinh doanh tốt nếu các hoạt động nghiệp 
vụ hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đi vay: vay để cho vay, vay để đầu tư, vay 
để thanh toán... Bởi vì khi đi vay vốn để thực hiện các hoạt động của mình, 
ngân hàng sẽ phụ thuộc hoàn toàn vào đối tượng cho vay về thời hạn vay, số 
lượng vay và chi phí vay cao. Do đó có thể ngân hàng sẽ bỏ lỡ cơ hội trong 
kinh doanh. Ngược lại, ngân hàng có lượng vốn huy động dồi dào sẽ hoàn 
toàn chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình, không phụ thuộc vào ai, 
không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Nguồn vốn huy động lớn cũng làm tăng 
khả năng hoạt động của ngân hàng như chủ động đa dạng hoá các hoạt động 
kinh doanh nhằm phân tán rủi ro và tăng thu nhập, đạt mục tiêu cuối cùng 
của ngân hàng là an toàn và sinh lợi. 
 Thứ tư: Vốn giúp ngân hàng quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy 
tín của mình trên thị trường. 
 Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt 
động đòi hỏi các ngân hàng phải coi uy tín của mình trên thị thường là điều 
quan trọng. Uy tín đó trước hết được thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán 
cho khách hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả 
dụng càng lớn. Mặt khác, uy tín của ngân hàng còn thể hiện ở khả năng cho 
vay và đầu tư của ngân hàng (ngân hàng chỉ có thể cho vay những dự án lớn, 
thời hạn dài nếu như ngân hàng có nguồn vốn lớn). Điều này phụ thuộc vào 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Với tiềm năng vốn và khả năng huy 
động vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng 
tăng, tiến hành cạnh tranh có hiệu quả; vừa giữ chữ tín vừa nâng cao thanh 
thế của ngân hàng trên thị trường. 
 Bên cạnh đó, một trong những công cụ lớn nhất của vốn tự có là tạo sự uy 
tín trong công chúng. Một ngân hàng có trụ sở là tài sản riêng càng đồ sộ 
chừng nào thì càng dễ gây tín nhiệm của dân chúng từng nấy. Vốn tự có của 
ngân hàng càng lớn thì sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh khi mà tình 
hình kinh tế - xã hội và tình hình hoạt động của ngân hàng trải qua giai đoạn 
khó khăn. 
 Thứ năm: Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. 
 Quy mô, trình độ cán bộ, công nhân viên, phương tiện kỹ thuật hiện đại của 
ngân hàng là tiền đề thu hút vốn. Khả năng vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối 
với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng đối với các thành phần 
kinh tế cả về quy mô tín dụng, lẫn việc chủ động về thời hạn cho vay và thậm 
chí trong khi quyết định lãi suất phù hợp với khách hàng. Điều này sẽ thu hút 
ngày càng nhiều khách hàng đến với mình, nghĩa là doanh số hoạt động của 
ngân hàng sẽ tăng lên trong tương lai và ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn 
trong kinh doanh. Hơn nữa, vốn của ngân hàng lớn sẽ giúp cho ngân hàng có 
đủ năng lực tài chính kinh doanh đa năng trên thị trường không chỉ cho vay 
mà còn đầu tư trên thị trường tiền tệ, liên doanh, liên kết, thực hiện dịch vụ 
thuê mua... Và chính sự đa dạng hoá hoạt động sẽ góp phần phân tán rủi ro 
trong hoạt động kinh doanh và tạo lợi nhuận cho ngân hàng, đặc biệt là tăng 
sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. 
 Để ngân hàng tồn tại và phát triển, ngoài vốn chủ sở hữu (Thường chiếm tỷ 
trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn) các ngân hàng phải chú trọng tới việc 
tăng trưởng nguồn vốn nghĩa là phải làm tốt công tác huy động vốn. 
III. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 
 Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội để hoạt động là lẽ sống 
quan trọng nhất của các Ngân hàng thương mại. Đặc biệt là các ngân hàng có 
quy mô lớn. Trong vòng ba thập niên từ sau cuộc đại suy thoái 1930, hầu hết 
các Ngân hàng thương mại trên thế giới đều quan tâm nhiều nhất tới việc 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
quản lý tài sản có, hay nói khác đi là kế hoạch và phương hướng đầu tư các 
nguồn đã có. Tuy nhiên, từ thập niên 60 đến nay, khi chế độ lãi suất trả cho 
tiền gửi được thả nổi linh hoạt, tài sản nợ trở nên đa dạng và sự cạnh tranh 
khốc liệt giữa các Ngân hàng thương mại với nhau trong việc tìm kiếm vốn 
hoạt động đã dần dần hướng các ngân hàng chú ý đến sự giao động của tài sản 
nợ. Vả lại từ thập niên 60 trở đi thì với sự phát triển nhanh của các thị trường 
tài chính liên quốc gia, đã có rất nhiều loại tài sản có lợi tức ổn định và thanh 
khoản cao được mở ra trước mắt các ngân hàng ở các nước phát triển. Cho 
nên, vấn đề khó khăn không còn là đầu tư vào đâu mà là làm thế nào có đủ 
vốn cho đầu tư giữa môi trường cạnh tranh đầy kịch tính trong hệ thống ngân 
hàng thế giới. 
1. Các hình thức huy động tiền gửi của Ngân hàng Thương mại. 
 Đây là hình thức huy động vốn mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức 
kinh tế, các nhân,...trong xã hội thông qua hoạt động nhận tiền gửi tiết kiệm, 
thanh toán hộ, các khoản cho vay tạo tiền gửi và các nghiệp vụ kinh doanh khác. 
 Các hình thức nhận tiền gửi của các Ngân hàng Thương mại tuỳ thuộc vào 
các tiêu thức khác nhau mà được chia thành từng loại khác nhau: 
1.1. Phân loại theo tiêu thức kỳ hạn. 
 Ngày nay, người ta thường phân chia các khoản tiền gửi theo tiêu thức này 
để có thể quản lý tốt lượng tiền gửi, tiền lãi, và là cơ sở để ngân hàng xây 
dựng chiến lược dự trữ phù hợp. 
 - Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là khoản tiền gửi không có kỳ hạn xác định, 
người gửi có thể rút ra bất kỳ lúc nào do đó lãi suất thường thấp. Tiền gửi 
không kỳ hạn là một trong những nguồn vốn biến động nhiều nhất và ngân 
hàng khó có thể dự báo về quy mô tiền gửi không kỳ hạn (giao dịch) có thể 
huy động. Hình thức này chủ yếu là mở cho các doanh nghiệp. Bởi vì, các 
doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng mục đích chính không phải để nhận lãi 
mà là để hưởng các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp; đó là các dịch vụ thanh 
toán, ngân quỹ, thu chi hộ,... 
 Tuy nhiên, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn có thể đáp ứng nhu cầu của 
những khách hàng chưa có dự định rõ ràng trong tương lai, hoặc không thực 
sự an tâm về việc gửi tiền mà chỉ mong muốn nhận được một số tiền lãi nào 
đó với lượng tiền hiện còn nhành rỗi. 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 Do tính chất không ổn định của nó nên ngân hàng chỉ được sử dụng một tỷ 
lệ phần trăm nhất định nào đó của lượng tiền gửi không kỳ hạn nhận được, và 
ngân hàng muốn sử dụng thì phải dự tính về sự ổn định tương đối của lượng 
tiền này. Do vậy, quản lý tiền gửi không kỳ hạn là một phần quan trọng của 
quản lý dự trữ trong các ngân hàng. 
 - Tiền gửi có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận giữa người gửi 
tiền và ngân hàng về số lượng, kỳ hạn, lãi suất của khoản tiền gửi. Do có sự 
xác định rõ ràng về kỳ hạn, nên nguồn tiền gửi có kỳ hạn là nguồn tiền có sự 
ổn định cao, ngân hàng có thể sử dụng để cho vay với thời hạn tương ứng 
hoặc có thể chuyển đổi một phần tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. 
Chính vì lý do này mà lãi suất của các khoản tiền gửi kỳ hạn thường cao hơn 
nhiều lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. Bởi vì mục đích chính của việc gửi tiền 
vào ngân hàng là tiền lãi. Thông thường thì lãi suất tỷ lệ thuận với kỳ hạn, tức 
là khoản tiền gửi càng lâu thì lãi suất càng cao và ngược lại. 
1.2. Phân loại theo tiêu thức nguồn hình thành. 
 - Các khoản ký gửi của các cá nhân và tổ chức là các khoản tiền mà họ trực 
tiếp chuyển vào ngân hàng: Cá nhân gửi tiền tiết kiệm, doanh nghiệp nộp tiền 
bán hàng,... Đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế được 
ngân hàng tập trung lại. Các cá nhân và tổ chức thường gửi tiền với mục đích 
và kỳ hạn khác nhau. Cá nhân gửi tiền thường với mục đích là để hưởng lãi, 
các doanh nghiệp thường là để sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. 
 - Tín dụng tạo tiền gửi: Đây cũng là một hình thức nhận tiền gửi, khi ngân 
hàng cho khách hàng vay tiền thì ngân hàng chuyển số tiền này vào tài khoản 
tiền gửi của khách hàng ngay trong ngân hàng. Khi khách hàng chưa có nhu 
cầu rút tiền ngay lập tức thì ngân hàng có thể sử dụng số tiền đó mặc dù với 
thời hạn rất ngắn. 
1.3. Phân loại theo tiêu thức mục đích sử dụng. 
 - Tiền gửi tiết kiệm: Phần lớn là các khoản ký gửi của các cá nhân với mục 
đích là tìm kiếm một khoản thu nhập. Thường thì mỗi khoản tiền gửi tiết kiệm 
có khối lượng nhỏ, thời hạn ngắn. Những người gửi tiền tiết kiệm là những 
đối tượng giảm chi tiêu trong hiện tại với hy vọng là sẽ tăng được chi tiêu 
trong tương lai. 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 - Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Loại hình này khá phổ biến ở các nước 
phát triển, thường được sử dụng với những hộ có thu nhập thấp và trung bình. 
Người gửi để dành một khoản tiền gửi vào ngân hàng (thường là các khoản 
tiết kiệm đều đặn hàng năm) với ý định tích luỹ tiền cho một mục đích nhất 
định. Đây là hình thức huy động vốn trung và dài hạn khá hiệu quả, có tính 
ổn định, đồng thời có tác dụng tích cực trong việc hỗ trợ cho người dân mua 
sắm nhà cửa, phương tiện. 
 - Tiền gửi thanh toán: Là khoản ký gửi của các cá nhân, tổ chức, doanh 
nghiệp sản xuất kinh doanh. Họ gửi tiền mục đích không phải là để hưởng thu 
nhập mà là hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Thông thường các khoản tiền 
gửi thanh toán có khối lượng lớn. Do đó, khi các khoản tiền này tạm thời chưa 
sử dụng thì ngân hàng có thể sử dụng vào kinh doanh. 
 1.4. Phân loại theo tiêu thức loại tiền gửi. 
 - Tiền gửi nội tệ: Đây là khoản tiền gửi quan trọng của các ngân hàng, nó 
phụ thuộc vào thu nhập trong nước và chiếm tỷ trong rất lớn trong tổng lượng 
tiền gửi. 
 - Tiền gửi ngoại tệ: Bên cạnh tiền gửi nội tệ thì ngân hàng còn nhận tiền 
gửi dưới dạng ngoại tệ như USD, GBP,DEM,... những khoản ngoại tệ này 
cũng rất quan trọng cho hoạt động ngân hàng như kinh doanh ngoại tệ trong 
nước, tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tê,... 
2. Chứng thư tiền gửi loại lớn. 
 Chứng thư tiền gửi loại lớn là một loại hình phiếu nợ do ngân hàng phát ra 
để vay tiền của thị trường. Có hai cách phát hành loại chứng thư này: 
 Một là khi có các đối tượng đến vay tiền để sản xuất hoặc tiêu dùng theo 
hợp đồng với ngân hàng, ngân hàng phát lại chứng thư này cho họ. Hoặc ngân 
hàng có thể công bố phát hành chứng thư này cho các đối tượng muốn đầu tư 
hoặc muốn gửi tiền vào ngân hàng. Thay vì một cuốn sổ tiền gửi có kỳ hạn, 
họ có thể nhận loại chứng thư này. Nhưng chứng thư loại này không có những 
đơn vị quá nhỏ bằng tiền mặt. 
 - Khi ngân hàng thương mại phát ra chứng thư này, nó hướng tới việc vay 
tiền của thị trường, của nhân dân và chứng thư là giấy xác nhận khoản vay 
này. Đồng thời trên chứng thư có ghi rõ thời hạn sẽ trả lại tiền mặt (6 tháng, 1 
năm,...) và lãi suất người cho vay được hưởng. Đến ngày đáo hạn cuối cùng, 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
người sở hữu chứng thư đem nộp nó cho ngân hàng đã phát hành để nhận lại 
cả vốn theo giá trị bề mặt và tiền lời. 
 - Loại chứng thư này ở các nước công nghiệp thường có thời gian đáo hạn 
không qúa 6 tháng kể từ ngày phát hành. Với thời gian ngắn và tính chất được 
sử dụng, chấp nhận không khác gì Séc hay tiền mặt, trong khi nó có lãi suất 
mà Séc và tiền mặt không có lãi suất, chứng thư này trở thành loại đầu tư 
ngắn hạn hấp dẫn nhất đối với các nhà kinh doanh và hộ gia đình. 
 Tuy nhiên, khả năng vay vốn từ thị trường thông qua việc phát hành chứng 
thư tiền gửi hay tín phiếu tuỳ thuộc vào 4 yếu tố: Mức độ chấp nhận của nhân 
dân đối với nó như một phương tiện thanh toán trong lưu thông- Sự khuyến 
khích hay không của Ngân hàng Trung ương- Hiệu quả của việc sử dụng đồng 
vốn đã vay được- Sự phát triển của thị trường tài chính, tiền tệ. 
3. Vay ngắn hạn tại Ngân hàng Trung Ương. 
 Trong quá trình hoạt động của mình, do có những ngày cho vay quá nhiều, 
sự thiếu hụt dự trữ tại Ngân hàng Trung ương là điều thường xảy ra đối với 
các ngân hàng thương mại. Trong khi có một số ngân hàng thương mại thiếu 
dự trữ, thì nó cũng có một vài bộ phận khác thừa dự trữ. Để đảm bảo dự trữ 
theo quy định của Ngân hàng Trung ương, các ngân hàng thương mại điện 
thoại hoặc liên lạc bằng Computer vay lẫn nhau dự trữ trong một ngày là 
chuyện bình thường. Thủ tục vay được tiến hành qua Fax hoặc điện tín. 
 Việc vay qua vay lại như thế diễn ra hàng ngày trong hệ thống ngân hàng 
thương mại. Nó hình thành nên một loại tài sản nợ khá thường xuyên. Tuy 
nhiên, khoản nợ này thường rất ngắn không quá một tuần, và thường là chỉ 
một hay hai ngày vì mọi ngân hàng đều tự ý thức không thể lạm dụng kéo dài 
thời gian gây khó khăn cho ngân hàng có thiện chí giúp mình. 
4. Vay ngắn hạn thông qua hợp đồng mua lại. 
 Hợp đồng mua lại là hình thức vay ngắn hạn trên thị trường của ngân hàng 
thương mại. Trong hoạt động mỗi ngày, việc thiếu tiền mặt bất ngờ cho 
những thượng vụ đầu tư đã được ký kết hoặc hụt dự trữ tại Ngân hàng Trung 
ương là chuyện không có gì lạ đối với các ngân hàng thương mại. Ngoài 
những biện pháp nêu trên, trong những trường hợp cấp thiết, ngân hàng 
thương mại có thể vay của thị trường trong vài ngày đến vài tuần bằng cách 
phát hành hợp đồng mua lại. 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 Đây là một hợp đồng bán chứng khoán giữa ngân hàng và đối tượng kinh 
doanh chứng khoán tương đối thừa tiền mặt trong thị trường như các công ty 
tài chính, tổ chức tín dụng, các quỹ tiết kiệm, hưu trí, các công ty kinh doanh 
và môi giới chứng khoán. 
 Chứng khoán mà ngân hàng đem bán là chứng khoán mà ngân hàng đang 
đầu tư. Không phải là phiếu nợ do nó phát hành như các trường hợp vừa rồi. 
Những loại chứng khoán mà ngân hàng thường đầu tư nhất và có thể đem bán 
theo loại hợp đồng này là trái phiếu Kho bạc- hối phiếu Kho bạc- cổ phiếu 
Kho bạc và một số loại trái phiếu, cổ phiếu khác của thị trường. 
 Hợp đồng mua lại có những đặc điểm sau: 
 - Hợp đồng thuyết minh rõ ràng, ngân hàng chỉ bán ra trong một ngày, hai 
ngày hay một tuần, hai tuần. Sau đó, ngân hàng được phép mua lại chính các 
loại chứng khoán mà nó đã bán ra với giá đúng bằng giá gốc cộng thêm chi 
phí giao dịch. Đó là lý do người ta gọi đây là thoả thuận hoặc hợp đồng mua 
lại. Người đã mua chứng khoán của ngân hàng, chỉ được bán lại cho chính 
ngân hàng này vào một thời gian ngắn sau đó. Không được phép bán cho ai 
khác. 
 - Do đó, đây là một hình thức giải quyết vấn đề kẹt tiền mặt cấp thời cho 
ngân hàng thương mại. Thời gian bán tối đa không quá 2 tuần( ở các nước 
công nghiệp hiện nay). 
 - Khi ngân hàng bán chứng khoán ra theo loại hợp đồng này nó thu tiền mặt 
về lượng tiền mặt này xuất hiện như một khoản vay ngắn hạn từ thị trường vì 
lượng chứng khoán xuất ra vẫn được xem như một bộ phận tài sản có mà 
ngân hàng sẽ thu hồi. Khoản vay ngắn hạn này là một bộ phận của tài sản nợ. 
 - Tổ chức mua chứng khoán là người cho vay. Ngân hàng phát ra chứng 
khoán là chủ thể đi vay. Ngân hàng không bao giờ áp dụng hình thức bán này 
cho nhân dân. Bởi lẽ bán ra cho nhân dân dưới hình thức như phát hành lẻ và 
sau này mua lại sẽ tốn rất nhiều thời gian và hiệu quả rất chậm không giải 
quyết những nhu cầu tiền mặt gấp trong ngắn hạn. Hầu như phương thức này 
chỉ áp dụng cho các đại lý lớn mà thôi. 
 - Chi phí giao dịch mà ngân hàng sẽ trả cho đại lý chính là tiền lãi từ 
thương vụ cho vay này đứng về phía người mua là các đại lý. Thông thường 
giá bán và giá mua lại(gồm cả lãi) đã được thống nhất sắn trong hợp đồng với 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
những khoảng thời gian đã định trược. Ở các nước có thị trường tài chính phát 
triển như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Anh, ý,... Các ngân hàng thương mại 
vay nợ dưới hình thức này gần như mỗi tuần trong tài sản nợ của họ luôn luôn 
có khoản mục vay ngắn hạn thông qua hợp đồng mua lại, nằm trong khoản 
vay ngắn hạn từ thị trường. 
5. Vay ngắn hạn bằng giấy nợ phụ. 
 Đây là khoản mục cuối cùng trong các khoản vay từ thị trường và cũng là 
loại tài sản ít thông dụng nhất. Ngân hàng có thể vay nóng, với lãi suất khá 
cao và thời gian từ ngắn đến rất ngắn, mỗi khi quá kẹt tiền mặt bằng những 
thoả thuận với các thân chủ giàu có vẫn quan hệ thường xuyên với ngân hàng 
như các công ty, các tập đoàn kinh doanh, các đại lý tài chính khác,...Hình 
thức vay này được thực hiện thông qua một hợp đồng trong đó thuyết minh rõ 
người cho vay chấp nhận rõ khoản tiền mà họ cho vay sẽ là loại tài sản nợ 
được đền bù sau chót trong trường hợp ngân hàng vỡ nợ. Vì sao có thoả thuận 
này! vì họ đã được lãi suất cao hơn bất kỳ một khoản vay nào khác. 
 Chứng thư mà ngân hàng giao cho họ khi vay là một loại giấy nợ của ngân 
hàng (Bank debentures). Ở Hoa Kỳ, nó có một tên gọi rộng là giấy nợ phụ 
(subordinated debentures). Những khoản vay này khá phổ biến ở Mỹ, và một 
thời kỳ ở Nhật và Hàn Quốc. 
6. Vay của Ngân hàng Trung Ương. 
 Các ngân hàng thương mại hầu như đều được sự cho phép thành lập của 
Ngân hàng Trung ương, cho nên nó đều được quyền vay tiền tại Ngân hàng 
Trung ương trong những tình huống thiếu hụt dự trữ. 
 Trường hợp không may diễn ra khi ngân hàng thương mại đến vay giữa lúc 
Ngân hàng Trung ương không muốn khuyến khích sự bàng trướng tín dụng, 
hoặc thậm chí nó đang thắt chặt cung ứng tiền để chống lạm phát. Lúc đó lãi 
suất chiết khấu được đưa lên cao với những khoản lỗ trông thấy khi vay vốn 
của Ngân hàng Trung ương. Do đó, các ngân hàng thương mại chỉ miễn 
cưỡng vay trong những tình huống thật ngặt nghèo và tìm mọi cách trả nợ rất 
nhanh. 
 Dù vay ít hay nhiều, vay thường xuyên hay chỉ thỉnh thoảng một năm đôi ba 
lần, dịch vụ vay từ cửa ngõ chiết khấu của Ngân hàng Trung ương vẫn là một 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
khoản mục cố định trong tài sản nợ vì không có ngân hàng thương mại nào 
mà chưa hề vay của Ngân hàng Trung ương bao giờ từ khi thành lập. 
7. Các khoản vay từ công ty mẹ. 
 Một hình thức vay vốn khác ngoài các hình thức trên là vốn vay từ công ty 
mẹ (parent company). Tại các nước đã phát triển, một công ty hoặc một tập 
đoàn kinh doanh có thể là chủ của một đến rất nhiều ngân hàng thương mại. 
Thay vì ngân hàng phát hành trái phiếu hoặc giấy nợ để vay tiền của thị 
trường bằng các hình thức kể trên, có thể chịu nhiều sự quản lý và ràng buộc 
của Ngân hàng Trung ương về dự trữ, lãi suất và kể cả thủ tục, các công ty mẹ 
của ngân hàng có thể thay thế nó làm chuyện đó dưới hình thức phát hành trái 
phiếu, cổ phiếu công ty hoặc các loại thương phiếu, rồi chuyển vốn đã huy 
động được về cho ngân hàng hoạt động. 
 Mỗi khi Ngân hàng Trung ương ràng buộc họ quá nhiều điều kiện không 
thể phát hành trái phiếu được như ý muốn. Hoặc nếu phát hành được cũng sẽ 
phải trả chi phí rất cao. Vậy nên giao cho các công ty mẹ phát hành là cách 
trốn thoát của họ để đạt những muc đích ấy. Lý do này giải thích vì sao hầu 
như ở tất cả các nước phát triển, các ngân hàng thương mại luôn luôn là con 
đẻ của một công ty kinh doanh, công ty tài chính hoặc ít nhất là có quan hệ 
mật thiết với các đối tượng trên. 
 Trên đây là các hình thức huy động vốn thường thấy của ngân hàng thương 
mại. Tuy nhiên đối với mỗi ngân hàng khác nhau, ở các nước khác nhau và 
trong các giai đoạn khác nhau thì có thể có các phương thức huy động khác. 
IV. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG 
VỐN CỦA NHTM 
1. Các nhân tố bên ngoài 
1.1: Chu kỳ phát triển kinh tế 
 Tình trạng phát triển của nền kinh tế là một yếu tố vĩ mô có tác động trực 
tiếp đến mọi hoạt động của các ngân hàng thương mại nên ảnh hưởng đến 
hoạt động huy động vốn. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển ổn định, thu 
nhập dân cư được đảm bảo và ổn định thì nguồn tiền vào ra của các ngân 
hàng cũng ổn định, số vốn huy động được của ngân hàng ngày càng tăng lên 
và cơ hội đầu tư cho vay của ngân hàng cũng được mở rộng do lòng tin của 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
các nhà đầu tư vào nền kinh tế. Nếu nền kinh tế suy thoái, thu nhập dân cư 
biến động thì lòng tin về đồng tiền của dân chúng bị giảm sút. Khi đó khả 
năng huy động vốn của ngân hàng không những bị giảm xuống mà lượng tiền 
dân cư đã ký gửi vào ngân hàng cũng có nguy cơ bị rút ra. Và như vậy ngân 
hàng sẽ gặp khó khăn trong công tác huy động vốn, quản lý dự trữ và củng cố 
niềm tin cho khách hàng. 
1.2: Môi trường luật pháp 
 Mọi hoạt động kinh doanh, trong đó hoạt động của ngân hàng đều phải chịu 
sự điều chỉnh của luật pháp. Các hoạt động của ngân hàng thương mại chịu sự 
điều chỉnh của luật các tổ chức tín dụng và hệ thống các văn bản pháp luật 
khác của Nhà nước. Mặt khác, ở Việt nam hiện nay các ngân hàng thương 
mại được tổ chức theo mô hình tổng công ty, do vậy các chi nhánh ngân hàng 
trong hoạt động của mình ngoài việc phải tuân thủ theo pháp luật và các văn 
bản dưới luật của nhà nước ban hành còn phải tuân thủ theo các quy định mà 
ngân hàng mẹ ban hành trong từng thời kỳ về lãi suất, tỷ lệ dự trữ, hạn mức cho 
vay....Trong sự ràng buộc về luật pháp, các yếu tố của nghiệp vụ huy động vốn 
thay đổi làm ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng của hoạt động huy động vốn. 
1.3. Điều kiện về môi trường cạnh tranh 
 Khi định ra chiến lược phát triển cho ngân hàng rõ ràng cần phải tính đến 
điều kiện về môi trường kinh doanh. Sự cạnh tranh của các ngân hàng khác 
trên địa bàn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng. Để có thể 
tồn tại và phát triển, ngân hàng cần phải định ra chiến lược kinh doanh phù 
hợp để có thể thắng trong cạnh tranh với ngân hàng khác. Trong quá trình 
cạnh tranh với đối thủ, ngân hàng buộc phải cải tiến và đa dạng hoá các loại 
hình dịch vụ, thực hiện mức lãi suất hợp lý, nghiên cứu kỹ thị trường và làm 
tốt công tác marketing. Ngân hàng phải bồi dưỡng đội ngũ cán bộ để có thể 
làm tốt công việc của mình. Như vậy, cạnh tranh vừa là thách thức vừa là một 
nhân tố thúc đẩy sự phát triển chất lượng các hoạt động ngân hàng trong đó có 
hoạt động huy động vốn. 
1.4. Yếu tố thuộc về văn hoá - xã hội, tâm lý khách hàng 
 Khách hàng của ngân hàng bao gồm những người có vốn gửi tại ngân hàng 
và những đối tượng sử dụng vốn đó. Về môi trường xã hội ở các nước phát 
triển, khách hàng luôn có tài khoản cá nhân và thu nhập được chuyển vào tài 
khoản của họ. Nhưng ở các nước kém phát triển, nhu cầu dùng tiền mặt 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
thường lớn hơn. Ở khoản mục tiền gửi tiết kiệm có hai yếu tố quan trọng tác 
động vào là thu nhập và tâm lý của người gửi tiền. Thu nhập ảnh hưởng đến 
nguồn vốn tiềm tàng mà ngân hàng có thể huy động trong tương lai. Còn yếu 
tố tâm lý ảnh hưởng đến sự biến động ra vào của các nguồn tiền. Tâm lý tin 
tưởng vào tương lai của khách hàng có tác dụng làm ổn định lượng tiền gửi 
vào, rút ra và ngược lại nếu niềm tin của khách hàng về đồng tiền trong tương 
lai sẽ mất giá gây ra hiện tượng rút tiền hàng loạt vốn là mối lo ngại lớn của 
mọi ngân hàng. Một đặc điểm quan trọng của đối tượng khách hàng là mức độ 
thường xuyên của việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Mức độ sử dụng càng 
cao, ngân hàng càng có điều kiện mở rộng việc huy động vốn. 
2. Các yếu tố thuộc về ngân hàng 
2.1: Các hình thức huy động vốn mà ngân hàng sử dụng 
 Để thực hiện tốt công tác huy động vốn, các ngân hàng thường đưa ra nhiều 
hình thức huy động vốn đa dạng. Khối lượng vốn mà ngân hàng huy động 
được phụ thuộc trực tiếp vào các hình thức huy động vốn mà ngân hàng áp 
dụng. Khi áp dụng nhiều hình thức huy động vốn sẽ tạo những cơ hội để 
người gửi lựa chọn, đáp ứng được các nhu cầu của người gửi. Mỗi ngân hàng 
đều tìm cho mình những hình thức huy động vốn phù hợp với điều kiện kinh 
tế xã hội, tâm lý dân cư vùng mà ngân hàng đặt địa điểm, đồng thời phù hợp 
với yêu cầu sử dụng cũng như dễ dàng quản lý có hiệu quả nguồn vốn của 
mình. Khi hình thức huy động vốn đa dạng nghĩa là số lượng vốn huy động 
được tăng lên và chi phí huy động có xu hướng giảm xuống. 
 2.2. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng: 
 Trong một ngân hàng, nghiệp vụ huy động vốn chịu tác động trực tiếp từ 
các hoạt động về sử dụng vốn. Mỗi ngân hàng đều có một chiến lược kinh 
doanh riêng theo từng thời kỳ, tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động của bản thân 
ngân hàng và điều kiện môi trường kinh doanh. Từ đó ngân hàng có thể đưa 
ra chiến lược huy động vốn là thu hẹp hay mở rộng cho phù hợp với chính 
sách thu hẹp hay mở rộng tín dụng của ngân hàng trong thời kỳ đó. Cơ cấu 
nguồn vốn có thể thay đổi về tỷ lệ các khoản mục cấu thành, chi phí huy động 
có thể tăng hay giảm. Nếu chiến lược kinh doanh được xây dựng đúng đắn 
phù hợp với điều kiện bản thân ngân hàng, các nguồn vốn được khai thác tối 
đa và hợp lý thì công tác huy động vốn phát huy hiệu quả. 
 2.3. Ảnh hưởng của lãi suất huy động 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 Lãi suất huy động vốn thường là mối quan tâm hàng đầu của cá nhân và tổ 
chức muốn gửi tiền vào ngân hàng. Điều này hoàn toàn hợp lý vì trong nền 
kinh tế lĩnh vực có lợi nhuận cao hơn bao giờ cũng thu hút được nhiều người 
tham gia đầu tư hơn. Tuy nguồn tiền gửi không chỉ phụ thuộc vào lãi suất cao 
mà còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như kỳ hạn, mức độ rủi ro, điều kiện 
thanh toán, uy tín, địa điểm ... của ngân hàng nhưng với lãi suất cao, linh hoạt, 
hợp lý thì luôn luôn có tác dụng kích thích người gửi tiền. Nhưng lãi suất có 
ảnh hưởng lớn nhất đến lượng tiền gửi tiết kiệm vì khách hàng chọn gửi tiền 
theo phương thức này thường có mục đích hưởng lãi. 
2.4: Trình độ công nghệ ngân hàng 
 Trình độ công nghệ ngân hàng được thể hiện qua các yếu tố sau: 
Thứ nhất: Các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung ứng 
Thứ hai: Trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên ngân hàng 
Thứ ba: Cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh của 
ngân hàng . 
 Trình độ công nghệ ngân hàng ngày càng cao, khách hàng sẽ càng cảm thấy 
hài lòng về dịch vụ được ngân hàng cung ứng và yên tâm hơn khi gửi tiền tại các 
ngân hàng. Đây là một yếu tố rất quan trọng giúp ngân hàng cạnh trạnh phi lãi 
suất vì khách hàng mà ngân hàng phục vụ, không quan tâm đến lãi suất mà quan 
tâm đến chất lượng và loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung ứng. Với cùng một 
lãi suất huy động như nhau, ngân hàng nào cải tiến chất lượng dịch vụ tốt hơn, 
tạo sự thuận tiện hơn cho khách hàng thì sức cạnh tranh sẽ cao hơn. 
 Trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng là điều kiện để thực hiện tốt các 
nghiệp vụ ngân hàng. Cán bộ ngân hàng phải có chuyên môn tốt để có thể 
quản lý tốt nguồn vốn, thực hiện tốt công việc sử dụng vốn góp phần nâng cao 
chất lượng huy động vốn . 
2.5. Uy tín của ngân hàng 
 Trên thực tế, mỗi ngân hàng đã, đang và sẽ tạo được một hình ảnh riêng của 
mình trong lòng khách hàng. Một ngân hàng lớn, sẵn có uy tín sẽ có lợi thế 
hơn trong hoạt động huy động vốn. Sự tin tưởng của khách hàng sẽ giúp cho 
ngân hàng có khả năng ổn định khối lượng vốn huy động và tiết kiệm chi phí 
huy động. Từ đó ngân hàng có thể đề ra chiến lược dự trữ dễ dàng hơn. Thậm 
chí trong điều kiện lãi suất gửi tiền tại ngân hàng có uy tín thấp hơn đôi chút, 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
những người có tiền vẫn lựa chọn ngân hàng đó để gửi mà không tìm những 
nơi trả lãi hấp dẫn hơn vì họ tin rằng ở đây đồng vốn của mình sẽ tuyệt đối an 
toàn. 
CHƯƠNG II 
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CHI NHÁNH 
NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BẾN THUỶ 
I. KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BẾN THUỶ 
1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển 
 Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ là một chi nhánh trực thuộc 
Ngân hàng Công thương Việt Nam có trụ sở chính nằm ở 229 đường Lê 
Duẩn- Thành phố Vinh - Tỉnh Nghệ An. 
 Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ ra đời trên cơ sở nâng cấp 
phòng giao dịch Bến Thuỷ trực thuộc Ngân hàng Công thương Nghệ An 
(1/1/1995) rồi sau đó được nâng cấp lên trực thuộc Ngân hàng Công thương 
Việt Nam. 
 Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ đã phải đối mặt với những 
thử thách lớn trong hoạt động kinh doanh của mình như tình hình kinh doanh 
còn lạc hậu, thiếu vốn đầu tư, cơ sở vật chất thiếu... Tuy nhiên tập thể cán bộ 
công nhân viên của ngân hàng đã không ngừng phấn đấu vươn lên đem lại 
niềm tin cho khách hàng, củng cố khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới, 
từng bước củng cố và mở rộng phát triển hoạt động kinh doanh của ngân 
hàng. Với phương châm đặt ra cho hoạt động trong thời gian qua là: Phát 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
triển vững chắc- an toàn- hiệu quả chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến 
thuỷ đã chủ động tạo môi trường kinh doanh hợp lý giúp các doanh nghiệp 
hoạt động có hiệu quả lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng là 
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. 
2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh ngân hàng Công thương Bến Thuỷ. 
 Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ với tổng số cán bộ công nhân 
viên là 106 người, được sắp xếp bố trí công việc căn cứ vào trình độ nghiệp 
vụ chuyên môn, hoàn cảnh gia đình... một cách phù hợp. Lãnh đạo ngân hàng 
gồm có 1 giám đốc, 2 phó giám đốc và hệ thống các trưởng phòng, phó 
phòng. 
2.1. Phòng kinh doanh 
 Phòng có 13 cán bộ gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng. Phòng có chức năng 
trực tiếp cho vay đối với các tổ chức kinh tế trong và ngoài quốc doanh có 
nhu cầu vay vốn ngân hàng và đáp ứng được những điều kiện của ngân hàng 
đặt ra, xây dựng kế hoạch cân đối về nguồn vốn và sử dụng vốn. Thực hiện 
chế độ thông tin báo cáo tổng hợp, phân tích kế hoạch tài chính, lỗ lãi của 
ngân hàng. Trực tiếp thẩm định các dự án đầu tư, cho vay, bảo lãnh, thu nợ,... 
2.2. Phòng kế toán 
 Phòng gồm 14 cán bộ, và được chia làm 2 bộ phận: bộ phận thanh toán liên 
hàng và bộ phận thanh toán bù trừ. Chức năng chính của phòng kế toán là 
quản lý tài sản, tiền gửi, tiền vay của các cá nhân, đơn vị. Thực hiện các 
nghiệp vụ thanh toán bù trừ, thanh toán liên hàng trong hệ thống và ngoài hệ 
thống. Thực hiện cơ chế tài chính của ngành theo các văn bản chế độ hiện 
hành (thanh toán giao dịch với khách hàng khi khách hàng đến mở tài khoản, 
bộ phận chi tiêu, theo dõi các tài khoản khi đến hạn thì báo cho các phòng ban 
liên quan, thu lãi định kỳ đối với khách hàng). 
 Bộ phận kinh doanh đối ngoại trực thuộc phòng Kế toán thực hiện các 
nghiệp vụ như mở L/C nhập, xuất cho khách hàng: thực hiện nhờ thu đi, nhờ 
thu đến, thu đổi ngoại tệ... 
2.3. Phòng kinh doanh đối ngoại. 
 Phòng kinh doanh đối ngoại được tách ra từ bộ phận thanh toán quốc tế của 
phòng Kế toán. Phòng có nhiệm vụ huy động vốn ngoại tệ của dân cư, của các 
tổ chức; mở L/C xuất nhập khẩu; thanh toán quốc tế. 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
2. 4. Phòng tổ chức - Hành chính 
 Phòng gồm 20 cán bộ. Chức năng chính của phòng là quản lý nhân sự, lao 
động tiền lương, quản lý về hành chính, quản trị, đào tạo. 
 2. 5. Phòng Ngân quỹ 
 Gồm 17 cán bộ công nhân viên. Phòng có chức năng cất giữ, bảo quản, 
kiểm đếm, kiểm soát tiền. Đồng thời là nơi bảo quản các giấy tờ có giá, các 
hồ sơ thế chấp của khách hàng. 
 2. 6. Phòng Nguồn vốn 
 Phòng gồm 19 cán bộ công nhân viên, trong đó có 6 người trình độ đại học, 
11 người trình độ trung cấp, 2 người sơ cấp. Phòng nguồn vốn có chức năng 
huy động các nguồn vốn bằng nội và ngoại tệ trong dân cư để tái đầu tư cho 
vay đối với nền kinh tế. Bao gồm: huy động các nguồn tiền gửi doanh nghiệp, 
các loại tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn. Thuộc cơ cấu phòng còn 
bao gồm các quy tiết kiệm số 1, số 2, số 3, số4, số5, số 7. 
 2.7. Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ 
 Phòng gồm 4 cán bộ công nhân viên. Chức năng chính của phòng là kiểm 
tra kiểm soát mọi nghiệp vụ ngân hàng theo văn bản hiện hành. Tham mưu 
cho giám đốc trong việc chỉ đạo hoạt động kinh doanh của chi nhánh để kịp 
thời khắc phục, chấn chỉnh hoạt động ngân hàng. Tham gia cùng bộ phận tín 
dụng của phòng Kinh doanh, phòng Giao dịch phòng giao dịch xử lý, thu hồi 
nợ, nợ quá hạn. 
 2. 8. Phòng giao dịch Trường thi 
 Phòng gồm 19 cán bộ. Phòng thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ của một chi 
nhánh ngân hàng thương mạinhư: tín dụng, nhận gửi, bảo lãnh, kế toán giao 
dịch và các nghiệp vụ khác của ngân hàng như thanh toán hộ, chuyển tiền... 
 Phòng bao gồm hội sở chính và Quỹ tiết kiêm trực thuộc số 6. Đây là phòng 
giao dịch ngoài chức năng chính là cho vay các thành phần kinh tế ngoài quốc 
doanh và thu nợ còn tiến hành cho vay các doanh nghiệp Nhà nước là các 
thành viên của Tổng công ty 90,91 như Công ty xây dựng công trình giao 
thông 423, 479, 473, 484, 492 là những đơn vị trực thuộc Tổng công ty xây 
dựng công trình giao thông IV. 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
3. Kết quả hoạt động kinh doanh những năm qua. 
 Để giải quyết những khó khăn còn vướng mắc và tiếp tục phát huy những 
điều kiện thuận lợi, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ với nỗ lực 
và quyết tâm cao đã đạt được kết quả tốt đẹp. 
 Tình hình cụ thể như sau: 
3.1. Về huy động vốn. 
 Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ với tư cách là một ngân hàng thương mại hoạt 
động tương đối độc lập, tự chủ trong hạch toán kinh doanh, huy động vốn 
được coi là vấn đề chiến lược hàng đầu với mục tiêu mở rộng thị phần tín 
dụng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mặc dù nằm ở địa bàn không 
mấy thuận lợi, dân cư chủ yếu là công nhân, thợ thủ công, buôn bán nhỏ nên 
thu nhập thấp tích luỹ ít nhưng nhờ vào việc bố trí sắp xếp lao động, đổi mới 
phong cách thái độ phục vụ và gắn với các hình thức huy động vốn phong 
phú, đặc biệt là áp dụng thành công nghiệp vụ tiết kiệm gắn liền với dịch vụ 
thanh toán chuyển tiền nên đã tạo được sức thu hút khá lớn lượng khách hàng 
đến giao dịch. 
 Tính đến ngày 31/12/2001 tổng số vốn huy động tại chỗ của ngân hàng đạt 
268,517 tỷ đồng chiếm 58% tổng số vốn huy động; tăng hơn 44% so với đầu 
năm. Cho đến 31/12/2002, tổng số vốn huy động tại chỗ đạt 300,636 tỷ đồng, 
chiếm 51% tổng số vốn huy động; tăng 13% so với năm 2001. 
 Bảng 1: Cơ cấu nguồn vốn huy động từ 2000-2002 
 Đơn vị: Tỉ đồng 
 Năm 
 Chỉ tiêu 
 2000 2001 2002 Tốc độ tăng 
trưởng(%) 
I. Nguồn huy động 185.972 267.517 300.636 112 
1.TG của TCKT 22.357 38.654 42.627 110 
2.TGTK 163.615 214.366 215.933 102 
3.Phát hành KP, TP - 14.497 42.076 30 
II.Nguồn nhân điều hoà 234.714 189.422 280.445 148 
1.Trong kế hoạch 210.816 189.422 272.164 144 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
2.Điều chuyển vốn khác 23.848 8.281 
 Tổng số 420.686 456.939 581.081 128 
(Nguồn: Báo cáo tổng kết 2000,2001, 2002 Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ và báo cáo tình 
hình thực tế năm 2001, 2002) 
 Như vậy, nguồn vốn huy động được tiếp tục tăng trưởng vững chắc với 
lượng khách hàng đến với ngân hàng ngày càng nhiều. Cán bộ công nhân viên 
luôn có tinh thần cải tiến lề lối phục vụ, thực sự đổi mới tác phong, thái độ 
phục vụ, giữ chữ tín đối với khách hàng. 
 Đồng thời với việc tích cực khai thác và huy động nguồn vốn tại chỗ, ngân 
hàng đã tranh thủ được sự hỗ trợ kịp thời, có hiệu quả về nguồn vốn trong nội 
bộ Ngân hàng Công thương Việt Nam đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu hợp lý về 
vốn của khách hàng. 
3.2. Về hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh 
 Tổng dư nợ cho vay và đầu tư kinh doanh đến ngày 31/12/2001 đạt 396,993 
tỷ đồng tăng 6% so với năm 2000. 
 Trong đó: 
 - Dư nợ ngắn hạn đạt 225,281 tỷ đồng chiếm gần 64% tổng dư nợ 
 - Dư nợ trung, dài hạn đạt gần 149,597 tỷ đồng, chiếm trên 36% tổng dư 
nợ. 
 Với sự nỗ lực không ngừng của toàn thể ngân hàng thì tổng dư nợ các 
khoản cho vay đến 31/12/2002 đạt 533,617 tỷ đồng. Trong đó: 
 - Dư nợ ngắn hạn là 247,902 tỷ đồng, tăng 110% so với năm 2001. 
 - Dư nợ cho vay trung dài hạn là 233,480 tỷ đồng, tăng 162% so với năm 
2001 và chiếm gần 44% trong tổng dư nợ. 
 Năm 2002 thì cơ cấu dư nợ đã có sự dịch chuyển đáng kể, đó là tỷ trọng dư 
nợ cho vay trung dài hạn đã tăng rõ rệt, từ 36% tổng dư nợ năm 2001 lên 44% 
tổng dư nợ năm 2002. 
 Tình hình cụ thể như sau: 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
Bảng 2: Cơ cấu dư nợ của Ngân hàng từ 2000-2002 
 Đơn vị: Tỉ đồng 
 Năm 
Chỉ tiêu 
2000 2001 2002 Tốc 
độ(%) 
I. Theo loại hình cho vay 375.568 397.015 533.617 134 
1. Cho vay ngắn hạn 263.014 255.281 247.902 110 
1.1. Trong han 254.385 216.920 234.218 101 
1.2.Quá hạn 8.629 8.361 13.684 164 
2.Cho vay trung dài han 75.688 149.597 233.480 156 
2.1. Trong han 68.461 142.064 227.278 160 
2.2. Quá hạn 7.227 7.533 6.202 82 
3. Cho vay vốn tài trợ 7.237 6.797 5.824 86 
4.Cho vay TTCN 226 226 226 100 
5.CK nợ CXL có TS GN, XN 18.125 4.911 4.572 93 
6.CKN có TS liên quan vụ án 1.100 - - - 
7. NCV được khoanh 10.181 10.181 10.181 100 
8.Đầu tư kinh doanh khác - - 31.432 - 
II.Phân theo thành phần 375.568 397.015 533.617 134 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
kinh tế 
1.Quốc doanh 319.480 359.479 491.973 137 
2.Ngoài quốc doanh 56.091 37.514 41.644 111 
(Nguồn: Báo cáo tổng kết 2000, 2001, 2002 Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ và 
Báo cáo Tình hình thực tế năm 2001, 2002) 
3.3. Các hoạt động khác. 
 3.3.1. Về kế toán, điện toán, kinh doanh đối ngoại: 
 Công việc hạch toán, thanh toán kịp thời, chính xác góp phần tham gia điều 
hoà vốn kinh doanh, đảm bảo khả năng thanh toán nhanh, an toàn và hiệu quả. 
 Công tác điện toán được chú trọng đầu tư. Đã hoàn thành việc cài đặt và sử 
dụng nhiều chương trình mới giúp cho việc xử lý và cung cấp một cách nhanh 
chóng kịp thời, chính xác, truyền và nhận thông tin thông suốt trong hệ thống 
Ngân hàng Công thương. 
 Từ năm 2001, hoạt động kinh doanh đối ngoại đã có bước phát triển nhanh 
chóng. Công tác huy động vốn ngoại tệ, mua bán ngoại tệ và thanh toán quốc 
tế đều có sự tăng trưởng cao. Số dư tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ tại chi nhánh 
tăng gần 63% so với năm 2000, đạt trên 4,6 triệu USD. Năm 2002, doanh số 
thanh toán ước đạt 6,902 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2001.Bên cạnh đó đã 
tiến hành mở và thanh toán nhiều bộ L/C nhập khẩu trị giá gần 3,8 triệu USD 
tăng nhiều lần so với năm 2001. Các dịch vụ khác như chuyển tiền quốc tế, 
UNT, UNC, chi trả kiều hối cũng được chú trọng khai thác và mở rộng. 
Doanh thu từ nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại ngày một tăng cao. Đến nay có 
thể khẳng định Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ có khả năng đáp ứng tốt các nhu 
cầu về dịch vụ đối ngoại với các doanh nghiệp, dân cư và xã hội. Năm 2002, 
hoạt động dịch vụ đạt 764 triệu đồng, chiếm 2% tổng thu nhập. 
 3.3.2. Công tác tiền tệ- kho quỹ: 
Xác định rõ vị trí và tầm quan trọng của công việc mà mình đảm nhiệm, mỗi 
cán bộ phòng ngân quỹ đã tận tình, hoà nhã với khách hàng, thận trọng, chính 
xác trong khâu kiểm đếm tiền để loại ra những tờ tiền hư hỏng, tiền không đủ 
tiêu chuẩn quy định, xác định tiền thật, tiền giả thực hiện quy chế của ngành 
và làm tăng niềm tin đối với khách hàng. 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 Khối lượng tiền mặt qua ngân hàng ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm 
trước. Nếu như năm 2000 khối lượng thu tiền mặt đạt 663,7 tỷ đồng, chi tiền 
mặt đạt 417,4 tỷ đồng thì đến năm 2001 tổng thu tiền mặt đạt 784,1 tỷ đồng 
tăng gấp 1,2 lần; tổng chi tiền mặt đạt 426,3tỷ đồng tăng gấp một lần so với 
năm 2000. Năm 2002 thì tổng thu tiền mặt đạt 845.415 tỷ đồng 107% so với 
2001, tổng chi là 497,066 tỷ đồng tăng 116% so với năm 2001. 
 3.3.3. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ: 
 Chi nhánh đã thực hiện tốt việc lập chương trình kiểm tra, kiểm toán và xét 
khiếu tố theo các văn bản chỉ đạo của ngân hàng cấp trên. Tiến hành kiểm tra 
hồ sơ tín dụng, bảo lãnh, chứng từ kế toán, phát hiện kịp thời những tồn tại để 
đóng góp ý kiến với các bộ phận nghiệp vụ, giúp sự lãnh đạo, chỉ đạo sát thực 
hơn. Tích cực tham gia cùng cán bộ tín dụng đôn đốc khách hàng trả nợ, xử lý 
nợ quá hạn, nợ đọng, lãi treo... 
 3.3.4. Công tác tổ chức điều hành 
 Bộ máy tổ chức từng bước được kiện toàn. Quy chế quản lý điều hành từ 
ban giám đốc đến các phòng, ban, bộ phận và nhân viên được xây dựng và 
thực hiện một cách nghiêm túc. Cán bộ được sắp xếp, bố trí hợp lý đã góp 
phần tăng hiệu quả lao động, tăng hiệu quả kinh doanh. 
 Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, 
tạo nên sự thống nhất cao, điều hành hoạt động của chi nhánh có kỷ luật, tạo 
nếp sống văn minh trong công việc và sinh hoạt hàng ngày. Vai trò, trách 
nhiệm và quyền lợi của người lao động trong đơn vị được nâng cao 
3.4. Kết quả kinh doanh 
 Kế thừa và phát huy những kết quả của những năm trước, hiệu quả kinh 
doanh của chi nhánh đã đạt được thành công vượt bậc. Khắc phục các khó 
khăn tồn tại của nền kinh tế, của áp lực giảm lãi suất cho vay, môi trường 
cạnh tranh và những tồn tại để lại giai đoạn 1997, 1998 do nhiều yếu tố khách 
quan cũng như chủ quan Chi nhánh đã bị thua lỗ. Có thể nói đây là những 
ngày khó khăn nhất đối với quá trình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. 
Nợ quá hạn, nợ đóng băng, lãi treo phát sinh quá nhiều, hàng loạt khách hàng 
bị thua lỗ, phá sản không có khả năng trả nợ gốc và lãi, chủ yếu là khách hàng 
ngoài quốc doanh. Trong bối cảnh ấy Chi nhánh đã phải "gồng" mình lên để 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
tồn tại và phát triển. Với sự phấn đấu không mệt mỏi, năm 2000 có lãi trên 
3,600 tỷ đồng; năm 2001 Chi nhánh đạt 570 triệu đồng (sở dĩ năm 2001 lợi 
nhuận thu được thấp hơn năm 2000 là do Chi nhánh đã trích lập quỹ dự phòng 
rủi ro là 1,750 tỉ đồng; Chi bảo hiểm tiền gửi của khách hàng là 1,952 tỷ 
đồng...). Năm 2002, tổng thu nhập của Chi nhánh là 37,3 tỷ đồng; tăng 12% 
so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng chi phí 36,3 tỷ; trích dự phòng rủi ro trên 1,5 
tỷ; bảo hiểm tiền gửi trên 250 triệu đồng. Kết quả kinh doanh có lãi 1,045 tỷ 
đồng, đạt 105% kế hoạch đề ra và gấp 2 lần Ngân hàng Công thương Việt 
nam giao. 
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CHI NHÁNH NGÂN 
HÀNG CÔNG THƯƠNG BẾN THUỶ NHỮNG NĂM QUA(1998-2002). 
 Huy động vốn là một nghiệp vụ chính, không thể thiếu được trong hoạt 
động của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ nói riêng và ngân hàng thương mại nói 
chung vì vốn hoạt động của ngân hàng chủ yếu được hình thành từ nguồn vốn 
huy động. Hoạt động huy động vốn không bao giờ tồn tại độc lập mà nó gắn 
liền với các nghiệp vụ sử dụng vốn và các nghiệp vụ trung gian khác. Như 
vậy công tác huy động vốn của ngân hàng đóng vai trò quyết định trong sự 
tồn tại và phát triển của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ cũng như hệ thống ngân 
hàng thương mại. Các ngân hàng đầu năm hoạt động sẽ xây dựng cho mình 
một chiến lược huy động vốn phù hợp dựa trên các dự đoán về tình hình sử 
dụng vốn trong năm đó. 
 Nguồn vốn huy động được của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ tăng nhanh qua 
các năm. Trong 5 năm gần đây từ 1998 tổng nguồn vốn là 199,224 tỉ đồng; 
đến năm 2002 tổng nguồn vốn của ngân hàng là 581,081 tỉ đồng tăng gấp 2,9 
lần so với năm 1998. Đây là sự tăng trưởng vượt bậc, là sự cố gắng nỗ lực 
lớn của tập thể cán bộ công nhân viên của ngân hàng. Nguyên nhân của sự 
tăng trưởng cao của nguồn vốn mà ngân hàng huy động là: 
 - Đa dạng hoá các hình thức huy động. Tận dụng được nguồn vốn trong nội 
bộ Ngân hàng Công thương ngoài việc cố găng huy động nguồn vốn tại chỗ. 
 - Ngân hàng ngày càng có uy tín với khách hàng . 
 - Ngân hàng tích cực mở rộng mạng lưới các quỹ tiết kiệm, kết hợp quỹ tiết 
kiệm với các dịch vụ chuyển tiền, thanh toán phục vụ khách hàng (đây là vấn 
đề mới được áp dụng nhưng nhận được hiệu quả cao) . 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 - Cán bộ công nhân viên được bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn 
nghiệp vụ. 
 - Nền kinh tế phát triển ổn định. Người dân càng ngày càng tin tưởng và 
hiểu rõ lợi ích mà ngân hàng có thể đem lại. 
 Trong 5 năm gần đây, Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ đã có mức tăng trưởng 
nguồn vốn khá cao, dù sự tăng trưởng nguồn vốn chưa phản ánh được bản 
chất hoạt động kinh doanh của ngân hàng là tốt hay xấu nhưng điều đó cho 
thấy rằng hoạt động huy động vốn của ngân hàng diễn ra tốt trong điều kiện 
phải cạnh tranh với những ngân hàng khác trên địa bàn. Chi nhánh NHCT 
Bến Thuỷ đã và đang xâm nhập tốt và ngày càng có uy tín lớn với khách 
hàng, tạo đà cho từng bước phát triển trong hoạt động khai thác nguồn vốn , 
mở rộng hoạt động đầu tư, cho vay của ngân hàng. 
 Hiện nay, Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ đang thực hiện các phương thức huy 
động vốn như sau: 
 + Nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế : có kỳ hạn và không có kỳ hạn 
 + Nhận tiền gửi tiết kiệm dân cư: có kỳ hạn và không có kỳ hạn. 
 + Phát hành các giấy tờ có giá: kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng. 
 + Nhận nguồn vốn điều hoà từ Ngân hàng Công thương Việt Nam: là nguồn 
huy động vốn trong nội bộ Ngân hàng Công thương. 
Để thấy được kết cấu nguồn vốn của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ ta xem bảng 3: 
Bảng 3: Kết cấu nguồn vốn huy động của Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ từ 
1998-2002 
 Đơn vị: Tỷ đồng 
 Năm 
 Chỉ tiêu 
1998 1999 
2000 2001 2002 
1. Tổng nguồn vốn huy 
động. 
138.820 169.709 185.972 267.517 300.636 
 -Tiền gửi TCKT 29.679 22.640 22.357 38.654 42.627 
 -Tiền gửi tiết kiệm 96.691 146.843 163.615 214.366 215.933 
- Phát hành kỳ phiếu 12.450 - - 14.497 22.076 
-Phát hành trái phiếu - - - - 19.5 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
2.Nguồn vốn nhận điều 
hoà 
60.404 118.414 234.714 189.422 280.455 
- Trong kế hoạch 60.404 104.086 210.816 189.422 272.164 
- Ngoài kế hoạch - 14.328 23.848 - 8.281 
3. Tổng nguồn huy vốn 
động. 
199.224 288.123 420.686 456.939 581.081 
( Nguồn: Bảng cân đối kế toán các năm 1998-2002) 
 Nhìn vào bảng 3 ta thấy tiền gửi của các tổ chức kinh tế là tiền gửi không kỳ 
hạn. Các doanh nghiệp gửi tiền vào Chi nhánh chủ yếu là để hưởng các dịch 
vụ của ngân hàng. Do điều kiện khách quan là Chi nhánh đóng trên tỉnh Nghệ 
An còn nghèo, nền công nghiệp chưa phát triển nên số các doanh nghiệp còn 
ít, trong đó lại chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước nên tỷ trọng của loại 
hình tiền gửi này trong tổng nguồn vốn huy động còn nhỏ. Năm 1998 thì tỷ 
trọng tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế là 14,8%, năm 1999 là 
7,8% ; năm 2000 là 5,3%; năm 2001 là 8.5%; năm 2002 là 7,3%. Tuy nhiên, 
bên cạnh những khó khăn khách quan là những nhân tố chủ quan. Đó là ngân 
hàng chưa có những chính sách thu hút khách hàng là các doanh nghiệp, chưa 
có các kênh huy động vốn phù hợp, chưa thực sự tạo được uy tín trong lòng 
các doanh nghiệp... 
 Một loại hình huy động khác rất đáng lưu tâm, đó là tiền gửi tiết kiệm của 
dân cư. Loại hình này đã chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn huy động 
tại chỗ. Năm 1998 thì tỷ trọng trong tổng nguồn là 48,2%; năm 1999 là 
50,7%; năm 2000 là38,8%; năm 2001 là 46,3%; năm 2002 là 37,1%. Đây là 
loại hình huy động đã góp phần không nhỏ vào hoạt động huy động vốn của 
Chi nhánh. Từ năm 1998 đến năm 2002, Chi nhánh đã có mức tăng trưởng 
đáng kể từ 96,691 tỷ đồng lên 214,366 tỷ đồng năm 2001 và 215,933 tỷ đồng 
năm 2002. Đây là kết quả đáng khích lệ vì như thế ngân hàng đã tạo được uy 
tín đối với khách hàng dân cư, là sự ghi nhận những chính sách thu hút khách 
hàng của ngân hàng ngày càng có hiệu quả. 
 Bên cạnh đó, Chi nhánh còn có những hình thức huy động vốn khác như: 
phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Những hình thức huy động vốn này chưa thực 
sự thu hút được khách hàng. Tỷ trọng của các hình thức huy động vốn này rất 
nhỏ so với tổng nguồn huy động. 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 Tuy nhiên, hoạt động huy động vốn đã đạt được những kết quả đáng ghi 
nhận. Chúng ta có thể thấy rõ được tình hình tăng trưởng huy động vốn qua 
bảng 4 sau: 
Bảng 4: Biến động nguồn vốn huy động từ 1998- 2002. 
 Đơn vị: Tỷ đồng 
 Năm 
 Chỉ tiêu 
1998 1999 2000 2001 2002 
1. Nguồn huy động tại chỗ 138.820 169.709 185.972 267.517 300.636 
Tăng trưởng tuyệt đối 30.889 16.263 81.545 33.119 
Tốc độ tăng trưởng 22.3 9.6 43.8 12.4 
2. Nguồn nhận điều hoà 60.404 118.414 234.714 189.422 280.445 
Tăng trưởng tuyệt đối 58.010 116.300 -45.292 91.023 
Tốc độ tăng trưởng 96.0 98.2 -19.3 48.1 
3.Tổng nguồn vốn huy 
động 
199.224 288.123 420.686 456.939 581.081 
Tăng trưởng tuyệt đối 88.899 132.563 36.253 124.142 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
Tốc độ tăng trưởng 44.2 46.1 8.58 27.2 
(Nguồn: Phòng tổng hợp- Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ) 
 Năm 1998 nguồn vốn huy động tại chỗ đạt 138,820 tỉ đồng chiếm 69,68% 
tổng nguồn vốn huy động và nguồn vốn điều hoà đạt 60,404 tỉ đồng chiếm 
30,32% tổng nguồn vốn huy động trong năm. Năm 1999 nguồn vốn huy động 
tại chỗ của ngân hàng đạt 169,709 tỉ đồng chiếm 58,90% và nguồn điều hoà 
đạt 118,414 tỉ đồng chiếm 41,10% tổng nguồn vốn huy động trong năm. Năm 
2001 nguồn vốn huy động tại chỗ của ngân hàng đạt 267,517 tỉ đồng chiếm 
58,5% và nguồn nhận điều hoà đạt 189,422 tỉ đồng chiếm 41,4% tổng nguồn 
vốn ngân hàng nhận được trong năm, tới cuối năm 2002 thì tổng nguồn vốn 
huy động đạt 300,636 tỷ đồng chiếm 51,2% tổng nguồn huy động trong khi 
nguồn nhận điều hoà là 280,455 tỷ đồng chiếm 48.8% tổng nguồn huy động 
trong năm. Qua số liệu trên ta thấy tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn huy 
động tại chỗ có sự tăng trưởng khá. Tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn huy 
động tại chỗ cao hơn tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn điều hoà trong các 
năm 1998, 1999 và 2001, 2002; riêng năm 2000 nguồn vốn nhận điều hoà cao 
hơn nguồn vốn huy động là 48,742 tỉ đồng. Đây không phải là do nguồn vốn 
Chi nhánh huy động có sự sụt giảm mà do năm 2002 có sự bùng lên của đầu 
tư cho vay. Tuy nhiên, nhìn chung nguồn vốn huy động của ngân hàng tiếp 
tục tăng trưởng vững chắc và trong cơ cấu nguồn vốn huy động, mỗi nguồn 
có một đặc điểm riêng và biến động của nó ảnh hưởng trực tiếp đến tổng 
nguồn vốn mà ngân hàng huy động được. 
 Sau đây, chúng ta hãy xem xét tổng nguồn huy động tại chỗ so với nhu cầu 
thực tế tại Chi nhánh qua bảng 5: 
Bảng 5: Tình hình huy động tại chỗ và nhu cầu thực tế. 
 Đơn vị: tỷ đồng 
 Chỉ tiêu 
 Năm 
Huy động vốn tại chỗ Cho vay đầu tư Huy động vốn tại chỗ 
- cho vay đầu tư 
1998 138.820 182.470 -43.65 
1999 169.709 251.092 -81.383 
2000 185.972 375.568 -189.596 
2001 267.517 397.015 -129.498 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
2002 300.636 533.617 -232.981 
(Nguồn: Bảng cân đối kế toán năm 1998- 2002 Chi nhánh Ngân hàng Công thương 
Bến Thuỷ ) 
 Nguồn nhận điều hoà là một hình thức huy động vốn của Chi nhánh, trong 
đó thì Ngân hàng nhận nguồn vốn điều chuyển từ Ngân hàng Công thương 
Việt nam. Qua bảng 5 ta thấy, tổng nguồn huy động tại chỗ qua 5 năm đều 
thiếu hụt so với nhu cầu đầu tư cho vay. Năm 1998 sự thiếu hụt giữa nguồn 
huy động tại chỗ với cho vay đầu tư thực tế là 43,65 tỷ đồng; năm 1999 là 
81,383 tỷ đồng; năm 2000là 189,596 tỷ đồng; năm 2001 là 129,489 và năm 
2002 là 232,981 tỷ đồng. Như vậy, từ năm 1998- 2000 thì tốc độ tăng trưởng 
của nguồn nhận điều hoà là rất lớn. Nhưng năm 2001 thì Chi nhánh có nguồn 
nhận điều hoà sụt giảm từ 189,596 xuống còn 129,498 tỷ đồng. Đây không 
phải là do đầu tư cho vay sụt giảm mà Chi nhánh đã có sự tăng trưởng tốt 
trong huy động vốn. Hàng năm Chi nhánh đều nhận nguồn vốn điều hoà từ 
Ngân hàng Công thương Việt Nam . Tốc độ tăng trưởng của nguồn nhận điều 
hoà tăng nhanh qua các năm 1998- 2000: từ 60.404 tỷ đồng năm 1998 lên 
118.414 tỷ đồng năm 1999 và 234.714 tỷ đồng năm 2000. Điều này cho thấy 
được rằng tốc độ huy động vốn tăng không kịp với tốc độ cho vay đầu tư. Tuy 
nhiên, đến năm 2001 thì nguồn nhận điều hoà từ Ngân hàng Trung ương chỉ 
còn là 189.442 tỷ đồng so với 234.7114 tỷ đồng năm 2000, và năm 2002 là 
280.445 tỷ đồng. 
 Từ những số liệu phân tích trên chúng ta thấy được rằng tổng nguồn vốn 
huy động tại chỗ chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư cho vay của Chi nhánh. Do 
vậy, Chi nhánh hàng năm phải nhận nguồn vốn điều hoà từ Ngân hàng Công 
thương Việt Nam. Kết quả trên là do những yếu tố chủ quan cũng như khách 
quan mà chi nhánh phải đối mặt và giải quyết trong những năm tới. 
 Sau đây chúng ta sẽ phân tích cụ thể từng nguồn vốn trong tổng nguồn 
vốn huy động và với nhu cầu cho vay đầu tư trong những năm qua. 
1. Tình hình huy động vốn ngắn hạn. 
 Chi nhánh hiện nay đang huy động vốn ngắn hạn bằng những hình thức sau: 
 - Nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế không kỳ hạn (TG KKH) và có kỳ 
hạn dưới 12 tháng(TG CKH ). 
 - Nhận tiền gửi tiết kiệm của dân cư kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng 
(TGTK CKH). 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 - Phát hành các giấy tờ có giá: kỳ phiếu thương mại kỳ hạn 1 tháng, 6 tháng. 
 Chi nhánh đã coi nguồn vốn huy động tại chỗ góp phần hết sức quan trọng 
trong việc huy động vốn cho đầu tư cho vay. Để “ phát huy nội lực” Ngân 
hàng đã thực hiện đa dạng hoá các hình thức, biện pháp, kênh huy động vốn 
khác nhau và đã đạt được những thành quả đáng kể. Tình hình cụ thể như sau: 
Bảng 6: Tình hình huy động vốn ngắn hạn. 
 Đơn vị: Tỷ đồng 
 Năm 
Chỉ tiêu 
1998 1999 2000 2001 2002 
TG KKH 29.679 22.640 20.074 41.041 36.317 
TG CKH dưới 12 tháng 0 0 0.982 0.694 0 
TG TK KKH 4.012 2.418 1.126 2.575 2.634 
TGTK CKH dưới 12 tháng 60.608 87.858 102.717 116.280 135.524 
Kỳ phiếu 12.450 0 0 14.497 22.564 
 Tổng số 106.749 112.916 124.899 175.087 197.039 
( Nguồn: Bảng cân đối kế toán năm 1998- 2002 Chi nhánh Ngân hàng Công thương 
Bến Thuỷ) 
 Nhìn vào bảng 6 ta thấy tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của dân cư chiếm 
tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn huy động tại chỗ và không tăng bao nhiêu 
qua các năm 1998- 2002. Năm 1998 là 4,012 tỷ đồng và tăng không đáng kể 
qua các năm 1999- 2002. Từ 2,418 tỷ đồng năm 1999, năm 2000 là 2,727 tỷ 
đồng và năm 2002 là 2,634 tỷ đồng. Bởi vì, thường thì tiền gửi tiết kiệm của 
dân cư là họ tiết kiệm để được hưởng lãi và dành dụm tiền để mua sắm trong 
tương lai. Do vậy ta thấy tỷ trọng nguồn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 3 tháng, 
6 tháng là khá lớn. Năm 1998 là 76%; năm 1999 là 66%; năm 2000 là 80%; 
năm 2001 là 65%; năm 2002 là 66%. Lượng tăng tuyệt đối qua các năm là 
tương đối lớn, năm 1998-1999 là 17 tỷ đồng, 1999-2000 là 13 tỷ đồng, năm 
2000-2001 là 14 tỷ đồng, tới năm 2002 Chi nhánh huy động được 135,524 tỷ 
đồng so với 116 tỷ đồng năm 2001, tăng19 tỷ đồng. Như vậy, khối lượng tiền 
gửi tiết kiệm có kỳ hạn dưới 12 tháng qua các năm có sự tăng trưởng ổn định 
và vững chắc, năm sau cao hơn năm trước. 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 Việc phát hành kỳ phiếu cũng là một phương thức huy động vốn của Chi 
nhánh. Tuy nhiên, hình thức này chưa thực sự mang lại hiệu quả. Năm 1998, 
Chi nhánh huy động được 12,45 tỷ đồng, chiếm 9% trong tổng nguồn huy 
động tại chỗ. Trong 2 năm tiếp theo Chi nhánh không sử dụng hình thức này 
thì đến năm 2001 ngân hàng huy động qua hình thức này là 14,497 tỷ đồng, 
chiếm 5%. Năm 2002 là 22,564 tỷ đồng chiếm 7% tổng nguồn vốn huy động 
tại chỗ. Vì thế, Chi nhánh cần phát huy tốt hơn nữa hình thức huy động này 
để thu hút vốn. Tuy nhiên, khó khăn là ở chỗ Chi nhánh chỉ được phát hành 
tín phiếu, trái phiếu khi Ngân hàng Công thương Việt nam cho phép vào 
những thời điểm Chi nhánh thiếu hụt vốn đầu tư cho vay. Do đó, Chi nhánh 
không tự chủ được số vốn huy động được thông qua hình thức này. 
 Tuy nhiên, mức tăng trưởng huy động vốn ngắn hạn là khá lớn qua các năm. 
Chúng ta sẽ so sánh qua bảng 7 sau: 
Bảng 7: Tình hình tăng trưởng của nguồn vốn ngắn hạn. 
 Năm 
 Chỉ tiêu 
1998 1999 2000 2001 2002 
Tổng số huy động 106.749 112.916 124.899 175.087 197.039 
Tăng trưởng tuyệt đối - 6.167 1.983 50.188 21.952 
Tốc độ tăng trưởng - 5.7 1.7 40.2 12.5 
( Nguồn: Phòng tổng hợp – Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ ) 
 Ta thấy, nguồn vốn ngắn hạn huy động được qua các năm đều có sự tăng 
trưởng. Từ năm 2001, Chi nhánh đã có sự gia tăng nhanh trong huy động vốn 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
ngắn hạn. Năm 2001 tăng hơn 50 tỷ đồng so với năm 2000, tốc độ tăng 
trưởng là 40%. Đây là mốc đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ trong công tác 
huy động vốn, là nền tảng cho công tac huy động vốn những năm sau. 
 Trên đây chúng ta đã xem xét thực trạng huy động vốn của Chi nhánh 5 
năm qua. Nhìn chung, tình hình huy động đã có bước chuyển biến tích cực 
trong các năm, đó là tỷ lệ tăng trưởng tuyệt đối tăng đều qua các năm. Tuy 
nhiên, số lượng huy động vốn thực tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đầu tư 
cho vay của Chi nhánh. Cho nên hàng năm ngân hàng vẫn phải nhận nguồn 
vốn điều hoà từ Ngân hàng Công thương Việt nam. 
2. Tình hình huy động vốn trung - dài hạn. 
 Chi nhánh hiện nay đang sử dụng các hình thức huy động vốn trung- dài 
hạn bằng các hình thức sau đây: 
- Nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế có kỳ hạn 12 tháng và trên 12 
tháng(TG CKH). 
- Nhận tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 12 tháng. 
- Phát hành trái phiếu có kỳ hạn 1 năm, 2 năm. 
 Trong 5 năm qua, Chi nhánh tình hình huy động vốn trung-dài hạn thực tế 
như sau: 
Bảng 8: Tình hình huy động vốn trung- dài hạn 
 Đơn vị: Tỷ đồng 
 Năm 
Chỉ tiêu 
1998 1999 2000 2001 2002 
Tiền gửi CKH 2.012 2.546 1.250 0 0 
Tiền gửi TK 30.059 54.247 59.823 92.430 84.097 
Trái phiếu 0 0 0 0 19.500 
Tổng số 32.071 56.793 61.073 92.430 103.597 
(Nguồn: Bảng cân đối kế toán năm1998-2002 Chi nhánh Ngân hàng Công thương 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 Bến Thuỷ) 
 Nhìn vào bảng 7 ta dễ dàng nhận thấy tổng số vốn huy động trung- dài hạn 
chiếm tỷ trọng nhỏ, cũng như con số tuyệt đối của nguồn vốn trung-dài hạn là 
khá nhỏ so với tổng nguồn vốn huy động. Điều này là hậu quả của nhiều 
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân hết sức quan trọng là do Chi nhánh 
chưa có sự đa dạng trong nghiệp vụ huy động vốn trung- dài hạn. 
 Tuy vậy, nguồn vốn huy động có sự tăng trưởng vững chắc qua các năm. 
Năm 1999 so với 1998 thì Chi nhánh huy động tăng 34 tỷ đồng chiếm 33% 
tổng nguồn huy động tại chỗ. Năm 2000, ngân hàng huy động được 61 tỷ 
đồng, chiếm 32%; năm 2001 là 94 tỷ, chiếm 35% và cho tới cuối năm 2002 
thì con số là 120 tỷ đồng, chiếm 40% tổng nguồn huy động tại chỗ. 
 Những kết quả trên là dựa chủ yếu vào hình thức huy động bằng tiền gửi tiết 
kiệm có kỳ hạn 12 tháng. Còn hình thức huy động từ tiền gửi của các tổ chức 
kinh tế không đáng kể. Năm 1998, ngân hàng đã huy động được 30 tỷ đồng từ 
tiền gửi tiết kiệm của dân cư với thời hạn 12 tháng; năm1999, 2000, 2001, 
2002 con số theo thứ tự là 54 tỷ, 59 tỷ, 94 tỷ, 100 tỷ đồng. Năm 2001 đã đánh 
dấu bước chuyển biến tích cực trong việc huy động vốn từ tiền gửi tiết kiệm; 
tăng 1,6 lần so với năm 2000. 
 Bên cạnh đó thì đến năm 2002 thì Chi nhánh mới được phép huy động vốn 
bằng hình thức phát hành trái phiếu. Năm 2002, Chi nhánh đã huy động được 
19,5 tỷ đồng từ phát hành trái phiếu. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho việc huy 
động trong thời gian tới. Chi nhánh cần phát huy hơn nữa việc huy động vốn 
bằng hình thức này. 
 Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy rõ được tình hình tăng trưởng của nguồn 
vốn trung- dài hạn thông qua bảng 9 sau: 
Bảng 9: Tình hình tăng trưởng của nguồn vốn trung – dài hạn 
 Năm 
 Chỉ tiêu 
1998 1999 2000 2001 2002 
Tổng số huy động 32.071 56.793 61.073 92.430 103.597 
Tăng trưởng tuyệt đối 24.722 4.280 31.357 11.167 
Tốc độ tăng trưởng 77.3 7.5 51.4 12.1 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
( Nguồn: Phòng tổng hợp – Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến thuỷ) 
 Cũng như nguồn vốn ngắn hạn, nguồn vốn trung – dài hạn có sự tăng 
trưởng khá vững chắc, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2000, Chi nhánh con 
số tăng trưởng tuyệt đối là 4,2 tỷ đồng so với năm 1999; với tốc độ tăng 
trưởng là 7,5%. Tuy nhiên, đến năm 2001, Chi nhánh đã có sự tăng trưởng 
vượt bậc. So với năm 2000, năm 2001 Chi nhánh huy động tăng 31 tỷ đồng, 
với tốc độ tăng trưởng là 51%. Và cho đến năm 2002, tăng 11,167 tỷ đồng; 
tốc độ tăng trưởng là 12,1%. Nhìn chung thì nguồn vốn trung – dài hạn huy 
động được tăng trưởng qua các năm từ 1998- 2002. Tuy nhiên, tỷ trọng nguồn 
vốn trung – dài hạn trong tổng nguồn vốn huy động tại chỗ là rất nhỏ. Chi 
nhánh cần phải khắc phục nhược điểm này nhằm thu hút nhiều hơn nữa nguồn 
vốn trung – dài hạn phục vụ nhu cầu của Chi nhánh. 
 Từ những nhận xét trên, ta thấy Chi nhánh cần thúc đẩy việc huy động vốn 
trung- dài hạn cho phù hợp với nhu cầu của mình. Đó là, phải có nhiều hơn 
nữa các hình thức huy động vốn trung- dài hạn để thu hút vốn. 
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA CHI NHÁNH 
NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BẾN THUỶ TRONG NHỮNG NĂM QUA. 
 Hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ cũng như hoạt 
động của các ngân hàng khác đều chịu sự tác động của môi trường kinh 
doanh, chính sách pháp luật của Nhà nước và các yếu tố liên quan đến bản 
thân ngân hàng. Do vậy hoạt động huy động vốn cũng chịu ảnh hưởng trực 
tiếp từ nhiều nhân tố đó. Từ thực trạng huy động vốn của Chi nhánh Ngân 
hàng Công thương Bến Thuỷ em rút ra được những thành tựu mà ngân hàng 
đã đạt được cũng như những khó khăn còn vướng mắc như sau: 
1. Những kết quả đạt được: 
 Trong năm qua Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ đã chủ động xác định rõ chiến 
lược, phương châm hoạt động kinh doanh trong từng thời kỳ. Trên cơ sở 
nghiên cứu, phân tích kỹ những khó khăn và thuận lợi, những thời cơ và thách 
thức của hoàn cảnh cụ thể cũng như dự đoán những vấn đề mới nảy sinh. Vì 
vậy trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói 
riêng đều đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Sau đây là những thành tựu ngân 
hàng đạt được trong hoạt động huy động vốn 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 - Công tác huy động vốn ngày càng phát triển, doanh số huy động vốn tại 
chỗ ngày càng tăng lên, đáp ứng khả năng sử dụng vốn của ngân hàng, giảm 
bớt các khoản vay từ bên ngoài( nguồn vốn huy động tăng nhanh từ 199,224 
tỷ đồng năm 1998 lên 581,081 tỷ đồng năm 2002). 
 - Các hình thức và nguồn huy động vốn càng ngày được đa dạng hoá. 
 - Các kênh huy động vốn càng ngày được mở rộng. Ngân hàng đã áp dụng 
thành công nghiệp vụ quỹ tiết kiệm gắn với dịch vụ thanh toán chuyển tiền 
nên đã tạo được sức hút khá lớn lượng khách hàng đến giao dịch. 
 - Cơ sở vật chất, công nghệ ngân hàng phục vụ hoạt động nghiệp vụ huy 
động vốn đã và đang được đổi mới, nâng cấp . 
 - Trình độ cán bộ ngày càng được nâng cao. 
 - Quan hệ của ngân hàng đối với các ngân hàng khác trong nước ngày một 
phát triển hỗ trợ đắc lực cho việc huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng 
 - Tích cực khai thác và huy động nguồn vốn tại chỗ, Chi nhánh NHCT Bến 
Thuỷ đã tranh thủ được sự hỗ trợ kịp thời, có hiệu quả của nguồn vốn trong 
nội bộ Ngân hàng Công thương Việt Nam, đáp ứng thoả mãn kịp thời mọi 
nhu cầu hợp lý về vốn của khách hàng . 
 Những thành tựu mà ngân hàng đạt được trong công tác huy động vốn là do: 
 - Trạng thái phát triển của nền kinh tế tỉnh Nghệ An trong những năm qua. 
Những năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân đã thu được 
những thành tựu đáng kể. Nền kinh tế tiếp tục phát triển trên nhiều lĩnh vực. 
Kết cấu hạ tầng được cải thiện, năng lực sản xuất được năng cao thúc đẩy 
tăng cường và chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, tạo điều kiện phát triển cho 
thời kỳ sau. Đời sống vật chất của nhân dân ngày càng được nâng lên, rút 
ngắn khoảng cách chênh lệch về kinh tế của địa phương so với mức trung 
bình của cả nước. Những kết quả đạt được này đã góp phần thúc đẩy công tác 
huy động vốn của Chi nhánh. 
 - Ngân hàng đã sử dụng những hình thức huy động vốn phù hợp với tình 
hình thực tế của ngân hàng và tình hình phát triển của địa phương, địa bàn mà 
ngân hàng hoạt động. 
 - Sự bố trí hợp lý các nhân viên ngân hàng vào công việc phù hợp của ban 
lãnh đạo ngân hàng. Thái độ phục vụ tận tình của nhân viên ngân hàng đối với 
khách hàng . 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
 - Nhà nước ta đã thành lập Công ty bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ lợi ích 
cho người gửi tiền, điều này làm tăng niềm tin của khách hàng đối với ngân 
hàng, đối với đồng tiền . 
 - Ngân hàng đã làm tốt công tác sử dụng vốn, hiệu quả kinh doanh cao. Do 
vậy uy tín ngân hàng được nâng lên trên thị trường. Từ số lượng doanh 
nghiệp và tổ chức kinh tế, cá nhân quan hệ với ngân hàng phát triển. Điều này 
có nghĩa là tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng lên. 
 - Ngân hàng Công thương Việt Nam luôn dành cho Chi nhánh một hạn 
mức vốn điều hoà cần thiết dựa trên yêu cầu của chính ngân hàng . 
2. Những hạn chế và nguyên nhân. 
2.1.Hạn chế. 
 - Cơ chế lãi suất chưa thực sự tạo ra được sự hấp dẫn với khách hàng, 
trong đó các hình thức dịch vụ cũng chưa được phát triển nhiều. 
 - Chưa đa dạng hoá các hình thức huy động vốn trung và dài hạn . 
 - Chính sách khách hàng, công tác tuyên truyền quảng cáo chưa được chú 
trọng. 
 - Các dịch vụ mới, công cụ mới, phương tiện mới cho hoạt động ngân hàng 
tuy có cố gắng cải thiện nhưng vẫn còn chậm. 
 - Công tác thông tin trong hệ thống ngân hàng chưa được vi tính hoá toàn 
bộ, hạn chế trong các công tác xử lý nghiệp vụ, hạn chế việc tìm hiểu thị 
trường, tìm hiểu thông tin về khách hàng và đối thủ cạnh tranh. 
 - Cơ sở vật chất còn hạn chế, công nghệ còn lạc hậu, nhiều quỹ tiết kiệm 
của Chi nhánh còn hoạt động thủ công. 
 - Trong thời gian qua, Chi nhánh đã coi trọng và bồi dưỡng nghiệp vụ cho 
cán bộ công nhân viên. Tuy nhiên, đội nghũ cán bộ còn non trẻ, thiếu kinh 
nghiệm, trình độ chuyên môn còn bị hạn chế. 
 - Tốc độ tăng trưởng của vốn huy động tại chỗ hiện nay thấp hơn nhu cầu sử 
dụng vốn. Do vậy đơn vị phải nhận một lượng vốn điều hoà nội bộ hàng năm. 
Điều này càng làm cho sự phụ thuộc của chi nhánh với Ngân hàng Công 
thương trung ương Việt Nam ngày càng tăng. 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
2.2. Nguyên nhân. 
 - Những khó khăn của tỉnh Nghệ An ảnh hưởng đến hoạt động huy động 
vốn của Chi nhánh. 
 Nghệ An vẫn là một tỉnh nghèo, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng 
với tiềm năng và lợi thế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm và chưa vững 
chắc. Công tác tổ chức, sắp xếp lại, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước còn 
triển khai chậm. Do vậy hoạt động ngân hàng của Chi nhánh cũng bị ảnh 
hưởng không tốt của nhân tố này. 
 - Chi nhánh Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ phải chịu sự điều hoà trực 
tiếp của Ngân hàng Công thương Việt nam nên các phương thức huy động 
vốn mà ngân hàng Công thương Bến Thuỷ áp dụng phải tuân theo quy định 
của NHCTVN do vậy có những điều không phù hợp với tình hình thực tế của 
ngân hàng. Các hình thức huy động vốn của Chi nhánh còn bị hạn chế, do đó 
cần phải đa dạng hoá hơn nữa các hình thức huy động vốn nhằm tăng nguồn 
vốn huy động tại chỗ đáp ứng nhu cầu đầu tư cho vay. 
 - Thời gian nhận tiền gửi của các Ngân hàng Thương mại quốc doanh Việt 
nam hiện nay đều được quy định từ 7 giờ sáng cho đến 15 giờ 30 phút. Trong 
tình hình thức tế tỉnh Nghệ An, giờ làm việc là từ 7 giờ sáng cho đến 17 giờ. 
Như vậy, Chi nhánh bị hạn chế bởi nguồn tiền gửi có thể nhận được là số tiền 
bán hàng trong ngày của các đơn vị kinh tế, số tiền của cán bộ công nhân viên 
sau giờ làm việc mới gửi được,... 
 - Ngân hàng công thương Bến Thuỷ trước đây là chi nhánh trực thuộc Ngân 
hàng Công thương Nghệ An. Năm 1995 mới được nâng cấp trực thuộc Ngân 
hàng Công thương Việt nam. Do đó trong tiềm thức của người dân, các tổ 
chức kinh tế đều cho rằng Chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Công thương 
Nghệ An. Nên thay vì giao dịch với Chi nhánh thì họ lại giao dịch với Ngân 
hàng công thương Nghệ An. Do vậy đã ảnh hưởng rất nhiều tới số vốn huy 
động của Chi nhánh. 
 - Chi nhánh ngân hàng Công thương Bến Thuỷ nằm trên địa bàn Bến Thuỷ-
Trường Thi không mấy thuận lợi, dân cư chủ yếu là công nhân, thợ thủ công, 
buôn bán nhỏ với thu nhập thấp, tích luỹ ít ỏi. Điều này ảnh hưởng trực tiếp 
tới lượng tiền gửi tiết kiệm mà Chi nhánh có thể huy động. Đặc biệt đối với 
Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ trong tổng nguồn huy động tại chỗ thì tỷ 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
trọng tiền gửi tiết kiệm khá cao (>70%). Do vậy nó càng ảnh hưởng nhiều 
hơn tới công tác huy động vốn. 
 - Ngân hàng Công thương Bến Thuỷ hoạt động trong môi trường cạnh tranh 
khốc liệt. Tỉnh Nghệ An là một tỉnh nghèo, nền công nghiệp chưa phát triển, 
thu nhập dân cư thấp nhưng trên địa bàn tỉnh tồn tại trên 20 ngân hàng và trên 
địa bàn thành phố Vinh có 6 ngân hàng trong đó có 4 ngân hàng thương mại 
quốc doanh, 1 ngân hàng Trung Ương và 1 ngân hàng cổ phần. Do đó đã ảnh 
hưởng trực tiếp tới công tác huy động vốn của Chi nhánh. 
 - Tâm lý ưa dùng tiền mặt của dân chúng cũng ảnh hưởng rất nhiều tới công 
tác huy động vốn. 
 - Các quy định chung liên quan đến hoạt động ngân hàng cũng ảnh hưởng 
tới công tác huy động vốn của Chi nhánh. Như về tỷ lệ trữ bắt buộc được quy 
định đối với các Ngân hàng Thương mại Quốc doanh là 5% trên tổng số dư 
tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn dưới 12 tháng; tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với 
số dư tiền gửi ngoại tệ USD là 8%. Theo quy định (của Thống đốc Ngân hàng 
Nhà nước) này thì khả năng mở rộng tín dụng sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều vì 
hiện nay Chi nhánh huy động chủ yếu là vốn ngắn hạn. 
CHƯƠNG III 
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN 
CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BẾN THUỶ 
 Trong bất kỳ một nền kinh tế thị trường nào thì việc huy động vốn trong 
nước thông qua hệ thống ngân hàng luôn có tầm quan trọng. Vì ngân hàng 
đóng vai trò thu gom vốn trong nền kinh tế từ những người có vốn sang người 
Chuyên đề tốt nghiệp [	\ Trường đại học kinh tế quốc 
dân 
Lê Anh Tú - Lớp Tài chính công 41A 
cần vốn. Điều này lại càng có ý nghĩa hơn đối với các nước đang phát triển 
như Việt Nam. Muốn thu gom được nhiều vốn trong nền kinh tế thì ngân 
hàng phải tìm hiểu được những yêu cầu của công chúng khi đem tiền đến gửi 
ở ngân hàng là gì và đáp ứng tốt các nhu cầu đó. Sau đây là các giải pháp cho 
Chi nhánh NHCT Bến Th
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn tốt nghiệp- Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Bến Thuỷ - Thành Phố Vinh - Tỉnh Nghệ An.pdf