Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn FDI trong các doanh nghiệp của ngành dệt may

Tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn FDI trong các doanh nghiệp của ngành dệt may: 1 Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn FDI trong các doanh nghiệp của ngành dệt may 2 Lời mở đầu Cùng với quá trình mở cửa hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam khi bước vào thời kỳ CNH-HĐH đất nước thì không thông hình thành một ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Nhưng thiếu vốn đang là vấn đề nan giải của các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, không thể có con đường nào khác là phát triển liên doanh liên kết với nước ngoài nhằm thu hút thêm vốn để hiện đại hoá công nghệ sản xuất những mặt hàng chất lượng đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có ảnh hưởng lớn tới việc xuất khẩu hàng hoá Việt Nam. Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp theo hướng xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu đó là một hướng đi đúng đắn trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp của ta. Hoà chung trong xu thế đó ngành công nghiệp dệt may góp một phần không nhỏ của mình trong ...

pdf98 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1401 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn FDI trong các doanh nghiệp của ngành dệt may, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn FDI trong các doanh nghiệp của ngành dệt may 2 Lời mở đầu Cùng với quá trình mở cửa hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam khi bước vào thời kỳ CNH-HĐH đất nước thì không thông hình thành một ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Nhưng thiếu vốn đang là vấn đề nan giải của các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, không thể có con đường nào khác là phát triển liên doanh liên kết với nước ngoài nhằm thu hút thêm vốn để hiện đại hoá công nghệ sản xuất những mặt hàng chất lượng đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có ảnh hưởng lớn tới việc xuất khẩu hàng hoá Việt Nam. Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp theo hướng xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu đó là một hướng đi đúng đắn trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp của ta. Hoà chung trong xu thế đó ngành công nghiệp dệt may góp một phần không nhỏ của mình trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của nước ta ra bên ngoài. Trong đó, sản phẩm hàng dệt may thuộc khu vực đầu tư nước ngoài Việt Nam có tỷ lệ xuất khẩu cao. Đây chính là một ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động đặc biệt là lao động nữ, suất đầu tư cho mỗi lao động thấp, triển khai hoạt động đầu tư nhanh, rất thích ứng với những nước đang phát triển như nước ta. Đó cũng chính là lý do mà tại sao ngành dệt may là một trong những ngành thu hút được nhiều vốn dự án đầu tư nhất. Đầu tư nước ngoài trong ngành này đã tạo ra việc làm cho hàng vạn lao động, góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Tuy vậy nhược điểm lớn nhất vẫn là chưa thoát khỏi phương thức gia công còn đơn giản, phía Việt Nam chưa chủ động tạo ra khuôn mẫu mã, kiểu dáng, tiếp cận thị trường bên ngoài và khác hàng mà phần lớn là do đối tác nước ngoài đảm trách. Bên cạnh đó, ở Việt Nam dường như có sự khập khiễng giữa 2 ngành này trong vấn đề giải quyết nguyên liệu cho ngành dệt và ngành dệt là sản phẩm đầu vào cho ngành may. Do đó, mà chưa có tiếng nói chung giữa 2 ngành để cùng phát triển. 3 Mặt khác, do tính phân công lao động tự nhiên dựa trên giá nhân công trên thế giới và xu hướng chuyển dịch ngành dệt may thế giới vào các nước đang phát triển như nước ta. Cho nên, ngành dệt may của ta đang là ngành có lợi thế so sánh với các nước có trình độ phát triển cao hơn. Với những lợi thế và khó khăn chung của nền kinh tế nói chung và của ngành dệt may nói riêng. Chúng ta cần phải đưa ra những giải pháp cụ thể, những hướng đi đúng đắn nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may tạo ra một bước đi đột phá trong công nghiệp dệt may xứng đáng là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của phần vào tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá chung của nước ta. Đưa nước ta trở thành một nước CNH – HĐH xứng tầm khu vực và thế giới. Chính từ sự trăn trở đó, cũng như ý nghĩa vai trò to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực dệt may, em đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn FDI trong các doanh nghiệp của ngành dệt may” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.Tuy nhiên, đây là vấn đề khó cần được phân tích tổng hợp ở mức độ cao nhưng do khả năng và thông tin có hạn, nên bài viết sẽ không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là dựa trên cơ sở tiềm năng và triển vọng của hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua, phân tích và đánh giá thực trạng của ngành dệt may. Từ đó đưa ra những giải pháp để tăng cường khả năng thu hút thêm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm thay đổi hướng sản xuất, đầu tư trang thiết bị máy móc cho toàn ngành nhằm đẩy mạnh khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài . Nội dung đề tài bao gồm các phần sau: Chương I : Một số lýluận chung về đầu tư , đầu tư trực tiếp nước ngoài . Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may . 4 Chương III : Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài . PHẦN I TỔNG QUAN VỀ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VỚI TĂNG TRỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ. 5 I. TỔNG QUAN VỀ VỐN ĐẦU TƯ: 1-Khái niệm về vốn đầu tư và các nguồn hình vốn đầu tư 1.1.Khái niệm: Trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hoá để tiến hành bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào đều cần phải có vốn. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh mới hình thành, số tiền này được dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị...để tạo ra các cơ sở vật chất kỹ thuật (các tài sản cố định) cho các cơ sở này tạo ra vốn lưu động thông qua hoạt động mua sắm nguyên vật liệu, trả lương cho người lao động... trong chu kỳ sản xuất kinh doanh đầu tiên. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động, thì số tiền này dùng để mua sắm thêm máy móc thiết bị xây dựng thêm nhà xưởng hoặc mua sắm thêm các tài sản cố định thay thế các tài sản cố định đã bị hư hỏng hoặc đã bị hao mòn. Số tiền cần thiết để tiến hành các hoạt động là rất lớn, không thể trích ra một lúc từ các khoản chi tiêu thường xuyên của các cơ sở, các xã hội vì điều này sẽ làm xáo động mọi hoạt động bình thường của sản xuất và sinh hoạt của xã hội. Do vậy số tiền sử dụng cho các hoạt động trên đây chỉ có thể là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh là tiền tiết kiệm của nhân dân và vốn huy động từ nước ngoài. Từ đây ta có thể rút ra định nghĩa ngắn gọn về vốn đầu tư. ’Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, là tiền tiết kiệm của nhân dân đa vào nhằm thay thế tài sản cố định bị loại thải để tăng tài sản cố định mới và tăng tài sản tồn kho’’ 1.2. Các nguồn hình thành vốn đầu tư Bất kỳ một xã hội nào muốn phát triển không ngừng đều phải tiến hành đầu tư để đảm bảo quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở 6 rộng. Cụ thể là phải tạo ra các nguồn đầu vào cho sản xuất như sức lao động, tư liệu lao động. Nói cách khác chúng ta cần phải có tiền để trang trải các chi phí ứng trước này. 1.1.1 Nguồn vốn đầu tư trong nước: * Vốn ngân sách Nhà nước: Được hình thành từ quỹ tiết kiệm ngân sách. Tiết kiệm ngân sách của Nhà nước là khoản chênh lệch giữa tổng thu ngân sách và chi của Chính phủ. * Vốn tự có của doanh nghiệp: được hình thành do doanh nghiệp tự bỏ ra nếu là doanh nghiệp Nhà nước; là doanh nghiệp liên doanh thì các bên cùng bỏ vốn; là doanh nghiệp tư nhân do tư nhân tự bỏ vốn ra. Lợi nhuận của doanh nghiệp có một phần để bổ xung cho vốn kinh doanh của doanh nghiệp. * Vốn của tư nhân và vốn các hộ gia đình: là các khoản tiết kiệm từ các nguồn thu có được từ dân cư và từ các hộ gia đình. * Vốn của các tổ chức tín dụng: là nguồn vốn được các tổ chức tín dụng huy động từ vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các hộ gia đình và dân cư.. thông qua các kênh tín dụng. 1.1.2 Nguồn vốn đầu tư nước ngoài. * Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA: Hỗ trợ phát triển chính thức ODA là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và các khoản viện trợ có hoàn lại (cho vay dài hạn với lãi suất thấp và thời gian gia hạn dài) của chính phủ, các nước của tổ chức liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ, tổ chức tài chính quốc tế như: ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển châu á (ADB), quỹ tiền tệ quốc tế(IMF) dành cho chính phủ nhân dân nước viện trợ mà chủ yếu dành cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi của các nước này. 7 - Đặc điểm của nguồn vốn ODA: + Là nguồn vốn tài trợ ưu đãi của nước ngoài, các nhà tài trợ không trực tiếp điều hành dự án nhưng có thể tham gia gián tiếp. + Nguồn vốn ODA gồm viện trợ không hoàn lại và các khoản viện trợ ưu đãi. + Các nước nhận vốn ODA phải có một số điều kiện nhất định theo quy định của từng nhà tài trợ mới đợc nhận tài trợ. + Chủ yếu dành sự hỗ trợ cho các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng như giao thông vận tải, y tế, giáo dục... + Các nhà tài trợ là các tổ chức viện trợ đa phương hoặc các tổ chức viện trợ song phương. * Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (non - Government organization - NGO). Viện trợ NGO đều là các viện trợ không hoàn lại, trước đây loại viện trợ này chủ yếu là vật chất, đáp ứng những nhu cầu nhân đạo như: cung cấp thuốc men cho các trung tâm y tế, lương thức cho các nạn nhân thiên tai,...Hiện nay hình thức này lại được thực hiện nhiều hơn bằng các chơng trình phát triển dài hạn, có sự hỗ trơ của các chuyên gia thường trú về các mặt như huấn luyện những người làm công tác bảo vệ sức khoẻ, thiết lập các dự án tín dụng, cung cấp nước sạch ở nông thôn, cung cấp dinh dưỡng và sức khoẻ ban đầu.. * Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct investment - FDI) Đây là nguồn vốn của tư nhân nước ngoài đối với các nước đang phát triển, là nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm sau: Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư nước ngoài quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, 8 không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. - Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực chủ đầu tư chỉ đợc thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hơn 49%. Trong khi đó, Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối với hình thức 100% vốn nước ngoài và quyết định bên nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án. - Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi quản lý... là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. - Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai và mở rộng dự án cũng nh vốn đầu tư từ lợi nhuận thu được. 2.Vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế. Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó, những thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Để đo lường hiệu quả của vốn đầu tư thấy được vai trò của vốn đầu tư với tăng trởng kinh tế, ta lần lợt xem xét các lý thuyết: 2.1. Mô hình tái sản xuất mở rộng trong lý thuyết kinh điển: Trong tác phẩm “Tư bản”, C. Mác đã dành phần quan trọng để nghiên cứu về cân đối kinh tế về mối quan hệ về giữa hai khu vực của nền sản xuất xã hội để đảm bảo quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng và các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ. 9 Với những giả định về một nền kinh tế không có trao đổi ngoại thương C.Mác đã chững minh điều kiện để đảm bảo quá trình tái sản xuất mở rộng không ngừng. Nền kinh tế chia thành hai khu vực: Khu vực I: Sản xuất tư liệu sản xuất. Khu vực II: Sản xuất tư liệu tiêu dùng. Và cơ cấu tổng giá trị của các khu vực bao gồm (C+V+M) trong đó: C là phần tiêu hao vật chất; V+M là giá trị mới sáng tạo ra. Để quá trình tái sản xuất mở rộng được thực hiện phải đảm bảo giá trị mới sáng tạo ra (V+M)I của khu vực I phải lớn hơn tiêu hao vật chất CII của khu vực II: (V+M) > CII hay là (C+V+M)I > (CI+CII) Như vậy, tư liệu sản xuất làm ra không những chỉ bồi hoàn cho những tiêu hao (CI+CII) trong cả hai khu vực của nền kinh tế mà tư liệu sản xuất còn phải sản xuất dư thừa để tham gia quá trình đầu tư làm tăng thêm quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo. Quá trình tái sản xuất xã hội bao quát nhiều quá trình rộng lớn từ lực l- ợng sản xuất cho đến quan hệ sản xuất. Đầu tư là nhằm tạo ra vốn sản xuất, một yếu tố quan trọng cùng với tái tạo lưc lượng lao động sẽ đảm bảo quá trình tái sản xuất không ngừng. Trong điều kiện mới của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ngày nay, đầu tư với số vốn như trước cũng có thể tạo ra những vốn sản xuất có năng lực lớn hơn. 2.2 Mô hình tăng trởng của Harrod - Domas 10 Dựa vào tư tưởng của Keynes, vào những năm 40, với sự nghiên cứu của một cách độc lập hai nhà kinh tế học là Roy Harrod ở Anh và Evsay Domas ở Mỹ đã đa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa tăng trởng kinh tế và thất nghiệp ở các nước phát triển, mô hình này cũng được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu về vốn. Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ đơn vị nào, dù là một công ty, một ngành, hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó. Nếu gọi đầu ra là Y, tỷ lệ tăng trởng của đầu ra là g thì: g= tY Y Nếu gọi s là tỷ lệ tích luỹ trong GDP và mức tích luỹ là S: s = t t Y S Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư cho nên về lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm St = It s = t t Y I Đầu tư là cơ sở tạo ra vốn sản xuất do It = Kt + 1 Nếu gọi k là tỷ số gia tăng giữa vốn - đầu ra ta sẽ có: k = Y 1K t   hay k = Y I t  vì tY Y = tt t Y.I Y.Y  = Y I: Y I t t t  tức là: g = k s 11 Trong đó: S: số tiền tiết kiệm hàng năm. I: Vốn đầu tư hàng năm. K: Vốn sản xuất hàng năm. Ở đây k gọi là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn và đầu ra). Hệ số này nói lên rằng vốn đợc tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trởng. Hệ số này cũng phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư. Hệ số ICOR giữa các nước khác nhau là khác nhau. Các nước càng phát triển thì hệ số ICOR càng lớn. Kinh nghiệm các nước cho thấy chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành các lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thờng ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế (chủ yếu tận dụng do năng lực sản xuất sẵn có) thấp hơn trong giai đoạn tạo tiền đề cho đẩy mạnh công nghiệp hoá (phải xây dựng cơ sở hạ tầng quy mô lớn trong những năm tới). Tóm lại, mặc dù mô hình Harrod - Domas đơn giản nhng cho ta thấy rõ đợc vai trò của vốn đầu tư với tăng trởng kinh tế. Các nhà lập kế hoạch có thể căn cứ vào mô hình này để xác định tỷ lệ tiết kiệm và vốn đầu tư cần thiết để đạt được mức độ tăng trởng kinh tế đề ra. 2.3 Tác động của vốn đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Theo kinh tế học vĩ mô, khi có một sự thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu do vậy sẽ tác động sản lượng công ăn việc làm. DL DL1 DL0 Y0 Y1 AS AD1 AD0 12 Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng tăng lên. Sự thay đổi này làm cho đường tổng cầu dịch chuyển từ AD0 - AD1 do vậy làm cho mức sản lượng tăng lên từ Y0 - Y1 và mức giá cũng tăng lên từ DL0 - DL1. Ngày nay, vốn đầu tư và vốn sản xuất được coi là yếu tố quan trọng của quá trĩnh, vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và nền kinh tế, mà nó còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu , hiện đại hoá quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động khi mở rộng ra các công trình xây dựng và mở rộng quy mô sản xuất. II. Vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nớc ngoài với tăng trưởng, phát triển kinh tế 1.Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài : Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư và người sử dụng vốn là cùng một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp , các cá nhân ngời nớc ngoài (chủ đầu tư )trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng và vận hành kết quả đầu t nhằm thu hồi vốn đã bỏ ra và có lãi. 2.Vai trò của vốn FDI với tăng trưởng kinh tế. 13 Đầu tư là nhân tố quan trọng của mọi quá trình phát triển kinh tế xã hội cho mọi quốc gia. Đối với tất cả các nước thì đầu tư nước ngoài là bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong tổng vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội của đất nước đặc biệt là đối với các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam, các nước Trung- Đông Âu... Nó là điều kiện quan trọng để khai thác và phát triển nguồn lực trong nước. Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một trong những chính sách kinh tế quan trọng của mỗi nước. Ví vậy, họ đều cố gắng đa ra những chính sách cởi mở nhất để đầu tư nước ngoài. Thực chất của đầu tư nước ngoài là hình thức hợp tác kinh tế giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài nhằm các mục tiêu khác nhau cả trên góc độ nhà đầu tư và nước chủ nhà.Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển từ sau chiến tranh thế giới thứ hai khi thị trường tư bản phát triển, cạnh tranh quốc tế trở nên gay gắt, các khu vực kinh tế thế giới xuất hiện và bớc vào sự phân công quốc tế mới về kinh tế. Đối với các nhà đầu tư, đầu tư nước ngoài là một hình thức đầu tư để thu lợi nhuận cho công ty. Nó quyết định sự sống còn và phát triển của công ty ở một thị trường nước ngoài nhờ khai thác lợi thế so sánh của nước ngoài như nguyên liệu, lao động, thị trường.. . Đối với các nước công nghiệp mới và các nền kinh tế chuyển đổi thì đầu tư nước ngoài không những cung cấp vốn cho phát triển kinh tế trong nứơc mà còn tạo thêm việc làm cho ngời lao động góp phần giảm thất nghiệp, tạo ra những ngành công nghiệp mới, đặc biệt là những ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao và các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu. Vai trò của đầu tư trực tiếp nớc ngoài đối với các nước nhận đầu tư đư- ợc thể hiện ở một số mặt cụ thể sau: Một là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ sung một nguồn vốn quan trọng, bù đắp sự thiếu hụt vốn đầu tư cho phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển tạo ra thế và lực mới cho nền kinh tế. 14 Hai là: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm và tăng thu nhập cho ngời lao động. Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài thường đòi hỏi nguồn lao động có chất lợng cao do đó sự gia tăng của các dự án đầu tư nước ngoài đã đặt các nước sở tại trước yêu cầu khách quan là phải nâng cao chất lợng , trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ ngoại ngữ cho người lao động. Ba là: Đầu tư nước ngoài tác động tích cực đến cân đối của nền kinh tế, hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài góp phần tăng tỉ trọng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, tạo khả năng chủ động trong cân đối ngân sách, giảm bội chi. Bốn là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá để tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế, thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế của mình cho phù hợp. Mặt khác, sự gia tăng của hoạt động đầu tư nước ngoài đã làm xuất hiện nhiều ngành mới, lĩnh vực mới, góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật, công nghệ của nhiều ngành kinh tế, thúc đẩy sự tăng năng suất lao động của các ngành này và làm tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế . Nhiều ngành được kích thích phát triển còn nhiều ngành bị mai một và đi đến xoá sổ. Năm là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển, tận dụng, tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển đã sử dụng để thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trởng kinh tế, thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói. Sáu là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của Việt Nam. Khu vực đầu tư nước ngoài đã góp phần mở rộng thị trường trong nước thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, đặc biệt là các hoạt động dịch vụ như thu ngoại tệ, dịch vụ tư vấn pháp lý, công nghệ 15 cao tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với các thị trường quốc tế. Sự xuất hiện của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cũng tạo nên những mô hình quản lý và phương thức kinh doanh hiện đại, buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải đổi mới tư duy, thay đổi cách thức quản lý, cải tạo nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh những vai trò quan trọng trên, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế: Thứ nhất: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra sự cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước.Với ưu thế về vốn, công nghệ, các dự án đầu tư nước ngoài đã đặt các doanh nghiệp trong nước vào vòng xoáy cạnh tranh khốc liệt về thị trừơng, lao động và các yếu tố nguồn lực khác. Thứ hai: Chi phí để tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài lớn. Các nước nhận đầu tư đã phải áp dụng nhiều ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài như: miễn giảm thuế, giảm tiền thuê đất, nhà xưởng... Thứ ba: Đầu tư nước ngoài đã tạo ra một cơ cấu bất hợp lý, hiệu quả kinh tế xã hội chưa cao. Mục đích chính của các nhà đầu tư nước ngoài là tìm kiếm lợi nhuận ngày càng nhiều do đó họ chủ yếu đầu tư vào các ngành công nghiệp, dịch vụ nơi có mức tỷ suất lợi nhuận cao. Thứ tư: Chuyển giao công nghệ lạc hậu. Dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, quá trình nghiên cứu-ứng dụng ngày càng được rút ngắn, máy móc thiết bị nhanh chóng trở nên lạc hậu. Để loại bỏ chúng, nhiều nhà đầu tư đã cho chuyển giao sang các nước nhận đầu tư như một phần vốn góp. Việc làm đó đã làm cho trình độ công nghệ của các nước nhận đầu tư ngày càng lạc hậu. Thứ năm: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại hiện tượng “chảy máu chất xám”.Các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi về thu nhập, việc làm do đó đã lôi kéo một bộ phận không nhỏ cán 16 bộ khoa học kỹ thuật, nhà nghiên cứu, công nhân lành nghề của nước ta về làm việc cho họ. Thứ sáu: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có thể gây ra những bất ổn về chính trị, mang theo nhiều tệ nạn xã hội mới xâm nhập vào nước ta. 3-Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. a, Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Là hình thức liên kết giữa các chủ đầu tư trong nước và ngoài nước để cùng nhau tiến hành một hay nhiều hợp đồng kinh doanh ở Việt Nam theo từng văn bản hợp đồng cụ thể trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên không thành lập pháp nhân mới. Hình thức này có đặc điểm: - Không cho ra đời một công ty nào mới. - Trong nội dung chính phải phản ánh là quyền lợi trách nhiệm của các bên đối với nhau (không nhất thiết phả dề cập đến việc góp vốn của các bên). - Thời hạn cần thiết của hợp đồng do các bên thoả thuận phù hợp với tính chất mục tiêu kinh doanh. - Trong quá trình hợp tác kinh doanh các bên giữ nguyên tư cách pháp nhân của mình. b, Doanh nghiệp liên doanh. Theo khoản 7 điều 2 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: “Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký kết giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với 17 doanh nghiệp Việt Nam, hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh”. Hình thức này có đặc điểm: - Thành lập doanh nghiệp mới (pháp nhân mới) hoạt động trên nguyên tắc hạch toán độc lập, dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn. - Phần góp vốn của nước ngoài không hạn chế mức tối đa nhưng tối thiểu không được dới 30% vốn pháp định và trong quá trình hoạt động không đợc giảm vốn pháp định. - Cơ quan lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp liên doanh là hội đồng quản trị, mà thành viên của nó do mỗi bên chỉ định tương ứng với tỷ lệ vốn góp của các bên, nhưng ít nhất phải là 2 người. Tổng giám đốc hoặc phó tổng giám đốc thứ nhất của liên doanh phải là người bên Việt Nam và thư- ờng trú tại Việt Nam. - Các bên tham gia liên doanh phân chia lợi nhuận và chia sẻ rủi do theo tỷ lệ vốn góp của mỗi bên trong vốn pháp định. c, Doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài. Là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư là người nước ngoài bỏ toàn bộ vốn thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh trên đất nước Việt Nam, họ trực tiếp nắm quyền điều hành và quản lý các cơ sở này, chịu trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. d, Các hình thức khác. * Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao BOT là văn bản ký kết giữa chủ đầu tư nước ngoài với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xây dựng các cơ sở hạ tầng tại Việt Nam. Bên nước ngoài bỏ vốn đầu tư xây dựng và kinh doanh trên công trình đó, đủ để thu hồ vốn và có lãi hợp lý, sau đó phải có nghĩa vụ chuyển giao công trình để cho Nhà nước Việt Nam. * Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BOT) là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước 18 ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Nhà nước Việt Nam cho nhà đầu tư quyền kinh doanh trên công trình đó trong một khoảng thời gian nhất định để thu hồi vốn và lợi nhuận hợp lý. * Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT). Là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. III- XU HỚNG VẬN ĐỘNG CỦA FDI TRONG THẬP KỶ QUA VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU HÚT FDI TRONG GIAI ĐOẠN HẬU KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ KHU VỰC 1- Xu hướng vận động của FDI trong thập kỷ qua. a, Dòng vốn FDI trên thế giới ngày càng gia tăng và chịu sự chi phối chủ yếu của các nước công nghiệp phát triển. Trong những năm đầu thập kỷ 90, quy mô vốn FDI trên thế giới bình quân hàng năm khoảng 190 tỷ USD, nhng đến năm 1995 đã đạt khoảng 315 tỷ USD, các nước công nghiệp phát triển đóng vai trò chủ yếu trong dòng vận động của vốn FDI. Từ đầu những năm 90 trở về trước, nguồn vốn FDI có từ quê hương những nước công nghiệp phát triển chiếm trên 93% và hiện nay cung chiếm 85% tổng vốn FDI của thế giới. Đồng thời các bớc tư bản phát triển cũng thu hút 3/4 vốn FDI của thế giới. Tính riêng năm 1995, các nước công nghiệp phát triển đầu tư ra nước ngoài tới 270 tỷ USD và cũng thu hút FDI vào nước mình 203 tỷ USD. Các dòng vốn đầu t tập trung vào một số ít nước. Chỉ tính riêng 10 quốc gia thu hút vốn FDI lớn nhất đã chiếm tới 2/3 vốn FDI của năm 1995. Dòng đầu tư lẫn giữa các nước phát triển là xu hớng vận động chủ đạo của đầu tư quốc tế và là nhân tố chính thức đẩy quá trình toàn cầu hoá. 19 Sở dĩ có hiện tượng tăng cuờng lẫn nhau giữa các nước công nghiệp phát triển là do một số nguyên nhân chính sau: + Cách mạng kho học công nghệ đã làm xuất hiện nhiều ngành công nghiệp mới, nhiều sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao (như viễn thông, tin học, điện tử..) đây là những ngành hứa hẹn lợi nhuận siêu ngạch lớn đem lại khả năng chi phối kinh tế thế giới trong tương lai nếu làm chủ nó, vì vậy có sức hấp dẫn mạnh tới đầu tư. + Môi trường đầu tư của các nước phát triển đã hoàn thiện, chế độ chính trị khá ổn định, trình độ công nghệ cao phù hợp với yêu cầu đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia. + Xu thế hình thành các khối hợp tác kinh tế khu vực đang gia tăng, do đó các nước tăng cường đầu tư vào các khối hợp tác kinh tế này (EU, AFTA..) để được hưởng tự do về thương mại và đầu tư. b, Đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh công ty nước ngoài. Sự phát triển gần đây của dòng vốn FDI đã phản ánh sự gia tăng của các công ty có vốn FDI, làm cho hoạt động FDI có tính toàn cầu, để phản ứng lại áp lực cạnh tranh. Việc hợp nhất, mua lại các công ty để thành lập chi nhánh sản xuất ở nước ngoài giúp các tập đoàn xuyên quốc gia bảo vệ, củng cố và phát huy thế mạnh của mình trong quá trình cạnh tranh quốc tế. Đặc biệt hình thức đầu tư này giúp sử dụng hiệu quả mạng lưới cung ứng và hệ thống phân phối sẵn có để phục vụ tốt hơn cho khách hàng toàn cầu, mở rộng thị phần, tăng năng lực cạnh tranh và thu lợi nhuận. Giá trị của các giao dịch hợp nhất, mua bán cổ phần các công ty nước ngoài trong năm 1995 đạt 229 tỷ USD trong đó chủ yếu là các giao dịch mua bán. Những ngành công nghiệp diễn ra những hoạt động hợp nhất mua bán hợp vốn với nước ngoài nhộn nhịp nhất là viễn thông, dược phẩm, cung cấp năng lượng và dịch vụ tài chính. Chỉ tính năm trong năm 1995 các nước Tây Âu đã dành 66 tỷ USD để mua cổ phần hợp nhất hoặc hợp vốn công ty và bán 20 ra cũng đạt 50 tỷ USD. Hoạt động này chủ yếu diễn ra trong liên minh Châu Âu. c, Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới. Sự phát triển kinh tế luôn đặt ra vấn đề là phải dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá và phù hợp với xu thế hội nhập với nên kinh tế thế giới. Để giải quyết vấn đề này phả bắt đầu từ hoạt động đầu tư, việc thay đổi cơ cấu đầu tư làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ, ngày càng có nhiều ngành kinh tế ra đời và phát triển nhanh chóng, nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới xuất hiện thay thế cho nhiều ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh truyền thống trước đây. Trong giai đoạn hiên nay hai ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ là lĩnh vực thu hút vốn đầu tư thị trường nước ngoài mạnh nhất, còn các ngành truyền thống như khai khoáng và nông nghiệp giảm đi, sở dĩ FDI tập trung nhiều vào hai ngành đó là do: - Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất đời sống nhân dân ngày càng nâng cao, vì vậy nhu cầu về các loại dịch vụ phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống tăng lên mạnh mẽ nhất là về mặt dịch vụ kỹ thuật, tài chính, du lịch...đòi hỏi ngành dịch vụ phải phát triển tương ứng. - Ngành công nghiệp chế biến là ngành có nhiều phân ngành, mà những phân ngành đó thuộc lĩnh vực mũi nhọn của cuộc cách mạng khoa học công nghệ nh điện tử, thông tin liên lạc vật liệu mới... - Do đặc tính kỹ thuật của hai ngành này là dễ dàng thực hiện sự hợp tác. d, Các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) đóng vai trò rất quan trọng trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đang đẩy mạn quá trình đầu tư ra nư- ớc ngoài. Hiện nay các TNCs đang chi phối , kiểm soát phần lớn sản xuất, kinh doanh trên thế giới. Từ thập kỷ 80 đến nay các công ty xuyên quốc gia đã kiểm soát toi 90% vốn FDI. 21 e, Dòng vốn FDI vào các nớc đang phát triển gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là các nước đang phát triển ở Châu Á Nguồn vốn FDI vào các nước đang phát triển gia tăng cả về quy mô lẫn tốc độ dẫn đến tỷ trọng thu hút vốn FDI của các nước này tăng nhanh. Trong năm 1990 các nước đang phát triển tiếp nhận được 33,7 tỷ USD thì đến năm 1985 đã tiếp nhận được 99,7 tỷ USD chiếm 32% tổng vốn FDI của thế giới. Tuy nhiên nguồn vốn FDI phân bố không đồng đều giữa các nước đang phát triển mà chỉ tập trung vào một số nước và khu vực nhất định. So với các nước đang phát triển thì các nước thì các nước và nền kinh tế khu vực Đông Nam Á thu hút vốn FDI mạnh nhất, tạo nên sự bùng nổ về thu hút vốn FDI những năm qua, đặc biệt là từ cuối thập kỷ 80 trở lại đây, trong đó đặc biệt là Trung Quốc, các nớc NICs châu á, các nớc ASEAN. 2-Các yếu tố ảnh hưởng tới thu hút vốn FDI : Trên thế giới đã từng diễn ra rất nhiều cuộc khủng hoảng với quy mô và mức độ thiệt hại lớn nhỏ khác nhau. Nó ảnh hởng đến nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia hay khu vực đó. Bằng những biện pháp khắc phục khác nhau của Chính phủ từng nước đã hạn chế được phần nào ảnh hưởng của các khủng hoảng đó. Nhưng sau các khủng hoảng không phải các lĩnh vực của quốc gia khu vực đó có thể phục hồi và phát triển ngay lại đợc mà nó còn phụ thuộc vào các chính sách sau này của từng nước. Trong số các lĩnh vực đó thì lĩnh vực huy động vốn FDI chịu rất nhiều ảnh hưởng: 2.1 Sự mất ổn định về kinh tế chính trị. Chính trị là yếu tố hàng đầu mà các nhà đầu tư cần phải xem xét có nên đầu tư một nước nào đó hay không kinh nghiệm cho thấy chính trị ổn định sẽ khuyến khích FDI, rủi ro của các nhà đầu tư nước ngoài có liên quan đến sự bất ổn định chính trị. 22 Sự ổn định kinh tế là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Đối với vốn nước ngoài điều này càng quan trọng hơn bao giờ hết. Để thu hút đợc dòng vốn đầu tư nước ngoài, nền kinh tế nội địa phải là nơi an toàn cho sự vận động của tiền vốn, sau đó là nơi có năng lực sinh lợi cao hơn các nớc khác. Nhng một nền kinh tế nào đó đã rơi vào tình trạng khủng hoảng thì dù sau đó có khắc phục được đi nữa thì nền kinh tế đó vẫn không thể phát triển ngay lại được, tỷ lệ tăng trởng kinh tế thấp, các hoạt động kinh tế phát triển chậm chạp. Bên cạnh sự phát triển kinh tế thấp, tình hình chính trị cũng mất sự ổn định. Sự mất ổn định về kinh tế, chính trị này sẽ còn kéo dài không thể khắc phục ngay được và sẽ hạn chế rất nhiều việc huy động vốn FDI. 2.2 Các chính sách kinh tế vĩ mô. Các chính sách này có ảnh hưởng rất lớn tới FDI nhất là các chính sách kinh tế trực tiếp giải quyết vốn để đầu tư như các quy định về chuyển giao lợi nhuận, các chính sách thơng mại... Chính sách thơng mại và đầu tư có ảnh hưởng lớn đến khả năng nhập khẩu các thiết bị máy móc, nguyên vật liệu sản xuất và do đó thực sự trở thành mối quan tâm của các ngành, đặc biệt là ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu, mà ngành này thường muốn có chi phí sản xuất thấp để tăng tính cạnh tranh. Bên cạnh đó, các chính sách kinh tế cũng phải giả quyết được vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Trong giai đoạn hậu khủng hoảng Chính phủ các nước thường đa ra các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm khắc phục ảnh hưởng khủng hoảng, và các chính sách đó có thể khuyến khích hoặc hạn chế FDI, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ xem xét tìm hiểu các chính sách mới của nước đó có lợi cho mình hay không rồi mới quyết định có đầu tư vào nước đó hay không. 2.3 Luật đầu tư nước ngoài: Nhân tố này sẽ kìm hãm hoặc thúc đẩy sự gia tăng của hoạt động đầu tư nước ngoài thông qua:cơ chế, chính sách, thủ tục, ưu đãi được quy định trong luật. Luật đầu tư nước ngoài được coi là thông thoáng và hấp dẫn khi 23 thủ tục cấp giấy phép đầu tư nhanh chóng và thuận tiện, các biện pháp khuyến khích và bảo đảm của Chính phủ đối với các dự án đầu tư phải rõ ràng, cụ thể không có sự phân biệt về giá đất, về thuế... giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Khi luật đầu tư hấp dẫn, các nhà đầu t nớc ngoài nhận thấy đầu tư vào Việt Nam hấp dẫn đầu tư hơn so với các nước khác trong khu vực thì họ sẽ đầu tư vào Việt Nam thay vì đầu tư vào các nước sang các nước khác 2.4.Đặc điểm của thị trường nhân lực Giá thuê nhân công rẻ là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là đối với những dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sử dụng nhiều lao động. Giá nhân công rẻ đồng nghĩa với việc thu được nhiều lợi nhuận hơn. Mà lợi nhuận lại là thước đo khẳng định các nhà đầu tư có tiến hành đầu tư hay không.Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn kĩ thuật,trình độ học vấn...cũng có ý nghĩa nhất định. Do đó, muốn thu hút đ- ược nhiều hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài trong những năm tới để phục vụ cho quá trình phát triển của nền kinh tế, bên cạnh việc tiếp tục phát huy lợi thế so sánh về nhân lực chúng ta cần có những biện pháp nâng cao tay nghề của người lao động . 2.5.Công tác quản lý nhà nước đối với FDI còn yếu kém và sơ hở, vừa buông lỏng, vừa gây phiền hà, can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI. Thủ tục đầu tư còn phức tạp nhiều tiêu cực gây khó khăn cho quá trình triển khai dự án, tốn kém thời gian , tiền của của nhà đầu tư ,ảnh hởng xấu đến môi trờng đầu tư . 2.6.Một số yếu tố khác: Sức mua của thị trờng bản địa, tâm lý của các nhà đầu tư , khả năng thu hồi vốn, mức độ ổn định của chính sách tiền tệ và mức độ rủi ro của tiền tệ ở nước nhận đầu tư, bảo hộ quyền sở hữu.. IV-/ KINH NGHIỆM HUY ĐỘNG VỐN FDI CỦA MỘT SỐ NƯỚC. 1-Kinh nghiệm thu hút FDI của Malaysia: 24 Malaysia là một trong những nước có tốc độ thu hút vốn FDI cao trong các nước ASEAN. Năm 1968, Chính phủ Malaysia đã công bố luật đầu tư nước ngoài với những quy định: + Không quốc hữu hoá các doanh nghiệp có vốn FDI. + Cho phép các công ty hoạt động trong khu vực của đồng bảng Anh được phép hoàn lại vốn tự do chuyển ra nước ngoài. + Ưu đãi thuế về hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) nếu đầu t vào các ngành, khu vực khuyến khích. Malaysia thực hiện: - Miễn thuế 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất kinh doanh và được kéo dài 5 năm nữa nếu nhà đầu tư đáp ứng được những tiêu chuẩn của cơ quan đầu tư như giá trị kim ngạch xuất khẩu, tình hình thu hút và sử dụng lao động. - Thực hiện miễn thuế hoặc giảm thuế lợi tức trong 5 năm kể từ khi có lãi đối với doanh nghiệp xuất khẩu trên 50% sản phẩm đầu ra và trong sản phẩm sản xuất kinh doanh sử dụng trên 50% nguyên liệu của họ. - Trong giá thành sản phẩm, khoản chi phí đào tạo được phép nhân hệ số để khuyến khích các doanh nghiệp có vón FDI nâng cao tay nghề, đào tạo cán bộ quản lý và công nhân Malaysia. 2-Kinh nghiệm thu hút FDI của Trung Quốc: Đối với Trung Quốc, FDI đợc coi là chìa khoá vàng trong sự tăng trởng kinh tế trong nhiều năm qua. Thật vậy, từ năm 1979 đến năm 1996, Trung Quốc đã phê chuẩn 283.793 dự án dùng vốn nớc ngoài với tổng số vốn ký kết đạt 469,33 tỷ USD. Trong đó có 177,22 tỷ USD đã đa vào sử dụng, tỷ lệ vốn đợc sử dụng là 37,76%. Vào thời điểm cuối năm 1996 ở Trung Quốc đã có khoảng 140.000 xí nghiệp dùng vốn nớc ngoài đang hoạt động. Khoảng 200 trong tổng số 500 tập đoàn kinh doanh lớn nhất trên thế giới đã đầu tư vào Trung Quốc. Từ năm 1993 đến nay Trung Quốc chỉ đứng thứ 2 sau Hoa 25 Kỳ xét về khối lượng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Rõ ràng một khối lợng vốn lớn nh vậy đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế và CNH - HĐH ở Trung Quốc. Để có được những kết quả khả quan trên, Trung Quốc đã sử dụng một số biện pháp sau: + Mở rộng địa bàn thu hút vốn đầu tư và tạo môi trờng kinh doanh thuận lợi. + Thực hiện các chính sách ưu đãi đặc biệt là thuế. Trong thời kỳ đầu mở cửa, các cơ sở mới với thời gian liên doanh hơn 10 năm được hưởng các chế độ miễn thuế thu nhập trong 1 năm đầu làm ra lãi và được giảm 50% thuế thu nhập trong 2 năm tiếp theo. Về sau thời gian giảm thuế tăng lên tương ứng là 2 - 3 năm. Các cơ sở ở các đặc khu kinh tế hay những xí nghiệp sản xuất kinh doanh phục vụ xuất khẩu, nhập khẩu vật tư được miễn thuế hải quan từ 5 - 25%. + Đa dạng hoá các hình thức đầu tư và chủ đầu tư. + Thúc đẩy cải cách hành chính, tài chính và cải cách hệ thống các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường bảo vệ quyền lợi của các nhà kinh doanh nước ngoài thông qua việc tăng cường các quy định pháp luật. * Một số bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu xem xét đánh giá các chính sách thu hút và sử dụng FDI ở một số nước trên, ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nh sau: Thứ nhất: ổn định chính trị, kinh tế là cơ sở để tăng cường thu hút FDI. Khi nhà đầu tư quyết định bỏ vốn đầu tư dài hạn thì ổn định kinh tế chính trị là vấn đề quan tâm hàng đầu, đặc biệt là các nước mới chuyển đổi như Việt Nam và Trung Quốc. Ổn định chính trị, kinh tế tăng tưrởng cao, dung lượng thị trường lớn là yếu tố cực kỳ hấp dẫn các nhà đầu tư. 26 Thứ hai: Cần cải thiện môi tưrờng đầu tư, tăng cờng sức hấp dẫn của thị trờng Việt Nam. Cải cách hành chính, thi hành chế độ một cửa có hiệu lực, điều chỉnh có hệ thống giá cả có liên quan đến giảm chi phí cho chủ đầu tư. Thứ ba: Phải xây dựng cơ sở hệ thống cơ sở hạ tầng vững chắc, hoàn chỉnh và hiện đại. Thứ tư : Phải nâng cao trình độ chất lượng nguồn lao động. Bởi lẽ khi FDI chuyển sang các ngành có hàm lượng vốn kỹ thuật cao nó sẽ đòi hỏi trình độ của lực lượng cán bộ và tay nghề công nhân. Thứ năm: Bên cạnh việc mở cửa đẩy mạnh phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại cần chú trọng nâng cao năng lực nội sinh của dân tộc, điều chỉnh cơ cấu kinh tế phù hợp với việc hội nhập, thắt chặt chi tiêu và tăng tích luỹ nội bộ cho nền kinh tế. Thứ sáu: Cần quan tam đúng mức đến chiến lược quy hoạch tổng thể FDI. Đây là giải pháp có tầm quan trọng đặc biệt, qiyết định hiệu quả kinh tế xã hội chung cho cả đất nước, thiếu vắng chiến lược và quy hoạch tổng thể sẽ gây tác hại lâu dài khó khắc phục được hậu quả. Thứ bảy: Cần tăng cường vai trò điều tiết quản lý của Nhà nước đối với hoạt động thu hút vốn đầu tư FDI. Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc quy hoạch chiến lược tổng thể phát triển đất nước, xác định mục tiêu cho từng thời kỳ, trên cơ sở đó bố trí cơ cấu đầu tư hợp lý, thu hút vốn FDI vào những ngành những vùng theo mục tiêu định hướng, tránh tình trạng lạm phát cao, tăng cường cải tổ hệ thống ngân hàng, phát triển thị trường tài chính. 27 Chương II Thực trạng thu hút vốn FDI trong ngành dệt -may ở Việt Nam giai đoạn 1988-2001 I.Tổng quan về ngành dệt-may ở Việt Nam: 1.Tình hình chung: Ngành Dệt-may có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nhằm đảm bảo hàng hoá cho nhu cầu tiêu dùng trong nước, mở rộng thương mại quốc tế, thu hút nhiều lao động, nâng cao thu nhập cho xã hội, tạo ra u thế cạnh tranh cho các sản phẩm xuát khẩu và cũng là ngành có thời gian thu hồi vốn tương đối nhanh. Với đường lối mở cửa và hội nhập vào cộng đồng thế giới nói chung và các nớc trong khu vực nói riêng, cùng với quá trình chuyển dịch công nghệ đang diễn ra sôi động, ngành công nghiệp Dệt- may Việt Nam phải trực tiếp tham gia hợp tác về các lĩnh vực lao động mậu dịch tự do, tiến trình cắt giảm thuế quan CEPT của khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Ngành 28 công nghiệp dệt- may Việt Nam cũng đã trở thành hội viên chính thức của hiệp hội dệt-may Đông Nam A(AFTEX), tham gia hiệp hội bông Liverpool và tiến trình bình hoá quan hệ thơng mại Việt-Mỹ đang diễn ra mau chóng theo tích cực. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, nhu cầu về ăn mặc ngày càng gia tăng.Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 7 chỉ rõ “ đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng , đáp ứng nhu cầu đa dạng, chất lượng ngày càng cao, phục vụ tốt nhu cầu trong nước và xuất khẩu”. Nhờ vậy, thời gian qua ngành dệt-may đã có bước phát triển và giữ một vai trò quan trọng trong sản xuất hàng tiêu dùng. Ngành dệt- may đã phát triển không ngừng với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm cao, thu hút được nhiều lao động xã hội (khoảng 50 vạn người năm 2000, chiếm 22,7% lao động công nghiệp toàn quốc). Giải quyết được việc làm, tạo sự ổn định chính trị, kinh tế-xã hội do đó ngành dệt – may đã được Đảng và Nhà nước quan tâm. Trong nhiều năm , ngành đã giã vai trò thiết yếu về nhu cầu tiêu dùng của các ngành công nghiệp khác, của nhân dân và phục vụ cho quốc phòng. Từ khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, cùng với sự phát của nền kinh tế, nhu cầu về ăn mặc ngày càng gia tăng. Việc huy động vốn đầu tư của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia sản xuất đã được nhà nước ta khuyến khích động viên, đặc biệt là trong lĩnh vực dệt may. Bởi vậy, hàng dệt may đã phát triển không ngừng với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm cao. Các thị trường lớn của Việt Nam là EU, Mỹ, Nhật, các nước SNG và Đông Âu. Hiện nay, Việt Nam đang tiếp cận với các thị trường khác như Trung cận Đông và Mỹ la tinh. Với chi phí sản xuất thấp, công nhân không những có trình độ tay nghề cao mà còn chịu khó, sáng tạo, đặc biệt là quan tâm đến thị hiếu, mẫu mốt thời trang của thị trường thế giới; Việt Nam sẽ ngày càng phát triển sản phẩm dệt may của mình trong quá trình tự do hoá mậu dịch và chuyển dịch hàng dệt may thế giới. 29 Hiện tại, ngành dệt còn gần 50% thiết bị đã qua sử dụng trên 20 năm nên năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao, giá thành sản xuất còn cao. Ngành may đã được đổi mới trang bị lại khá nhiều để có điều kiện xuất khẩu sản phẩm sang thị trường quốc tế. Theo thống kê của Bộ Thương mại và hải quan, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc năm 1998 là 9.324 tỷ USD trong đó khu vực có vốn FDI đạt 1.983 tỷ USD chiếm 21.3 % tổng giá trị xuất khẩu và tăng 11% so với năm 1997. Hàng dệt may toàn quốc xuất khẩu năm 1998 đạt được 1.351 tỷ USD bằng năm 1997 chiếm vị trí thứ nhất và là một trong bốn mặt hàng có kim ngạch xuất khâủ trên 1 tỷ USD (dệt may chiếm 14% tổng giá trị xuất khẩu , dầu thô 13%, gạo 11%, giầy dép 10%). Năm 1999, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc đạt 11523 triệu USD( tăng 23% so với năm 1998) trong đó khu vực FDI đạt 2550 triệu USD( tăng 29.5% so với 1998). Hàng dệt may toàn quốc xuất khẩu năm 1999 đạt 1762 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may liên tục tăng qua các năm với mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 40.7%/năm (so sánh với con số trung bình 28% của nền kinh tế Việt Nam). Đây là tỷ lệ tương đối cao thể hiện thị trường xuất khẩu hàng dệt may rất lớn và không ngừng được mở rộng. Hàng dệt may thuộc khu vực đầu tư nước ngoài đã góp phần không nhỏ trong đẩy mạnh xuất khẩu đưa đất nước tiến nhanh trong công cuộc CNH-HĐH. Thể hiện trong bảng dưới đây(thống kê từ Tổng cục hải quan). Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Đơn vị: triệu USD Năm Kimngạch xuất khẩu hàng dệt may Tổng kim ngạch xuất khẩu nền KTQD Tỷ trọng (%) 1992 211 2.581 8,1 1993 350 1.985 11,7 1994 550 4.054 13,56 1995 750 5.200 14,42 1996 1100 7.255 15,16 30 1997 1350 8.759 15,4 1998 1351 9.324 14,48 1999 1750 11.520 15,19 2000 1892 14.480 13,06 2001 2018 15.100 13,36 Nguồn: Tổng cục hải quan 2.Vị trí, đặc điểm của ngành dệt may 2.1. Vị trí: Ngành dệt may có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là ngành trực tiếp cung cấp hàng tiêu dùng phục vụ đời sống nhân dân đồng thời là ngành xuất khẩu lớn của nước ta . Các nước công nghiệp phát triển bước đầu đi lên từ công nghiệp dệt may, các nước NICS ngày nay cũng xuất phát công nghiệp hoá từ công dệt may Ngày nay, giá nhân công ở các nước công nghiệp tăng cao, nên họ tập trung vào các ngành công nghiệp cao, lợi nhuận lớn có xu hướng chuyển dịch các ngành công nghiệp tốn nhiều lao động trong đó có ngành công nghiệp dệt may sang các nước đang phát triển. Với nước ta, đang thực hiện chủ trương công nghiệp hoá và hiện đại hoá, đón nhận xu hướng chuyển dịch của thế giới để phát triển công nghiệp dệt may là rất cần thiết và kịp thời, vừa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, vừa giải quyết việc làm cho xã hội, vừa đóng góp mặt hàng xuất khẩu quan trọng cho nền kinh tế . Ngành dệt may trong những năm qua được sự hỗ trợ, quan tâm của Nhà nước, với sự nỗ lực và năng động nên đã có nhiều cố gắng đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ, đầu tư bổ sung cơ sở vật chất, không những duy trì sản xuất mà còn phát triển tốt, đáp ứng được yêu cầu tiêu dùng trong nước, trở thành ngành xuất khẩu có kim ngạch lớn đứng thứ 2 trong các ngành xuất khẩu của cả nước. 31 2.2.Đặc điểm của ngành công nghiệp dệt may : 2.2.1.Đặc điểm về tiêu thụ Trong lịch sử cuả nền mậu dịch thế giới, sản phẩm của ngành dệt may là một trong những hàng hoá đầu tiên tham gia vào thị trường. Với những đặc trưng riêng, chúng có ảnh hưởng rất nhiều đến sản xuất buôn bán hàng hoá quốc tế. Sản phẩm dệt may có nhu cầu rất phong phú, đa dạng tuỳ theo đối tượng tiêu dùng. Người tiêu dùng khác nhau về văn hoá, phong tục tập quán, tôn giáo, địa lý..sẽ có nhu cầu khác nhau về trang phục. Sản phẩm dệt may luôn đa dạng về kiểu cách, mẫu mã, màu sắc, chất liệu. Cho nên, mỗi thời kỳ sẽ có những trang phục khác nhau cho hợp với hoàn cảnh thời đó. Vì vậy, mà sản phẩm dệt may luôn phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu. Nhãn mác sản phẩm có ý nghĩa rất lớn đối với tiêu thụ sản phẩm. Người tiêu dùng thường căn cứ vào nhãn mác để phán xét chất lượng sản phẩm. Tên tuổi các hãng nổi tiếng thế giới đều gắn với những sản phẩm của riêng mình. Tập quán thói quen tiêu dùng là những yếu tố quan trọng quyết định nguyên liệu, chủng loại sản phẩm và yếu tố tâm lý. Yếu tố thời vụ liên quan chặt chẽ đến thời cơ bán hàng. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nhà xuất khẩu trong vấn đề giao hàng đúng thời hạn. 2.2.2.Đặc điểm về thị trường: Thị trường xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam kể từ khi nền kinh tế mở cửa với các nước trong khu vực và trên thế giới có thể chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1:Từ 1988-1993:Trong giai đoạn này, Liên Xô(cũ) và các nước XHCN Đông Âu tan vỡ, kéo theo thị trường dệt may dễ tính và truyền thống của Việt Namlâm vào tình trạng khó khăn. Trong khi đó, các thị trường khác chưa được mở. Mặt khác, các doanh nghiệp của chúng ta cũng chưa quen làm ăn với các công ty đến từ các nước tư bản và các nước phát 32 triển. Nền kinh tế của chúng ta chuyển dần từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, trong khi đó hệ thống cán bộ quản trị kinh doanh của chúng ta vẫn làm việc với thói quen bao cấp nặng nề,chưa biết tính toán”sản xuất đầu tư” trong cơ chế thị trường như thế nào. Giai đoạn 2: Từ 1993-1997, đây là giai đoạn thị trường xuất khẩu dệt may của Việt Nam gặp nhiều thuận lợi. Hiệp định thương mại hàng dệt may với EU được mở, thị trường phi hạn ngạch như Nhật Bản, Canada cũng phát triển mạnh. Bắt đầu tiếp cận với thị trường Mỹ. Giai đoạn 3: Từ 1997-đến nay, giai đoạn mà cơn khủng hoảng tài chính khu vực đặc biệt là khủng hoảng tài chính từ Hàn Quốc và Nhật Bản đã ảnh hưởng tới sản xuất và kinh doanh hàng dệt may của Việt Nam. Giá gia công giảm đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và khu vực cũng giảm nhanh. Mức độ cạnh tranh cũng gay gắt hơn. Nhiều công ty dệt may trong khu vực lâm vào tình trạng phá sản, khó khăn về tài chính kéo dài. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, mảng thị trường EU có thuận lợi hơn, tiếp cận thị trường Mỹ nhiều hơn,chuẩn bị điều kiện để nối lại thị trường Nga và các nước SNG. 2.2.3.Đặc điểm về công nghệ - thiết bị : Khi nền kinh tế nước ta vừa mới mở cửa, ngành dệt may Việt Nam chỉ có trong tay một số công nghiệp, thiết bị cổ điển và lạc hậu từ Trung Quốc và các nước XHCN. Ở phía Nam, chúng ta có tiếp nhận một số công nghệ thiết bị từ Nhật, Tây Đức bị gián đoạn nên số công nghệ thiết bị đó đã trở nên quá lỗi thời và quá xuống cấp tại thời điểm 1990. Sau khi mở cửa nền kinh tế , các doanh nghiệp của ta có dịp nhìn sang các bước láng giềng như Đài Loan, Thái Lan..và thấy rằng họ có công nghiệp cao hơn, thiết bị hiện đại hơn. Chính vì vậy, trong giai đoạn 1988-1993, chúng ta đã nhập một số lượng không ít thiết bị từ các nước trong khu vực trong đó nhiều nhất là từ Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản. Cũng do việc mở cửa nền kinh tế, mà các doanh nghiệp của chúng ta càng có dịp với tầm nhìn tới các nước Châu Âu, Châu Mỹ và cũng nhận ra rằng công nghệ và thiết bị từ châu lục này còn hoàn hảo hơn các nước trong khu vực. Tại sao các nước trong khu vực vẫn tiếp tục mua công nghệ từ 33 Châu Âu, Châu Mỹ và họ lại bán công nghệ của mình sang cho Việt Nam? Chính vì vậy, mà giai đoạn 1993-1997 các doanh nghiệp của chúng ta chuyển dần sang đầu tư một số thiết bị và công nghệ từ các nước phát triển như Nhật Bản, Đức, Italia.. 2.2.4.Đặc điểm về cơ chế hoạt động của hệ thống quản lý: Theo tiến trình chuyển đổi nền kinh tế từ bao cấp sang thị trường , từ bất hợp lý sang hợp lý, từ lỏng lẻo sang chính xác, từ hoạt động theo kế hoạch sang hoạt động theo lợi nhậnvà thị trường. Sự chuyển đổi này khẳng định rằng cơ chế hoạt động ngày càng bình đẳng trên cùng một sân chơi, đòi hỏi người chơi phải “tài và giỏi ” mới có thể đứng vững trên thương trường cùng với doanh nghiệp khác. Khi nền kinh tế chuyển sang hoạt động sang cơ chế thị trường thì buộc các doanh nghiệp phải thay đổi “mô hình quản lý”. Ngành dệt may Việt Nam đã chuyển gần như toàn diện sang hoạt động theo cơ chế thị trường song mô hình quản lý vẫn chưa được nghiên cứu và chuyển đổi một cách xác đáng. Một số đơn vị đã có một số những đổi mới mang lại tác dụng tốt, song đó mới chỉ là những mô hình tự phát, chưa phải là kết quả của một sự điều hành vĩ mô, chưa phải kết quả nghiên cứu áp dụng một số mô hình ứng dụng đặc thù từ các nước phát triển. Các doanh nghiệp của chúng ta nói chung đều áp dụng một mô hình quản lý gần giống nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp phía Bắc. Đó vẫn là mô hình từ thời bao cấp, cồng kềnh, nặng nề, hoạt động kém hiệu quả. Trên thế giới có mô hình quản lý rất đặc thù: đó là mô hình của người Mỹ, mô hình của Châu Âu và của Nhật. Các nước mới phát triển cũng nghiên cứu áp dụng riêng cho mình. Song những mô hình này cũng chỉ là hệ quả của ba mô hình kể trên. 2.2.5.Đặc điểm về đội ngũ cán bộ, đào tạo và sử dụng con người: Mọi thành công hay thất bại đều do con người quyết định. Chuyển đổi nền kinh tế sang hoạt động sang cơ chế thị trường là một quy luật khách quan. Song đội ngũ cán bộ của chúng ta chưa được đào tạo lại một cách kịp thời và tương xứng. Tư duy, tầm nhìn, phương pháp làm việc vẫn chưa biến đổi kịp thời yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Những hạn chế này, kết hợp 34 với cơ chế hoạt động chưa phù hợp càng làm giảm sút cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường . Cán bộ hiện tại đã vậy, công tác đào tạo bổ sung cán bộ trẻ cũng bị cơ chế thị trường chi phối theo chiều hướng xấu: số sinh viên đăng ký theo học ngành dệt may càng ngày càng ít, nội dung học và chương trình đào tạo không được đổi mới, cập nhật nhằm thu hút lớp trẻ vào học ngành dệt may. Theo trường Đại học Bách khoa Hà Nội cthì đến năm 2000 sẽ không có một sinh viên nào theo học ngành dệt may ra trường .Mọi sự quan tâm không đúng mức đến việc đào tạo và sử dụng con người đều để lại những hậu quả nghiêm trọng, kéo dài làm cho nền kinh tế của nước ta luôn luôn tụt hậu so với các nước mới phát triển . 3.Năng lực sản xuất: 3.1.Năng lực sản xuất của ngành dệt may: Theo số liệu thống kê của Bộ KH&ĐT , tổng năng lực sản xuất của ngành dệt may Việt Nam được đánh giá như biểu sau: Biểu 1 : Năng lực sản xuất của ngành dệt may năm 2000 Stt Sản phẩm Đơn vị Toàn ngành Khu vực FDI Tỷlệ FDI/ toàn ngành Trong nước 1 Xơ PES 1000 tấn 167 167 100 0 2 Kéo sợi 1000tấn 282 210 74,46 72 3 Vải các loại Triệu mét 800 420 52,5 380 4 Dệt kim 1000 tấn 32 12 37,5 20 5 Khăn bông 1000 tấn 27,2 2,7 9,93 18,8 6 Hàng may mặc Triệu mét 543 200 36,83 343 Nguồn: Vụ QLDA-Bộ KH &ĐT Phần đầu tư nước ngoài tính theo giấy phép đã cấp, thực tế mới đạt được 35% vốn đầu tư. Năng lực sản xuất trong nước thực tế chỉ có thể cho huy động được 70% công suất dệt vải và kéo sợi, vì máy móc thiết bị cũ chiếm 60%. Riêng ngành may đã đổi mới thiết bị nên khả năng huy động đạt được công suất thiết kế. Phần lớn số thiết bị ngành dệt đều rất cũ và thiếu đồng bộ giữa các khâu. Cụ thể như sau: 35 - Kéo sợi: tính đến hết năm 1999, toàn ngành có khoảng 1.050.000 cọc sợi và 6.520 Rôto kéo sợi không cọc. Tuy nhiên, lượng cọc đầu tư mới chỉ chiếm khoảng 11,3%, thiết bị that thế bằng đồ second-hand chiếm 6,9% số cọc cải tạo nâng cấp, thay mới cục bộ chiếm 13,3%, số còn lại là thiết bị cũ. Trong những năm gần đây, một số dây chuyền sử dụng băng tải tự động, ứng dụng rộng rãi những tiến bộ vi mạch điện tử vào hệ thống điều khiển tự động, khống chế chất lượng mới . Nhưng sản lượng sợi chất lượng cao còn ít. - Dệt thoi: Trước đây, cả nước có khoảng 40.000 máy dệt các loại (quốc doanh, trung ương có khoảng 10.500 máy, quốc doanh địa phương có 3.000 máy còn lại ngoài quốc doanh) nhưng phần lớn là máy đã qua sử dụng. Vừa qua , ngành dệt đã đầu tư khoảng 1.500 máy dệt không thoi , thoi kẹp hiện đại và cho đến nay ngành đã dệt được một số mặt hàng mới chất lượng tốt nhưng số lượng còn ít. - Dệt kim: Trước năm 1986, thiết bị dệt kim của nước ta còn lạc hậu và phần lớn trong số đó đều nhập của Trung Quốc, Tiệp Khắc(cũ)..Từ năm 1986 tới nay, thiết bị dệt kim phần lớn đều nhập từ Nhật Bản, Hàn Quốc .. tất cả đều thuộc thế hệ mới, trang thiết bị linh kiện điện tử nên năng suất cao, chất lượng tốt, tính năng sử dụng rộng rãi, đã sản xuất được nhiều mặt hàng mới như : Polo shirt, quần áo thể thao, màn tuyn. Trong những năm 90, ngành may đã sử dụng rộng rãi máy may công nghiệp của CHLB Đức, Nga. Sau đó, ngành may liên tục bổ sung, đổi mới thiết bị bằng một số máy may của Nhật Bản, Italia, Hàn Quốc.. Nhiều thiếu bị chuyên dùng như trang bị điển tử dừng kim, lại mũi, cắt chỉ, hệ là hơi, hệ giặt mài đá, các máy thêu tự động nhiều đầu, dây chuyền may đồng bộ có nhiều máy chuyên dùng may áo sơ mi, quần jean, đã bước đầu sử dụng hệ thống máy vi tính trong khâu thiết kế, khâu cắt vải, đã sản xuất nhiều sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng phần nào nhu cầu các thị trường có yêu cầu hàng hoá chất lượng cao. So với các xí nghiệp may trong nước, các xí nghiệp may có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dệt may, đặc biệt là các xí nghiệp may, có ưu thế 36 hơn về mọi mặt: công nghệ, trang thiết bị ản xuất, có khả năng sản xuất những sản phẩm cao cấp phù hợp với đòi hỏi của thị trường . 3.2.Năng lực sản xuất của ngành dệt may theo vùng: Vùng ở đây được chia theo vùng kinh tế trong đó Vùng 1: vùng núi Bắc Bộ, Vùng 2: vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Vùng 3: vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ, Vùng 4: Tây Nguyên, Vùng 5: vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ, Vùng 6: đồng bằng S. Hồng. Bảng 2: Năng lực sản xuất của ngành dệt may theo vùng –2000 Vùng Sợi cácloại (1000tấn) Vải các loại (Triệu m) Hàng may mặc quy đổi (Triệu sản phẩm) Vùng 1 5 40 9,2 Vùng 2 33 100 120 Vùng 3 17 31 60 Vùng 4 5,8 Vùng 5 213 523 308 Vùng 6 14 106 40 Tổng 282 800 543 Nguồn: Vụ QLDA –Bộ KH&ĐT Qua bảng trên ta thấy năng lực sản xuất ngành dệt may chủ yếu tập trung vào vùng kinh tế Nam Bộ. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do cơ sở hạ tầng ở các địa phương này tốt hơn so với các khu vực khác và lại gần cảng biển giao thông thuận tiện, lực lượng lao động dồi dào có tay nghề. 4.Vai trò của ngành dệt may trong nền kinh tế : 4.1.Đối với nền kinh tế trong nước: Trong mấy năm qua, ngành dệt may Việt Nam đã có bước phát triển khá mạnh mẽ, thu hút được nhiều lao động, đang là ngành kinh tế chiếm một vị 37 trí quan trọng trong toàn ngành công nghiệp Việt Nam nói riêng và trong toàn bộ nền kinh tế nước ta nói chung. Liên tục từ 1992 đến nay, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may liên tục tăng với tốc độ cao(40%) và luôn là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta. Đặc biệt là từ 1994 đến nay, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may đứng thứ 2 về giá trị chỉ sau dầu thô. Cho đến nay, ngành dệt may đã đạt đước nhiều thành công đáng kể, tăng trưởng xuất khẩu ở mức thấp đã tăng nhanh từ 140,4triệu USDnăm 1989 lên 1900 triệu USD vào năm 2000. Hiện nay, tạo ra khoảng 13% tổng kim ngạch xuất khẩu chiếm 30,4%kim ngạch xuất khẩu của công nghiệp chế tác. Công nghiệp dệt may thường được gắn với giai đoạn phát triển ban đầu của nền kinh tế và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình công nghiệp hóa ở nhiều nước. Ngành công nghiệp dệt may là ngành tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động, thu hút được nhiều lao động xã hội, khoảng gần 50 vạn công nhân, chiếm khoảng 22,7% lao động công nghiệp toàn quốc(trong đó 80% lao động là nữ) tăng thu lợi nhuận để tích luỹ làm tiền đề phát triển các ngành công nghiệp khác, góp phần nâng cao mức sống và ổn địnhtình hình kinh tế xã hội . Ngành dệt may phát triển sẽ kéo theo và thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp khác. Đó là các ngành công nghiệp cao cấp và sử dụng sản phẩm của ngành dệt may. Công nghiệp dệt may đang góp phần phát triển nông nghiệp và nông thôn thông qua phát triển sản xuất cây bông, đay, tơ tằm và là phương tiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang kinh tế công nghiệp . Vai trò của ngành dệt may đặc biệt to lớn đối với nền kinh tế của nhiều quốc gia trong điều kiện buôn bán quốc tế. Xuất khẩu hàng dệt may đem lại nguồn thu ngoại tệ quan trọng để nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu cần thiếtmà trong nước chưa có để phục vụ sản xuất, làm cơ sở cho nền kinh tế cất cánh. Điều này đã được thể hiện rõ trong lịch sử phát triển của nhiều nước kinh tế phát triển như Nhật Bản , Anh và các nước công nghiệp mới NICs, các nước ASEAN. 38 4.2.Vai trò của dệt may thế giới Ngành công nghiệp dệt may gắn liền với nhu cầu không thể thiếu được của mỗi con người. Vì vậy, từ rất lâu trên thế giới , ngành công nghiệp này đã được hình thành và đi lên cùng với sự phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản.Bên cạnh đó, công nghiệp dệt may là ngành thu hút nhiều lao động với kỹ năng không cao và cóđiều kiện mở rộng thương mại quốc tế. Vốn đầu tư ban đầu cho một cơ sở sản xuất không lớn như các ngành công nghiệp khác . Do đó, trong quả trình công nghiệp hoá tư bản từ rất sớm các nước Anh, Pháp .. cho đến các nước công nghiệp mới ngày nay thì ngành dệt may đều có vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá của họ. Vào năm 1994, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may thé giới đạt 240 tỷ USD. Theo dự đoán của GATT (nay là tổ chức thương mại thế giới WTO) trong 10 năm tới kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng 60% đối với hàng may mặc và 34%đối với hàng dệt trong đó Châu á chiếm khoảng 40%giá trị xuất khẩu mặt hàng này. Ngành dệt may là ngành đã và đang đóng vai trò khá quan trọng trong nền kinh tế của nhiều nước đặc biệt là các nước đang phát triển. Song hiện nay tiền công lao động của các công nhân dệt may sang các nước phát triển và các nước công nghiệp mới cao hơn trước rất nhiều. Hơn nữa, các nước nàyđang thiếu lao động nên đã và đang chuyển ngành công nghiệp dệt may sang các nước đang phát triển . Đây là xu thế chuyển dịch trong xu thế chuyển dịch chung của các ngành kinh tế từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển . II.Thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may ở Việt Nam 1.Tình hình về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may : Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam luôn được coi là một bộ phận hữu cơ quan trọng của nền kinh tế và được khuyến khích phát triển. Xu hướng vận động của đầu tư nước ngoài là một quả trình khách quan và chịu sự chi phối trực tiếp của các yếu tố chính trị- xã hội. Những yếu tố này có thể lúc này hay lúc khác là sự thúc đẩy hay kìm hãm phát triển của đầu tư nước ngoài . Tuy nhiên, cùng với việc mở rộng và đa dạng các mối quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế thì hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài trong những năm qua đã 39 luôn luôn trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.Và chúng ta đã có một số những thuận lợi của ngành dệt may là : +Hiệp định thương mại Việt Mỹ bắt đầu có hiệu lực vào cuối năm 2001sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ và Bắc Mỹ. +Một số nước và khu vực trên thế giới bất ổn định do tình hình chính trị , bạo lực, khủng bố xảy ra làm ảnh hưởng đến các hoạt động đầu tư cũng như thương mại. Việt Nam theo đánh giá của các nhà đầu tư thế giới được coi là địa điểm an toàn về đầu tư cũng như đã có một môi trường pháp lý về đầu tư tương đối hoàn chỉnh và lao động đáp ứng được yêu cầu. +Việc Trung Quốc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO sẽ tạo điều kiện cho hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc nhiều hơn.Trong khi đó, ở trong nước từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài năm 1987 và sau nhiều lần sửa đổi bổ sung năm 2000 thì ngành dệt may đã có sẵn một số điều kiện cơ bản để thu hút FDI. +Nguồn nhân lực : lực lượng lao động dồi dào với trình độ kỹ thuật , kỹ năng tay nghề khá, đáp ứng được yêu cầu trình độ kỹ thuật của ngành và đối tác nước ngoài.Đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh có kinh nghiệm tiếp cận, đàm phán hợp tác với nước ngoài. Giá nhân công tương đối rẻ so với một số nước trong khu vực. +Cơ sở vật chất : có sẵn, có thể đáp ứng được yêu cầu chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Việt Nam có tiềm năng phát triển ngành dệt may xuất khẩu sang thị trường Tâu Âu,Bắc Mỹ sau khi đã ký hiệp định thưong mại với các nước này. Hệ thống các khu công nghiệp và khu chế xuất được hình thành. +Tình hình đầu tư nước ngoài đã có dấu hiệu khởi sắc, thể hiện bằng số lượng vốn đầu tư trong năm 2000 và mấy tháng đầu năm 2001 đã tăng hơn 10% so với cùng kỳ năm trước. Bảng : Tổng hợp các dự án ngành dệt may do MPI quản lý (1988- 2001) Đơn vị :Triệu USD 40 Tính đến hết năm 2001, ngành dệt may có 290 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 2107,47 triệu USD (kể cả 25 dự án sản xuất phụ liệu may với vốn đăng ký là 83, 87 triệu USD) (trừ các dự án có công nghệ may như sản xuất túi, ô, dù, ba lô, găng tay... và 52 dự án giải thể trước hạn có vốn đầu tư là237,19 triệu USD). Trong số các dự án đang hoạt động có 204 dự án đem lại 985,64 triệu USD vào thực hiện (chiếm 42% tổng vốn cam kết) có tổng doanh thu đạt 2.295,73 triệu USD(xuất khẩu đạt 1.512,57triệu USD chiếm 65% tổng doanh thu) tạo việc làm cho trên 53 nghìn lao động trực tiếp không kể hàng ngàn lao động gián tiếp khác. Các dự án đi vào sản xuất đã thực hiện nghĩa vụ tài chính kể từ khi hoạt động tới nay trên 185,5 triệu USD. Chia thành các ngành nhỏ như sau (chỉ tính các dự án còn hiệu lực) Nội dung Số dự án Vốn đăng kí (Triệu USD) Vốn thực hiện (Triệu USD) Tỷ lệ vốn TH/ĐK Toàn ngành dệt may 290 2.107,47 871,48 41,3 - Sợi dệt nhuộm 98 1.661,24 589,56 35,5 -May mặc 167 362,36 213,73 58,9 - Phụ liệu, SP dệt 25 83,87 68,19 81,3 Nguồn :Vụ QLDA- Bộ KH&ĐT Qua con số trên có thể thấy khoảng 78,8%vốn đầu tư tập trung vào các dự án sản xuất sợi, dệt, nhuộm; ngành may có tỷ lệ đạt khoảng 17%, chỉ có 41 4,2% trong ngành phụ liệu. Tỷ lệ vốn thực hiện của các dự án nhỏ thuộc ngành may và phụ liệu cao so với ngành dệt. Quy mô vốn đăng ký bình quân trong các dự án dệt là 16,95 triệu USD/dự án cao gần gấp 8 lần so với các dự án may mặc là 2,16 triệu USD/dự án. *Về nhịp độ đầu tư: Bảng dưới đây cho ta thấy đầu tư trực tiếp vào ngành dệt may Việt Nam có xu hướng tăng nhanh từ 1988-1997 cả về số dự án cũng như vốn đăng ký . Năm 1997, tổng số vốn đăng ký đầu tư lên đến 328,502 triệu USD gấp gần 22 lần so với mức 14,94 triệu USD của năm 1988. Tuy nhiên, nếu xét trong cả thời kỳ này thì năm đỉnh cao về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài lại là năm 1993 với 24 dự án có tổng số vốn đăng ký lên đến 587,842triệu USD và quy mô bình quân của một dự án tăng vọt lên24,493 triệu USD/dự án so với mức 5,875 triệu USD/dự án của năm 1992. Bảng : Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may giai đoạn 1988-6/2000 Đơn vị:Triệu USD Năm Số dự án Tổng số vốn Bình quân 1 dự án 1988 2 14,94 7,47 1989 2 15,606 7,803 1990 2 10,964 5,482 1991 5 19,836 3,967 1992 13 76,377 5,875 1993 24 587,842 24,493 1994 36 183,944 5,11 1995 39 338,577 8,68 1996 38 263,154 6,925 1997 29 328,502 11,328 1998 11 53,147 4,832 1999 13 18,193 1,4 6/2000 19 35,571 1,872 42 Tổng 233 1.946,653 8,355 Nguồn: Bộ KH&ĐT Từ cuối năm 1997 trở đi, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may bắt đầu có biểu hiện suy giảm nhất là vào năm 1998 và năm 1999 thì xu hướng này ngày càng rõ rệt. Năm 1998, số dự án đầu tư chỉ bằng 37,9% so với năm 1997 trong khi đó tổng vốn đăng ký giảm mạnh xuống còn 53,147 triệu USD chỉ gần bằng 1/6 tổng vốn đăng ký năm 1997. Năm1999, tình trạng giảm sút còn tồi tệ hơn, tổng vốn đăng ký giảm ở mức thấp nhất chỉ còn 18,193triệu USD bằng 34,2% so với năm 1998. Đây là mức thấp nhất kể từ 1991. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là dotác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á nổ ra năm 1997 .Điều này cũng phù hợp với xu hướng suy giảm chung của dầu tư trực tiếp nước ngoàivào Việt Nam trong giai đoạn này. Tuy nhiên sang năm 2000, tình hình đầu tư vào ngành dệt may đã có dấu hiệu phục hồi. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2000 đã có 19 dự án được duyệt với tổng vốn đăng ký là 35,571 triệu USD tăng gần gấp đốio với năm 1999. 43 *Về đối tác đầu tư : Tính đến giữa năm 2000, đã có 17 nước và lãnh thổ tham gia đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam. Trong số đó, 3 nước gồm Hàn Quốc, Malaysia và Đài Loan có vốn đầu tư nhiều nhất với tổng số vốn lên tới hơn 1,6 tỷ USD chiếm 84,4% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may và chiếm 61,4% tổng số dự án đầu tư vào ngành dệt may.Trong đó, Hàn Quốc là nước đầu tư nhiều nhất với 706,833 triệu USD chiếm 36,31% tổng vốn đầu tư, Malaysia là 484,9 triệu USD chiếm 24,91% và Đài Loan là 452,164 triệu USD chiếm 23,23%. Bảng : 10 nước và vùng lãnh thổ đầu tư nhiều nhất vào ngành dệt may Việt Nam(1988- 6/2000) Đơn vị: triệu USD Stt Nước và khu vực Số dự án Tỷ trọng (%) Tổng số vốn Tỷ trọng (%) 1 Hàn Quốc 53 22,75 706,833 36,31 2 Malaysia 4 1,72 484,9 24,91 3 Đài Loan 86 36,91 452,164 23,23 4 Nhật Bản 30 12,88 89,835 4,61 5 Hồng Kông 24 10,3 81,811 4,2 6 CHLB Đức 5 2,15 36,058 1,85 7 Anh 3 1,29 17,488 0,9 8 Singapore 4 1,72 11,5 0,59 9 Trung Quốc 6 2,58 11,398 0,59 10 Mỹ 3 1,29 10,,75 0,55 11 Các nước # 15 6,44 43,916 2,26 Tổng 233 100 1.946,653 100 44 Về cơ cấu đầu tư, bảng trên cho ta thấy các nước Đông Nam Á gồm: Nhật Bản và các nước NIC là những đối tác đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực dệt may ở Việt Nam. Do ngành dệt may Việt Nam thuộc lĩnh vực công ngiệp chế tạo, sử dụng nhiều lao động, phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước trên nên họ đã tích tích cực đẩy mạnh đầu tư sang Việt Nam và trở thành những nhà đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam. 45 *Về địa bàn đầu tư : Tính đến nay cả nước có 19 tỉnh ,TP có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may. Phần lớn các dụ án đều tập trung vào các tỉnh phía Nam chiếm tới 88% tổng số dự án và 93,3%tổng số vốn đầu tư vào ngành dệt may. Trong khi đó, miền Trung là khu vực nhận đầu ít nhất có 3 tỉnh là Quảng Nam, Đà Nẵng, Hà Tĩnh là có vốn đầu tư nước ngoài với 5 dự án tổng giá trị là 5,092 triệu USD chiếm 0,2% tổng vốn đầu tư vào ngành dệt may. Miền Bắc có tất cả 23 dự án đầu tư nước ngoài với tổng giá trị 126,151 triệu USD chiếm 6,5% tổng vồn đầu tư. Trong số các địa phương có vốn đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may thì Đồng Nai là tỉnh thu hút được nhiềuvốn đầu tư nhất với 33 dự án tổng giá trị lên tới 1154,954 triệu USD chiếm 59,33% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may. Tiếp đến là TP. HCM và Bình Dương với tổng vốn đầu tư lần lượt là 355,685triệu USD (chiếm 18,72%) và 138,401 triệu USD (chiếm 7.1%) . 46 Bảng: 10 địa phương có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may(1988- 6/2000) Đơn vị :Triệu USD St t Tên địa phương Số dự án Tỷ trọng (%) Tổng vốn Tỷ trọng (%) 1 Đồng Nai 33 14,16 1.154,954 59,33 2 TP HCM 122 52,36 355,685 18,27 3 Bình Dương 30 12,88 138,401 7,11 4 Long An 7 3 113,696 5,84 5 Phú Thọ 2 0,86 76,645 3,94 6 Bà Rịa- Vũng Tàu 3 1,29 36,454 1,87 7 Hà Nội 10 4,29 25,688 1,32 8 Lâm Đồng 5 2,15 9,111 0,47 9 Hải Phòng 3 1,29 8,416 0,43 10 Ninh Bình 1 0,43 5 0,26 11 Các tỉnh khác 17 7,3 22,603 1,16 Tổng 233 100 1.946.653 100 Nguồn :Bộ KH& ĐT *Về loại hình đầu tư : Cho đến nay, trong số các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài thì hình thức 100% vốn nước ngoài là hình thức phổ biến nhất của đầu tư trựctiếp nước ngoài vào ngành dệt may Việt Nam. Tính đến hết tháng 6/2000, xí nghiệp có vốn 100% vốn nước ngoài chiếm 77,42% số dự án và 91,47% tổng vốn đầu tư . Xí nghiệp liên doanh chiếm20,74% số dự án và 8,36% tổng vốn đầu tư. Hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm1,84% số dự án và 0,17%vốn đầu tư. 47 Bảng : Các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may Việt Nam(1988- 6/2000) Stt Loại hình Sốdự án Tỷ trọng (%) Tổng vốn (triệu USD) Tỷ trọng (%) 1 XN 100% vốn NN 183 77,42 1.780,557 91,47 2 XN liên doanh 47 20,74 162,768 8,36 3 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 3 1,81 3,328 0,17 Tổng 233 100 1.946,653 100 Nguồn : Bộ KH &ĐT 2. Thực trạng đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may Ngành dệt may có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nó đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tối thiểu của mọi người , góp phssnf mở rộng sản xuất , buôn bán , trao đổi rhương mại quốc tế , thu hút nhiều lao động , nâng cao thu nhập cho xã hội . Công nghiệp dệt may là một phần tất yếu trong chính sách định hướng xuất khẩu của đất nước, là một trong những nỗ lực của Việt Nam để hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Điều đó tất yếu khẳng định công nghiệp dệt may là một trong các ngành xuất khẩu chủ yếu trong giai đoạn đầu phát triển đất nước. Sự thành công về xuất khẩu trong ngành này thường mở đường cho sự xuất hiện của một chiến lược phát triển định hướng xuất khẩu có cơ sở rộng hơn. Nhận thấy vai trò to lớn của ngành dệt may đối với nền kinh tế và trong việc ưu thế cho hàng xuất khẩu, từ khi chuyển sang cơchế kinh tế thị trường, Nhà nước ta đặc biệt khuyến khích và huy động vốn thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia sản xuất. Bởi vậy hàng dệt may đã phát triển không ngừng với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm cao. Theo thống kê của Bộ KH&ĐT tính đến hết ngày 31/12/2001 ngành dệt may đã thu hút được 290 dự án đầu tư nước ngoài (chỉ tính các dự án còn hiệu lực) với tổng vốn đầu tư là 2107,47 triệu 48 USD . Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dệt may cụ thể như sau: 2.1.Đầu tư trực tiếp trong ngành dệt 2.1.1. Tình hình chung: Tính đến hết ngày 31/12/2000 đã có 97 dự án được cấp giấy phép với tổng vốn đầu tư là 1.759,87triệu USD (trừ 16 dự án bị giải thể trước thời hạn chiếm 16,49% tổng số dự án), vốn đầu tư là 148,17triệu USD (chiếm 7,32% vốn đăng ký ). Hiện nay, còn81 dự án đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư là 1.611,7 triệu USD, trong đó : +57 dự án sản xuất sợi, dệt vải, dệt kim. Cụ thể, có 13 dự án vải lớn, đầu tư đồng bộ từ sản xuất tới khâu in, nhuộm hoàn tất như Pang Rim với số vốn đầu tư là 73,69 triệu USD tại Phú Thọ, 2 dự án dệt của tập đoàn Kolo-Hàn Quốc với tổng vốn là 149,236 triệu USD tại Đồng Nai, King Textile đầu tư 42,8 triệu USD và Chung Shin Vina đầu tư hơn 40 triệu USD tại Long An, Hualon Việt Nam đầu tư 447,3 triệu USD ; Tongkook Việt Nam và Hyoung Vina đầu tư 52,5 triệu USD tại khu công nghiệp Biên Hoà…Ngoài ta, còn có 35 dự án dệt khác có quy mô nhỏ, 4 dự án dệt tơ tằm, lụa; có 3 dự án dệt khăn bông và 1 dự án dệt bít tất. +10 dự án dệt len, thảm +8 dự án sản xuất sợi PP, vải nilon và thảm +2 dự án nhuộm +4 dự án gia công hồ sợi tại tp.HCM 2.1.2.Tình hình thực hiện: Trong số 81 dự án đang hoạt động kể trên có: +61 dự án (chiếm 75,3% số dự án) đã góp vốn là 605,77triệu USD(chiếm 34,425 số vốn đầu tư ) đã đi vào hoạt động gồm:  46 dự án (chiếm 56,8 tổng số dự án ) đã sản xuất và tổng doanh thu đạt 802, 18 triệu USD tạo việc làm cho 19.813 lao động . Theo báo cáo của tổng cục thuế thì các doanh nghiệp đã nộp thuế doanh thu là 8.021.562 USD ; thuế lợi tức là 2.586.423 USD , thuế xuất khẩu là 7.688.820 USD,các 49 loại thuế khác là 6.300.665 USD trong đó có 14 doanh nghiệp báo cáo lãi và 16 doanh nghiệp báo cáo lỗ.  15 dự án đang trong quá trình XDCB chiếm 18,65số dự án .  14 dự án mới được cấp giấy phép cuối năm 1997 –1998 trong năm 1999-2000(có 9 dự án)đang làm thủ tục hành chính và chuẩn bị đi vào XDCB Bảng : Số dự án đầu tư vào lĩnh vực dệt maytính đến năm cấp giấy phép (1/1/1998- 31/12/2001) 2.1.3.Hình thức đầu tư: Bảng : Số dự án đầu tư nước ngoài theo hình thức đầu tư vào lĩnh vực dệt (1/1/1988- 31/12/2001) Năm Số dự án FDI toàn ngành Số dự án 100% vốn nước ngoài Liên doanh Hợp đồn hợp tác kinh doanh Số dự án Vốn đầu tư Số dự án Vốn đầu tư Số dự án Vốn đầu tư 88-91 7 24,76 7 1 10,52 6 19,42 0 0 1992 8 30,39 8 4 5,18 4 25,21 0 0 1993 12 593,32 12 10 522,3 2 71,02 0 0 1994 10 102,71 10 7 93,39 2 9,32 1 0,7 1995 13 389,86 13 11 380,56 2 9,3 0 0 1996 15 184 15 10 148,4 5 35,6 0 0 1997 12 220,27 12 10 213 2 7,27 0 0 1998 7 43,21 7 4 41,71 2 1,5 1 0,46 1999 5 8,5 5 5 8,5 0 0 0 0 2000 9 35,18 9 8 35,16 1 0,02 0 0 50 2001 2 4 2 2 4 0 0 0 0 Nguồn :Vụ QLDA- Bộ KH&ĐT Như vậy, các dự án đầu tư nước ngoài vào ngành dệt chủ yếu dưới 2 hình thức là xí nghiệp liên doanhvà 100% vốn nước ngoài . Trong đó 100% vốn nước ngoài chiếm 74% số dự án và 91%lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt. Những dự án này đã đóng góp khoảng 575,98 triệu USD vào sản xuất kinh doanh tạo doanh thu là 573,5 triệu USD trong đó xuất khẩu là 400,46 triệu USD, tạo được 16.540 việc làm. Doanh nghiệp liên doanh có 26 dự án với tổng số vốn đầu tư là 178,66 triệu USD chiếm 26% số dự án và chiếm 9,2% tổng vốn đầu tư). Hợp đồng hợp tác kinh doanh có 2 dự án đầu tư là 1,16 triệu USD(chiếm 2% số dự án và 0,06% số vốn đầu tư để xây dựng dây chuyền sợi dệt và gia công hồ sợi tại Tp.HCM. Nguyên nhân các dự án chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực dệt dưới hình thức 100% vốn nước ngoài là do các chủ đầu tư muốn tự mình quyết định mọi vấn đề liên quan đến doanh nghiệp mình. Ngoài ra, trong các năm gần đây, lượng doanh nghiệp liên doanh chuyển sang 100% vốn nước ngoài ngày càng nhiều khiến cho lượng doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tăng lên hầu hết trong mọi lĩnh vực có đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp chuyển đổi sang hình thức100% vốn nước ngoài chủ yếu là mâu thuẫn giữa các bên tham gia liên doanh về cơ chế điều hành và quản lý kinh doanh. Bên cạnh đó, những ưu đãi đối với cả 2 hình thức trong những năm gần đây cũng công bằng hơn. Vốn đầu tư vào ngành dệt qua các năm từ 1988-1997 đều tăng. Riêng năm 1993 số vốn đầu tư tăng lên nhiều lần so với các năm trước đó và các năm sau. Trong khi đó, số dự án của các năm sau tăng lên rất nhiều nhưng tổng số vốn đầu tư lại nhỏ hơn 1993. Nguyên nhân, do năm 1993 có 1 dự án 100% vốn nước ngoài của Malaysia với tổng số vốn đầu tư là 477,1 triệu USD (chiếm 34% tổng số vốn đầu tư đang hoạt động). Đó là dự án Hualon Corporation Việt Nam kéo sợi, dệt và nhuộm vải. Đây là dự án kéo sợi dùng 51 nguyên liệu từ sản phẩm hoá dầu đầu tiên của Việt Nam , đến 1997 đã có một phần của dự án đi vào hoạt động và có sản phẩm bán trên thị trường. Hau năm 1998-1999 vốn đầu tư nước ngoài giảm là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á đến hoạt động đầu tư nước ngoài. Đến năm 2000, mặc dù đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn còn rất hạn chế so với các năm trước đây bởi lẽ các nhà đầu tư nước ngoài còn đang chần chừ chưa muốn đầu tư do chưa thấy được lợi nhuận trước mắt, hơn nữa do mấy năm gần đây các doanh nghiệp dệt của Việt Nam làm ăn không đạt hiệu quả cao do thị trường hạn hẹp và giá thành sản phẩm còn cao. 2.1.4.Đối tác đầu tư: Hiện nay, có 12 nước và vùng lãnh thổ đang đầu tư trong ngành dệt.Đa số các dự án do các chủ đầu tư Châu Á đưa vốn vào. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng chuyển dịch công nghệ đơn giản cần nhiều lao độngtừ các nước phát triển sang các nước đang phát triển có lực lượng lao động dồi dào và giá nhân công thấp. Đài Loan là nước có vốn đầu tư lớn nhất với 36 dự án có tổng vốn đầu tư là 884,02 triệu USD (chiếm 54%số vốn huy động ). Tiếp đến là Hàn Quốc có 29 dự án chiếm 29% tổng số dự án với tổng vốn đầu tư là 673,77 triệu USD, Hồng Kông có 6 dự án với tổng vốn đầu tư là 41,781,triệu USD (chiếm 2,5% số vốn huy động) Bảng : 10 nước đầu tư lớn nhất vào ngành dệt may (1/1/1988- 11/4/2001) Đơn vị : triệu USD Stt Tên nước Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định 1 Đài Loan 36 844,02 327,52 2 Hàn Quốc 29 673,77 209,53 3 Hồng Kông 6 41,78 40,26 4 Trung Quốc 3 9,03 3,25 52 5 Nhật Bản 1 6,75 4 6 CHDCND Triều Tiên 1 5,34 4,04 7 Channel Islands 1 5 2,5 8 Australia 1 3,08 1 9 Singapore 1 3,05 3,05 10 Thái Lan 1 1,81 0,8 Nguồn : Vụ QLDA- Bộ KH&ĐT Như vậy, những nước đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam hiện cũng là nước lớn nhất đầu tư nhiều nhất vào ngành dệt. Chính điều này đã lý giải cho sự giảm sút của đầu tư nước ngoài vào công nghiệp dệt của Việt Nam là do những nước đầu tư lớn chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á vừa qua. 2.1.5.Đầu tư theo địa phương: Các dự án Dệt phân bổ trên địa bàn 15 tỉnh và thành phố của cả nước nhưng chủ yếu tại các tỉnh phía Nam (chiếm 93%số dự án và 98%tổng số vốn đầu tư).Trong đó ,Đồng Nai là địa phương đứng đầu có 20 dự án với vốn đầu tư là 1.143,49 triệu USD (chiếm 20%tổng số dự án và 73% tổng số vốn đầu tư). Đồng Nai cũng là nơi tập trung các khu công nghiệp lớn và hiệu quả bậc nhất nước ta. Tiếp đến là Bình Dương có 16 dự án , vốn đầu tư là 132 triệu USD (chiếm 16% số dự án và 32% tổng vốn đầu tư). TP HCM có 27 dự án với vốn là 86,364 triệu USD. Các dự án ngành dệt do đặc thù chiếm diện tích tương đối lớn so với ngành may nên không tạp trung tại một số thành phố lớn đất hẹp người đôngmà chủ yếu ở một số tỉnh có điều kiện tương đối tốy về cơ sở hạ tầng, thoả mãn xây dựng các nhà máy Dệt có quy mô lớn . Đó chính là nguyên mà Đồng Nai va một số tỉnh phía Nam thu hút được nhiều dự án đầu tư vào lĩnh vực dệt như vậy. Bảng : 10 tỉnh, TP dẫn đầu về FDI ngành dệt (1/1/1988- 11/4/2001) 53 Đơn vị: Triệu USD Stt Tên tỉnh, TP Số dự án Tổngvốn đầu tư Vốnpháp định BQ/1 dự án 1 Đồng Nai 20 1.143,49 346,13 57,17 2 Bình Dương 16 131,9 60,4 8,24 3 Long An 2 118,32 39 59,16 4 TP HCM 27 86,36 58,54 3,2 5 Phú Thọ 2 81,05 34,45 40,53 6 Bà Rịa- VũngTàu 1 35 35 35 7 Lâm Đồng 4 14,69 9,09 3,67 8 Tây Ninh 3 6,873 5,36 2,29 9 Hải Dương 1 5,34 4,04 5,34 10 Nam Định 1 5 1,5 5 Nguồn : Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT 2.2.Đầu tư nước ngoài vào ngành may: 2.2.1.Tình hình chung: Tính đến ngày 11/4/2001 có 169 dự án được cấp giấy phép với vốn đầu tư đăng ký là 372 triệu USD. Đã có 31 dự án bị giải thể trước thời hạn có vốn đầu tư là 60,96 triệu USD ( chiếm 18,3% tổng số dự án và 16% tổng vốn đầu tư). Hiện nay còn 138 dự án đang hoạt động, vốn đầu tư là 310,5 triệu USD trong đó có : +106 dự án may mặc +32 dự án phụ liệu ngành may Trong tổng số các dự án đó có 103 dự án đã triển khai thực hiện góp vốn giải ngân là 233,89 triệu USD chiếm 63% vốn đăng ký. Bảng : Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành may (1/1/1988- 31/12/2001) 54 - 15 dự án đang XDCB - 20 dự án đang làm thủ tục hành chính, giải phóng mặt bằng XDCB. - Quy mô BQ 1 dự án là 2,2 triệu USD nhỏ hơn rất nhiều so với ngành dệt là 16,91 triệu USD do ngành dệt phải sử dụng nhiều máy móc thiết bị công nghệ phức tạp hơn đòi hỏi nhiều công đoạn và chi phí lớn. Với ngành may , vốn đầu tư cho 1 dự án thấp, phù hợp với khả năng tài chính của các doanh nghiệp trong cả nước. - Theo biểu trên, các dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép vào ngành may tăng qua các năm từ 1988 đến 1997. Số dự án cấp giấy vào ngành may nhiều hơn hẳn so với ngành dệt. Năm 1998, các dự án được cấp giấy phép giảm đi rõ rệt do tình hình chung của tất cả các ngành trong cả nước. Nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 1997. Số dự án bị rút giấy phép trong ngành maylà 31 dự án với vốn đầu tư là 60,96 triệu USD (chiếm 18,3% tổng số dự án và 16% tổng vốn đầu tư ). Tuy nhiên, năm 2000 cả nước đã thu hút được 26 dự án (tăng 3,55 lần so với năm 1999) với tổng vốn đầu tư là 40,51 triệu USD. Điều đó chứng tỏ đầu tư nước ngoài vào ngành đã có dấu hiệu phục hồi đáng kể. 2.2.2. Hình thức đầu tư: Cũng như ngành dệt, các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực may dưới 3 hình thức : 100% vốn nước ngoài , liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh Bảng : Số dự án đầu tư nước ngoài vào ngành may theo hình thức đầu tư (1/1/1988- 31/12/2001) Đơn vị : Triệu USD Năm Số dự án 100% vốn nước ngoài Liên doanh Hợp đồng hợp tác kinh doanh Số dự án Tỷ lệ (%) Số dự án Tỷ lệ (%) Số dự án Tỷ lệ (%) 55 88-90 6 1 16,7 5 83,3 0 0 1991 9 3 33,3 4 44,4 2 22,2 1992 13 6 46,2 7 53,9 0 0 1993 18 11 61,1 7 38,9 0 0 1994 19 12 63,26 7 36,8 0 0 1995 19 15 79 3 15,8 1 5,3 1996 19 15 79 4 21,1 0 0 1997 14 13 92,9 1 7,1 0 0 1998 5 3 60 0 0 2 40 1999 9 8 88,9 1 11,1 0 0 2000 26 21 80,8 5 19,2 0 0 2001 12 9 75 3 25 0 0 Tổng 169 117 69,2 47 27,8 5 3 Nguồn : Vụ QLDA- Bộ KH&ĐT Bảng : Vốn đầu tư nước ngoài vào ngành may theo hình thức đầu tư (1/1/1988- 31/12/2001) Đơn vị : Triệu USD Năm FDI toàn ngành 100% vốn nước ngoài Liên doanh Hợp đồng hợp tác kinh doanh BQ vốn /1 dự án Vốn đầu tư Tỷ lệ (%) Vốn đầu tư Tỷ lệ (%) Vốn đầu tư Tỷ lệ (%) 88-90 7,37 3,49 47,4 3,88 52,6 0 0 1,23 1991 42,48 6,48 15,3 34,15 80,4 1,85 4,3 4,72 1992 54,49 36,51 67 17,98 33 0 0 4,19 1993 33,12 22.19 67 10,93 33 0 0 1,84 1994 29,27 24,05 82,2 5,22 17,8 0 0 1,54 1995 50,97 43,62 85,6 5,67 11,1 1,68 12,72 2,68 1996 45,22 42,06 93 3,16 7 0 0 2,38 1997 34,76 32,26 92,8 2,5 7,2 0 0 2,48 1998 8,33 5 60 0 0 3,33 40 1,67 56 1999 8,95 7,91 88,4 1,04 11,6 0 0 0,99 2000 40,51 37,11 91,6 3,4 8,4 0 0 1,56 2001 15,8 12,55 79,4 3,25 20,6 0 0 1,32 Tổng 371 273 73,6 91 2,5 6,86 2,2 Nguồn : Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT Đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài : hiện có 117 dự án đang có hiệu lực với vốn đầu tư là 257,92 triệu USD trong đó có 16 dự án BOT phụ liệu ngành may với vốn đầu tư là 65,518 triệu USD, vốn thực hiện là 161,02 triệu USD tạo việclàm cho 21.671 lao động. Với doanh nghiệp liên doanh có 26 dự án đang hoạt động, vốn đầu tư là 49,99 triệu USD trong đó vốn thực hiện là 34,53 triệu USD tạo việc làm cho 6.995 lao động. Với doanh nghiệp hợp doanh, có 1 dự án may thêu xuất khẩu mới được cáp giấy phép năm 1998, vốn đầu tư là 2.533.670 USD , vốn thực hiện 2.011.966 USD đang triển khai thực hiện tạo việc làm cho 50 lao động. Theo số liệu trên, trong 3 hình thức đầu tư thì hình thức đầu tư phổ biến nhất vẫn là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài . Sở dĩ có tình trạng doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài vượt trội hơn hẳn là do: +Thứ nhất: Việc Chính Phủ Việt Nam nhiều lần sửa đổi luật đầu tư nước ngoài đã có tác động rõ rệt đến việc quyết định đầu tư theo hình thức nào của nhà đầu tư. Cụ thể ở giai đoạn trước năm 1996, hình thức liên doanh cũng chiếm phần lớn số dự án . Nhưng từ 1996 trở đi, số dự án 100% vốn nước ngoài tăng lên rõ rệt. Sở dĩ có tình trạng náy là do trong thời kỳ đầu, các thủ tục để triển khai thực hiện dự án rất phức tạp. Trong khi đó, các đối tác đầu tư lại biết rất ít về điều kiện kinh tế ở Việt Nam nên họ gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình triển khải thực hiện các dự án . Họ không được hướng dẫn các thủ tục đầu tư rõ ràng, các điều kiện cần thiết. Bên cạnh đó, phía Việt nam chưa có chính sách khuyến khích đầu tư hấp dẫn , luật pháp còn lỏng lẻo, thủ tục rắc rối phức tạp phải qua nhiều cửa. Trong tình hình như vậy đa số các nhà đầu tư thức hợp hình thức liên doanhlà hợp lý nhất do phía ta đứng ra lo liệu các thủ tục pháp lý, tạo điều kiện cho doanh 57 nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong những năm gần đâyloại hình này không được ưa chuộng nữa một phần là do Nhà nước ta đã sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài (năm 2000) nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho hình thức này được phát triển nhanh chóng. +Thứ hai: Sau một thời gian hoạt động, tiếp cận thị trường Việt Nam các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là các nhà đầu tư Châu á đã hiểu rõ hơn về luật pháp,chính sách, thủ tục đầu tư ở Việt Nam và như vậy trong nhiều trường hợp họ không cần thiết có sự hợp tác với đối tác Việt Nam. +Thứ ba : Với hình thức 100% vốn nước ngoài , nhà đầu tư được toàn quyền quyết định những vấn đề chủ chốt của xí nghiệp. Bên cạnh đó, việc chuyển từ hình thức liên doanh sang 100% vốn nước ngoài khiến cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn, ổn định sản xuất, hơn nữa số lao động đang làm việc không bị mất việc làm hay giải thể doanh nghiệp làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. 2.2.3. Các đối tác đầu tư vào lĩnh vực dệt may Hiện nay, có 20 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào ngành may trong đó Đài Loan là nước dẫn đầu về số dự án với 46 dự án với tổng vốn đầu tư là 96,83 triệu USD chiếm 33,3% số dự án và chiếm 26,44% số vốn đầu tư hoạt động. Điều này chứng tỏ các nhà đầu tư Đài Loan rất tin tưởng vào môi trường đầu tư ở Việt Nam và muốn hợp tác lâu dài với Việt Nam. Hàn Quốc là nước đứng thứ hai về số dự án với 26 dự án và vốn đầu tư là 37,44 triệu chiếm 18,84% số dự án và chiếm 10,09% vốn đầu tư. Tiếp đến là Nhật Bản với 23 dự án và vốn đầu tư là 47,53 triệu USD chiếm 16,67% số dự án và 12,8% vốn đầu tư .Sau đó là một số quốc gia Châu á khác như Hồng Kông, Singapore.. và 1 số quốc gia Châu Âu: Đức, Pháp.. Bảng : 10 nước dẫn đầu về đầu tư nước ngoài vào ngành may Việt Nam(1/1/1988- 31/12/2001) Đơn vị: triệu USD Stt Tên nước Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định 1 Đài Loan 46 96,83 67,79 2 Nhật Bản 23 47,53 26,26 58 3 Hàn Quốc 26 37,44 23,97 4 Hồng Kông 13 30,76 15,47 5 Liech Tinstein 1 23 10,4 6 British Virgin 1 12,5 3,8 7 Singapore 2 9,5 6 8 CHLB Đức 4 8,95 4,64 9 Mỹ 2 8,5 3,6 10 Pháp 5 8,01 5,72 Nguồn : Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT Sở dĩ, có sự đầu tư lớn vào ngành may của các nước thuộc nhóm NIC là do ngành may thuộc lĩnh vực công nghiệp chế tạo sử dụng nhiều lao động phù hợp với xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước này nên họ đã tích cực đẩy mạnh đầu tư sang Việt Nam và trở thành những nhà đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam. Và cũng chính điều này đã lý giải có sự giảm sút đầu tư trong năm 1998-1999 là do các nước này chịu sự tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chình tiền tệ(1997). Trong khi đó ,các nước Đông và Châu Âu còn rụt rè khi đầu tư vào lĩnh vực may mặc ở Việt Nam mà thị trường xuất khẩu hàng may mặc chủ yếu là sang các nước này. Chính vì vậy, trong thời gian tới Việt Nam cần phải có những chính sách hữu hiệu để duy trì và khôi phục thị trường này nhằm tăng khả năng xuất khẩu hàng may mặc. 2.2.4. Đầu tư theo địa phương Các dự án may mặc nằm rải rác trên 23 tỉnh,TP trong cả nước. Cũng như ngành dệt, các dự án ngành may tập trung chủ yếu ở các tỉnh phía Nam. Trong đó, đứng đầu là TP HCM với 72 dự án, vốn đầu tư là 121,26 triệu USD chiếm 52,17% về số dự án và 32,68% về vốn đầu tư. Sở dĩ , TP HCM thu hút được nhiều dự án như vậy là do nơi đây là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, và là khu vực kinh tế năng động và làm ăn có hiệu quả. Bình Dương là địa phương đứng thứ 2 về số dự án với 17 dự án (chiếm 12,3%)và 72,93 triệu USD chiếm 19,66% tổng vốn đầu tư . Thứ 3 là Đồng Nai có 14 dự án chiếm 10,14% số dự án và 55,89 triệu USD vốn đầu tư chiếm 15,06% tổng vốn đầu tư. Hai địa phương có số dự án lớn là do đây là ” cửa ngõ Sài 59 Gòn” là các đầu mối giao thông quan trọng của các tỉnh phía Nam. Nơi đây tập trung các khu công nghiệp, khu chế xuất lớn nhất cả nước. Bảng : 10 tỉnh,TP dẫn đầu về FDI vào ngành may (1/1/1988 – 31/12/2001) Đơn vị : Triệu USD Stt Tên tỉnh,TP Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định 1 Tp HCM 72 121,26 85,45 2 Bình Dương 17 72,93 34,45 3 Đồng Nai 14 55,89 30,88 4 Hà Nội 8 18,99 11,2 5 Vĩnh Phúc 1 4,5 1,5 6 Hà Tây 1 4,4 1,5 7 Hải Phòng 2 4,39 1,53 8 Long An 1 3,55 3,55 9 Đà Nẵng 4 3,5 2,27 10 Hưng Yên 1 3 1 Nguồn : Vụ QLDA -Bộ KH&ĐT Nhìn chung, về cơ cấu lãnh thổ theo các số liệu trên cho ta thấy có sự đầu tư mất cân đối vào ngành may giữa 3 miền mà chủ yếu tập trung quá nhiều vào các tỉnh phía Nam. Nó thể hiện việc kết hợp hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài với việc khai thác các tiềm năng trong nước(nhất là về lao động) đạt kết quả chưa cao. Vì vậy, đây là một vấn đề cần được quan tâm điều chỉnh ngành may nói riêng và cả ngành dệt may nói chung trong thời gian tới. 60 3. Nhận xét chung về thực trạng đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may - Đã hình thành xu thế chuyển dịch dần ngành dệt may từ các nước khu vực Đông á (Hàn Quốc, Hồng Kông,ĐàI Loan ) có nguy cơ thiếu lao động vào cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 sang thị trường nhiều lao động như Việt Nam hoặc một số nước khác ở Châu á (Trung Quốc, Thái Lan…) .Tuy nhiên, các nhà đầu tư đầy tiềm năng như Nhật Bản, các nước Tây Âu chưa thực sự vào Việt Nam mà chỉ dừng lại ở những dự án đầu tư hạn chế với mục đích thăm dò. Mặt khác, lĩnh vực đầu tư dệt may Việt Nam còn bị cạnh tranh khốc liệt bởi môi trường đầu tư hấp dẫn của Trung Quốc, Inđônêsia. Vì vậy, thu hút đầu tư trong lĩnh vực dệt may có kết quả hạn chế chưa tương xứng với tiềm năng. - Hầu hết cácdự án vào ngành dệt may là tận dụng các thiết bị đã qua sử dụng của nước chủ đầu tư (do các nước này đang tiến hành quá trình đổi mới thiết bị và công nghệ ) và giá nhân công thấp tại Việt Nam . Chỉ có một số ít các dự án đầu tư thiết bị mới hoàn toàn như dự án dệt của tập đoàn Hualon (477,1 triệu USD). - Các dự án nhỏ vốn ít hoặc tận dụng thiết bị cũ thì đầu tư nhanh(dự án Formosa Taffeta- Đài Loan, Pang Rim Yoochang- Hàn Quốc tại Phú Thọ , Choongnam – Hàn Quốc tại Đồng Nai). Trong khi đó, các dự án lớn với thiết bị mới như Hualon thì triển khai dự án rất chậm (sau 5 năm cấp giấy phép mới thực hiện được trên 1/3 công việc). - Số dự án đầu tư vào ngành May nhiều hơn ngành Dệt do vốn đầu tư vào ngành Dệt nhỏ và chóng thu hồi vốn( Bình quân 1 dự án ngành May là 2,2 triệu USD/1 dự án còn ngành dệt là 16,91 triệu USD/1 dự án ) . - Thực tế vừa qua việc liên doanh với đối tác Việt Nam có nhiều vướng mắc trong thủ tục cũng như hoạt động nên các nhà đầu tư nước ngoài thiên về hình thức đầu tư 100% vốn của mình hơn là liên doanh. - Khủng hoảng kinh tế khu vực đã ảnh hưởng đến nền kinh tế của nước ta , trong đó trực tiếp đến các xí nghiệp FDI. Nhiều xí nghiệp may đã sa thải công nhân, giảm công suất . Hiện nay , trong tình hình mới khi hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết sẽ tạo nhiều cơ hội cho các doanh 61 nghiệp Dệt may mở rộng thị trường sang Mỹ , Bắc Mỹ nên các doanh nghiệp sẽ củng cố và phát triển sản xuất kinh doanh tạo nhiều việc làm. - Các dự án đầu tư nước ngoài vào dệt may chủ yếu tập trung ở khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam – nơi tập trung các khu công nghịêp lớn ,năng động (TP HCM, Đồng Nai, Bình Dương) - Số dự án đầu tư trựctiếp nước ngoài vào lĩnh vực Dệt may liên tục tăng qua các năm từ 1988-1997. Trong 2 năm 1998, 1999 số dự án có giảm đi tuy nhiên đến năm 2000 số lượng các dự án tăng trở lại . Nguyên nhân chính của sự suy giảm trong 2 năm 1998-1999 là do các nước đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực Dệt may Việt Nam chủ yếu là các nước thuộc khu vực Đông á và Đông Nam Á. Mà vừa qua (năm 1997) đã diễn ra cuộc khủng hoảng kinh tế ở đây, làm cho khả năng đầu tư ra nước ngoài của các nước này giảm mạnh. - Tuy có điều kiện thuận lợi về trình độ cán bộ và kinh nghiệm quản lý kỹ thuật cũng như quản lý sản xuất kinh doanh , nhưng ngành Dệt may không đạt nhiều thành công trong hợp tác liên doanh với nước ngoài như mong muốn. Vấn đề cần phải đặt ra đối với công tác đào tạo lại cán bộ và bố trí đội ngũ cán bộ không những có năng lực quản lý sản xuất kinh doanh giỏi mà còn có khả năng hợp tác tốt với nước ngoài về lợi ích phát triển ngành nói riêng và kinh tế đất nước nói chung. III.Đánh giá kết quả và hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may Việt Nam Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may trong thời gian qua đã có tác động tích cực và có vai trò quan trọng trong chiến lược đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam. Những ảnh hưởng tích cực của hoạt động kinh tế này đang càng ngày càng rõ nét, thể hiện trên nhiều gương mặt trong thành quả của ngành dệt may và đưa ngành dệt may trở thành một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn của công nghịêp chế tạo Việt Nam góp phần phát triển chiến lược công nghiệp và chiến lược phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh đó, hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần to lớn vào GDP, tạo việc làm 62 và nâng cao đời sống của người lao động . Kết quả và hiệu quả của ngành dệt may trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài được xem xét ở các mặt sau. 1.Kết quả thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài vào ngành dệt Bảng : Kết quả thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài vào ngành dệt theo hình thức đầu tư (1/1/1988 – 2/11/2001) Chỉ tiêu Đơn vị Liên doanh 100% vốn NN Hợp doanh Tổng Số dự án D.A 15 65 2 82 Vốn đầu tư USD 81,06 1.541,21 0,9 1.623,17 Vốn thực hiện USD 56,06 502.87 0,7 559,63 Doanh thu USD 296,89 1.004,64 0 1.301,53 Xuất khẩu USD 139,56 641,44 0 781 Nộp NS NN USD 14,18 20,89 0 35,07 Số lao động Ngườ i 4.082 15.884 15 19.981 Số dự án báo lãi D.A 4 6 10 Lợi nhuận USD 1,07 3,72 0 4,79 DT/TH % 105,3 102 0 102,32 Ln/TH % 2 0,7 0 0,86 XK/DT % 47 63,85 60 Nguồn : Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT Theo biểu trên , ta thấy hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài có chiếm thế tuyệt đối về số dự án hoạt động và số vốn thực hiện so với 2 hình 63 thức khác( liên doanhvà hợp doanh) . Tuy nhiên , nếu xét về tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đầu tư thì tỷ lệ của hình thức 100% vốn nước ngoài thấp hơn so với hình thức liên doanh (32,63% so với 69,16%). Điều này , chứng tỏ các dự án liên doanh đã triển khai thực hiện nhanh hơn so với các dự án 100% vốn nước ngoài . Doanh thu của 15 dự án liên doanh đạt 296,89 triệu USD (chiếm 23,3% tổng doanh thu) trong khi đó doanh thu của 65 dự án 100% vốn nước ngoài đạt 1004,64 triệu USD(chiếm77,2% tổng doanh thu).Như vậy, nếu xét về kết quả thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cao hơn nhưng nếu xét về hiệu quả doanh thu trên vốn thực hiện thù liên doanh lại đạt hiệu quả cao hơn so với 100% vốn nước ngoài (105,3% so với 102%). Doanh thu do xuất khẩu của xí nghiệp liên doanh đem lại là 139,56 triệu USD (chiếm 17,9% tổng doanh thu do xuất khẩu); còn doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có doanh thu xuất khẩu là 641,44 triệu USD gấp 4,6 lần liên doanh(chiếm 82,13% doanh thu do xuất khẩu). Ta thấy được doanh thu do xuất khẩu đem lại của 100% vốn nước ngoài cao hơn nhiều so với liên doanh.Qua đó chứng tỏ khả năng tìm kiếm thị trường và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là rất tốt. Lý do là họ có bộ phận xúc tiến và tiềm kiếm thị trường rất năng động và hiệu quả. Tuy nhiên,khả năng xuất khẩu đó vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của Nhà nước đặt ra đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là tỷ lệ xuất khẩu phải đạt trên 80% sản phẩm của mình. Phần nộp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn FDI trong các doanh nghiệp của ngành dệt may.pdf
Tài liệu liên quan