Tài liệu Luận văn Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh Láng Hạ:  Trang 1 
Luận văn 
Giải pháp mở rộng hoạt 
động tín dụng ngắn hạn tại 
NHNo&PTNT Việt Nam 
Chi nhánh Láng Hạ 
 Trang 2 
LỜI NÓI ĐẦU 
Vốn là điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào trong việc đảm 
bảo tiến trình sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả. Không chỉ có nhu cầu 
vốn trung và dài hạn để đổi mới công nghệ, nhà xưởng, máy móc, các doanh 
nghiệp luôn có nhu cầu vay vốn ngắn hạn để bổ xung cho nhu cầu thiếu hụt vốn 
tạm thời khi gặp khó khăn trong việc thanh toán với khách hàng, trả lương cho 
công nhân, mở rộng sản xuất trong mùa vụ… Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế 
nước ta chưa phát triển, các doanh nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ - dễ gặp 
phải khó khăn về vốn ngắn hạn mà không có khả năng giải quyết - do đó nhu cầu 
vay vốn ngắn hạn, đặc biệt là nguồn vay từ ngân hàng là rất cao. 
Chính vì sự quan trọng của tín dụng ngắn hạn đối với hoạt động sản xuất 
kinh doanh của các doanh nghiệp như vậy, đồng thời với chủ trương của Đảng và 
...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
87 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1432 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh Láng Hạ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Trang 1 
Luận văn 
Giải pháp mở rộng hoạt 
động tín dụng ngắn hạn tại 
NHNo&PTNT Việt Nam 
Chi nhánh Láng Hạ 
 Trang 2 
LỜI NÓI ĐẦU 
Vốn là điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào trong việc đảm 
bảo tiến trình sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả. Không chỉ có nhu cầu 
vốn trung và dài hạn để đổi mới công nghệ, nhà xưởng, máy móc, các doanh 
nghiệp luôn có nhu cầu vay vốn ngắn hạn để bổ xung cho nhu cầu thiếu hụt vốn 
tạm thời khi gặp khó khăn trong việc thanh toán với khách hàng, trả lương cho 
công nhân, mở rộng sản xuất trong mùa vụ… Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế 
nước ta chưa phát triển, các doanh nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ - dễ gặp 
phải khó khăn về vốn ngắn hạn mà không có khả năng giải quyết - do đó nhu cầu 
vay vốn ngắn hạn, đặc biệt là nguồn vay từ ngân hàng là rất cao. 
Chính vì sự quan trọng của tín dụng ngắn hạn đối với hoạt động sản xuất 
kinh doanh của các doanh nghiệp như vậy, đồng thời với chủ trương của Đảng và 
Nhà nước ta hiện nay, nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp có quy mô nhỏ mở rộng sản 
xuất, kích thích tính năng động sáng tạo của chúng, các NHTM đặc biệt là các 
ngân hàng trên địa bàn Hà Nội đã có những biện pháp mở rộng hoạt động tín dụng 
ngắn hạn nhằm giúp các doanh nghiệp này. 
Là một chi nhánh còn khá non trẻ nhưng NHNo&PTNT Láng Hạ đã đạt 
được khá nhiều thành tích đáng ghi nhận. Tuy nhiên vấn đề đặt ra cho Chi nhánh 
trước tình hình hiện nay là tỷ trọng cho vay ngắn hạn tại Chi nhánh rất nhỏ và có 
xu hướng giảm. Trong khi đó, địa bàn Hà Nội là nơi đông dân cư và tập trung 
nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ với nhu cầu vốn ngắn hạn cao. Do đó, bức xúc 
hiện nay của Chi nhánh là làm thế nào để mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn, 
từng bước giúp các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, từ đó góp phần phát triển kinh 
tế, xã hội. 
Nắm bắt được yêu cầu cấp thiết trên, sau thời gian thực tập tại phòng Tín 
dụng NHNo&PTNT Chi nhánh Láng Hạ, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề 
tài: “Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHNo&PTNT Việt 
Nam Chi nhánh Láng Hạ”. 
Theo đó, luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận cấu gồm 3 phần chính: 
 Trang 3 
Chương I: TÍN DỤNG NGẮN HẠN VÀ MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN 
DỤNG NGẮN HẠN TẠI CÁC NHTM. 
Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN TẠI 
NHNo&PTNT VIỆT NAM CHI NHÁNH LÁNG HẠ. 
Chương III: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGẮN 
HẠN TẠI CHI NHÁNH LÁNG HẠ. 
Để hoàn thành luận văn này, em xin chân thành cảm ơn thầy Hoàng Xuân 
Quế và các anh chị cán bộ phòng Tín dụng tại NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh 
Láng Hạ đã tận tình quan tâm chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập và 
làm luận văn. 
Hà Nội, 6 - 2003 
 Trang 4 
CHƯƠNG I 
TÍN DỤNG NGẮN HẠN VÀ MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGẮN 
HẠN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 
1. Một số vấn đề cơ bản về ngân hàng thương mại 
1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại. 
Cùng với sự phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá ngân hàng thương 
mại đã ra đời và trở thành một thứ dầu bôi trơn cho cỗ máy kinh tế hoạt động một 
cách nhịp nhàng thông suốt. Ngân hàng thương mại đã hình thành và tồn tại như 
một tất yếu khách quan đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế hàng hoá. Sản xuất lưu 
thông hàng hoá càng phát triển nhu cầu giao lưu giữa các vùng càng tăng, tuy 
nhiên do sự khác biệt giữa các vùng về tiền tệ cũng như sự khác biệt về địa lý làm 
nhu cầu đổi tiền cũng như gửi tiền và thanh toán hộ của các thương gia xuất hiện. 
Và cũng chính nhờ hoạt động nhận tiền gửi và thanh toán hộ mà những người giữ 
tiền đã nắm trong tay một khối lượng tiền lớn từ đó họ dễ dàng thực hiện hoạt 
động cho vay do tính vô danh của tiền tệ. Ngân hàng thương mại đã ra đời từ đó 
cùng với những nghiệp vụ cơ bản của nó, đến nay trải qua bao thăng trầm của nền 
kinh tế hoạt động của Ngân hàng thương mại đã mở rộng không chỉ quy mô, chất 
lượng mà số lượng, loại hình các dịch vụ cũng ngày càng mở rộng đáp ứng nhu 
cầu của khách hàng. Từ đó Ngân hàng thương mại đã trở thành một bộ phận không 
thể thiếu của nền kinh tế, hoạt động của Ngân hàng thương mại ảnh hưởng mạnh 
mẽ đến sự phát triển của nền kinh tế. 
Trải qua thời gian tương đối dài với những biến động của nền kinh tế, rất 
nhiều khái niệm về Ngân hàng thương mại đã được hình thành. Ta thấy rằng Ngân 
hàng thương mại được xem xét ở rất nhiều khía cạnh khác như: 
ở Việt Nam theo sắc lệnh 018CT/LDGCQL/SL ngày 20/10/1969 của chính 
quyền Sài Gòn cũ cho rằng: Ngân hàng thương mại là mọi xí nghiệp công hay tư 
lập, kể cả những chi nhánh hay phân cục ngân hàng ngoại quốc mà hoạt động 
thường xuyên là thi hành cho chính mình nghiệp vụ tín dụng, chiết khấu, tài chính 
với tiền ký thác của tư nhân hay chi nhánh hay chi nhánh công quyền. 
 Trang 5 
Hay một cách tiếp cận Ngân hàng thương mại dựa trên những dịch vụ mà 
ngân hàng mang lại như Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính tiền 
tệ cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là nghiệp vụ 
tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính 
nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh tế nào trong nền kinh tế. 
Theo pháp lệnh ngân hàng 23/5/1990 của Hội đồng Nhà nước xác định: 
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu thường 
xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền 
đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. 
Như vậy nhìn chung từ khái niệm ta có thể thấy rằng Ngân hàng thương mại 
có các đặc trưng : 
+ Là tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với trách nhiệm hoàn 
trả. 
+ Được phép nhận ký thác để cho vay, chiết khấu và thực hiện các nghiệp 
vụ tài chính khác. 
Như vậy ta có thể hiểu Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh 
nghiệp đặc biệt hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tín dụng với với mục đích thu 
lợi nhuận. 
Do sự bùng nổ về thông tin và công nghệ thông tin, công nghệ ngân hàng 
ngày càng được hiện đại hoá. Do đó để có thể cạnh tranh và hợp tác, hoạt động 
ngân hàng không chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng, một quốc gia mà hoà nhập 
trong toàn cầu. Điều đó tạo ra một cơ hội mới cho các ngân hàng trong việc phát 
triển sản phẩm mở rộng thị trường nhưng cũng tạo ra rất nhiều thách thức cho các 
ngân hàng trong sự cạnh tranh. 
 Không những vậy, căn cứ vào tính chất sở hữu và hình thức góp vốn có rất 
nhiều loại Ngân hàng thương mại như Ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân 
hàng cổ phần, liên doanh, ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam… góp phần đa dạng 
hoá các loại hình ngân hàng tại Việt Nam. Từ đó thúc đẩy sự tự do cạnh tranh một 
 Trang 6 
cách lành mạnh, giúp các ngân hàng từng bước tự phát triển, đổi mới, mở rộng 
hoạt động kinh doanh. 
1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại. 
Ngân hàng thương mại là một đơn vị kinh doanh tiền tệ do đó các hoạt động 
nghiệp vụ của ngân hàng đều hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được 
mục tiêu này Ngân hàng thương mại trong quá trình phát triển đã không ngừng đổi 
mới, không chỉ nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ sẵn có mà còn thường 
xuyên nghiên cứu nhằm cung cấp các sản phẩm dịch vụ mới phục vụ nhu cầu của 
người dân. Tuy nhiên, một Ngân hàng thương mại luôn luôn tiến hành 3 nghiệp vụ 
cơ bản : 
Huy động vốn 
Đối với hoạt động huy động vốn, đây là hoạt động “đầu vào” của ngân 
hàng, ngân hàng phần lớn dựa vào việc huy động tiền vốn nhàn rỗi tạm thời trong 
nền kinh tế. 
Thông thường ngân hàng có các loại tiền gửi là tiền gửi không kỳ hạn, tiền 
gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm. 
Để thực hiện được hoạt động huy động vốn, ngân hàng cần có một lượng 
vốn nhất định là vốn tự có. Lượng vốn này chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn sử 
dụng song nó rất quan trọng đối với hoạt động ngân hàng. Đây là cơ sở thu hút tiền 
gửi của khách hàng, là nguồn để trang trải rủi ro khi gặp phải trong kinh doanh và 
là chỉ tiêu để Ngân hàng Trung ương quản lý Ngân hàng thương mại. 
Hoạt động sử dụng vốn 
Hoạt động sử dụng vốn ở đây bao gồm: hoạt động cho vay, hoạt động ngân 
quỹ, hoạt động đầu tư chứng khoán. 
Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất quyết định sự thành bại của 
ngân hàng bởi đây là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng. Chính vì vậy 
đây cũng là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất. Để tránh rủi ro tín dụng xảy ra, việc 
quản lý tiền vay được tiến hành một cách rất chặt chẽ, đặc biệt với món vay lớn, 
 Trang 7 
thời hạn cho vay dài. Từ đó ngân hàng phải phân chia tín dụng ra nhiều hình thức 
khác nhau nhằm mục đích dễ quản lý. 
Hoạt động ngân quỹ nhằm bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên của 
ngân hàng cho khách hàng. Đây là tài sản không sinh lời hoặc sinh lời thấp nhưng 
tính lỏng cao và được coi như tiền mặt. Do đó ngân hàng phải duy trì tài sản này ở 
mức độ hợp lý sao cho vừa đảm bảo tính thanh khoản vừa đảm bảo khả năng sinh 
lời. 
Ngoài ra ngân hàng còn sử dụng vốn vào hoạt động đầu tư chứng khoán 
trên thị trường để thu lợi nhuận và một phần đảm bảo khả năng thanh toán cho 
ngân hàng. 
Hoạt động trung gian 
Hoạt động trung gian là việc ngân hàng cung cấp cho khách hàng một loạt 
các dịch vụ liên quan như chuyển tiền, thanh toán hộ khách hàng thông qua các 
hình thức ghi chép trên tài khoản của khách hàng, phát hành séc, uỷ nhiệm thu, uỷ 
nhiệm chi, thư tín dụng, môi giới mua bán chứng khoán, quản lý hộ tài sản, tư vấn 
cho doanh nghiệp… 
Ngày nay trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, hoạt động ngân hàng chịu 
sự cạnh tranh gay gắt từ mọi hướng, chính vì vậy các ngân hàng tiến tới hoạt động 
đa năng trên nhiều lĩnh vực, cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau. Vì vậy các dịch vụ 
cung cấp cho khách hàng cũng ngày càng tăng thêm như: kinh doanh ngoại hối, 
bảo lãnh, tư vấn, kinh doanh chứng khoán, dịch vụ rút tiền tự động, bảo đảm an 
toàn vật có giá, nghiệp vụ thuê mua,…Tất cả các nghiệp vụ đều có quan hệ chặt 
chẽ hỗ trợ nhau một mặt thoả mãn nhu cầu của khách hàng một mặt mang lại lợi 
nhuận cho ngân hàng. 
2. Tín dụng ngân hàng. 
2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng. 
Tín dụng ngân hàng là một phạm trù kinh tế tồn tại qua các hình thức xã hội 
khác nhau. Tín dụng là nghiệp vụ chính cơ bản nhất của các NHTM chính vì vậy 
 Trang 8 
những về tín dụng đã được các nhà kinh tế tìm hiểu từ rất lâu. Tuỳ theo các cách 
tiếp cận khác nhau mà người ta đưa ra những khái niệm khác nhau về tín dụng. 
Theo cách hiểu thông thường, tín dụng là mối quan hệ giao dịch giữa hai 
chủ thể dựa trên nguyên tắc tin tưởng nhau. Trong đó một bên chuyển giao tiền 
hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận 
tiền hay tài sản cam kết hoàn trả theo thời gian thoả thuận. Hay nói một cách 
khác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị dưới hình thức hiện 
vật hay tiền tệ từ người sở hữu sang người sử dụng, sau đó hoàn trả tại một thời 
điểm nhất định trong tương lai với một lượng giá trị lớn hơn. 
Theo luật NHNN, tín dụng được định nghĩa như sau: “Cấu thành một 
nghiệp vụ tín dụng là bất cứ động tác nào qua đó người đưa hay người hứa đưa 
vốn cho người khác dùng, hoặc cam kết bằng chữ ký cho người này như đảm bảo, 
bảo chứng hay bảo lãnh có thu tiền”. 
2.2. Đặc điểm tín dụng ngân hàng. 
Như vậy, dù cách này hay cách khác, quan điểm về tín dụng đều thể hiện các 
nội dung sau: 
- Người cho vay sẽ chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. 
Lượng giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật như hàng hoá, máy 
móc, thiết bị, bất động sản. 
- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một khoảng thời gian nhất 
định sau khi hết hạn theo thoả thuận phải hoàn trả cho người cho vay. 
- Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách 
khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức. 
Như vậy ở đây - tiền không được bỏ ra để thanh toán hay để bán mà là để cho 
vay, tiền chỉ được nhượng đi với điều kiện là nó sẽ quay lại điểm xuất phát sau 
một thời gian nhất định - đó là đặc trưng thuộc về bản chất của ngành ngân hàng. 
Ngoài ra sự hoàn trả không chỉ phải bảo tồn về mặt giá trị mà còn cần có phần tăng 
thêm dưới hình thái lợi tức. Lợi tức về tín dụng là thu nhập người cho vay nhận 
được từ khoản cho vay, nó là giá cả của hàng hoá cho vay. 
 Trang 9 
2.3. Phân loại tín dụng. 
Tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản nhất và cũng mang lại lợi 
nhuận chủ yếu cũng như rủi ro cho các ngân hàng. Chính vì vậy, các nhà ngân 
hàng luôn phải tìm ra các tiêu thức phân loại tín dụng để có thể dễ dàng quản lý, 
kiểm tra từ đó phòng tránh rủi ro tín dụng. Dựa vào các tiêu thức khác nhau ta có 
thể phân loại tín dụng như sau: 
 Căn cứ vào thời gian của khoản vay: 
Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận về thời hạn cho vay theo hai 
loại: tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung, dài hạn. 
Tín dụng ngắn hạn: Đây là hình thức tín dụng thường có thời hạn dưới một 
năm và mục đích thường để đáp ứng nhu cầu thiếu vốn tạm thời như phục vụ cho 
thanh toán tiền, hàng hoá, tài trợ vốn lưu động hay thanh toán ngoại thương. 
Tín dụng trung, dài hạn: 
Tín dụng trung hạn: Đây là hình thức tín dụng có thời hạn từ một đến năm 
năm. Các khoản vay thường với mục đích để đầu tư, cải tiến máy móc, trang thiết 
bị, đầu tư vào một ngành kinh doanh mới.Tuy nhiên các máy móc trang thiết bị 
này cần có thời hạn khấu hao không quá dài, hay dự án kinh doanh cần có kế 
hoạch thu hồi vốn sớm, để có thể kịp thời trả vốn cho ngân hàng. 
Tín dụng dài hạn: Đây là các khoản tín dụng được cấp có thời hạn từ 6o tháng 
trở lên và cũng thường được sử dụng với mục đích xây nhà xưởng, đầu tư dây 
chuyền sản xuất lớn, những dự án có thời hạn thu hồi vốn dài. Tuy nhiên thời gian 
cho vay không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy 
phép thành lập đơn vị, pháp nhân và không quá 15 năm đỗi với các dự án đầu tư 
phục vụ đời sống. 
 Căn cứ theo hình thức bảo đảm: 
Tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản: trong trường hợp này ngân hàng cấp 
tín dụng cho khách hàng mà không cần có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh 
mà dựa vào uy tín của khách hàng. Những khách hàng được cấp tín dụng loại này 
 Trang 10 
thường là những khách hàng quen, đã có uy tín với ngân hàng về việc trả đúng và 
đầy đủ các khoản nợ của mình từ trước tới nay. 
Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản: ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng 
dựa trên cơ sở có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh. Tài sản dùng để thế chấp 
cầm cố có thể là nhà xưởng, xe cộ, các khoản phải thu, các trang thiết bị hay các 
tài sản hình thành từ vốn vay, vật có giá hay giấy tờ có giá. Ngoài ra, để đảm bảo 
cho khoản vay có thể được thực hiện bằng sự bảo lãnh của bên thứ ba được ngân 
hàng chấp nhận. 
 Căn cứ vào mục đích sử dụng: 
Cho vay sản xuất kinh doanh: các khoản vay này thường được sử dụng để tài 
trợ vốn lưu động của doanh nghiệp hay tài trợ cho việc xây dựng nhà xưởng, mua 
sắm máy móc, thiết bị, mua nguyên vật liệu 
Cho vay tiêu dùng: chủ yếu phục vụ cho nhu cầu mua sắm tiêu dùng của các 
hộ gia đình và cá nhân như mua nhà cửa, xe máy, ô tô và các phương tiện cần thiết 
khác. 
 Căn cứ vào phương thức cho vay: 
Cho vay theo hạn mức tín dụng: theo hình thức này ngân hàng và khách hàng 
thoả thuận và ký kết một hợp đồng hạn mức tín dụng duy trì theo thời hạn nhất 
định hoặc theo chu kì sản xuất kinh doanh. 
Cho vay từng lần: đây là hình thức tín dụng mà ngân hàng và khách hàng thoả 
thuận và ký kết hợp đồng riêng với mỗi khoản vay khi khách hàng có nhu cầu. Mỗi 
lần khách hàng có nhu cầu vay vốn thì việc ký kết hợp đồng sẽ được thực hiện lại 
từ đầu. 
Cho vay từng dự án đầu tư: tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực 
hiện các dự án đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư 
phục vụ đời sống. 
Cho vay hợp vốn: đối với những khoản vay lớn, một ngân hàng không đủ khả 
năng hay không được phép cho vay đòi hỏi một nhóm các TCTD cùng cho vay. 
 Trang 11 
Trong đó có một tổ chức tín dụng đứng ra làm đầu mối dàn xếp, phối hợp các 
TCTD khác để cho vay. 
Cho vay trả góp: khi vay vốn ngân hàng và khách hàng xác định và thoả thuận 
số lãi vốn vay phải trả cộng với nợ gốc được chia ra để trả nợ thành nhiều kỳ trong 
hợp đồng vay. 
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: ngân hàng cam kết bảo đảm cho 
khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tuy nhiên nhiều 
trường hợp khách hàng cần một lượng vốn lớn hơn, do đó ngân hàng và khách 
hàng thường thoả thuận một hạn mức tín dụng dự phòng lớn hơn. Đồng thời khách 
hàng và ngân hàng thường phải quy định về thời hạn hiệu lực và mức phí trả cho 
hạn mức tín dụng dự phòng. 
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: ngân hàng 
chấp thuận cho khách hàng đựơc sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín 
dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hay 
điểm ứng tiền mặt là đại lý của ngân hàng. 
Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà TCTD thoả thuận bằng 
văn bản pháp luật chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản 
thanh toán của khách hàng. 
 Căn cứ vào phương thức trả nợ: 
Trả nợ một lần: khách hàng và ngân hàng thoả thuận sẽ trả cả lãi và gốc một 
lần duy nhất. 
Trả nợ làm nhiều lần: ngân hàng tính toán chia khoản nợ ra thành nhiều kỳ để 
khách hàng có thể dễ dàng trả nợ. 
Ngoài ra ngân hàng còn sử dụng nhiều phương thức để phân loại khác như dựa 
vào hình thái tiền tệ hay dựa vào đối tượng vay... từ đó để ngân hàng có thể dễ 
dàng trong việc quản lý tránh nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng. 
 Trang 12 
2.4. Vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng. 
 Điều hoà vốn, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh quá 
trình tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế. Ngân hàng là chiếc cầu nối giữa 
những người có vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế với những người cần vốn 
để mở rộng kinh doanh, tiêu dùng…. Trên cơ sở huy động nguồn vốn trong dân cư 
hay đi vay các tổ chức kinh tế khác ngân hàng tiến hành cho vay với các cá nhân, 
tổ chức kinh tế đang cần vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh. 
Các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất kinh doanh nếu thiếu vốn. Nhờ 
nguồn vốn mà ngân hàng cho vay doanh nghiệp không những đảm bảo quá trình 
sản xuất mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ hiện đại để 
hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Từ đó 
các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá đẩy nhanh quá trình tái 
sản xuất mở rộng. Như vậy, tín dụng ngân hàng đã biến các phương tiện hoạt động 
có hiệu quả, thu hút nhanh chóng các vật tư lao động, những tiềm năng sẵn có khác 
vào sản xuất. 
 Tín dụng ngân hàng giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tín dụng ngân 
hàng là một trong những công cụ hữu hiệu để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh 
tế. Nếu muốn khuyến khích ngành nghề hay thành phần kinh tế nào phát triển, 
ngân hàng sẽ thực hiện ưu đãi tín dụng với ngành nghề hay khu vực đó. Từ đó 
ngân hàng sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp đó dễ dàng tiếp cận được vốn vay 
ngân hàng, trở thành đòn bẩy để giúp ngành nghề đó phát triển. 
Để thực hiện được việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mục đích đã định, các 
nhà ngân hàng cần phải nghiên cứu và thực thi chính sách tín dụng phù hợp để có 
thể tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều này đang là một vấn 
đề hết sức quan trọng ở nước ta, trong tình trạng cơ cấu kinh tế hiện nay còn nhiều 
bất hợp lý. Đặc biệt trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,chuyển từ nền kinh 
tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta cần phải có những 
biện pháp để thúc đẩy sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp, dịch vụ, thương 
mại, du lịch…bởi ở nước ta tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm quá lớn trong khi tỷ 
trọng các ngành khác còn quá thấp so với các nước trên thế giới. Để làm được điều 
 Trang 13 
này chính sách tín dụng đóng một vai trò hết sức quan trọng, chú trọng vào công 
tác tín dụng như vậy sẽ là một biện pháp để thực hiện thành công sự nghiệp công 
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 
 Kích thích tính năng động linh hoạt cuả các doanh nghiệp. Trong thời đại 
ngày nay, khi thông tin và công nghệ thông tin thay đổi liên tục và phát triển một 
cách rất nhanh chóng, các doanh nghiệp luôn luôn đứng trước yêu cầu cần phải 
thay đổi cho phù hợp nhu cầu của thời đại. Để thực hiện được điều này đòi hỏi các 
doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi máy móc, kỹ thuật thay nâng cấp nhà 
xưởng, đổi mới sản phẩm…và ngân hàng chính là nơi cung cấp vốn trung và dài 
hạn tốt nhất cho các doanh nghiệp. Qua đó, ngân hàng sẽ mang đến cho doanh 
nghiệp cơ hội để đổi mới kích thích tính năng động của doanh nghiệp. Không chỉ 
vậy, tín dụng ngân hàng còn thường xuyên bổ xung vốn lưu động cho doanh 
nghiệp trong quá trình hoạt động giúp doanh nghiệp nắm bắt được các cơ hội đầu 
tư. 
 Tín dụng ngân hàng giúp tăng nhanh vòng quay của vốn, giảm lượng tiền 
mặt trong lưu thông. Qua đó tín dụng ngân hàng giúp Nhà nước tăng cường quản 
lý vĩ mô nền kinh tế. Thông qua tín dụng, ngân hàng huy động được một lượng lớn 
tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, thực hiện cho vay, đầu tư vào sản xuất kinh doanh 
mà không cần phát hành thêm tiền mặt. Qua đó, ngân hàng còn thực hiện được 
nhiệm vụ điều hoà vốn giữa các vùng các ngành, các thành phần kinh tế qua đó 
việc quản lý, lưu thông tiền tệ sẽ được thực hiện tốt hơn. Hoạt động tín dụng càng 
mở rộng thì càng hạn chế phương thức thanh tóan dùng tiền mặt do ngân hàng sử 
dụng phương thức chuyển khoản, L/C ... từ đó giảm chi phí lưu thông tiền mặt 
trong nền kinh tế. 
 Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở 
rộng quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. Trong xu thế hội nhập quốc tế, mối quan hệ 
giữa các nước trên thế giới và trong khu vực được mở rộng và phát triển đa dạng 
cả về chiều rộng và chiều sâu. Đây là một trong những nhân tố quan trọng tạo điều 
kiện đặc biệt cho các nước đang phát triển trên thế giới trong đó có nước ta. Thực 
hiện chủ trương mở rộng hợp tác kinh tế, tăng cường các quan hệ đối ngoại do đó 
 Trang 14 
đầu tư vốn tín dụng thúc đẩy xuất khấu hàng hoá là mối quan tâm của các ngân 
hàng trong tình hình hiện nay. Ngân hàng với tư cách là tổ chức kinh doanh tiền tệ, 
thông qua hoạt động cho vay sẽ trở thành nền tảng, là người cung cấp vốn cho các 
nhà đầu tư kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Từ đó ngân hàng sẽ trở thành đòn 
bẩy thúc đẩy quá trình mở rộng và giao lưu kinh tế quốc tế, là phương tiện nối liền 
nền kinh tế các nước. 
Qua đó ta thấy, tín dụng ngân hàng có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với 
nền kinh tế, là phương tiện, công cụ Nhà nước không chỉ có thể sử dụng để quản 
lý, kiểm soát mà còn sử dụng để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế, thực hiện các 
chủ trương của Nhà nước. 
3. Tín dụng ngắn hạn. 
3.1. Khái niệm tín dụng ngắn hạn. 
Tín dụng ngắn hạn là một hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại được 
phân theo thời gian của khoản vay. Đó là những khoản vay có thời hạn ngắn- dưới 
1 năm do đó khoản vay này thường được dùng để đáp ứng nhu cầu thiếu vốn tạm 
thời như phục vụ cho thanh toán hàng hoá, tài trợ, bổ xung vốn lưu động hay thanh 
toán ngoại thương và phục vụ nhu cầu sinh hoạt. 
3.2. Đặc điểm. 
- Do nguồn vốn tín dụng ngắn hạn dùng để cung cấp vốn cho chi tiêu, mua 
nguyên vật liệu, trả lương, bổ xung vốn lưu động nên số vốn vay thường nhỏ, 
nguồn vốn được quay vòng nhiều. Trong khi đó đối tượng sử dụng vốn từ nguồn 
trung và dài hạn thường là những tài sản cố định có thời gian sử dung lâu dài vì 
vậy thời gian sử dụng vốn lâu, nguồn vốn không được quay vòng nhiều. 
- Thời hạn thu hồi vốn nhanh: do vốn tín dụng ngắn hạn thường được sử 
dụng để bù đắp những thiếu hụt trong ngắn hạn, để đảm bảo cân bằng ngân quỹ, 
giúp doanh nghiệp đối phó với những chênh lệch thu chi trong ngắn hạn... Thông 
thường những thiếu hụt này chỉ mang tính tạm thời hay mang tính mùa vụ, sau đó 
khoản thiếu hụt này sẽ được bù đắp hoặc sẽ sớm thu lại dưới hình thái tiền tệ vì 
vậy thời gian thu hồi vốn sẽ nhanh. 
 Trang 15 
- Rủi ro do tín dụng ngắn hạn mang lại thông thường không cao. Do khoản 
vay chỉ cung cấp trong thời gian ngắn vì vậy ít chịu ảnh hưởng của sự biến động 
không thể lường trước của nền kinh tế như các khoản tín dụng trung và dài hạn. 
Ngoài ra, các khoản vay được cung cấp cho các đơn vị sản xuất kinh doanh theo 
hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá, dựa trên tài sản bảo đảm, bảo lãnh... đồng 
thời khoản vay thường đựơc tiến hành khi có nhu cầu cấp thiết về vốn ngắn hạn và 
chắc chắn sẽ có khoản thu bù đắp trong tương lai vì vậy rủi ro mang đến thường 
thấp. 
- Lãi suất thấp: lãi suất cho vay được hiểu là khoản chi phí người đi vay trả 
cho nhu cầu sử dụng tiền tạm thời của ngươì khác. Chính vì rủi ro mang lại của 
khoản vay thường không cao do đó lãi suất người đi vay phải trả thông thường nhỏ 
hơn lãi suất khoản vay tín dụng trung và dài hạn tương ứng. 
- Hình thức tín dụng phong phú: Để đáp ứng nhu cầu hết sức đa dạng của 
khách hàng, để góp phần phân tán rủi ro, đồng thời để tăng cường sức cạnh tranh 
trên thị trường tín dụng, các ngân hàng thương mại không ngừng phát triển các 
hình thức cho vay trong nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của mình. Điều đó đã làm 
cho các hình thức tín dụng ngắn hạn rất phong phú như: nghiệp vụ ứng trước, 
nghiệp vụ thấu chi, nghiệp vụ chiết khấu... 
- Là loại hình kinh doanh chủ yếu tại các ngân hàng thương mại. Xuất phát từ 
đặc trưng của ngân hàng thương mại: là ngân hàng kinh doanh tiền gửi, mà trong 
đó chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn, nên để đảm bảo khả năng thanh khoản của mình, 
các ngân hàng thương mại đã cho vay chủ yếu là ngắn hạn. 
3.3. Các hình thức tín dụng ngắn hạn 
3.3.1. Chiết khấu thương phiếu 
Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại, 
trong đó ngân hàng trao cho người có trái phiếu một số tiền bằng giá trị đáo hạn 
của trái phiếu trừ đi một số tiền lãi, hoa hồng và một số chi phí khác. Tiền lãi tính 
từ ngày chiết khấu tới ngày đáo hạn trái phiếu. 
 Trang 16 
Chứng từ chiết khấu có một số đặc trưng là: chứng từ có giá ; được thanh 
toán số tiền đúng bằng mệnh giá chứng từ chiết khấu; thời hạn thanh toán là thời 
hạn ngắn ( 90 đến 180 ngày). 
Trong nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng đưa cho khách hàng của mình một số 
tiền để sử dụng ngay và chỉ thu số tiền đó về khi trái phiếu đáo hạn. Về nguyên tắc, 
ngân hàng có thể nhận chiết khấu tất cả các trái phiếu nhưng thông thường ngân 
hàng thích nhất là hối phiếu. 
Khi khách hàng có nhu cầu chiết khấu, khách hàng phải nộp cho ngân hàng 
các loại giấy tờ sau: 
- Đơn xin chiết khấu 
- Bảng kê thương phiếu kèm theo các thương phiếu xin chiết khấu. 
Sau khi nhận được các hồ sơ, ngân hàng tiến hành thẩm định các mặt sau: 
- Tính hợp pháp, hợp lệ của các thương phiếu 
- Xem xét mối quan hệ thương mại của các chủ thể liên quan đến thương 
phiếu. 
- Nghiên cứu khả năng trả nợ của các chủ thể có liên quan, đặc biệt là người 
thụ lệnh (người phải thanh toán thương phiếu) và người thụ hưởng (người xin chiết 
khấu). 
Ngân hàng chỉ chấp nhận chiết khấu những thương phiếu đủ điều kiện sau: 
- Còn thời hạn thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước 
- Phải hợp lệ về mặt hình thức và nội dung 
- Đối với hối phiếu thì phải có chữ ký chấp nhận của người thụ tạo 
- Khách hàng phải chuyển nhượng quyền sở hữu cho ngân hàng dưới hình 
thức ký hậu. 
Sau khi thẩm định, ngân hàng loại trừ những thương phiếu không đủ điều 
kiện chiết khấu hay còn nghi ngờ khả năng thanh toán, rồi tính số tiền ngân hàng 
trả cho khách hàng theo các thương phiếu nhận chiết khấu. 
 Trang 17 
Đến thời hạn thanh toán thương phiếu, ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ ở người 
chịu trách nhiệm thanh toán thương phiếu. Nếu người này không thanh toán, ngân 
hàng có thể chọn một trong hai cách xử lý sau: 
- Ngân hàng có thể trích tài khoản tiền gửi thanh toán của người xin chiết 
khấu để thu hồi, sau đó trả lại thương phiếu để họ tự đòi nợ. 
- Ngân hàng tiến hành thủ tục để truy đòi số nợ: theo luật định, ngân hàng 
có quyền chỉ định một trong số những người tham gia ký chuyển nhượng thương 
phiếu để trả nợ cho ngân hàng. Trong trường hợp này, ngân hàng thường chỉ định 
người nào có đủ khả năng tài chính nhất. 
Ưu điểm và nhược điểm của nghiệp vụ chiết khấu: 
Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng có khá nhiều ưu điểm, đó là: 
- Chiết khấu là nghiệp vụ ít rủi ro, khả năng thu hồi nợ của ngân hàng là khá 
chắc chắn. 
- Đây là hình thức tín dụng khá đơn giản, ít phiền phức với ngân hàng. 
- Chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng vì thời hạn chiết khấu 
ngắn và ngân hàng thương mại có thể khá dễ dàng xin tái chiết khấu thương phiếu 
ở Ngân hàng Nhà nước. 
- Tiền cấp cho khách hàng khi chiết khấu thường được chuyển vào tài khoản 
tiền gửi của khách hàng, bởi vậy nó lại tạo nguồn vốn cho ngân hàng. 
- Tất cả những ai kí tên vào thương phiếu đều có trách nhiệm thanh toán và 
trong thực tế không một doanh nghiệp nào từ chối thanh toán do đó đây là hình 
thức cho vay ít rủi ro nhất. 
Tuy vậy, trong nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng thương mại vẫn có thể gặp 
phải rủi ro do ba nguyên nhân cơ bản sau: 
- Ngân hàng nhận chiết khấu những thương phiếu giả mạo. 
- Giấy nhận nợ luân chuyển theo dây chuyền trong đó có một khâu hỏng 
dẫn đến khó khăn trong thanh toán. 
 Trang 18 
- Công ty mẹ phát hành cho Công ty ty con nhưng Công ty mẹ phá sản. 
3.3.2. Nghiệp vụ tín dụng ngân quỹ 
Tín dụng ngân quỹ là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn mà trong đó ngân hàng 
cho khách hàng vay để đảm bảo sự cân đối ngân quỹ hàng ngày của khách hàng và 
được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu là ứng trước trên tài khoản hoặc thấu 
chi. 
3.3.2.1. Ứng trước trên tài khoản 
Ứng trước trên tài khoản là loại tín dụng mà ngân hàng cho khách hàng vay 
tiền bằng cách mở và ứng cho họ một số tiền trên tài khoản của khách hàng tại 
ngân hàng. Từ tài khoản đó, khách hàng có thể ký phiếu lĩnh tiền tới mức tín dụng 
mà ngân hàng cấp cho mình. 
Nếu căn cứ vào tính chất đảm bảo thì tín dụng ứng trước bao gồm: ứng trước 
có đảm bảo và ứng trước không đảm bảo. 
- Ứng trước có bảo đảm: khi nào khách hàng thực sự vay tiền thi phải thế 
chấp hay cầm cố một tài sản hay một giá trị làm đảm bảo nhất định cho khoản tiền 
vay đồng thời khách hàng phải ký một lệnh phiếu trao cho ngân hàng giữ cam kết 
hoàn trả số tiền đã vay vào thời điểm nhất định. 
- Trong trường hợp không có tài sản bảo đảm, hay tài sản bảo đảm kém giá 
trị khách hàng có thể nhờ một người có tài sản bảo lãnh số nợ đó bằng một tờ cam 
kết. Người bảo lãnh do khách hàng chọn nhưng phải được sự chấp nhận của ngân 
hàng. 
Nếu căn cứ vào các thức sử dụng tiền vay thì tín dụng ứng trước có hai cách 
sử dụng tiền vay: 
- Sau khi đã ký kết hợp đồng tín dụng, ngân hàng tiến hành cho vay theo 
mức cho vay đã thoả thuận, ngân hàng chuyển toàn bộ số tiền cho vay vào tài 
khoản tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp để doanh nghiệp tuỳ ý sử dụng theo 
nhu cầu. Đây là cách cho vay mà các ngân hàng thường áp dụng. 
 Trang 19 
- Khách hàng được sử dụng dần số tiền vay trên tài khoản vay (tài khoản 
ứng trước). Việc sử dụng bằng cách phát hành séc để chi trả mang số hiệu tài 
khoản ứng trước. Khi tờ séc do khách hàng phát hành quay trở về ngân hàng thì 
ngân hàng trích tài khoản vay để chi trả. 
Khách hàng có thể sử dụng tiền vay một hoặc nhiều lần. Nếu khách hàng phát 
hành séc để chi trả (mang số hiệu tài khoản vay) vượt mức cho vay đã thoả thuận 
thì ngân hàng áp dụng các biện pháp chế tài do phát hành séc không có tiền bảo 
chứng. 
Đây là một trong hai hình thức tín dụng ứng trước mà các ngân hàng thương 
mại có thể áp dụng song không phổ biến. 
Ưu, nhược điểm của loại tín dụng ứng trước 
Ưu điểm: 
- Đối với ngân hàng: vốn ngân hàng cho vay thường không phải rút ngay 
một lúc vì nhu cầu vốn của khách hàng phát sinh dần dần và nếu khách hàng dùng 
tiền ứng trước đó vào việc thanh toán cho khách hàng khác có tài khoản tại ngân 
hàng ấy thì nguồn vốn của ngân hàng không bị hao hụt. Mặt khác, với cách cho 
vay này thì ngân hàng được hưởng một khoản lãi tính trên toàn bộ số tiền ứng 
trước trong suốt thời gian cho vay dù khách hàng có sử dụng hết hay không hết số 
tiền đó. 
- Đối với khách hàng: được sử dụng vốn một cách chủ động. Có thể đáp ứng 
tính thời vụ về vốn của họ. 
Nhược điểm: 
- Đối với ngân hàng: loại cho vay này có rất nhiều rủi ro do ngân hàng khó 
kiểm soát việc sử dụng tiền vay của khách hàng. 
- Đối với khách hàng thì phải chịu toàn bộ lãi tính trên số tiền cho vay trong 
thời gian đã thoả thuận (dù thực tế họ không sử dụng hết). 
 Trang 20 
3.3.2.2. Thấu chi. 
Thấu chi là loại tín dụng mà qua đó ngân hàng cho phép khách hàng được sử 
dụng vượt quá số tiền mà họ đã ký thác ở ngân hàng trên tài khoản vãng lai với 
một số lượng và thời hạn nhất định. Xuất phát từ việc nếu doanh nghiệp có số dư 
trên tài khoản tiền gửi mới được quyền chi tiêu, nhưng do một lý do nào đó mà số 
dư trên tài khoản tiền gửi không đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu. Trường hợp đó ngân 
hàng có thể xem xét chấp nhận để khách hàng được quyền chi tiêu một số tiền 
vượt quá số hiện có trên tài khoản. Mục đích của ngân hàng chỉ để giúp khách 
hàng giải quyết khó khăn tạm thời về tài chính. 
Tài khoản vãng lai là tài khoản có tính chất đặc biệt, trong đó khách hàng và 
ngân hàng cam kết trả nợ lẫn nhau bằng phương pháp bù trừ. Với những tài khoản 
tiền gửi khác, khách hàng chỉ được phép sử dụng trong giới hạn số dư có của tài 
khoản đó, nếu sử dụng quá số tiền trên là vi phạm vì phát hành séc không có hay 
thiếu tiền bảo chứng. Song đối với tài khoản vãng lai, giữa ngân hàng và khách 
hàng có thể thoả thuận cho phép tài khoản dư có hoặc dư nợ, số dư nợ được hai 
bên thoả thuận đến một giới hạn tối đa nào đó (hạn mức dư nợ), quá hạn mức này 
thì các tờ séc của khách hàng bị coi như thiếu hay không có bảo chứng. 
Như vậy, nếu tài khoản dư có thì số dư đó thể hiện tiền gửi của khách hàng ở 
ngân hàng và thông thường ngân hàng phải trả cho khách hàng lãi tiền gửi. Nếu tài 
khoản dư nợ thì số nợ đó thể hiện tiền ngân hàng cho vay và khách hàng phải trả 
lãi tiền vay cho ngân hàng. 
Điều kiện đi vay của khách hàng: 
- Đơn vị có tình hình tài chính tốt. 
- Nhu cầu chi tiêu đó thực sự là bức bách và không quá lớn như nhu cầu trả 
lương cho cán bộ công nhân viên. 
- Khách hàng cần chứng minh được là sẽ có nguồn thu để trả 
Qua phần trình bày trên, ta thấy tín dụng thấu chi có các đặc điểm sau: 
- Giữa ngân hàng và khách hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng để khách 
hàng được sử dụng số dư nợ trên tài khoản vãng lai trong một thời hạn nhất định. 
 Trang 21 
- Khách hàng sử dụng vốn bằng cách phát hành séc mang số hiệu tài khoản 
vãng lai hoặc bằng các công cụ thanh toán khác. 
- Doanh số cho vay có thể lớn hơn hạn mức nếu trong quá trình sử dụng tiền 
trên tài khoản khách hàng có tiền nộp vào bên có. 
- Hạn mức tín dụng mà ngân hàng và khách hàng đã thoả thuận với nhau 
chưa phải là tiền ngân hàng cho vay mà chỉ khi nào khách hàng sử dụng (có xuất 
hiện dư nợ của tài khoản vãng lai) mới được coi là ngân hàng cho vay và được tính 
tiền lãi trên số dư nợ đó. 
- Vượt chi tài khoản là kỹ thuật cho vay mà số dư nợ thường xuyên biến 
động vì thế khó thực hiện được đảm bảo tín dụng bằng hình thức bảo đảm đối vật. 
Ưu nhược điểm của loại tín dụng vượt chi tài khoản 
Đối với khách hàng loại tín dụng vượt chi là khoản tạo cho khách hàng những 
thuận lợi đáng kể nhờ vào sự chủ động, linh hoạt khi sử dụng. Việc cho phép vượt 
chi trên tài khoản vãng lai giúp cho việc cân đối ngân quỹ mà tránh phải đi xin vay 
nhiều lần với thủ tục phức tạp trong một kỳ, khi mà ngay sau đó lại có những 
khoản thu được chuyển vào tài khoản để giảm bớt việc phải trả lãi cho ngân hàng. 
Do tính chủ động và linh hoạt như vậy mà tín dụng vượt chi tài khoản đáp 
ứng được yêu cầu của những doanh nghiệp mong muốn quản lý vốn có hiệu quả, 
do đó hầu hết các doanh nghiệp có yêu cầu sử dụng hình thức tín dụng này nhằm 
điều hoà thường xuyên ngân quỹ của họ. 
Với hình thức tín dụng này, ngân hàng luôn luôn phải dự trữ vốn để sẵn sàng 
đáp ứng nhu cầu của khách hàng khi họ còn hạn mức tín dụng, nhưng trên thực tế 
họ có thể không sử dụng hoặc không sử dụng hết hạn mức tín dụng đó. Trong khi 
ấy, ngân hàng không được tính lãi trên toàn bộ số tiền và thời hạn cho vay đã thoả 
thuận (để giải quyết mâu thuẫn này các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải 
trả một khoản phí cam kết theo một tỷ lệ nhất định tính trên hạn mức tín dụng, 
không kể đến việc hạn mức tín dụng đó được sử dụng như thế nào). 
Mặt khác, tiền ngân hàng cho vay không nhằm mục đích cụ thể nào theo chỉ 
định của ngân hàng mà thường do khách hàng tuỳ ý sử dụng. Các đảm bảo nếu có 
 Trang 22 
chỉ là yếu tố phụ, ngân hàng khó có thể kiểm soát được việc sử dụng tiền vay. Vì 
vậy, sự rủi ro của ngân hàng có thể nhiều hơn các nghiệp vụ tín dụng khác. Từ 
những nhược điểm trên mà ngân hàng thường áp dụng hình thức tín dụng này đối 
với những khách hàng quen thuộc, có tín nhiệm và ngân hàng có ý muốn giúp đỡ 
mà thôi. 
3.4. Nhu cầu tín dụng ngắn hạn. 
Trong giai đoạn quá độ hiện nay, hơn 90% số doanh nghiệp kinh doanh trên 
nước ta là những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, lượng vốn tự có của doanh 
nghiệp không cao do đó doanh nghiệp rất dễ mắc phải những khó khăn dưới đây 
dẫn đến nhu cầu vay các khoản ngắn hạn. 
- Trong chu kỳ tiền mặt của doanh nghiệp, ban đầu tiền mặt được sử dụng 
để mua nguyên liệu dự trữ, bán thành phẩm hoặc thành phẩm; hàng hoá được sản 
xuất hoặc dự trữ để bán sau đó được bán ra (thường là bán chịu) ; cuối cùng là thu 
tiền mặt về. Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể tránh khỏi có sự lệch pha giữa thời 
hạn thanh toán tiền hàng của khách hàng và thời gian mua nguyên vật liệu để tiếp 
tục đầu tư mở rộng sản xuất. Chính vì vậy, doanh nghiệp thường phải vay vốn 
ngân hàng để đáp ứng sự thiếu hụt tiền mặt tạm thời này. Do đó khoản vay cũng 
thường đựơc đảm bảo bằng khoản sẽ thu hay hàng tồn kho. 
- Doanh nghiệp có khó khăn tạm thời về tài chính: doanh nghiệp cần tiền để 
thanh toán nhưng lại không có chứng từ để phản ánh mối quan hệ mua bán chịu đó 
trong khi đó số dư trên tài khoản của họ không đủ chi tiêu khi đó doanh nghiệp rất 
cần các khoản vay ngắn hạn để giải quýêt những khó khăn này. Trường hợp này 
xảy ra khi đến kỳ trả lương cho nhân viên, phải trả nợ thiếu của khách hàng, thông 
thường các khoản này không quá lớn và ngân hàng có thể xem xét cho khách hàng 
chi vượt. 
- Doanh nghiệp có một lượng tài sản dự tính sẽ chuyển thành tiền mặt trong 
tương lai gần, lượng tài sản này gây trở ngại làm ứ đọng vốn kinh doanh của doanh 
nghiệp, trường hợp này doanh nghiệp muốn sử dụng lượng tài sản này để xin vay 
giải quyết khó khăn về vốn do lượng tài sản này gây ra. 
 Trang 23 
- Vào mùa kinh doanh sản phẩm của mình doanh nghiệp cần mở rộng quy 
mô, gia tăng hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng thiếu vốn đầu tư mở rộng. Khi 
nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường được dự đoán tăng cao 
nhưng doanh nghiệp hiện thời thiếu vốn để mở rộng… 
3.5. Vai trò của tín dụng ngắn hạn. 
Tín dụng ngắn hạn đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều rộng, thúc đẩy mở 
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là một trong những vai trò quan trọng 
nhất của tín dụng ngắn hạn. Thông qua việc cung cấp vốn tín dụng để mua nguyên 
vật liệu phục vụ sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tín 
dụng ngắn hạn góp phần giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất. Nước ta đang trên 
đà CNH- HĐH, tuy nhiên do đặc điểm nước ta nền kinh tế vẫn đang trong giai 
đoạn quá độ vì vậy sản xuất nhỏ vẫn là chủ yếu- các doanh nghiệp vừa và nhỏ 
chiếm trên 90% tổng số các doanh nghiệp. Đặc điểm chủ yếu của loại hình doanh 
nghiệp này lại là sản xuất nhỏ, nguồn vốn chủ sở hữu nhỏ, hoạt động kinh doanh 
lại gắn với địa phương và theo mùa vụ. Chính vì vậy, nhu cầu vay vốn ngắn hạn 
của các doanh nghiệp này là khá lớn và thường xuyên. Đảm bảo cung cấp vốn tín 
dụng ngắn hạn cho các doanh nghiệp chính là giúp các doanh nghiệp này mở rộng 
sản xuất từ đó có thêm nguồn vốn đầu tư vào kinh doanh dần dần trở thành các 
doanh nghiệp với quy mô lớn, góp phần đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước. 
Kích thích tính năng động, linh hoạt, tăng khả năng cạnh tranh của các 
doanh nghiệp: Tín dụng ngắn hạn là nguồn cung cấp vốn kịp thời cho các nhà kinh 
doanh trong trường hợp họ gặp khó khăn về vốn tạm thời như: muốn mở rộng sản 
xuất vào mùa vụ, cần trả tiền cho khách để giữ uy tín, trả lương cho công nhân... từ 
đó giúp doanh nghiệp có thể đối phó với những khó khăn về vốn, giữ cân bằng thu 
chi, điều hoà vốn. Ngoài ra vốn tín dụng ngắn hạn chỉ cung cấp trong một thời gian 
ngắn do đó đòi hỏi doanh nghiệp cần đẩy nhanh tiến độ sản xuất kinh doanh – kích 
thích tính năng động của các doanh nghiệp. 
Giúp tăng nhanh vòng quay của vốn: do tín dụng ngắn hạn là khoản tín dụng 
cung cấp trong thời gian ngắn vì vậy doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp 
 Trang 24 
nhanh chóng thu hồi vốn để trả nợ ngân hàng qua đó thúc đẩy gia tăng vòng quay 
vốn. 
4. Mở rộng hoạt động tín dụng. 
4.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng. 
Những năm 70 khi hầu hết các NHTM trên thế giới đều chịu sự quản lý hết 
sức chặt chẽ của chính phủ thông qua việc ấn định lãi suất tiền gửi, hạn chế mở chi 
nhánh, giới hạn mức cho vay tối đa, giới hạn phạm vi hoạt động… Các ngân hàng 
không phải đối phó với những thay đổi đột xuất trên thị trường, nên yên tâm hoạt 
động không cần quan tâm đến nhu cầu của khách hàng. Chính phủ khống chế sao 
cho “chiếc bánh thị trường” luôn đủ no cho các NHTM. Do đó các ngân hàng hoạt 
động theo nguyên tắc yên tâm bán cái mình có. Tuy nhiên, sau thời kỳ trên, nhằm 
tạo sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách 
mới…tất cả đã tạo nên không khí cạnh tranh sôi nổi, buộc các ngân hàng phải quan 
tâm tới thị trường, khách hàng nếu muốn mở rộng tín dụng, muốn tồn tại. 
Ngoài những yếu tố mang tính khách quan tác động đến quy mô và cơ cấu 
khoản vay như vị trí địa lý của ngân hàng, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của 
đất nước, quy mô, cơ cấu ngân hàng… thì những vấn đề bên trong ngân hàng như 
chính sách khách hàng, dịch vụ ngân hàng cung cấp, công tác thông tin tuyên 
truyền, mở rộng mạng lưới… là những nhân tố đóng vai trò rất quan trọng trong 
việc mở rộng hoạt động tín dụng. Mục tiêu cuối cùng của các chính sách đó chính 
là nhằm thoả mãn một cách tối đa nhu cầu của khách hàng, qua đó thu hút khách 
hàng quan hệ tín dụng với ngân hàng. Đó cũng chính là mục tiêu của hoạt động 
Marketing. 
 Chính vì vậy, để thực hiện tốt chính sách khách hàng, công tác mở rộng 
mạng lưới, thông tin tuyên truyền thì ngân hàng cần nhất phải chú trọng công tác 
Marketing ngân hàng - đó là công cụ hữu hiệu nhất để nâng cao sức mạnh cạnh 
tranh, để chiến thắng đối thủ cạnh tranh, mở rộng các đối tượng và quy mô vay 
vốn của khách hàng. 
 Trang 25 
4.2. Nội dung của Marketing tín dụng. 
Nội dung của Marketing tín dụng tập trung vào 4 vấn đề chính: Chính sách 
về sản phẩm, chính sách về giá cả, chính sách về phân phối và chính sách tuyên 
truyền quảng cáo. 
4.2.1. Chính sách về sản phẩm tín dụng 
Cụ thể là nghiên cứu các hình thức tín dụng, mỗi hình thức cho vay là một 
sản phẩm cụ thể. Nội dung của chính sách này phải giải quyết được câu hỏi: Khả 
năng thích ứng của các hình thức tín dụng hiện tại đối với nhu cầu thị trường ở 
mức nào? Định hướng cải tiến đổi mới hình thức tín dụng cũ và phát triển ra đời 
các hình thức tín dụng mới. Ngân hàng cần tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng với chất 
lượng cao để khách hàng lựa chọn. 
Sản phẩm dịch vụ ngân hàng ngoài hai thuộc tính như những hàng hoá, dịch 
vụ thông thường, nó còn mang những nét đặc thù riêng biệt bởi lẽ ngân hàng 
không chỉ hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận mà còn nhiệm vụ quan trọng 
khác là ổn định sức mua đồng tiền, kiềm chế, kiểm soát lạm phát tạo đà tăng 
trưởng kinh tế. Sản phẩm của ngân hàng thường đơn điệu- bao gồm những nghiệp 
vụ cơ bản- và có tính xã hội hoá và tính công cộng cao do tất cả các ngân hàng đều 
kinh doanh những sản phẩm này. Tuy nhiên hoạt động của ngân hàng lại phải chịu 
sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, phải hoạt động trong hành lang hẹp của pháp luật. 
Cho nên, ngân hàng phải có chính sách sản phẩm tốt và phù hợp bằng những biện 
pháp như: 
- Hoàn thiện và củng cố chất lượng sản phẩm dịch vụ hiện có 
- Phát triển sản phẩm mới, cần đưa ra thị trường những sản phẩm thay thế 
khi thấy đủ điều kiện và ở thời điểm thích hợp, chọn cách đưa sản phẩm mới vào 
thị trường hợp lý. 
- Thường xuyên đánh giá, phân tích sản phẩm dịch vụ để tìm kiếm lợi ích 
riêng có của sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. 
- Luôn gắn biểu tượng, hình ảnh tốt của ngân hàng mình trong các sản phẩm 
dịch vụ chung ứng cho khách hàng. 
 Trang 26 
Việc phát triển hình ảnh của sản phẩm doanh nghiệp ngân hàng ngày càng 
trở nên quan trọng. Đi đôi với nó là sự phát triển và duy trì nhóm sản phẩm doanh 
nghiệp thích hợp trên cơ sở tập hợp những yêu cầu của khách hàng; nhóm sản 
phẩm dịch vụ đó cần được theo dõi để hoàn thiện và đưa ra sản phẩm dịch vụ mới. 
Quá trình phát triển sản phẩm dịch vụ trong lĩnh vực ngân hàng có xu hướng tập 
trung vào việc hoàn thiện những sản phẩm dịch vụ hiện tại và phát triển sản phẩm 
dịch vụ mới. 
4.2.2. Chính sách về giá cả (lãi suất cho vay) 
Giá của sản phẩm dịch vụ ngân hàng là số tiền mà khách hàng hay ngân 
hàng phải trả để được quyền sử dụng một khoản tiền trong thời gian nhất định 
hoặc sử dụng các sản phẩm dịch vụ do ngân hàng cung cấp. Với các sản phẩm là 
các khoản tín dụng ngân hàng cung cấp ở đây thì giá cả chính là lãi suất cho vay. 
Chính sách giá cả cần hướng tới những mục tiêu: 
- Thu hút khách hàng mới và phải tăng sức cạnh tranh cho ngân hàng. 
- Tăng doanh số hoạt động là mục tiêu quan trọng của chiến lược giá. 
- Chiến lược giá phải nhằm vào việc tăng cường mối quan hệ giữa ngân 
hàng và khách hàng. 
Định giá là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động và kết quả hoạt động 
của cả ngân hàng và khách hàng, đến thu nhập và mối quan hệ giữa khách hàng và 
ngân hàng. Việc định giá sản phẩm dịch vụ ngân hàng hết sức phức tạp vì nó bị chi 
phối bởi nhiều nhân tố. Vì vậy, khi xây dựng chính sách giá, các ngân hàng thường 
phải dựa trên những căn cứ sau: 
- Chi phí là các nguồn lực mà ngân hàng phải bỏ ra để duy trì sự hoạt động 
và cung cấp sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Chi phí gồm hai loại cơ bản là chi 
phí cố định và chi phí biến đổi. Giá của sản phẩm dịch vụ ngân hàng tối thiểu phải 
bù đắp đủ các chi phí phát sinh. Cách thức tổ chức cung ứng sản phẩm dịch vụ, 
chất lượng dịch vụ, trình độ kỹ thuật, chuyên môn của đội ngũ cán bộ nhân viên 
khác nhau sẽ dẫn đến chi phí khác nhau và cũng tạo nên sự khác biệt về giá giữa 
các ngân hàng. Thực tế, các ngân hàng thường gặp khó khăn trong việc xác định 
 Trang 27 
chính xác cơ cấu chi phí đối với từng sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Vì vậy, việc 
định giá sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng thường hướng tới việc xác định tổng 
chi phí, tổng thu nhập hơn là xác định chi phí cho từng loại sản phẩm dịch vụ. 
- Rủi ro thực chất là các khoản chi phí tiềm ẩn. Khi rủi ro phát sinh, nó sẽ 
trở thành các khoản chi phí thực mà ngân hàng phải bù đắp trong quá trình hoạt 
động. Do vậy, định giá cho các sản phẩm dịch vụ ngân hàng phải tính đến yếu tố 
rủi ro. Đối với các sản phẩm có rủi ro cao hơn, ngân hàng thường phải định một 
mức giá cao hơn và ngược lại. 
- Đặc điểm cầu của khách hàng. Các nhóm khách hàng khác nhau đặc điểm 
đường cầu khác nhau và có phản ứng khác nhau với những thay đổi của giá (có 
nhóm nhạy cảm nhưng có nhóm không nhạy cảm với giá). Do đó, để tối ưu hoá lợi 
nhuận, ngân hàng thường định giá căn cứ và sự phản ứng của khách hàng đối với 
giá. Đối với nhóm ít nhạy cảm, ngân hàng có thể áp dụng mức cao hơn và ngược 
lại. 
- Giá của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Ngân hàng phải tính tới yếu 
tố này khi xác định giá sản phẩm dịch vụ, vì giá là nhân tố ảnh hưởng lớn tới năng 
lực cạnh tranh của ngân hàng. Nếu một ngân hàng định giá cao trong khi chất 
lượng sản phẩm dịch vụ không có gì vượt trội, sức hấp dẫn của sản phẩm dịch vụ 
lại thấp chắc chắn sẽ có nhiều khách hàng chuyển sang sử dụng sản phẩm dịch vụ 
của các ngân hàng khác có giá kích thích hơn. 
4.2.3. Chính sách phân phối. 
Đây là chính sách bán hàng của ngân hàng. Nội dung chủ yếu là bán hàng 
cho ai và bán hàng như thế nào? Đối với ngân hàng, việc lựa chọn để bán hàng cho 
ai cực kỳ quan trọng vì ngân hàng chỉ bán “quyền sử dụng vốn” chứ không bán 
“quyền sở hữu vốn”. Do đó, nguyên tắc bán hàng là “chọn mặt gửi vàng”. Bán như 
thế nào là nghiên cứu tập hợp toàn bộ những phương tiện và phương pháp đưa vốn 
tín dụng đến khc theo các mục tiêu đã chọn. 
Nhờ có chính sách phân phối mà sản phẩm dịch vụ của ngân hàng được 
thực hiện nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Chính sách phân phối 
 Trang 28 
đóng vai trò tích cực trong việc nắm bắt nhu cầu của khách hàng để ngân hàng chủ 
động trong việc cải tiến hoàn thiện sản phẩm dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi trong 
việc cung cấp sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cho khách hàng. 
Hoạt động kinh doanh ngân hàng mang nét đặc thù rất lớn do vậy trong quá 
trình phân phối cũng cần có một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đội ngũ nhân sự 
năng động, tinh nhuệ: 
- Nhà cửa đồ sộ, chắc chắn tạo uy tín với khách hàng, thu hút khc nhiều hơn 
bởi độ tin cậy vào tài sản. 
- Đội ngũ nhân sự năng động, nhiệt tình, kỹ thuật nghiệp vụ cao có thiện 
cảm với khách hàng, mức phán quyết về khối lượng dịch vụ cung ứng cho mỗi loại 
nhân viên ngân hàng là cần thiết, tạo niềm tin cho khách hàng. 
Mạng lưới văn phòng giao dịch, chi nhánh trong phân phối cũng rất cần 
thiết, một địa điểm phù hợp, thuận tiện cho giao dịch sẽ tiết kiệm và đẩy nhanh 
tiêu thụ. Một mạng lưới rộng khắp, phân theo địa danh hành chính đôi lúc gây cản 
trở, lãng phí trong giao dịch ngân hàng, ngược lại một mạng lưới phân phối được 
nghiên cứu kỹ càng “ở đâu có nhu cầu về sản phẩm, xét thấy hiệu quả” đặt chi 
nhánh văn phòng giao dịch, số lượng nhân viên tuỳ thuộc vào khối lượng công 
việc, sự phát triển của đơn vị.... là tiết kiệm, hiệu quả. Hoạt động ngân hàng cung 
cấp dịch vụ tại nhà thông qua bưu điện, máy vi tính được nối mạng, đội ngũ nhân 
sự tận tâm hoà nhã cũng giúp cho ngân hàng phân phối sản phẩm tốt có hiệu quả. 
Phong cách phục vụ, thái độ phục vụ, kỹ năng ứng xử với khách hàng, mối quan 
hệ gia đình, bạn bè thân thuộc cũng giúp ích cho việc phân phối dịch vụ ngân hàng 
tốt hơn. 
Hiện nay, có các cách cung cấp sản phẩm, dịch vụ như: 
- Các chi nhánh cung cấp tất cả các loại sản phẩm, dịch vụ, đây là cách cung 
cấp truyền thống yêu cầu khách hàng phải đến ngân hàng để giao dịch. 
- Các chi nhánh cung cấp một số dịch vụ ngân hàng đặc biệt hay chuyên 
biệt: Ưu điểm chi phí thấp, chuyên môn cao, chỉ cung cấp các dịch vụ có lợi nhuận 
cao do đó nâng cao lợi nhuận của ngân hàng. 
 Trang 29 
- Các chi nhánh tự động hoàn toàn nhờ vào kỹ thuật điện tử: Ưu điểm nhanh 
chóng, phí thấp, nhưng đôi lúc mọi người cũng không tin vào máy móc lắm. 
- Thiết bị đầu cuối thông minh đảm bảo liên lạc giữa khách hàng và ngân 
hàng thông qua máy tính được nối mạng, khai thác để thực hiện các dịch vụ 
chuyển tiền, tín dụng thu, nhận từ ngân hàng tất cả các thông tin tư vấn, giải thích. 
- Các dịch vụ ngân hàng tại nhà: Thực hiện các giao dịch tại nhà thông qua 
hệ thông thông tin liên lạc bằng điện thoại, với sự trợ giúp đắc lực của máy tính 
các dịch vụ ngân hàng được xử lý, cung ứng nhanh chóng thoả mãn tối đa nhu cầu 
của khách hàng mà họ không phải ra khỏi nhà. 
Việc lựa chọn cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng bằng cách nào phụ 
thuộc vào nhiều yếu tố, đó là đặc điểm của thị trường, tính chất của sản phẩm dịch 
vụ ngân hàng, đặc điểm của môi trường kinh doanh, mức độ cạnh tranh trên thị 
trường, trình độ kĩ thuật công nghệ của ngân hàng, quan điểm của các nhà lãnh đạo 
ngân hàng, đặc biệt là nhu cầu và xu hướng phát triển nhu cầu của khách hàng trên 
thị trường ngân hàng. 
4.2.4. Chính sách tuyên truyền quảng cáo 
Các hoạt động truyền thông làm cho công chúng hiểu rõ, đầy đủ hơn về sản 
phẩm dịch vụ ngân hàng giúp khách hàng có căn cứ quyết định việc lựa chọn sản 
phẩm và dịch vụ ngân hàng. Các hoạt động quan hệ giúp các nhà ngân hàng nắm 
được những thông tin phản hồi từ khách hàng cả về mức độ thoả mãn và sự không 
hài lòng của chất lượng sản phẩm dịch vụ. Đây sẽ là căn cứ quan trọng để ngân 
hàng điều chỉnh sản phẩm, giá, hệ thống phân phối và các hoạt động khác cho phù 
hợp với nhu cầu mong muốn của khách hàng. 
Trong hoạt động tín dụng, chính sách tuyên truyền quảng cáo nhằm mục 
đích giới thiệu các hình thức, thể loại cho vay, cơ chế, chính sách cho vay... Vấn 
đề này giúp ngân hàng mở rộng và phát triển các loại dịch vụ cung ứng, tạo mối 
quan hệ rộng lớn từng bước mở rộng thị trường, tăng sự thích ứng, tăng hiệu quả 
trong kinh doanh. 
Như vậy, mục tiêu của chính sách tuyên truyền quảng cáo, nhằm đạt đến: 
 Trang 30 
- Số lượng người biết đến ngân hàng nhiều lên trong thời gian ngắn. 
- Số lượng sản phẩm dịch vụ tiêu thụ tăng lên, doanh thu tăng lên. 
- Chi phí quản lý điều hành phân bổ cho sản phẩm tiêu thụ giảm xuống, lợi 
nhuận tăng lên trên một đơn vị sản phẩm. 
Hoạt động tuyên truyền, quảng cáo phải được thực hiện thường xuyên, lựa 
chọn cách thức quảng cáo phù hợp: 
- Có thể quảng cáo thông qua ưu thế sản phẩm riêng có trên thị trường. 
- Quảng cáo gây ấn tượng, cảm giác mạnh, lâu quên... 
Trong khi tuyên truyền, quảng cáo cấn lưu ý các vấn đề cơ bản sau: 
- Ngôn từ, hình ảnh, biểu tượng khi quảng cáo phải chuẩn xác, thống nhất, 
ngắn gọn, gây ấn tượng, dễ hiểu, dễ nhớ. 
- Phải phản ánh được tầm nhìn, mục tiêu chiến lược mà ngân hàng muốn đạt 
tới hiện tại và tương lai. 
- Phải giới thiệu được hình ảnh riêng biệt của ngân hàng khi tuyên truyền, 
quảng cáo. 
- Những biện pháp cơ bản của ngân hàng để đặt được mục tiêu chiến lược 
và tạo được hình ảnh riêng có của mình. 
- Phải tạo ra một phản ứng dây chuyền từ cá nhân, nhóm này sang cá nhân, 
nhóm khác và cứ như vậy... 
Trong khi tuyên truyền về sản phẩm, dịch vụ chúng ta phải tuân thủ đầy đủ 
các bước mang tính hệ thống, có như vậy việc tuyên truyền mới có hiệu quả: 
- Xác định các mục đích của tuyên truyền hiệu quả. 
- Chuẩn bị thông tin tuyên truyền thật chu đáo, chuẩn xác. 
- Lựa chọn phương tiện thông tin tuyên truyền hợp lý 
- Thực hiện các phương pháp tuyên truyền thích hợp 
- Phân tích các kết quả của chiến lược tuyên truyền, quảng cáo. 
 Trang 31 
Tất cả những vấn đề trên cho chúng ta thấy rằng chính sách tuyên truyền 
quảng cáo là việc làm cần thiết. Thông qua tuyên truyền quảng cáo chúng ta mau 
chóng thâm nhập và mở rộng thị trường, tăng doanh thu, tiết kiệm chi phí mang lại 
lợi ích kinh tế cho mỗi ngân hàng. Thông qua mức bán, số lượng người mua, mức 
tăng lên của thị phần mà chúng ta có thể đánh giá chính sách tuyên truyền, quảng 
cáo có phù hợp hay không phù hợp.... 
4.3. Vai trò của Marketing ngân hàng 
Với những nội dung hoạt động như trên Marketing ngân hàng có những vai 
trò hết sức quan trọng với hoạt động kinh doanh của ngân hàng: 
- Trước hết, Marketing là công cụ chiến thắng các đối thủ cạnh tranh. Cơ 
chế thị trường là cơ chế cạnh tranh nên làm thế nào để chiến thắng các đối thủ 
cạnh tranh luôn là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng. Thông qua công tác 
nghiên cứu thị trường, với chính sách mở rộng thị phần, và các chính sách về 
khách hàng của mình ngân hàng đã tổ chức thu thập được thông tin, hiểu rõ về thị 
trường qua đó hiểu nhu cầu của khách hàng từ đó tạo ra những sản phẩm có khả 
năng thoả mãn cao nhất nhu cầu của khách hàng- nâng cao sức cạnh tranh của 
ngân hàng. Marketing ra đời gắn liền với cạnh tranh, do đó mục tiêu chiến thắng 
đối thủ cạnh tranh luôn được các nhà marketing ngân hàng quan tâm. Do đó trong 
quá trình ra quyết định các nhà quản trị marketing luôn phải cân nhắc đến những 
phản ứng của khách hàng cũng như đối thủ cạnh tranh. 
- Marketing- công cụ hữu hiệu thu hút khách hàng. Kinh doanh trong cơ chế 
thị trường thì khách hàng là lực lượng nuôi sống mình, bởi vậy các nhà quản trị 
luôn tìm mọi cách để duy trì và phát triển mối quan hệ với khách hàng. Mục tiêu 
cuối cùng của Marketing là thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng, chính vì vậy 
marketing nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, tìm cách đưa đến khách hàng 
những dịch vụ phù hợp nhất, nhanh nhất với giá cả hợp lý nhất; tạo cho khách 
hàng cảm giác thoải mái nhất khi tiến hành giao dịch; chỉ dẫn cho khách hàng tiện 
ích mới mà khách hàng chưa biết… Do đó marketing là công cụ hữu hiệu nhất thu 
hút khách hàng. 
 Trang 32 
- Marketing- công cụ kinh doanh hiện đại của các NHTM trong cơ chế thị 
trường. Với những chính sách phù hợp của Chính phủ nhằm tạo một sân chơi bình 
đẳng cho các NHTM đã làm thị trường trở lên sôi động hơn, cạnh tranh ngày càng 
khốc liệt hơn đòi hỏi các ngân hàng buộc lòng phải quan tâm đến thị trường, đến 
khách hàng thông qua việc sử dụng công cụ marketing. Sự thay đổi lớn lao trong 
môi trường văn hoá xã hội và công nghệ thông tin đã thúc đẩy các NHTM thừa 
nhận và sử dụng marketing như một một cách mạnh mẽ hơn. Các xu hướng tiêu 
dùng mới, sự hiểu biết của khách hàng…làm thay đổi nhu cầu sử dụng dịch vụ tài 
chính ngân hàng. Do đó các ngân hàng cần một công cụ mới giúp họ đối phó với 
thị trường một cách hợp lý hơn, đồng thời đảm bảo có thể chào bán cho khách 
hàng những dịch vụ tốt nhất. 
- Marketing công cụ kết nối hoạt động của ngân hàng với thị trường. Định 
hướng thị trường trở thành một điều kiện tiên quyết trong kinh doanh của các ngân 
hàng hiện nay. Thị trường là nơi các ngân hàng có thể tìm kiếm nhu cầu khách 
hàng, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, tìm kiếm thông tin… qua đó thỏa mãn một 
cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng. 
 Trang 33 
CHƯƠNG II 
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN TẠI NHNo&PTNT CHI 
NHÁNH LÁNG HẠ. 
1. Lịch sử hình thành và ra đời NH No & PTNT chi nhánh Láng Hạ. 
1.1. Sơ lược về NHNo&PTNT Việt Nam 
Lịch sử phát triển nền kinh tế Việt Nam trong gần 15 năm đổi mới mở cửa 
cũng chính là thực tế sinh động của quá trình hình thành và phát triển NH 
No&PTNT Việt Nam. Ra đời từ 26/3/1998 với tên gọi là Ngân hàng phát triển 
nông nghiệp theo quyết định số 400/CT của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ngày 
14/11/1990 và được thành lập lại theo quyết định số 280/QĐ-NH5 ngày 
15/10/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Từ đó đến nay, NH No&PTNT 
Việt Nam luôn bám sát các nghị quyết của Đại hội Đảng, xây dựng và triển khai 
các chương trình chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp thực tiễn. Chính vì 
vậy trên con đường đổi mới của Đảng và nhà nước, nền kinh tế nước ta đã chuyển 
từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế nhiều thành phần dưới sự quản 
lý của nhà nước đồng thời NHNo&PTNT Việt Nam cũng có những bước tiến 
mạnh bạo và vững chắc từ một ngân hàng mang nặng tính bao cấp trở thành một 
ngân hàng lớn mạnh với hệ thống mạng lưới rộng khắp. 
Một trong những nguyên nhân khiến ngân hàng có thể vượt qua những bước 
thăng trầm để đạt thành tựu như ngày nay là do ban lãnh đạo ngân hàng luôn quan 
tâm đến vấn đề thị trường, việc mở rộng thị phần cũng như việc nâng cấp các dịch 
vụ đem đến cho khách hàng. Do đó ngân hàng đã có những đóng góp to lớn trong 
việc thúc đẩy hoạt động của các công ty, cá nhân sản xuất kinh doanh cũng như sự 
lớn mạnh của nền kinh tế. 
1.2. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển NHNo&PTNT chi nhánh Láng 
Hạ. 
Từ chính sách mở rộng mạng lưới của NH No&PTNT Việt Nam đặc biệt ở cả 
khu vực đô thị nói riêng và tình hình năm 1997 nói chung khi toàn ngành ngân 
hàng quyết tâm thực hiện những hoạt động nhằm chấn chỉnh hoạt động tín dụng, 
 Trang 34 
ngân hàng sau thanh tra nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả kinh doanh của các 
ngân hàng thương mại và uy tín của ngành. Ngày 1/8/1996 tại quy định số 
334/NHNo-02 của NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh đã chính thức được thành 
lập và đi vào hoạt động từ 18/3/1997. Quá trình thành lập và đi vào hoạt động của 
chi nhánh bước đầu đã gặp phải rất nhiều khó khăn cũng như thuận lợi riêng, tuy 
nhiên chi nhánh trong quá trình hoạt động đã biết tận dụng, khai thác những thuận 
lợi, vượt qua khó khăn để khẳng định mình, đạt được những thành công đáng ghi 
nhận. 
1.3. Nhiệm vụ, chức năng của NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ và các phòng 
ban. 
Theo quy chế tổ chức và hoạt động của chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam 
ban hành theo quy định số 169/QĐ HĐBT-02 (ngày 7/9/2000) của Hội đồng quản 
trị NH No&PTNT Việt Nam, chi nhánh Láng Hạ là chi nhánh NHNo&PTNT loại 
II. 
Căn cứ theo quy định này, nhiệm vụ của chi nhánh Láng Hạ được ghi trong 
chương II điều 9 như sau: 
Huy động vốn: 
- Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kì hạn, tiền gửi 
thanh toán của các tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế và nước ngoài 
bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ. 
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kì phiếu ngân hàng và thực hiện 
các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNo. 
- Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn uỷ thác của Chính phủ, chính quyền 
địa phương và các tổ chức kinh tế, cá nhân khác trong và ngoài nước theo quy định 
của NHNo Việt Nam. 
- Được phép vay vốn các tổ chức tài chính tín dụng trong nước khi Tổng 
giám đốc NHNo cho phép. 
Cho vay: 
- Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ đối 
với các tổ chức kinh tế. 
 Trang 35 
 - Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng Việt Nam đồng đối với cá 
nhân và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế. 
Kinh doanh ngoại hối: huy động vốn, cho vay mua bán ngoại tệ, thanh toán 
quốc tế và các dịch vụ khác về ngoại hối theo chính sách quản lý ngoại hối của 
Chính phủ, NH No&PTNT Việt Nam. 
Kinh doanh dịch vụ: thu chi tiền mặt, mua bán vàng bạc , máy rút tiền tự 
động, dịch vụ thẻ tín dụng, két sắt, nhận cất giữ, chiết khấu các loại giấy tờ có giá, 
thẻ thanh toán, nhận uỷ thác cho vay của tổ chức tài chính, tín dụng, tổ chức, cá 
nhân trong và ngoài nước, các dịch vụ khác được NHNN và NHNo cho phép. 
Cân đối điều hoà vốn kinh doanh nội tệ đối với các chi nhánh 
NHNo&PTNTtrực thuộc trên địa bàn. 
Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định của 
NHNo. 
Thực hiện đầu tư dưới các hình thức: hùn vốn liên doanh, mua cổ phần và 
các hình thức đầu tư khác với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khác khi được NHNo 
cho phép. 
Làm dịch vụ cho Ngân hàng phục vụ người nghèo. 
Quản lý nhà khách, nhà nghỉ và đào tạo tay nghề trên địa bàn (Nếu được 
Tổng giám đốc NHNo giao). 
Thực hiện công tác tổ chức cán bộ, đào tạo, thi đua khen thưởng theo phân 
cấp uỷ quyền của NHNo. 
1.4. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh NH No&PTNT chi nhánh Láng Hạ. 
Để thực hiện tốt nhiệm vụ mà ngân hàng Trung Ương giao phó, theo tiến trình 
đi lên của Đảng và nhà nước, qua các thời kỳ đổi mới, hoàn thiện sao cho phù hợp 
tình hình mới, đến nay chi nhánh có cơ cấu phòng ban như sau: 
Ban giám đốc gồm: 1 giám đốc phụ trách chung. 
Ban phó giám đốc gồm: 1PGĐ phụ trách kinh doanh. 
 1PGĐ phụ trách Thanh toán quốc tế 
 1PGĐ phụ trách kế toán – ngân quỹ 
Cơ cấu phòng ban bao gồm 7 phòng ban với cơ cấu tổ chức theo sơ đồ: 
 Trang 36 
Từ những năm 1997 chi nhánh chỉ với nguồn nhân lực 13 người lần lượt tăng 
lên theo các năm theo yêu cầu đổi mới hoàn thiện và mở rộng chi nhánh đến năm 
1998 là 25 người, năm 1999 là 35 người đến năm 2000 là 58 người và năm 2001 
lên đến 89 người, tính đến 30/6/2002 là 125 người. 
2. Thực trạng hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh Láng Hạ. 
Là một chi nhánh có tuổi đời còn rất trẻ, lại được sinh ra trong một thời kỳ 
chuyển biến mạnh của nền kinh tế, do đó trên chặng đường 5 năm chi nhánh đã 
gặp không ít những khó khăn cũng như thuận lợi. Tuy nhiên do tập thể cán bộ, 
nhân viên ngân hàng đã biết tận dụng lợi thế, vượt qua thử thách để có những bước 
Hành chính 
quản trị 
Tổ chức cán 
bộ & đào tạo 
Kiểm tra kiểm 
toán nội bộ 
Giám đốc 
Phó GĐ kinh 
doanh 
Tín dụng Kế hoạch 
nguồn vốn 
Thanh toán 
quốc tế 
Kế toán – 
ngân quỹ 
Phó GĐ 
TTQT 
Phó GĐ 
KT - NQ 
 Trang 37 
đi đúng hướng. Nhờ đó mà trong 5 năm hoạt động thì 2 năm chi nhánh là lá cờ đầu 
toàn khu vực thành thị và 1 năm là lá cờ đầu cả nước. 
Thông qua bảng số liệu tình hình hoạt động kinh doanh ta thấy 
BẢNG TỔNG HỢP TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH 
 ( Đơn vị: tỷ đồng) 
Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 2002 
1. Nguồn vốn 858 1143 2000 2630 3811.8 
- Nội tệ 772 986 1714 2276 3299.1 
- Ngoại tệ 86 157 286 354 512.7 
2. Sử dụng vốn 81 521 661 1030 1500 
- Ngắn hạn 61 187 164 197 501.7 
- Trung & dài hạn 20 334 497 833 998.3 
3. Nợ quá hạn(%) 0.074 0.06 0.024 0 0 
4.Lợi nhuận 18 23 47 36.9 48 
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2002) 
Như vậy với những bước đi đúng hướng chi nhánh luôn đạt được những thành 
tích cao, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng tín dụng góp phần khuyến khích sản xuất 
kinh doanh, tăng đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế. 
Đi sâu vào từng hoạt động cụ thể của ngân hàng ta thấy. 
2.1. Về hoạt động tín dụng. 
2.1.1. Hoạt động huy động vốn. 
Để biết được mức độ biến động vốn qua các thời điểm, ta cần xem xét hoạt 
động huy động vốn qua các thời điểm qua bảng sau: 
TÌNH HÌNH BIẾN ĐỘNG CỦA NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG QUA CÁC 
THỜI ĐIỂM. 
(Đơn vị : tỷ đồng) 
 Trang 38 
Thời điểm 
Nguồn huy động 
Tăng giảm so với thời điểm trước 
Chênh lệch % 
31/12/1998 858 +625 268 
31/12/1999 1143 +285 33 
31/12/2000 2000 +857 75 
31/12/2001 2630 +630 28.7 
31/12/2002 3811.8 +1181.8 44.9 
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2002) 
Qua bảng số liệu trên ta thấy, mặc dù tình hình kinh tế rất nhiều biến động 
nhưng qua các năm nguồn huy động đêù tăng, so với con số 202 tỷ ban đầu, năm 
1997 đến nay đã gấp tới gần 20 lần qua 5 năm hoạt động đầy khó khăn. Qua đó ta 
có thể thấy được sức mạnh vững chắc của chi nhánh qua từng thời kỳ hoạt động. 
Ta có thể phân tích cụ thể qua bảng biểu sau, về tình hình huy động vốn: 
TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN QUA CÁC THỜI ĐIỂM 
(Đơn vị : tỷ đồng) 
Nguồn vốn 31/12/1998 31/12/1999 31/12/2000 31/12/2001 
Số 
lượng 
% Số 
lượng 
% Số 
lượng 
% Số 
lượng 
% 
1Tiền gửi không kỳ hạn 92 10.7 353 31 425 21.1 468.5 17.8 
2Tiền gửi có kỳ hạn 766 89.3 790 69 1575 78.8 2161 82.2 
Tổng nguồn 858 1143 2000 2630 
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2001) 
Đến năm 2002 thì số lượng tiền gửi có kỳ hạn lên đến 2850,1 tỷ đồng và tiền 
gửi không kỳ hạn lên đến 961,7 tỷ. Đây là thuận lợi cho ngân hàng do tiền gửi 
không kỳ hạn chiếm tỷ lệ không nhỏ trong các năm đặc biệt là các năm đầu giúp 
 Trang 39 
chi nhánh có nguồn vốn ổn định để tham gia đầu tư quay vòng vốn. Tuy nhiên tỷ lệ 
này đang có xu hướng giảm dần, năm 2002 vừa qua tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn có 
tỷ lệ cao hơn các năm (chiếm khoảng 30%) và trong đó tiền gửi thanh toán chiếm 
tỷ lệ đáng kể. Ngoài ra số lượng tài khoản thanh toán qua các năm không ngừng 
tăng đến nay đã lên đến 1800 tài khoản. Chính cũng vì khả năng huy động vốn một 
cách có hiệu quả này mà NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ là chi nhánh tuy mới 
thành lập nhưng lại đứng thứ hai trong hệ thống NH No&PTNT trên địa bàn Hà 
nội về khả năng huy động vốn (chiếm 36.5% trong tổng nguồn huy động tại Hà 
nội). 
Đó là kết quả của sự nỗ lực cố gắng của toàn bộ cán bộ ngân hàng đã thực hiện 
tốt những nội dung sau: 
- Thường xuyên theo dõi chặt chẽ những biến động của thị trường nhằm đưa ra 
những điều chỉnh kịp thời, đặc biệt là những thay đổi về lãi suất để cạnh tranh 
đồng thời thực hiện việc kinh doanh đúng đắn có hiệu quả. 
- Luôn củng cố và tăng cường quan hệ với các khách hàng truyền thống như 
các công ty Bảo hiểm, hệ thống kho bạc.. . 
- Làm tốt công tác thanh toán với các công ty lớn, các bạn hàng chí cốt như 
công ty Xăng dầu Việt Nam, Bưu chính, Điện lực.. .và các doanh nghiệp thuộc 
tổng công ty 90, 91. 
- Mở rộng mạng lưới hoạt động, từng bước chiếm lĩnh thị trường kinh doanh, 
đồng thời luôn chú trọng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. 
- Đảm bảo công tác thu chi tiền mặt và thanh toán luôn nhanh nhạy đảm bảo an 
toàn,c hính xác, đáp ứng yêu cầu của khách hàng. 
2.1.2. Về hoạt động sử dụng vốn. 
 Để tiến hành được các nghiệp vụ cơ bản ngân hàng phải huy động vốn tuy 
nhiên vấn đề sử dụng vốn mới là khâu cuối cùng quyết định hiệu quả hoạt động 
kinh doanh của ngân hàng qua đó thúc đẩy hoạt động huy động vốn đạt hiệu quả. 
 Ta có thể thông qua bảng biểu sau để xem xét tình hình sử dụng vốn của 
chi nhánh. 
 Trang 40 
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN QUA CÁC THỜI ĐIỂM. 
(Đơn vị : tỷ đồng) 
Chỉ tiêu 31/12/98 31/12/99 31/12/2000 31/12/2001 31/12/2002 
1. Tổng dư nợ 81 521 661 1030 1500 
2. Doanh số cho vay 256 748 741 1174 1543 
3.Doanh số thu nợ 231 308 601 804 1073 
4. Nợ quá hạn(%) 0.074 0.06 0.024 0 0 
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2002) 
 Liên tục qua các năm, dư nợ tăng, tỷ lệ nợ quá hạn thấp dần đến năm 2001 
và 2002 thì 100% dư nợ của chi nhánh là nợ lành mạnh, không có nợ quá hạn phát 
sinh. Tuy nhiên trên 90% dư nợ là cho vay DNNN, tỷ lệ cho vay doanh nghiệp 
ngoài quốc doanh và cho vay tiêu dùng chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng dư nợ. Chi 
nhánh đã có biện pháp đẩy mạnh loại hình cho vay này như triển khai cho vay mua 
ô tô trả góp (chi nhánh Bà Triệu) và bứơc đầu đã đạt những kết quả khả quan. 
 Để đạt được kết quả như trên là do cán bộ chi nhánh đã thực hiện tốt các 
giải pháp đã đưa ra sau: 
- Giữ củng cố tăng cường có hiệu quả quan hệ tín dụng, thanh toán tới các 
khách hàng truyền thống trên cơ sở thẩm định và tư vấn đối với các dự án, phương 
án kinh doanh khả thi, có phương án thanh toán để tiến tới lựa chọn dự án có hiệu 
quả. 
- Thường xuyên tiếp cận các dự án lớn thuộc mục tiêu chiến lược của chính 
phủ, các ngành để kịp thời phối hợp cùng các đơn vị khách hàng nghiên cứu nhằm 
tìm ra giải pháp hữu hiệu phục vụ công tác đầu tư. 
- Thường xuyên coi trọng công tác thẩm định và phân loại khách hàng, tiếp cận 
các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài để nâng cao khối lượng đầu tư trên cơ 
sở đảm bảo an toàn vốn. 
- Rút ngắn thời gian giải quyết từng giao dịch cụ thể trên cơ sở thẩm định bảo 
đảm đúng chế độ tín dụng nên đã tạo điều kiện chi việc giải ngân nhanh kịp thời 
cung cấp vốn cho các đối tượng khách hàng. 
 Trang 41 
 * Nghiệp vụ bảo lãnh 
Là một trong những nghiệp vụ được chi nhánh quan tâm ngay từ những ngày 
đầu thành lập, với phương châm an toàn, hiệu quả chi nhánh đã bảo lãnh và gây 
dựng được uy tín cao đối với các khách hàng. Tính đến 31/12/2001 tổng số dư các 
loại bảo lãnh đã lên đến 342 tỷ. Cũng chính từ nghiệp vụ này đã hỗ trợ công tác 
đầu tư vốn cũng như góp phần hỗ trợ tích cực cho công tác huy động vốn, tăng 
trưởng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt của khách hàng qua chi nhánh. 
Qua đó tạo được một khối lượng đáng kể vốn rẻ và tăng thêm nguồn thu dịch vụ. 
2.2. Hoạt động kế toán - thanh toán - ngân quỹ. 
2.2.1. Hoạt động kế toán – thanh toán. 
Với số lượng thanh toán viên không lớn nhưng công tác thanh toán đặc biệt 
cho các cơ quan Bảo hiểm, tổng công ty 90, 91.. .đã được chi nhánh thực hiện một 
cách có hiệu quả. Con số khách mở tại khoản liên tục tăng qua các năm, từ năm 
1998 với số lượng 587 tài khoản đến năm 2001 là 2400 tài khoản. Sang đến năm 
2002 con số tài khoản đã lên đến 3.032 tài khoản với 605 tài khoản doanh nghiệp 
còn lại là tài khoản cá nhân.Mặc dù số lượng tài khoản lớn như vậy nhưng công tác 
thanh toán và kế toán luôn bảo đảm an toàn và kịp thời chính xác. 
Kế toán liên hàng,thanh toán điện tử cũng đạt được những kết quả khả quan 
qua các năm. Sang đến năm 2002, tổng doanh số thanh toán đạt 80.000 tỷ bằng 
125% so cùng kỳ năm 2001, doanh số thanh toán điện tử đi đạt 12.908 tăng 60%, 
doanh số thanh toán điện tử đến đạt 3.069 tỷ tăng 95% so với năm 2001. Trong đó 
doanh số thanh toán liên hàng đạt 2.254 tỷ, doanh số thanh toán bù trừ đạt 4.950 
tỷ. 
2.2.2. Hoạt động ngân quỹ. 
Tình hình thu chi tiền mặt, ngân phiếu, ngoại tệ trong những năm qua tăng 
trưởng mạnh cả về lượng và về chất, nhờ uy tín trong hoạt động kinh doanh ngày 
càng tăng mà tình hình ngày càng khả quan thể hiện qua bảng số liệu 
TÌNH HÌNH THU CHI TIỀN MẶT NỘI TỆ QUA CÁC THỜI ĐIỂM 
(Đơn vị : tỷ đồng) 
 Trang 42 
Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 2002 
Tiền mặt nội tệ 
- Thu 925 857 1526 2701 3131 
- Chi 937 844 1272 2486.5 3120 
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2002) 
Tình hình thu chi tiền mặt ngoại tệ cũng tăng cao qua các năm, mặc dù doanh 
số thu chi tiền mặt lớn, bình quân tốc độ thu một ngày qua quỹ nghiệp vụ từ 4 -5 tỷ 
đồng và thường xuyên phải lĩnh tiền gửi từ NHNN, chi trả cho các công ty Bảo 
hiểm và kho bạc. Riêng tiền chi trả cho BHXH các quận trong năm 2002 đạt 
736,6 tỷ đồng gấp 3,5 lần năm 2001, tuy nhiên hoàn toàn không xảy ra các trường 
hợp sai sót nhầm lẫn... Ngoài ra một kết quả đáng ghi nhận là năm 2002 bộ phận 
kiểm ngân đã trả lại cho khách hàng tổng số 478 món với số tiền là 243.689 nghìn 
đồng. 
2.3. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế (KDNT & TTQT) 
Tình hình kinh tế tài chính trong chặng đường 5 năm hoạt động vừa qua có rất 
nhiều biến động, đặc biệt trong năm 2002 là năm cải cách về chính sách tiền tệ. 
Tháng 6/2002 áp dụng cơ chế lãi suất mới, các Ngân hàng Thương mại tích cực 
thực hiện Đề án tái cơ cấu Ngân hàng nhằm nhanh chóng hoà nhập khu vực và thế 
giới.. . Xem xét tình hình thu chi ngoại tệ ở bảng dưới ta thấy. 
TÌNH HÌNH THU CHI NGOẠI TỆ 
Chỉ tiêu Đơn vị 
(triệu) 
2000 2001 2002 Tỷ lệ % so với 
năm 2001 
Doanh số mua USD 147 183 266 145 
Doanh số bán USD 146 182 274 151 
Thu phí KDNT VNĐ 1.500 1.100 700 64 
Doanh số TTQT USD 125 152 241 159 
Phí TTQT VNĐ 696 1.024 1.150 112 
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động KDNT & TTQT) 
 Trang 43 
Chi nhánh đã đạt được những bước tiến đáng kích lệ về hoạt động KDNT & 
TTQT như: 
Về thanh toán quốc tế : 
- Chi nhánh đã triển khai hoạt động TTQT tại các Chi nhánh Bà Triệu, Chi 
nhánh Bách Khoa nâng số đầu mối giao dịch lên 3 đầu mối và số cán bộ tín dụng 
từ 6 lên 14 người thanh toán viên tại các Chi nhánh. 
 - Doanh số TTQT tăng từ 152 triệu năm 2001 lên 241 triệu USD (kể cả các 
ngoại tệ khác đã quy đổi) tăng 59% so với năm 2001 và vượt mức kế hoạch 30%, 
qua đó tăng thêm uy tín trong hoạt động của chi nhánh. 
- Số điện SWIFT chuyển ra nước ngoài trong năm 2002 đạt 1.400 bức (tăng 
19% so với năm 2001) tất cả đều được thực hiện một cách an toàn, nhanh chóng và 
chính xác tuân thủ đúng quy trình thao tác. 
- Qua quá trình thực hiện, thao tác nghiệp vụ trình độ cán bộ cũng được nâng 
cao. 
Về kinh doanh ngoại tệ: 
- Doanh số giao dịch tăng 46% so với năm 2001 và vượt 33% kế hoạch đề ra 
trong năm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của khách hàng tạo vị thế thuận lợi cho Chi 
nhánh trong cạnh trạnh 
- Lãi thu từ hoạt động KDNT giảm chỉ đạt 64% năm 2001 do biến động về tỷ 
giá năm 2002 chưa tới 2% thấp hơn rất nhiều so với năm 2001 là 3,8%. 
- Theo quy định NH No&PTNT Việt Nam thì các chi nhánh không được 
phép mua bán ngoại tệ với các chi nhánh khác trong hệ thống và bán ngoại tệ ra 
ngoài hệ thống. Do đó các loại hình giao dịch mua bán như Forward, Swap rất hạn 
chế. 
2.4. Kết quả kinh doanh. 
Từ các năm 1999-2001 Chi nhánh luôn được Thống đốc NHNN Việt Nam, chủ 
tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội tặng bằng khen hoàn thành xuất sắc nhiệm 
vụ kinh doanh trong năm. Đặc biệt trong năm vừa qua Chi nhánh đã được Thủ 
 Trang 44 
tướng Chính phủ tặng bằng khen đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ các năm 1998-
2000. 
Trong suốt quá trình hoạt động Chi nhánh đã luôn nỗ lực phấn đấu vươn lên, 
điều đó thể hiện trong bảng dưới. 
KẾT QUẢ TÀI CHÍNH 
(Đơn vị : tỷ đồng) 
Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 2002 
Tổng thu 56.424 100.083 128.036 171.500 210.169 
Tổng chi 38.420 77.020 80.725 134.600 160.169 
Quỹ thu nhập 18.004 23.018 47.311 36.900 50.000 
(Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh các năm 1998-2002) 
Trong tổng thu nội bảng thì thu lãi hoạt động tín dụng thông thường chiếm trên 
90%, riêng năm 2002 chiếm đến 94,4%, thu từ dịch vụ chỉ chiếm 4,6% trong tổng 
thu. Trong tổng chi nội bảng thì chi cho huy động vốn là chủ yếu (chiếm khoảng 
90-91%). 
Quỹ lương qua các năm đều có chiều hướng ra tăng riêng năm 2001 do bối 
cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng ở mức thấp, thị trường tài chính quốc tế nhiều 
biến động phức tạp, đầu tư nước ngoài giảm xút…gây ảnh hưởng nhiều đến tình 
hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh. 
2.5. Các công tác khác. 
Công tác kiểm toán nội bộ. 
Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ tính đến 31/12/2001 có 5 người (năm 2000 là 
3 người) đều có trình độ cao và đã qua công tác thực tế nhiều năm trong ngành. 
Trong năm 2001 tiến hành kiểm tra được 69.142 chứng từ, phát hiện 140 chứng từ 
sai sót chủ yếu là thiếu chữ ký của kế toán, kiểm soát nhật ký quỹ, hoàn toàn 
không có sai sót về nghiệp vụ. Ngoài ra các cán bộ của phòng đã tiến hành kiểm 
tra công tác TTQT tại chi nhánh và kiểm tra 16/18 đơn vị có quan hệ tín dụng với 
152 món vay với số tiền là 463 tỷ đồng. 
 Trang 45 
Công tác tổ chức cán bộ 
 Công tác đào tạo 
Công tác tổ chức cán bộ và đào tạo luôn được chi nhánh chú trọng, số ngày 
được đào tạo bình quân cho một cán bộ trong năm là 39.3 ngày qua đó góp phần 
nâng cao kiến thức về mọi mặt cho môĩ cán bộ. Trong năm 2002 Chi nhánh đã mở 
4 lớp học nghiệp vụ, 2 lớp học ngoại ngữ, tin học với tổng số ngày là 40,7 
ngày/người ( do Chi nhánh tự tổ chức). 
 Công tác thi đua khen thưởng 
Trong năm các phong trào thi đua đều được Chi nhánh hưởng ứng tham gia và 
đạt được kết quả cao như phong trào thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ, thi đua 2 
giỏi, thi đua xây dựng ngân hàng trong sạch vững mạnh…. Hiện chi nhánh đã hoàn 
tất hồ sơ đề nghị Hội đồng thi đua tặng giải thưởng sao đỏ cho đồng chí giám đốc. 
Công tác tin học và hiện đại hoá ngân hàng. 
Tại Chi nhánh công tác đào tạo nâng cao trình độ vi tính, ngoại ngữ, nghiệp vụ 
luôn được duy trì thường xuyên, hiện tại Chi nhánh đã triển khai khá đầy đủ kịp 
thời các chương trình của Trung tâm Công nghệ thông tin như chương trình giao 
dịch trực tiếp thông tin báo cáo; chuyển tiền điện tử; thanh toán liên hàng; cài đặt 
chương trình nhập lương cho một số đơn vị có quan hệ thanh toán tin cậy với ngân 
hàng... Ngoài ra, Chi nhánh còn thường xuyên trang bị thêm, sửa đổi hệ thống máy 
tính góp phần giúp khách hàng có thể rút tiền nhanh chóng và thuận tiện. 
Công tác mở rộng mạng lưới hoạt động. 
Thực hiện định hướng và mục tiêu chiến lược giai đoạn 2000-2010 của Hội 
đồng quản trị và ban tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam. Trong quý III năm 
2001 Chi nhánh đã có đề án và được Tổng giám đốc phê duyệt cho phép thành lập 
phòng giao dịch Bách khoa- là nơi địa bàn đông dân cư phát triển khá thuận tiện. 
Đánh giá chung về hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh 
Láng Hạ. 
 Thành công. 
 Trang 46 
Sự thành công của NHNo&PTNT Việt Nam được ghi nhận trong những thành 
tích trong các phong trào thi đua của ngành ngân hàng như: năm 1998 và năm 
1999 là lá cờ đầu khu vực Đô thị toàn quốc, ngoài ra năm 1999 Chi nhánh tiếp tục 
được tặng danh hiệu lá cờ đầu toàn quốc. 
Sự thành công của Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ cũng như thành côn0g 
của cả hệ thống NH No&PTNT đã khẳng định sự đúng đắn trong chiến lược: củng 
cố và giữ vững thị trường nông thôn, tiếp cận nhanh và mở rộng thị trường thành 
thị, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đảm bảo kinh doanh đa năng, thúc đẩy phát 
triển nền kinh tế. 
 Vấn đề cần khắc phục. 
- Trình độ cán bộ viên chức còn bất cập so với yêu cầu của công tác kinh 
doanh về nhiều mặt đặc biệt về ngoại ngữ và tin học. 
- Công tác phối kết hợp trong mối quan hệ tác nghiệp giữa các đơn vị trong 
Chi nhánh còn chưa đạt kết quả cao. 
- Công tác tổng kết hoạt động đúc rút kinh nghiệm thực chất còn được thực 
hiện chưa thường xuyên do đó khó đưa ra những biện pháp hiệu quả. 
3. Thực trạng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHNo&PTNT chi nhánh 
Láng Hạ. 
NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ tuy là đơn vị trực thuộc Ngân hàng 
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nhưng hoạt động cho vay của Chi 
nhánh không nhằm vào các hộ sản xuất nông nghiệp hay hợp tác xã mà chủ yếu là 
các doanh nghiệp. Để xem xét tình hình tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh ta lần lượt 
xem xét. 
3.1. Cơ cấu cho vay. 
3.1.1 Cơ cấu cho vay theo thời gian. 
BẢNG CƠ CẤU CHO VAY 
(Đơn vị : tỷ đồng) 
 Trang 47 
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 
Số tiền Tỷ trọng 
(%) 
Số tiền Tỷ trọng 
(%) 
Số tiền Tỷ 
trọng 
(%) 
Dư nợ 
Ngắn hạn 
Trung dài hạn 
DS cho vay 
Ngắn hạn 
Trung dài hạn 
661 
164 
497 
741 
538 
203 
100 
24.8 
75.2 
100 
72.6 
27.4 
1030 
197 
833 
1173 
722 
451 
100 
19.1 
80.9 
100 
61.6 
38.4 
1500 
501.7 
998.3 
1543 
614.4 
928.6 
100 
33.4 
66.6 
100 
39.82 
60.18 
(Nguồn: Phòng tín dụng NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ) 
Nhìn vào bảng ta thấy tổng dư nợ qua các năm tăng lên liên tục từ 81 tỷ 
đồng năm 1998 lên đến 521 tỷ năm 1999 (gấp 6.43 lần năm 1998). Đến năm 2000 
đạt 661 tỷ đồng (gấp 1.27 lần năm 1999), năm 2001 tổng dư nợ lên đến 1030 tỷ 
gấp 1.5 lần so với năm 2000. Đến 31/12/2002 con số này lên đến 1500 tỷ đồng và 
gấp 18.5 lần so với năm 1998. Điều này chứng tỏ cán bộ chi nhánh đã hết sức nỗ 
lực phấn đấu, vượt qua những khó khăn trong thời gian năm năm vừa qua. Ra đời 
trong điều kiện phải cạnh tranh với hơn 50 ngân hàng đã có từ trước trên thị trường 
với đầy kinh nghiệm và công nghệ hiện đại, đạt được điều này Chi nhánh đã đang 
và sẽ liên tục phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, ta thấy dư nợ tín 
dụng trung và dài hạn thì chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng tăng qua các năm, so 
với năm 1998 khi mới bắt đầu hoạt động kinh doanh tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn 
chỉ đạt chưa tới 25% đạt 20 tỷ thì tới năm 2001 đã đạt tới 833 tỷ chiếm trên 80% 
dư nợ. Trong khi đó tỷ trọng cho vay ngắn hạn có xu hướng ngày càng giảm, năm 
1998 dư nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng 75.3% đạt 61 tỷ thì đến năm 2001 tỷ trọng dư 
nợ ngắn hạn chỉ đạt 197 tỷ đồng chiếm 19.1% tổng dư nợ. Có hiện tượng như trên 
 Trang 48 
là do khách hàng chủ yếu của ngân hàng là các Tổng công ty 90, 91, do đó dư nợ 
trung và dài hạn phục vụ đầu tư vào cho doanh nghiệp, thực hiện các chương trình 
đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ nhằm tăng năng lực sản xuất là chủ yếu. 
 Do nằm trên vị trí địa lý thuận lợi- tập trung đông dân cư, nơi tập trung các 
doanh nghiệp lớn chính vì vậy Chi nhánh ngày càng củng cố và phát triển tốt mối 
quan hệ với các khách hàng lớn truyền thống là các tổng công ty lớn, các công ty 
Bảo hiểm, công ty Xăng dầu... Tuy nhiên, do trên địa bàn phần lớn là các doanh 
nghiệp có quy mô vừa và nhỏ- nhu cầu vay vốn ngắn hạn để mở rộng hoạt động 
sản xuất kinh doanh lớn, đồng thời địa bàn Hà nội là nơi đông dân cư, nhu cầu vay 
tiêu dùng cũng không phải là nhỏ. Chính vì vậy, năm 2002 Chi nhánh đã có kế 
hoạch mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn, vừa kết hợp giữ vững mối quan hệ 
truyền thống với các tổng công ty vừa mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng, cho 
vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cho vay các doanh nghiệp có quy mô vừa 
và nhỏ. Do đó sang năm 2002 tỷ trọng tín dụng ngắn hạn đã đạt 501.7 tỷ đồng 
chiếm khoảng 30% tổng dư nợ. Kế hoạch năm 2003 Chi nhánh sẽ đạt có tỷ lệ tín 
dụng ngắn hạn đạt 35% tổng dư nợ. 
Đối với doanh số cho vay cũng tương tự như số dư nợ: qua các năm đều có 
tăng tuy nhiên tỷ trọng cho vay ngắn hạn trong tổng doanh số cho vay có xu hướng 
giảm dần qua các năm. Điều này xảy ra là do có sự gia tăng mạnh trong cho vay 
trung và dài hạn cho các DNNN, các Tổng Công ty 90, 91. Nếu năm 1998 doanh 
số cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng là 95% thì đến năm 2000 chỉ còn trên 70% và 
năm 2001 là khoảng 60% và đến năm 2002 sụt xuống còn chưa đến 40% tổng 
doanh số cho vay. Trong khi đó tỷ trọng cho vay trung và dài hạn có xu hướng 
tăng dần qua các năm, từ 5% năm 1998 đến năm 2002 đã chiếm đến 60% tổng 
doanh số cho vay. 
Mặc dù vậy ta thấy doanh số cho vay ngắn hạn từ năm 1998 đến 2001 đều 
có sự gia tăng đáng kể (từ 193 tỷ lên đến 722 tỷ đồng), chỉ có sự sụt giảm trong 
năm 2002 do tình hình tiêu thụ sản phẩm nhìn chung giảm do đó nhu cầu vốn vay 
ngắn hạn để mở rộng sản xuất giảm, đồng thời sự cạnh tranh gay gắt với các 
TCTD khác cũng làm cho doanh số cho vay ngắn hạn của Chi nhánh giảm. 
 Trang 49 
3.1.2. Cơ cấu cho vay ngắn hạn theo ngành kinh tế. 
CƠ CẤU CHO VAY NGẮN HẠN THEO NGÀNH KINH TẾ. 
 (Đơn vị: tỷ đồng) 
Ngành Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 
Dư nợ Tỷ lệ (%) Dư nợ Tỷ lệ (%) Dư nợ Tỷ lệ (%) 
Công nghiệp 5.2 3 5 2.5 45.6 9.1 
TM & dịch vụ 160.2 97 193.1 97.5 456.1 90.9 
Nông nghiệp 0 0 0 0 0 0 
Tổng 165.4 100 198.1 100 501.7 100 
(Nguồn Phòng tín dụng NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ) 
 Qua bảng trên ta thấy: doanh số cho vay đối với ngành nông nghiệp qua các 
năm đều bằng 0. Đối với ngành công nghiệp đã có những bước tiến đáng kể trong 
năm 2002 vừa qua. Nếu những năm trước số dư nợ đối với ngành công nghiệp chỉ 
đạt khoảng 5 tỷ đồng và chỉ tiến hành cho vay đối với một đến hai doanh nghiệp 
trong cả năm thì sang năm 2002 dư nợ đối với ngành công nghiệp lên đến 45.6 tỷ 
chiếm trên 9% tổng dư nợ. Trong năm 2002 Chi nhánh đã tiến hành cho vay phục 
vụ sản xuất công nghiệp cho 6 doanh nghiệp (trong đó 3 doanh nghiệp quốc doanh 
và 3 doanh nghiệp ngoài quốc doanh). Riêng đối với ngành thương mại và dịch vụ, 
mặc dù tỷ trọng trong tổng dư nợ năm vừa qua có giảm nhưng doanh số cho vay 
đối với ngành thương mại và dịch vụ vẫn là chủ yếu trong tổng dư nợ. Qua các 
năm dư nợ trong ngành thương mại đều tăng, từ năm 2000 với 160.2 tỷ đến năm 
2002 Chi nhánh đã tiến hành cho vay đối với trên 20 doanh nghiệp với số tiền lên 
đến trên 450 tỷ đồng chiếm trên 90% tổng dư nợ. Nguyên nhân chủ yếu của tình 
trạng này là do Chi nhánh nằm trên địa bàn Hà Nội, vị trí 24 Láng Hạ là nơi hội tụ, 
tập trung nhiều Công ty lớn – hoạt động kinh doanh thương mại diễn ra khá sôi 
động. Do đó nhu cầu tín dụng phục vụ các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp hay 
thuỷ sản đều không có tuy nhiên nhu cầu về các khoản vay phục vụ sản xuất, kinh 
doanh nông nghiệp lại rất cao. Hơn nữa do bám sát định hướng phát triển của 
NHNo nên Chi nhánh có chiến lược củng cố và phát triển quan hệ với các khách 
hàng lớn như các Tổng Công ty 90 – 91, Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông, 
 Trang 50 
tổng Công ty Xăng dầu và các Công ty xây dựng công trình, Tổng công ty Gang 
thép Thái Nguyên… do đó nhu vầu về các khoản vay phục vụ sản xuất công 
nghiệp có xu hướng tăng lên, tuy nhiên nhu cầu vay của các Công ty này chủ yếu 
lại là phục vụ nhu cầu trong dài hạn 
3.1.3. Cơ cấu cho vay ngắn hạn theo thành phần kinh tế. 
CƠ CẤU CHO VAY NGẮN HẠN THEO THÀNH PHẦN KT. 
(Đơn vị: tỷ đồng) 
Thành phần Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 
Dư nợ Tỷ lệ 
(%) 
Dư nợ Tỷ lệ 
(%) 
Dư nợ Tỷ lệ 
(%) 
Tổng 
Quốc doanh 
Ngoài quốc doanh 
Cá nhân hộ gia đình 
165.4 
 162.1 
3.3 
0 
100 
97.9 
2.1 
0 
198.1 
184.45 
9.85 
3.8 
100 
93.1 
4.97 
1.92 
501.7 
452.2 
38.2 
11.3 
100 
90.1 
7.6 
2.3 
 (Nguồn: Phòng tín dụng NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ) 
 Ta có sơ đồ biểu diễn cơ cấu cho vay ngắn hạn theo thành phần kinh tế 
tương ứng như sau: 
S¬ ®å cho vay ng¾n h¹n theo thµnh phÇn 
kinh tÕ 
0
100
200
300
400
500
2000 2001 2002
N¨m
T
û 
®å
ng
 Doanh nghiÖp quèc
doanh 
Ngoµi quèc doanh
C¸ nh©n tiªu dïng
 Trang 51 
Nhìn vào sơ đồ ta thấy Chi nhánh chủ yếu tiến hành hoạt động cho vay đối 
với các doanh nghiệp quốc doanh, doanh số cho vay đối với khu vực kinh tế quốc 
doanh chiếm tỷ trọng cao (trên 90%) và tăng dần qua các năm. Trong khi đó cho 
vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cá nhân tiêu dùng rất thấp. Việc cho 
vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cho vay hộ gia đình chiếm tỷ lệ rất 
thấp do việc tiếp cận khách hàng của cán bộ tín dụng với các doanh nghiệp và các 
hộ gia đình còn hạn chế. Mặt khác, là một Chi nhánh mới thành lập nên việc tạo 
lập khách hàng quen và truyền thống không nhiều, lại chủ yếu là các DNNN – nên 
Chi nhánh chủ yếu quan tâm nhiều đến những doanh nghiệp này. Sang năm 2002, 
do việc nhìn nhận tiềm năng vay vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 
vai trò của cho vay tiêu dùng thay đổi, Chi nhánh đã có biện pháp thúc đẩy hoạt 
động này như việc khuyến khích mua xe trả, quan tâm hơn tới các doanh nghiệp 
ngoài quốc doanh do đó doanh số cho vay ngắn hạn các đối tượng này có biểu hiện 
tăng với con số vượt hẳn so với các năm trước như thấy trong sơ đồ. 
3.2. Tình hình thu nợ. 
Tình hình thu nợ và nợ quá hạn ở Chi nhánh được thể hiện qua bảng sau: 
TÌNH HÌNH THU NỢ 
(Đơn vị: tỷ đồng) 
Chỉ tiêu 
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 
Số tiền Tỷ trọng 
(%) 
Số tiền Tỷ trọng 
(%) 
Số tiền Tỷ trọng 
(%) 
DS thu nợ 
Ngắn hạn 
Trung dài hạn 
601 
561 
40 
100 
93.3 
6.7 
804 
689 
115 
100 
85.7 
14.3 
1073 
477.3 
595.7 
100 
44.5 
55.5 
Nợ quá hạn 0,0165 0,025 0 0 0 0 
 Trang 52 
NQH khó đòi 0 0 0 0 0 0 
 (Nguồn: Phòng tín dụng NHNo&PTNT chi nhánh Láng Hạ) 
Theo báo cáo từ phòng Tín dụng từ năm 1998 đến năm 2002 ta có: doanh 
số thu nợ của Chi nhánh qua các năm đều tăng, từ 178 tỷ đồng năm 1998, đến năm 
1999 đã lên đến 280 tỷ (tăng 1.57 lần), đến năm 2000 là 601 tỷ (gấp 2.15 lần năm 
1999). Trong những năm đầu hoạt động đầy khó khăn thì những kết quả này là một 
con số đáng khích lệ, thể hiện sự nỗ lực cao của cán bộ Chi nhánh. Sang năm 2001 
doanh số thu nợ đã lên đến 804 tỷ và năm 2002 là 1073 tỷ – gấp 6.03 lần năm 
1998. Tuy nhiên, doanh số thu nợ chủ yếu là thu nợ ngắn hạn, nhất là trong 3 năm 
đầu doanh số thu nợ ngắn hạn chiếm trên 90% tổng thu nợ, đặc biệt năm 1998 
chiếm gần 99% tổng thu nợ. Điều này xảy ra là do Chi nhánh mới đi vào hoạt động 
nên các khoản cho vay trung và dài hạn chưa đến thời hạn thanh toán. Chính vì 
vậy, nợ quá hạn qua các năm cũng chủ yếu là từ các khoản cho vay ngắn hạn. Tuy 
nhiên Chi nhánh đã có những giải pháp tháo gỡ và định hướng tốt trong lựa chọn 
khách hàng nên qua các năm 2001 và 2002 vừa qua nợ quá hạn đều không có. 
Ngoài ra hoàn toàn trong 5 năm hoạt động Chi nhánh hoàn toàn không có nợ quá 
hạn khó đòi. Điều này chứng tỏ chất lượng tín dụng ở Chi nhánh là rất tốt và Chi 
nhánh cũng có những bước đi định hướng đúng đắn về công tác khách hàng. 
 Mặc dù chủ yếu nợ quá hạn là từ các khoản cho vay ngắn hạn, tuy nhiên, nợ 
quá hạn cũng chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ. Nếu năm 1998 là 0.074% tương đương 
gần 60 triệu thì sang năm 1999 chỉ có hơn 30 triệu chiếm 0.06% tổng dư nợ. Đến 
năm 2000 chỉ còn 16.5 triệu chiếm 0.025% và năm 2001 cũng như năm 2002 thì 
hoàn toàn không có nợ quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn trong những năm vừa qua thấp là 
do rất nhiều lí do: 
- Do dư nợ tín dụng tăng cao và liên tục qua các năm (từ 81 tỷ năm 1998 lên 
đến 1500 tỷ đồng năm 2002) điều này làm tỷ lệ nợ quá hạn chiếm tỷ lệ rất thấp 
(=nợ quá hạn/ dư nợ). 
- Do Chi nhánh mới đi vào hoạt động nên rất ít các khoản cho vay trung và 
dài hạn đến hạn trả nợ. 
 Trang 53 
- Do mới đi vào hoạt động nên Chi nhánh được thừa hưởng một số lượng lớn 
khách hàng chất lượng tốt của NHNo Việt Nam. 
Ngoài ra công tác thu nợ trong những năm hoạt động vừa qua có rất nhiều 
tín hiệu khả quan: tổng doanh số thu nợ cao nhưng tỷ lệ nợ quá hạn lại rất nhỏ và 
có xu hướng giảm. Đó là biểu hiện đáng mừng cho công tác thu nợ của Chi nhánh. 
Tuy nhiên tỷ trọng thu nợ ngắn hạn trong những năm vừa qua so với tổng thu nợ 
lại có xu hướng giảm. Cùng với việc giảm doanh số cho vay ngắn hạn, thu nợ ngắn 
hạn năm 2002 chỉ chiếm 44.5% tổng thu nợ trong khi đó tỷ trọng thu nợ trung và 
dài hạn thì ngày càng tăng, đến năm 2002 đã lên đến 55.5% tổng dư nợ. Vì vậy đòi 
hỏi các cán bộ tại Chi nhánh cần có những biện pháp hữu hiệu để mở rộng hoạt 
động tín dụng ngắn hạn từ đó không chỉ mang lại lợi nhuận cho Chi nhánh mà còn 
đảm bảo khả năng thanh khoản và giảm bớt rủi ro tín dụng cho Chi nhánh. 
4. Công tác mở rộng hoạt động tại Chi nhánh. 
4.1. Công tác khách hàng 
Khách hàng của chi nhánh chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, như: 
Tổng công ty Bưu chính viễn thông, Tổng công ty Xăng dầu, Tổng công ty Điện 
lực, Công ty FPT... Hiện nay, có 18 doanh nghiệp nhà nước đang có quan hệ tín 
dụng với NHNo&PTNT Láng Hạ với số tiền còn dư nợ chiếm 95,48%. Trong khi 
đó, có 54 doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các công ty trách nhiệm hữu hạn, 
công ty cổ phần... có quan hệ tín dụng, chiếm 3,61% tổng dư nợ. Đến nay tất cả 
các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với Chi nhánh đều làm ăn có hiệu quả, có 
khả năng trả nợ, trả lãi đầy đủ và đúng hạn. 
Ngoài ra, Chi nhánh còn cho vay tiêu dùng, cầm cố, cho vay đồng tài trợ. 
Việc cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cho vay hộ gia đình chiếm tỷ lệ 
thấp do việc tiếp cận khách hàng của cán bộ tín dụng với các đơn vị và hộ gia đình 
còn nhiều hạn chế. Mặt khác, là chi nhánh mới thành lập nên việc tạo lập khách 
hàng quen và truyền thống có rất ít, không đáng kể. 
Để mở rộng hoạt động tín dụng, chi nhánh không chỉ quan tâm đến khách 
hàng truyền thống, có quan hệ lâu dài với chi nhánh mà còn tìm nhiều biện pháp 
 Trang 54 
tiếp cận với khách hàng là các doanh nghiệp trên địa bàn thủ đô. Tuy nhiên, thực 
trạng các doanh nghiệp hiện nay đã ảnh hưởng phần nào đến hiệu quả hoạt động 
tín dụng tại chi nhánh. 
- Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp vừa và đặc biệt là các doanh nghiệp 
ngoài quốc doanh có nhu cầu rất lớn về vốn nhưng họ còn thiếu tín nhiệm và 
không đủ tài sản cầm cố, thế chấp. Các công ty cổ phần hoá rất khó vay vốn của 
các tổ chức tín dụng vì không có tài sản đảm bảo tiền vay. Mặt dù đã hoàn thành 
xong thủ tục trước bạ chuyển quyền sở hữu đất tại Chi cục thuế địa phương, nhưng 
khi các công ty cổ phần hoá làm hồ sơ đăng bộ tài sản cố định tại Sở địa chính thì 
không được chấp nhận (vì họ chưa triển khai làm thủ tục đăng bộ tài sản cố định 
của các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá). 
- Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và công tác xử lý các 
doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài của 
thành phố và các Bộ còn chậm và chưa mạnh dạn. Chậm xử lý các mô hình doanh 
nghiệp nhà nước không còn phù hợp với thực tiễn. 
- Nhiều nguyên nhân khó khăn, vướng mắc từ phía doanh nghiệp ảnh 
hưởng đến việc hấp thụ vốn ngân hàng: Do thiếu thông tin hoặc thông tin dự báo 
chưa sát... nên việc nghiên cứu dự báo thị trường, và lập dự án ban đầu còn hạn 
chế, việc gắn sản phẩm của dự án với thị trường chỉ dừng lại ở mức nghiên cứu sơ 
bộ và chưa có tính thuyết phục cao. Do đó, doanh nghiệp chưa có những hồ sơ dự 
án khả thi, đầy đủ theo yêu cầu của ngân hàng. Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong 
việc thẩm định và xét duyệt cho vay. 
Công tác chăm sóc khách hàng tại chi nhánh rất được coi trọng và luôn 
được đặt lên hàng đầu: chi nhánh đã áp dụng một loạt các chính sách nhằm giữ 
vững và duy trì khách hàng truyền thống, có quan hệ lâu dài. Ngoài ra, chi nhánh 
còn thu hút thêm các khách hàng mới giúp tăng trưởng nguồn và dư nợ. Các chính 
sách chăm sóc khách hàng tại chi nhánh bao gồm: 
- Những khách hàng truyền thống, có nguồn tiền gửi hoặc dự nợ lớn, an 
toàn luôn được Chi nhánh đưa ra một số chính sách ưu đãi. 
 Trang 55 
- Chi nhánh thực hiện giao dịch tận nơi với những khách hàng ở xa. 
- Thường xuyên có chương trình lấy ý kiến khách hàng nhằm cải tiến 
phong cách giao dịch, phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn. 
- Các hoạt động giao lưu tìm hiểu các đơn vị bạn cũng được Chi nhánh tổ 
chức thường xuyên nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và ngày càng gắn kết 
chặt chẽ mối quan hệ khăng khít giữa hai bên. 
- Ngoài ra, Chi nhánh không ngừng đưa ra các chính sách tiếp thị và 
marketing tới các khách hàng đặc biệt là các tầng lớp dân cư như tờ rơi, quảng cáo 
qua hệ thống loa đài, báo chí, truyền thanh nhằm thực hiện chiến lược huy động 
vốn, giúp cho dân cư tại các địa bàn hoạt động của Chi nhánh hiểu rõ hơn về ưu 
đãi và dịch vụ ngân hàng cung cấp. 
Cụ thể hoá các chính sách trên, Chi nhánh đã đưa ra nhiều biện pháp để huy 
động vốn và mở rộng phạm vi cho vay. 
Đối với khách hàng là các doanh nghiệp: 
- Hà Nội là thành phố trung tâm của cả nước, nơi tập trung nhiều Tổng 
công ty lớn, nhiều cơ quan đầu não của các ngành nên có nguồn vốn tập trung lớn. 
Do đó, Chi nhánh đã tập trung khai thác những nguồn vốn lớn này. 
- Phát triển mối quan hệ chặt chẽ với các đơn vị khách hàng truyền thống, 
những đơn vị có nguồn vốn lớn do đó phải làm tốt công tác thanh toán sao cho 
nhanh chóng và thuận lợi, chu đáo nhất, tạo mối quan hệ gắn kết giữa khách hàng 
và ngân hàng. Đồng thời mở rộng quan hệ với khách hàng mới nhằm huy động 
nguồn vốn nhàn rỗi từ các tổ chức này và phát triển thanh toán trong hệ thống. 
- Khuyến khích các đơn vị điện, nước, điện thoại, điểm bán xăng dầu; mở 
tài khoản, chuyển tiền tại Chi nhánh; Ngân hàng thực hiện thu tiền mặt tại đơn vị. 
Đối với doanh nghiệp có số dư, doanh số tiền gửi lớn, có thu tiền mặt thường 
xuyên, Chi nhánh thực hiện thu, chi tại chỗ, thực hiện dịch vụ kiểm ngân không 
thu phí, hoặc với mức thu thấp. 
- Đẩy mạnh khâu kinh doanh quảng cáo tiếp thị thu hút khách hàng, với 
phương châm lắng nghe ý kiến từ doanh nghiệp, từ các tổ chức tín dụng khác để 
 Trang 56 
điểu chỉnh kịp thời các thủ tục rườm rà bất hợp lý, áp dụng cơ chế lãi suất linh hoạt 
đối với từng đối tượng khách hàng nhưng phải đảm bảo nguyên tắc phát triển ổn 
định và lâu dài. 
- Phân công người theo dõi quản lý đơn vị nguồn để nắm bắt tình hình của 
doanh nghiệp, xem tình hình hoạt động của doanh nghiệp, lắng nghe ý kiến của 
doanh nghiệp để đưa ra những giải pháp phục vụ một cách tốt nhất. 
Đối với khách hàng là các tầng lớp dân cư 
- Hà Nội cũng là thành phố có nền kinh tế phát triển, trình độ dân trí cao 
nên Chi nhánh đã tận dụng để khai thác lợi thế này bằng cách tiếp cận với các 
doanh nghiệp có lượng lao động lớn, mức thu nhập cao để mở tài khoản chi lương. 
Nguồn vốn này trước mắt chưa nhiều, song đây là nguồn vốn rẻ và người dân có 
điều kiện tiếp cận và làm quen với hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. 
- Thực hiện trả lương cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp thông 
quan tài khoản của doanh nghiệp và tài khoản cá nhân tại chi nhánh bằng cách làm 
tốt dịch vụ thanh toán chi trả lương cho cán bộ viên chức của các doanh nghiệp. 
Đồng thời Chi nhánh tìm các biện pháp thích hợp để khai thác khách hàng, nâng 
cao chất lượng phục vụ. 
- Nguồn tiền gửi dân cư tuy tăng trưởng chậm nhưng tương đối ổn định để 
khai thác được triệt để nguồn vốn này thái độ phục vụ của cán bộ, lòng tin của 
người gửi đối với Ngân hàng, lãi suất huy động vốn, thông tin quảng cáo đến 
khách hàng phải được tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng lĩnh, gửi 
tiền bằng cách: Tiếp tục mở thêm bàn giao dịch, duy trì phục vụ cả ngày thứ Bảy 
và Chủ nhật, đa dạng hoá các phương thức lĩnh, gửi theo Văn bản 404 của Hội 
đồng quản trị, đối với khách hàng có lượng tiền lĩnh, gửi lớn có thể triển khai phục 
vụ tại nhà có thu phí. 
- Mở thêm nhiều chi nhánh thành viên, các phòng giao dịch, nhiều bàn tiết 
kiệm để thu hút nguồn tiền gửi từ dân cư, quảng bá sâu rộng cho người dân trên 
địa bà
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh Láng Hạ (2).pdf