Luận văn Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam

Tài liệu Luận văn Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam: LUẬN VĂN: Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Hòa nhập với xu hướng chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ trương xã hội hóa dịch vụ công, các đơn vị sự nghiệp ở Việt nam không còn đơn thuần thực hiện chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao mà còn tự tổ chức cung ứng dịch vụ cho xã hội. Nguồn tài chính của các đơn vị này không chỉ do ngân sách nhà nước cấp mà từng đơn vị đều khai thác thêm các nguồn thu từ hoạt động dịch vụ cho xã hội. Trong những năm gần đây, số thu từ hoạt động cung ứng dịch vụ không chỉ là nguồn thu bổ sung mà còn chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng nguồn kinh phí của đơn vị. Tuy nhiên, nhiều đơn vị sự nghiệp vẫn còn lúng túng trong việc quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Gần đây, Chính phủ đã ra Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16.1.2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu, trong đó đã quy định tạm thời quy chế quản lý t...

pdf96 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1066 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Hòa nhập với xu hướng chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ trương xã hội hóa dịch vụ công, các đơn vị sự nghiệp ở Việt nam không còn đơn thuần thực hiện chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao mà còn tự tổ chức cung ứng dịch vụ cho xã hội. Nguồn tài chính của các đơn vị này không chỉ do ngân sách nhà nước cấp mà từng đơn vị đều khai thác thêm các nguồn thu từ hoạt động dịch vụ cho xã hội. Trong những năm gần đây, số thu từ hoạt động cung ứng dịch vụ không chỉ là nguồn thu bổ sung mà còn chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng nguồn kinh phí của đơn vị. Tuy nhiên, nhiều đơn vị sự nghiệp vẫn còn lúng túng trong việc quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Gần đây, Chính phủ đã ra Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16.1.2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu, trong đó đã quy định tạm thời quy chế quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp theo hướng tự chủ, nhưng trên thực tế việc triển khai Nghị định này còn gặp không ít khó khăn. Thông tấn xã Việt nam (TTXVN), với tư cách là một đơn vị sự nghiệp, cũng nằm trong tình trạng như thế. Mặc dù trong những năm vừa qua, công tác quản lý tài chính của TTXVN đã đạt được một số kết quả nhất định, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đề ra, song cơ chế quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp của TTXVN hiện cũng bộc lộ những hạn chế, khiếm khuyết. Để góp phần làm cho công tác quản lý tài chính của TTXVN ngày càng tốt hơn, phù hợp hơn với tiến trình đổi mới của đất nước trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, đề tài: “Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam” được chọn làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chuyển các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước sang hoạt động theo cơ chế quản lý phù hợp với kinh tế thị trường là lĩnh vực vấp phải nhiều lúng túng ở nước ta. Mặc dù từ đầu những năm 90 Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương xã hội hóa một phần các dịch vụ công của Nhà nước, nhưng quá trình xã hội hóa diễn ra chậm chạp. Gần đây, với việc ban hành Nghị định số10/ 2002/CP Nhà nước ta đã thể hiện quyết tâm đổi mới trong quản lý các đơn vị hành chính, sự nghiệp. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này còn rất ít, mới chỉ có một số công trình đề cập đến ba góc độ sau: * Bàn về chủ trương xã hội hóa các dịch vụ công của nhà nước. Điển hình cho các công trình nghiên cứu này là: + Mở rộng hơn nữa quyền tự chủ đối với các ĐVSN (Huỳnh Thị Nhân, Tạp chí tài chính số 1 năm 2005) + Mở rộng quyền chủ động tài chính cho các đơn vị sử dụng ngân sách (Vĩnh Sang, Tạp chí Tài chính số 8 năm 2005) + Cơ chế tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu, ( caicachhanhchinh.gov.vn, ngày 14/10/2004) + Cơ chế khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính thu ( caicachhanhchinh.gov.vn, ngày 14/10/2004). *Quá trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp đã được thực hiện trong một số năm gần đây. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này còn ít, mới chỉ có một số bài phân tích, bình luận trên tạp chí, một số luận văn, luận án nghiên cứu về quản lý tài chính. Chẳng hạn như: + Thủ trưởng đơn vị được quyền tự chủ về kinh phí quản lý hành chính (Báo Đầu Tư ra ngày 20/03/2006) + Một số vấn đề về đổi mới lĩnh vực sự nghiệp (Đỗ Quốc Sam, http:// WWW.irv.moi.gov.vn, ngày 2/03/2006). + Trao quyền tự chủ rộng hơn cho đơn vị sự nghiệp (Phỏng vấn ông Huỳnh Quang Hải, Vụ trưởng Vụ hành chính sự nghiệp, Bộ Tài chính, ngày 09/03/2006) + Hội thảo “ Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn 2004-2005” Bộ Tài chính phối hợp với Dự án VIE 01/024/B-Bộ Nội vụ tổ chức với các Bộ ngành Trung ương và các địa phương ( + Mỗi năm chuyển khoảng 20% - 25% số đơn vị sự nghiệp sang tự chủ tài chính (Xuân Quang, Các công trình này chủ yếu bình luận về tính đúng đắn của chủ trương xã hội hóa trên các mặt tăng quy mô và chủng loại dịch vụ, nhất là dịch vụ y tế và giáo dục, tăng ý thức trách nhiệm của công dân và các đơn vị trong cung cấp, lựa chọn, kiểm soát và trả phí theo chất lượng dịch vụ, tăng tính cạnh tranh và sức ép buộc các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước phải cải thiện hoạt động của mình.. . Một số công trình cũng phân tích những yếu kém khi triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa dịch vụ công. *Bàn về thực trạng đổi mới cơ chế quản lý, nhất là đổi mới cơ chế quản lý tài chính, ở các đơn vị sự nghiệp của nhà nước theo hướng mở rộng quyền tự chủ tài chính cho cơ sở. Có thể kể ra một số công trình đã công bố về lĩnh vực này như: - Luận văn thạc sĩ của Hoàng Ngọc Tuấn về đề tài: “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quá trình quản lý tài chính tại Trung tâm dịch vụ báo chí Hà Nội”. - Luận án tiến sỹ của Đặng Minh Hiền về đề tài: “ Một số giải pháp quản lý tài chính ở các Bệnh viện công Việt Nam”. - Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thu Thảo về đề tài: “ Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính đối với ĐVSN có thu tại Viện khoa học Thủy Lợi”. Trong khuôn khổ quản lý tài chính của TTXVN, cũng đã có một số công trình nghiên cứu nhưng mang tính kỹ thuật và báo chí. Riêng nghiên cứu về đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN hiện vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN. Vì TTXVN là một đơn vị sự nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước, trong nó lại bao gồm nhiều đơn vị trực thuộc, nên đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN bao hàm nhiều nội dung phức tạp như đổi mới quản lý tài chính của Nhà nước với tư cách chủ sở hữu đối với TTXVN, đổi mới quản lý tài chính của Văn phòng TTXVN đối với đơn vị trực thuộc và đổi mới quản lý tài chính của từng đơn vị trực thuộc TTXVN … Do khuôn khổ hạn chế nên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu quản lý tài chính của Văn phòng TTXVN và của đơn vị trực thuộc. Cơ chế, chế độ quản lý tài chính của Nhà nước đối với TTXVN được giới hạn trong các văn bản có giá trị thi hành hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ khảo sát các đơn vị trong nước của TTXVN, không đề cập đến quản lý tài chính các đại diện ở nước ngoài. Thời gian khảo sát chủ yếu tập trung trong giai đoạn 5 năm trước và sau năm 2006. 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp của TTXVN trong thời gian tới. Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Hệ thống hóa cơ sở lý luận của quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN. - Phân tích thực trạng quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN. - Đề xuất giải pháp đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN trong thời gian tới. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế phổ biến như phương pháp phân tích, tổng hợp dựa trên các số liệu thống kê có sẵn và tự điều tra, kết hợp với so sánh, hệ thống hóa, mô hình hóa nhằm rút ra các kết luận và đề xuất cần thiết. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Hệ thống hóa những vấn đề lý thuyết về quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp phù hợp với điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. - Đưa ra được bức tranh về thực trạng quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN trên cơ sở chế độ quản lý của Nhà nước hiện hành. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN trong thời gian tới. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết. Chương 1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp 1.1. Một số khái niệm liên quan đến quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp 1.1.1. Hoạt động sự nghiệp 1.1.1.1. Khái niệm hoạt động sự nghiệp Trong xã hội, con người tạo ra và tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau như sản xuất ra của cải để nuôi sống mình, tự nhận thức thế giới và giáo dục cho thế hệ sau những tri thức và kỹ năng mình đã tích lũy được, nghiên cứu và tìm cách chữa bệnh cho mình, rèn luyện thể lực và giải trí…Các Mác, và sau này là các học trò và người kế tục Người, đã quan niệm xã hội gồm nhiều tầng cấu trúc, trong đó quá trình tạo ra của cải vật chất là cơ sở hạ tầng, bên trên nó là kiến trúc thượng tầng chính trị, văn hóa, nghệ thuật, khoa học, tinh thần…Khi xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực, các lý luận gia của các nước xã hội chủ nghĩa đã coi các hoạt động sản xuất là hoạt động kinh tế, các hoạt động của bộ máy nhà nước là hành chính và các hoạt động giáo dục, nghiên cứu, y tế, văn hóa, nghệ thuật là hoạt động sự nghiệp. Hơn nữa, trong mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa thời bao cấp, ngoài các cơ sở sản xuất và thương mại quốc doanh bao trùm quá trình tái sản xuất xã hội, Nhà nước còn thành lập các cơ sở cung cấp dịch vụ giáo dục, y tế, nghiên cứu…Để phân biệt chức năng và cơ chế hoạt động của các loại hình đơn vị cơ sở như thế, Nhà nước gọi các hoạt động sản xuất và thương mại là hoạt động kinh tế, các hoạt động nghiên cứu, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, nghệ thuật… là các hoạt động sự nghiệp. Từ đó cho đến nay thuật ngữ hoạt động sự nghiệp được sử dụng thường xuyên trong các văn bản pháp lý về quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, về mặt lý luận, chưa có công trình nào đưa ra định nghĩa về hoạt động sự nghiệp. Theo chúng tôi, hoạt động sự nghiệp là những hoạt động do Nhà nước thực hiện nhằm cung cấp những dịch vụ có lợi ích chung và lâu dài cho cộng đồng xã hội. Hoạt động sự nghiệp không trực tiếp tham gia vào quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất, nhưng nó tác động đến lực lượng sản xuất và xã hội thông qua việc nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng lao động cho nhân dân, cải thiện chất lượng sống của con người, duy trì, bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa, nghệ thuật, tinh thần của dân tộc, phát triển khoa học… Kết quả hoạt động sự nghiệp ảnh hưởng đến không chỉ phát triển kinh tế mà còn đến sự phát triển xã hội và đất nước. 1.1.1.2. Đặc điểm hoạt động sự nghiệp Hoạt động sự nghiệp có những đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, hoạt động sự nghiệp có xu hướng cung cấp các loại hàng hóa, dịch vụ có tính chất của hàng hóa công cộng hoặc hàng hóa khuyến dụng. Kết quả của hoạt động sự nghiệp chủ yếu là học vấn, kỹ năng lao động của nhân dân, các giá trị văn hóa, khoa học, nghệ thuật khó đánh giá được giá trị kinh tế bằng tiền, nhưng có ý nghĩa tăng hiệu quả kinh tế xã hội chung, tăng năng lực sản xuất của quốc gia, tăng chất lượng sống của nhân dân, tăng phúc lợi xã hội, tạo hiệu ứng tích cực cho các lĩnh vực khác, lợi ích đem lại không chỉ cho người hưởng thụ trực tiếp mà còn cho những người khác …. Nhiều sản phẩm của các đơn vị sự nghiệp có giá trị sử dụng tăng thêm khi tăng người sử dụng mà không tăng chi phí như phát thanh, truyền hình… Theo ý kiến của nhà kinh tế được giải thưởng Nôben J. Stieglits, nhà nước cung cấp hàng hóa công cộng sẽ có lợi hơn tư nhân [14, tr.170-173]. Hơn nữa, trong xã hội hiện đại, để đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội, Nhà nước nên cung cấp nhiều hàng hóa công cộng. Bởi vì, nhờ sử dụng những hàng hóa công cộng do hoạt động sự nghiệp tạo ra mà quá trình sản xuất của cải vật chất được thuận lợi và ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục thể thao đem đến tri thức và bảo đảm sức khỏe cho lực lượng lao động, tạo điều kiện cho lao động có chất lượng ngày càng tốt hơn; hoạt động sự nghiệp khoa học, văn hóa thông tin mang lại những hiểu biết của con người về tự nhiên, xã hội, tạo ra những công nghệ mới phục vụ sản xuất và đời sống... Nếu không có sự cung cấp của Nhà nước, nhiều người không có cơ hội hưởng thụ những loại hàng hóa, dịch vụ đó. Thứ hai, hoạt động sự nghiệp không nhằm mục đích thu lợi nhuận trực tiếp. Trong nền kinh tế thị trường, một số sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra có thể trở thành hàng hóa đem lại thu nhập cho đơn vị cung cấp. Song do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như nếu trao đổi theo nguyên tắc thị trường thì nhiều người không có khả năng tiêu dùng hoặc không khuyến khích tiêu dùng đủ mức…, trong khi đó mở rộng tối đa sự tiêu dùng các loại hàng hóa đó có ý nghĩa vừa làm tăng năng lực sản xuất của đất nước, vừa có giá trị tiến bộ và công bằng. Chính vì thế, Nhà nước cần tổ chức cung ứng hoặc duy trì các tài trợ để các hoạt động sự nghiệp cung cấp những sản phẩm, dịch vụ không thu tiền hoặc thu tiền chỉ để hoàn một phần chi phí, không nhằm thu lợi nhuận. Ngoài ra, khi cung cấp các dịch vụ sự nghiệp không theo nguyên tắc thương mại bình thường, Nhà nước hướng đến mục tiêu phân phối lại thu nhập và tăng phúc lợi công cộng. Tuy nhiên, xét về mặt quản lý vi mô, Nhà nước mong muốn các đơn vị cung cấp hàng hóa, dịch vụ sự nghiệp phải hoạt động có hiệu quả, có nghĩa là hoạt động với chi phí tối thiểu. Do đó, các biện pháp khoán kinh phí hay buộc các đơn vị sự nghiệp phải hạch toán thu chi không phải là giải pháp tăng thu lợi nhuận như các biện pháp quản lý doanh nghiệp, mà đơn thuần chỉ là giải pháp quản lý khuyến khích đơn vị sự nghiệp chủ động phát huy hết mọi năng lực của mình để tiết kiệm chi phí. Thứ ba, hoạt động sự nghiệp luôn gắn liền và bị chi phối bởi các chương trình phát triển kinh tế xã hội và ngân sách của Nhà nước. Trong kinh tế thị trường, các hoạt động sự nghiệp cũng là công cụ để Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, nhất là các chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng, chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình, chương trình phát triển giáo dục, chương trình phát triển văn hóa... Những chương trình mục tiêu quốc gia chi phối hoạt động sự nghiệp nằm trong tổng thể chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Hơn nữa, nhu cầu về các sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp của xã hội thì nhiều vô hạn, trong khi đó nguồn tài chính của Nhà nước giành cho các hoạt động này lại bị hạn chế bởi ngân sách nhà nước cũng như mối quan hệ với các nhu cầu chi tiêu khác của Nhà nước. Chính vì thế, cung sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp luôn thấp hơn nhu cầu và việc xác định phải cung cấp các loại sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp với quy mô bao nhiêu luôn là vấn đề hóc búa của các Nhà nước. Thứ tư, sản phẩm của các hoạt động sự nghiệp có tính ích lợi chung và lâu dài. Sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra chủ yếu là những giá trị về tri thức, văn hóa, phát minh, sức khỏe, đạo đức, các giá trị về xã hội... Đây là những sản phẩm thường mang lại lợi ích cho nhiều người, cho nhiều đối tượng trên phạm vi rộng. Nhiều sản phẩm sự nghiệp có tác dụng lâu dài như các phát minh khoa học, các giá trị văn hóa, trình độ học vấn, kỹ năng lao động… Nhìn chung, đại bộ phận các sản phẩm do hoạt động sự nghiệp tạo ra là sản phẩm có tính phục vụ không chỉ bó hẹp trong một ngành hoặc một lĩnh vực nhất định, những sản phẩm đó khi tiêu dùng thường có tác dụng lan toả và vựcđược sử dụng đi, sử dụng lại nhiều lần. 1.1.1.3. Phân loại hoạt động sự nghiệp Hoạt động sự nghiệp trong xã hội rất đa dạng, phong phú và có thể phân loại chúng theo nhiều tiêu thức khác nhau. - Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, các hoạt động sự nghiệp được chia thành: + Sự nghiệp kinh tế: Là hoạt động sự nghiệp nhằm phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho yêu cầu sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho các ngành kinh tế hoạt động bình thường, thuận lợi. + Sự nghiệp văn hóa xã hội (gọi tắt là sự nghiệp văn xã): Là các hoạt động phục vụ cho các yêu cầu phát triển của xã hội về văn hóa, sức khỏe và các nhu cầu về đời sống tinh thần của nhân dân. - Căn cứ vào đặc điểm nguồn tài chính đảm bảo cho hoạt động sự nghiệp, hoạt động sự nghiệp được chia thành: + Hoạt động sự nghiệp không có thu: Là hoạt động do Nhà nước đảm bảo hoàn toàn nhu cầu tài chính. Những hoạt động này thường là những hoạt động cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho xã hội, phạm vi tiêu dùng rộng rãi và chỉ có Nhà nước mới có thể thực hiện một cách hiệu quả nhất. Thuộc về những hoạt động này gồm có các hoạt động về văn hóa tuyên truyền, giáo dục tiểu học, đào tạo, khoa học, y tế cho người nghèo, đảm bảo xã hội,... + Hoạt động sự nghiệp có thu: Là những hoạt động mà nguồn tài chính đảm bảo vừa do Nhà nước cung cấp, vừa do người tiêu dùng đóng góp một phần dưới dạng phí, lệ phí. Những hoạt động này thường là những hoạt động cung cấp các dịch vụ có tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất và đời sống mà người tiêu dùng có thể trả tiền do họ thấy ngay hiệu quả sử dụng dịch vụ, hoặc là họ muốn nhận được những dịch vụ có phí phân biệt theo chất lượng. - Căn cứ vào tính chất hoạt động của chúng, hoạt động sự nghiệp được chia thành: + Hoạt động sự nghiệp thường xuyên: Là những hoạt động được tổ chức và duy trì hoạt động liên tục và xã hội luôn luôn có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm dịch vụ của nó, bất luận điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn như thế nào. Thuộc về hoạt động sự nghiệp thường xuyên là các hoạt động về giáo dục tiểu học, đào tạo, khoa học, y tế, văn hóa … + Hoạt động sự nghiệp không thường xuyên: Là những hoạt động sự nghiệp để thực hiện các chương trình cụ thể của Nhà nước trong một giai đoạn nhất định. 1.1.1.4. Vai trò của hoạt động sự nghiệp trong nền kinh tế thị trường Trong thời đại ngày nay, một nước giầu hay nghèo, lạc hậu hay phát triển không phải chỉ phụ thuộc vào khối lượng hàng hóa tư nhân mà người dân có được do trao đổi trên thị trường, mà còn phụ thuộc vào khối lượng phúc lợi xã hội mà họ được hưởng, trong đó có các sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp cung cấp. Hơn nữa, tiềm năng phát triển nhanh hay chậm trong tương lai của một nước không những do số lượng lao động, tài nguyên thiên nhiên và vốn đã tích lũy được quyết định, mà chủ yếu là do khả năng phát huy tiềm năng sáng tạo của con người chi phối. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành con người về trình độ văn hóa, tri thức khoa học, thể lực, tâm hồn, đạo đức lối sống, thị hiếu, thẩm mỹ, giao tiếp của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng… Đa phần yếu tố cấu thành tiềm năng sáng tạo của con người do hoạt động sự nghiệp cung cấp trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Hoạt động sự nghiệp là động lực to lớn giúp dân tộc bảo tồn và phát triển văn hóa, truyền thống, các giá trị đạo đức… Nghị quyết Đại hội toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” [13]. Hoạt động sự nghiệp đóng vai trò động lực cải cách, đổi mới, phát triển giáo dục - đào tạo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khóa VIII) của Đảng ta đã khẳng định quan điểm khoa học công nghệ cùng với giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu trong phát triển đất nước. Thể dục - thể thao là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển khoa học xã hội của Đảng và Nhà nước ta nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, góp phần tích cực nâng cao sức khoẻ, thể lực, giáo dục nhânnhân cách, đạo đức lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội và sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) của Đảng ta đã khẳng định “Sức khỏe là vốn quý của mỗi con người và của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [11]. Hoạt động sự nghiệp có vai trò quan trọng trong lĩnh vực này. 1.1.2. Đơn vị sự nghiệp 1.1.2.1. Khái niệm đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam Trong nền kinh tế-xã hội, để thực hiện các hoạt động sự nghiệp cần có các tổ chức tiến hành các hoạt động đó, các tổ chức này được gọi là đơn vị sự nghiệp (ĐVSN). Tuy nhiên, theo ngôn ngữ quen dùng ở Việt Nam, ĐVSN thường phải là các cơ quan của Nhà nước. “Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn 2004-2005”, ban hành theo Quyết định số 08/2004/QĐ-TTg ngày 15/01/2004 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định: ĐVSN là một loại hình đơn vị được Nhà nước ra quyết định thành lập, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nhất định nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao trên lĩnh vực quản lý, thực hiện các hoạt động sự nghiệp. Đó là đơn vị thuộc sở hữu nhà nước, hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, văn hóa, thông tin, nghiên cứu khoa học, y tế,... không theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh [24]. ĐVSN thuộc khu vực phi lợi nhuận, sự chi tiêu của các đơn vị này, theo con mắt của các nhà quản lý tài chính nhà nước, mất đi, không thu hồi lại được vốn gốc, mặc dù các đơn vị này vẫn tính khấu hao tài sản cố định. Trong quá trình hoạt động, các ĐVSN được Nhà nước trang trải kinh phí đáp ứng nhu cầu chi tiêu từ ngân sách nhà nước hoặc được bổ sung từ các nguồn khác. Đặc điểm hoạt động của các ĐVSN là rất đa dạng, bắt nguồn từ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Mục đích hoạt động của các ĐVSN là phục vụ lợi ích cộng đồng, xã hội, đất nước. Trong quá trình cung cấp hàng hóa và dịch vụ công cho xã hội, các ĐVSN được phép tạo lập nguồn thu nhập nhất định thông qua các khoản thu phí và các khoản thu từ cung ứng dịch vụ do Nhà nước quy định để trang trải các khoản chi tiêu. Quản lý tài chính ĐVSN phải tuân thủ theo những quy định pháp lý của Nhà nước. Tùy theo đặc điểm tạo lập nguồn thu của các ĐVSN, Nhà nước áp dụng cơ chế tài chính thích hợp để các ĐVSN thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Phù hợp với xu hướng cải cách khu vực công trong bối cảnh hội nhập, Nhà nước thực hiện chính sách đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các ĐVSN theo hướng nâng cao quyền tự chủ tài chính nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công phục vụ xã hội. ĐVSN có những đặc điểm khác với cơ quan hành chính. Cơ quan hành chính là những tổ chức cung cấp trực tiếp các dịch vụ hành chính công cho người dân khi thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của mình. Các dịch vụ hành chính công được cung cấp theo luật định, với chất lượng đồng nhất cho mọi người tiêu dùng và được chi trả trực tiếp bằng ngân sách nhà nước. Dịch vụ hành chính công là chức năng của cơ quan hành chính Nhà nước, là trách nhiệm và nghĩa vụ của bộ máy Nhà nước với nhân dân và chỉ có Nhà nước (chứ không có một tổ chức tư nhân nào khác) có đủ thẩm quyền thực hiện chức năng đó. Nhà nước với tư cách là một tổ chức công quyền phải có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ này cho nhân dân, còn người dân có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước dưới hình thức thuế. Như vậy, quan hệ trao đổi các dịch vụ hành chính công không phản ánh quan hệ thị trường, mà phản ánh quan hệ nghĩa vụ của Nhà nước và phương tiện thực hiện nghĩa vụ do xã hội công dân cung cấp. Người sử dụng dịch vụ có thể trả một phần hoặc không phải trả tiền cho việc sử dụng dịch vụ đó, nhưng phải đóng thuế để chi trả cho chúng. Chính vì vậy cơ quan hành chính chỉ được tự chủ tài chính trong phần kinh phí ngân sách nhà nước cấp (cơ chế khoán chi), không được tự do mở rộng dịch vụ và nguồn thu. Dịch vụ và nguồn thu là cố định theo luật.Trong khi đó, dịch vụ của ĐVSN cung ứng có thể cạnh tranh với khu vực tư nhân và cung ứng theo nhu cầu nên các đơn vị này được phép khai thác và mở rộng nguồn thu từ các hoạt động sự nghiệp của mình. Đặc điểm khác biệt này cho phép ĐVSN có thể hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính. ĐVSN có những điểm khác với loại hình doanh nghiệp. Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tuân thủ nguyên tắc hạch toán kinh doanh, hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận bằng cách tự bù đắp đủ chi phí và có lãi. Doanh nghiệp phải hoạt động theo quy luật thị trường. ĐVSN không hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường và không coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mình. Lĩnh vực sự nghiệp tạo ra những sản phẩm đặc biệt vừa mang tính phục vụ chính trị- xã hội, vừa mang tính hàng hóa đòi hỏi phải bù đắp chi phí. Với chức năng phục vụ xã hội, sản phẩm của hoạt động sự nghiệp không thể đo bằng giá trị tiền tệ hữu hình. Những đơn vị tạo ra sản phẩm đó không thể và càng không hạch toán được lỗ lãi đơn thuần bởi sản phẩm của nó thuộc chức năng phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội. Mặt khác, mỗi sản phẩm này đều mang trong nó giá trị đã hao phí để tạo ra nó. Để tái sản xuất giản đơn, các ĐVSN phải thu lại từ ngân sách nhà nước và từ chi trả của người hưởng thụ. Hiệu quả hoạt động của ĐVSN không đơn thuần đo đếm bằng tiền, mà thường được tính bằng các giá trị phi tiền tệ. Chính vì thế, việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các ĐVSN thường khó khăn. 1.1.2.2. Các loại hình đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam Có rất nhiều tiêu thức để phân loại ĐVSN. * Căn cứ vào vị trí, ĐVSN được phân loại thành: - ĐVSN ở Trung ương là những ĐVSN trực thuộc Chính phủ như TTXVN, Đài Phát thanh Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, các bệnh viện, trường học, các nhà xuất bản quốc gia… - ĐVSN ở địa phương như đài phát thanh truyền hình ở địa phương, các bệnh viện, trường học, do địa phương quản lý,... * Căn cứ vào từng lĩnh vực hoạt động sự nghiệp cụ thể, ĐVSN bao gồm: - ĐVSN giáo dục, đào tạo. - ĐVSN y tế (Bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân) - ĐVSN văn hóa, thông tin - ĐVSN phát thanh, truyền hình - ĐVSN dân số-trẻ em, kế hoạch hóa gia đình - ĐVSN thể dục, thể thao - ĐVSN khoa học công nghệ, môi trường - ĐVSN kinh tế (Duy tu, sửa chữa đê điều, trạm trại,...) - Đơn vị sự nghiệp khác. * Căn cứ vào nguồn thu thì ĐVSN được chia thành hai loại: - Đơn vị sự nghiệp không có thu: Là đơn vị được Nhà nước cấp toàn bộ kinh phí để đảm bảo hoạt động của đơn vị và kinh phí được cấp theo nguyên tắc không hoàn lại trực tiếp. - ĐVSN có thu gồm hai loại: + ĐVSN có thu tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên: Là đơn vị có nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp ổn định, bảo đảm được toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, ngân sách nhà nước không phải cấp kinh phí cho hoạt động thường xuyên cho đơn vị. + ĐVSN có thu tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên: Là đơn vị có nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp nhưng chưa tự trang trải toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, ngân sách nhà nước phải cấp một phần chi phí cho hoạt động thường xuyên của đơn vị. 1.1.3. Quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 1.1.3.1. Khái niệm quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường nước ta Quản lý là yêu cầu tất yếu để đảm bảo sự hoạt động bình thường của mọi quá trình và hệ thống kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị có sự tham gia tự giác của nhiều người. Thực chất của quản lý là thiết lập và thực hiện hệ thốngcác phương pháp và biện pháp khác nhau của chủ thể quản lý để tác động một cách có ý thức tới đối tượng quản lý nhằm đạt tới kết quả nhất định. Quản lý bao gồm nhiều phương diện như quản lý công nghệ, quản lý thương mại, quản lý nhân sự, quản lý tài chính…Quản lý tài chính là hoạt động của chủ thể quản lý trong lĩnh vực tài chính nhằm sử dụng nguồn tài sản dưới hình thái tiền, giấy tờ có giá của một đơn vị, tổ chức vừa đảm bảo cho đơn vị, tổ chức hoạt động bình thường, vừa đảm bảo cho nguồn tài chính sử dụng tiết kiệm và sinh lợi nhiều nhất. Chủ thể quản lý tài chính ĐVSN gồm cơ quan nhà nước chuyên trách, bộ phận quản lý tài chính trong ĐVSN. * Quản lý tài chính ĐVSN từ phía Nhà nước (với tư cách chủ sở hữu và cơ quan quản lý hành chính của Nhà nước). Tùy theo tổ chức bộ máy nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, có các cơ quan nhà nước trực tiếp quản lý tài chính ĐVSN khác nhau. Hiện nay, cơ quan chuyên trách quản lý tài chính các ĐVSN ở trung ương là Bộ Tài Chính, Bộ chủ quản, ở địa phương là Sở Tài chính và Sở chủ quản. Mục tiêu của Nhà nước trong quản lý tài chính các ĐVSN là đề ra chính sách, chế độ, quy chế hoạt động tài chính phù hợp với luật pháp và chức năng, nhiệm vụ của ĐVSN. * Quản lý tài chính ở ĐVSN Chủ thể quản lý tài chính là các bộ phận chuyên trách về tài chính trong các ĐVSN. Thông thường, đó là bộ phận kế toán-tài vụ. Nếu trong ĐVSN còn có các đơn vị độc lập có tư cách pháp nhân thì đơn vị trực thuộc đó cũng tiến hành quản lý tài chính trong đơn vị mình. Mục tiêu quản lý tài chính của ĐVSN là sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ nhà nước và tiết kiệm nguồn tài chính của mình. 1.1.3.2. Vai trò của quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường nước ta Quản lý tài chính là một trong những hoạt động quản lý quan trọng của bất kỳ một tổ chức nào trong điều kiện kinh tế thị trường. Bởi vì, tài chính biểu hiện tổng hợp và bao quát hoạt động của đơn vị. Thông qua quản lý tài chính, chủ thể quản lý không chỉ kiểm soát được toàn bộ chu trình hoạt động của đơn vị mà còn đánh giá được chất lượng hoạt động của chúng. Tài chính còn biểu hiện lợi ích của các chủ thể tham gia và liên quan đến đơn vị. Thông qua quản lý tài chính, chủ thể quản lý sử dụng được công cụ kích thích lợi ích một cách hữu hiệu. Quản lý tài chính ở các ĐVSN cũng có vai trò quan trong như thế. Ngoài ra, do hoạt động của các ĐVSN rất đa dạng, tham gia trong nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và theo đuổi không chỉ mục tiêu riêng, mà còn phục vụ mục tiêu chung của toàn xã hội nên quản lý tài chính khá phức tạp, thường được quy định cụ thể cho từng ngành. Trong điều kiện kinh tế thị trường, yêu cầu về chất lượng dịch vụ công và hiệu quả hoạt động của các ĐVSN là những vấn đề còn mang tính phức tạp hơn nữa. Bên cạnh các khoản chi của ngân sách nhà nước đối với các ĐVSN, các đơn vị này còn có nguồn thu nhập từ chi trả của dân cư. Quản lý tốt tài chính của ĐVSN không những góp phần làm giảm bớt các khoản chi sự nghiệp của ngân sách nhà nước, mà còn khuyến khích cung cấp dịch vụ chất lượng cao cho xã hội với chi phí tiết kiệm. Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính ở các ĐVSN liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh tế - xã hội và chi tiêu đóng góp của nhân dân. Do đó, nếu tài chính của các ĐVSN được quản lý, giám sát, kiểm tra tốt, sẽ góp phần hạn chế, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính công, đồng thời nâng cao hiệu quả việc sử dụng các nguồn tài chính của đất nước. Ngoài ra, quản lý tài chính các ĐVSN còn cung cấp thông tin để tái cơ cấu hoạt động cung cấp dịch vụ văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao… trong tương quan với sự cạnh tranh của khu vực tư nhân. 1.2. Mục tiêu, nguyên tắc và nội dung quản lý tài chính ở các Đơn vị sự nghiệp 1.2.1. Mục tiêu quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp Việc quản lý tài chính ĐVSN nhằm đạt tới các mục tiêu: - Làm cho ĐVSN hoạt động có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. - Tạo động lực khuyến khích các ĐVSN tích cực, chủ động tổ chức hoạt động hợp lý, xác định số biên chế cần có, sắp xếp, tổ chức và phân công lao động khoa học, nâng cao chất lượng công việc nhằm sử dụng kinh phí tiết kiệm. - Nêu cao ý thức trách nhiệm, tăng cường đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong sử dụng tài chính. - Tạo điều kiện để công chức phát huy khả năng, nâng cao chất lượng công tác và tăng thu nhập vật chất cho cá nhân và tập thể. 1.2.2. Nguyên tắc quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp - Nguyên tắc hiệu quả: Là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong quản lý tài chính nói chung và trong quản lý các ĐVSN nói riêng. Hiệu quả trong quản lý tài chính thể hiện ở sự so sánh giữa kết quả đạt được trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội với chi phí bỏ ra. Tuân thủ nguyên tắc này là khi tiến hành quản lý tài chính các ĐVSN, Nhà nước cần quan tâm cả hiệu quả về xã hội và hiệu quả kinh tế. Mặc dù rất khó định lượng hiệu quả về xã hội, song những lợi ích đem lại về xã hội luôn được đề cập, cân nhắc thận trọng trong quá trình quản lý tài chính công. Nhà nước phải cân đối giữa việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu trên cơ sở lợi ích của toàn thể cộng đồng, những mục tiêu chính trị quan trọng cần phải đạt được trong từng giai đoạn nhất định với định mức chi hợp lý. Hiệu quả kinh tế là tiêu thức quan trọng để các cá nhân hoặc cơ quan có thẩm quyền cân nhắc khi xem xét các phương án, dự án hoạt động sự nghiệp khác nhau. Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế là hai nội dung quan trọng phải được xem xét đồng thời khi hình thành một quyết định hay một chính sách chi tiêu ngân sách liên quan đến hoạt động sự nghiệp. - Nguyên tắc thống nhất: Là thống nhất quản lý tài chính ĐVSN bằng những văn bản luật pháp thống nhất trong cả nước. Thống nhất quản lý chính là việc tuân theo một khuôn khổ chung từ việc hình thành, sử dụng, thanh tra, kiểm tra, thanh quyết toán, xử lý những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện quản lý thu, chi tài chính ở các ĐVSN. Thực hiện nguyên tắc quản lý này sẽ đảm bảo tính công bằng, bình đẳng trong đối xử với các ĐVSN khác nhau, hạn chế những tiêu cực và rủi ro trong hoạt động tài chính, nhất là những rủi ro có tính chất chủ quan khi quyết định các khoản thu, chi. - Nguyên tắc tập trung, dân chủ: Là nguyên tắc quan trọng trong quản lý tài chính đối với các ĐVSN thụ hưởng ngân sách nhà nước. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý tài chính ĐVSN đảm bảo cho các nguồn lực của xã hội được sử dụng hợp lý cả ở quy mô nền kinh tế quốc dân lẫn quy mô ĐVSN. - Nguyên tắc công khai, minh bạch: ĐVSN là tổ chức công nên việc quản lý tài chính các đơn vị này phải đáp ứng yêu cầu chung trong quản lý tài chính công, đó là công khai, minh bạch trong động viên, phân phối các nguồn lực xã hội, nhất là nguồn lực về tài chính. Bởi vì tài chính công là đóng góp của xã hội. Thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý sẽ tạo điều kiện cho cộng đồng có thể giám sát, kiểm soát các quyết định về thu, chi tài chính công, hạn chế những thất thoát và đảm bảo tính hợp lý trong chi tiêu của bộ máy nhà nước. 1.2.3. Nội dung quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp 1.2.3.1. Quản lý nguồn thu * Các nguồn thu tài chính ở ĐVSN: Tài chính của các ĐVSN hình thành từ các nguồn sau: - Nguồn thu từ ngân sách nhà nước: Đặc điểm của nguồn ngân sách là Nhà nước cấp phát theo dự toán xác định cho những nhiệm vụ, chương trình mục tiêu đã được duyệt. Để có được nguồn kinh phí ngân sách cấp, các đơn vị phải thực hiện tốt công tác lập kế hoạch, dự toán theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, các văn bản đặc thù cho từng ngành, từng lĩnh vực, quy chế được duyệt của đơn vị. - Nguồn thu có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước (được phép để lại đơn vị từ các nguồn thu theo chế độ): các khoản thu từ quyên góp, tặng, biếu không phải nộp ngân sách nhà nước theo chế độ. - Nguồn thu do dân cư chi trả: là nguồn thu của các ĐVSN do người nhận dịch vụ đóng góp. Nguồn này gồm các khoản sau: + Các khoản phí: Phí thực chất là giá cả của hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng phải trả cho người cung cấp khi được hưởng các hàng hóa, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra. Nói cách khác, đây là khoản tiền mà người tiêu dùng phải trả trực tiếp cho người cung cấp. Tùy tính chất và mục đích sử dụng của từng loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể mà Nhà nước quy định mức phí ĐVSN được phép thu. Phí thường được thu trong các lĩnh vực: Văn hóa-thông tin, giáo dục-đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, giao thông vận tải, nông nghiệp, hải sản, lao động thương binh xã hội..., ví dụ như học phí, viện phí, thủy lợi phí, phí bảo vệ môi trường,... + Các khoản thu sự nghiệp: Thông qua các hoạt động sự nghiệp, các đơn vị ứng dụng sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ văn hóa, thông tin, khoa học, thể thao, y tế... tạo ra nguồn thu. Thu sự nghiệp gồm các khoản thu trong các lĩnh vực sau:  Thu sự nghiệp giáo dục, đào tạo: Thu hợp đồng giảng dạy nghiệp vụ chuyên môn khoa học kỹ thuật, thu từ kết quả hoạt động sản xuất và ứng dụng khoa học của các trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, các trường cao đẳng, đại học.  Sự nghiệp y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình: Thu viện phí, thu dịch vụ khám chữa bệnh, thực hiện các biện pháp tránh thai; thu bán các sản phẩm đơn vị ứng dụng khoa học sản xuất để phòng chữa bệnh (như các loại vắc xin phòng bệnh,...)  Sự nghiệp văn hóa-thông tin: Thu dịch vụ quảng cáo, thu bán sản phẩm văn hóa như bản tin, tạp chí; thu từ hoạt động biểu diễn của các đoàn nghệ thuật.  Thể dục-thể thao: Thu tiền bán vé từ hoạt động thi đấu, biểu diễn thể dục, thể thao, thu hợp đồng dịch vụ thể thao như thuê sân bãi, dụng cụ thể dục thể thao,...  Sự nghiệp nghiên cứu khoa học, công nghệ, môi trường: Thu bán các sản phẩm từ kết quả hoạt động sản xuất, nghiên cứu, thử nghiệm, thu dịch vụ khoa học, bảo vệ môi trường, thu hợp đồng nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước.  Sự nghiệp kinh tế: Thu từ dịch vụ đo đạc bản đồ, điều tra khảo sát, quy hoạch nông lâm, thiết kế trồng rừng, thu dịch vụ khí tượng thủy văn, dịch vụ kiến trúc, quy hoạch đô thị,... + Các khoản thu khác. * Yêu cầu đối với quản lý nguồn thu: - Quản lý toàn diện từ hình thức, quy mô đến các yếu tố quyết định số thu. Bởi vì tất cả các hình thức, quy mô và các yếu tố ảnh hưởng đến số thu đều quyết định số thu tài chính làm cơ sở cho mọi hoạt động của ĐVSN. Nếu không quản lý toàn diện sẽ dẫn đến thất thoát khoản thu, làm ảnh hưởng không chỉ đến hiệu quả quản lý tài chính, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của ĐVSN. - Coi trọng công bằng xã hội, những người có điều kiện, hoàn cảnh và mức thu nhập như nhau phải đóng góp như nhau. Đây là thể hiện yêu cầu công bằng chung cho mọi hoạt động của Nhà nước. - Thực hiện nghiêm túc, đúng đắn các chính sách, chế độ thu do cơ quan có thẩm quyền ban hành. ĐVSN không được tự ý đặt ra các khoản thu cũng như mức thu. - Quản lý các nguồn thu theo kế hoạch, đảm bảo thu sát, thu đủ, tổ chức tốt quá trình quản lý thu, đồng thời đề ra các biện pháp tổ chức thu thích hợp. - Đối với các đơn vị được sử dụng nhiều nguồn thu phải có biện pháp quản lý thu thống nhất nhằm thực hiện thu đúng mục đích, thu đủ và thu đúng kỳ hạn. * Quy trình quản lý thu. Quy trình quản lý thu ở các ĐVSN được tiến hành theo từng năm kế hoạch qua các bước sau: - Xây dựng kế hoạch dự toán thu. - Thực hiện kế hoạch thu theo dự toán. - Quyết toán các khoản thu. * Khi xây dựng kế hoạch dự toán thu phải dựa vào các căn cứ sau: + Phải dựa vào nhiệm vụ chính trị, xã hội được giao cho đơn vị cũng như các chỉ tiêu cụ thể, từng mặt hoạt động do cơ quan có thẩm quyền thông báo. + Các văn bản pháp lý quy định thu như các chế độ thu do Nhà nước quy định. + Số kiểm tra về dự toán thu do cơ quan có thẩm quyền thông báo. + Kết quả phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán thu của các năm trước (chủ yếu là năm báo cáo) và triển vọng của các năm tiếp theo. * Thực hiện kế hoạch thu theo dự toán: Dự toán thu là căn cứ quan trọng để tổ chức thực hiện thu. Trong quá trình thu, đơn vị phải thực hiện thu đúng đối tượng, thu đủ, tuân thủ các quy định của Nhà nước để bảo đảm hoạt động của đơn vị mình. * Quyết toán các khoản thu: Cuối năm, đơn vị phải giải quyết những vấn đề còn tồn tại trong khâu tổ chức thu nộp, sau đó tổng hợp, đánh giá tình hình chấp hành dự toán thu đã được giao, rút ra những kinh nghiệm cho việc khai thác nguồn thu, công tác xây dựng dự toán và tổ chức thu nộp trong thời gian tới, nộp báo cáo cho cơ quan quản lý cấp trên. 1.2.3.2. Quản lý quá trình sử dụng tài chính * Các khoản chi của ĐVSN: ĐVSN được phép chi các khoản sau: - Chi hoạt động thường xuyên của đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao: + Chi cho người lao động: Chi tiền lương, tiền công; các khoản phụ cấp lương; các khoản trích bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn theo quy định,... + Chi quản lý hành chính: Vật tư văn phòng, dịch vụ công cộng, thông tin liên lạc, công tác phí, hội nghị phí, thuê mướn,... + Chi hoạt động nghiệp vụ. + Chi mua sắm tài sản, sửa chữa thường xuyên tài sản; khoản kinh phí này được sử dụng để mua sắm, trang bị thêm hoặc phục hồi lại giá trị sử dụng cho những tài sản cố định đã bị xuống cấp. + Chi khác: Chi tiếp khách, mua bảo hiểm phương tiện, .... - Chi thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, ngành; Chương trình mục tiêu quốc gia; chi thực hiện nhiệm vụ đặt hàng của Nhà nước; chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có vốn nước ngoài theo quy định. - Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do Nhà nước quy định. - Chi đầu tư phát triển: chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản, chi thực hiện các dự án đầu tư theo quy định. - Chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao. - Các khoản chi khác: các ĐVSN có thu còn có các khoản chi hoạt động tổ chức thu phí; chi hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ (kể cả chi nộp thuế, trích khấu hao tài sản cố định). * Yêu cầu đối với quản lý chi: - Đảm bảo nguồn tài chính cần thiết để các ĐVSN hoàn thành các nhiệm vụ được giao theo đúng đường lối, chính sách, chế độ của Nhà nước. Để thực hiện yêu cầu này đòi hỏi các đơn vị cần xác lập thứ tự ưu tiên cho các khoản chi để bố trí kinh phí cho phù hợp. - Quản lý các khoản chi phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả. Tiết kiệm là một nguyên tắc hàng đầu của quản lý tài chính. Nguồn lực luôn có giới hạn nhưng nhu cầu không có giới hạn. Do vậy trong quá trình phân bổ và sử dụng nguồn lực khan hiếm phải tính toán sao cho chi phí thấp nhất, kết quả cao nhất. Hoạt động sự nghiệp diễn ra trên phạm vi rộng, đa dạng và phức tạp. Nhu cầu chi của ĐVSN luôn gia tăng với tốc độ nhanh trong khi khả năng huy động nguồn thu có hạn nên cần phải tiết kiệm, thực hiện hiệu quả trong quản lý tài chính các ĐVSN. Để đạt được tiêu chuẩn tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý các khoản chi của các ĐVSN cần phải quản lý chặt chẽ từ khâu xây dựng kế hoạch, dự toán, xây dựng định mức, thường xuyên phân tích, đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện chi tiêu, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp tăng cường quản lý chi đối với các ĐVSN. * Nội dung quản lý chi tài chính ở ĐVSN: Trong thực tiễn, các ĐVSN có nhiều biện pháp quản lý các khoản chi tài chính khác nhau, nhưng các biện pháp quản lý chung nhất là: - Thiết lập các định mức chi. Định mức chi vừa là cơ sở để xây dựng kế hoạch chi, vừa là căn cứ để thực hiện kiểm soát chi của các ĐVSN. Các định mức chi phải được xây dựng một cách khoa học. Từ việc phân loại đối tượng đến trình tự, cách thức xây dựng định mức phải được tiến hành một cách chặt chẽ và có cơ sở khoa học. Các định mức chi phải bảo đảm phù hợp với loại hình hoạt động của từng đơn vị. Các định mức chi phải có tính thực tiễn tức là phải phản ánh mức độ phù hợp của các định mức với nhu cầu kinh phí cho các hoạt động. Chỉ có như vậy, định mức chi mới trở thành chuẩn mực cho quản lý kinh phí. - Lựa chọn thứ tự ưu tiên cho các loại hoạt động hoặc theo nhóm mục chi sao cho với tổng số chi có hạn nhưng khối lượng công việc vẫn hoàn thành và đạt chất lượng cao. Để đạt được điều này phải có phương án phân phối và sử dụng kinh phí khác nhau. Trên cơ sở đó lựa chọn phương án tối ưu cho cả quá trình lập dự toán, phân bổ và sử dụng kinh phí. - Xây dựng quy trình cấp phát các khoản chi chặt chẽ, hợp lý nhằm hạn chế tối đa những tiêu cực nảy sinh trong quá trình cấp phát, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm soát chi của các cơ quan có thẩm quyền. - Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm toán nhằm ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trong việc sử dụng nguồn kinh phí của Nhà nước, đồng thời qua công tác này phát hiện những bất hợp lý trong chế độ, chính sách nhằm bổ sung hoàn thiện chúng. * Quy trình quản lý chi tài chính ở các ĐVSN: * Lập dự toán chi: Lập dự toán chi là khâu khởi đầu và quan trọng trong quản lý chi ngân sách nhà nước, nó có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu quả của khâu chấp hành, kế toán và quyết toán chi ngân sách nhà nước. Khi lập dự toán cần dựa trên những căn cứ sau: - Chủ trương của Nhà nước về duy trì và phát triển các hoạt động sự nghiệp trong từng giai đoạn nhất định. Dựa vào căn cứ này sẽ giúp cho việc xây dựng dự toán chi tài chính ở ĐVSN có một cái nhìn tổng quát về những mục tiêu, nhiệm vụ mà đơn vị phải hướng tới trong năm, từ đó xác lập được các hình thức, phương pháp phân phối nguồn vốn vừa tiết kiệm, vừa đạt hiệu quả cao. - Dựa vào các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là các chỉ tiêu có liên quan trực tiếp đến việc cấp phát kinh phí chi ngân sách nhà nước kỳ kế hoạch cho các ĐVSN. Đây chính là việc cụ thể hóa các chủ trương của Nhà nước trong từng giai đoạn thành các chỉ tiêu cho kỳ kế hoạch. Khi dựa trên căn cứ này để xây dựng dự toán chi phải thẩm tra, phân tích tính đúng đắn, hiện thực, tính hiệu quả của các chỉ tiêu thuộc kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Trên cơ sở đó có kiến nghị điều chỉnh lại các chỉ tiêu kế hoạch cho phù hợp. - Dựa vào khả năng nguồn kinh phí có thể đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên kỳ kế hoạch. Muốn dự đoán được khả năng này, ĐVSN phải dựa vào cơ cấu thu ngân sách nhà nước kỳ báo cáo và mức tăng trưởng của các nguồn thu kỳ kế hoạch, từ đó thiết lập mức cân đối tổng quát giữa khả năng nguồn kinh phí và nhu cầu chi ngân sách nhà nước. - Kết quả phân tích, đánh giá tình hình quản lý và sử dụng kinh phí chi ngân sách nhà nước kỳ báo cáo sẽ cung cấp các thông tin cần thiết cho việc lập dự toán. Quá trình lập dự toán chi ngân sách Nhà nước được tiến hành theo các bước cơ bản sau: Thứ nhất, căn cứ vào dự toán sơ bộ về thu, chi ngân sách nhà nước kỳ kế hoạch để xác định các định mức chi tiêu tổng hợp dự kiến ngân sách sẽ phân bổ cho mỗi đối tượng. Trên cơ sở đó hướng dẫn các đơn vị tiến hành lập dự toán kinh phí. Bước này còn được gọi là xác định và giao số kiểm tra từ cơ quan tài chính hoặc cơ quan chủ quản cho ĐVSN. Thứ hai, dựa vào số kiểm tra và văn bản hướng dẫn lập dự toán kinh phí, các đơn vị dự toán tiến hành lập dự toán kinh phí của mình để gửi đơn vị dự toán cấp trên hoặc cơ quan tài chính. Căn cứ vào mức độ phân cấp về chi ngân sách nhà nước, cơ quan tài chính ở mỗi cấp có nhiệm vụ xét duyệt, tổng hợp dự toán kinh phí các đơn vị trực thuộc để hình thành dự toán chi ngân sách trình cơ quan có thẩm quyền xét duyệt. Thứ ba, căn cứ vào dự toán chi ngân sách nhà nước đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua, cơ quan tài chính sau khi xem xét điều chỉnh lại cho phù hợp sẽ chính thức phân bổ dự toán chi ngân sách nhà nước cho mỗi đơn vị. * Chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước: Chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước là khâu thứ hai trong chu trình quản lý ngân sách nhà nước. Trong quá trình sử dụng tài chính theo dự toán cần dựa trên những căn cứ sau: + Dựa vào định mức chi được duyệt của từng chỉ tiêu trong dự toán. Đây là căn cứ mang tính quyết định nhất trong chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước. + Dựa vào khả năng nguồn kinh phí có thể dành cho nhu cầu chi ngân sách nhà nước trong mỗi kỳ báo cáo. Chi thường xuyên của ngân sách nhà nước luôn bị giới hạn bởi khả năng huy động của các nguồn thu. Mặc dù các khoản chi thường xuyên đã được ghi trong dự toán nhưng khi số thu không đảm bảo vẫn phải cắt giảm một phần nhu cầu chi tiêu. Đây là một trong những giải pháp thiết lập lại sự cân đối giữa thu và chi ngân sách nhà nước trong quá trình chấp hành dự toán. + Dựa vào các chế độ, chính sách chi ngân sách nhà nước hiện hành. Đây là căn cứ mang tính pháp lý cho công tác tổ chức chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước, bởi lẽ tính hợp lý của các khoản chi sẽ được xem xét dựa trên cơ sở các chính sách, chế độ của Nhà nước đang có hiệu lực thi hành. Để làm được điều đó các chính sách, chế độ phải phù hợp với thực tiễn. Để đạt được mục tiêu cơ bản của việc tổ chức chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước, ĐVSN phải đảm bảo phân phối, cấp phát và sử dụng nguồn vốn hợp lý, tiết kiệm, thông qua áp dụng các biện pháp sau: - Trên cơ sở dự toán chi ngân sách đã được duyệt và các chế độ, chính sách hiện hành, cơ quan chức năng phải hướng dẫn cụ thể, rõ ràng cho các đơn vị thi hành. - Tổ chức các hình thức cấp phát vốn thích hợp với mỗi loại hình đơn vị, mỗi loại hoạt động và nguồn kinh phí hoạt động, trên cơ sở đó quy định rõ trình tự cấp phát nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thống nhất thực hiện. - Hướng dẫn các đơn vị thực hiện tốt chế độ hạch toán kế toán áp dụng cho các đơn vị, sao cho sự hình thành nguồn kinh phí và sử dụng kinh phí phải được hạch toán đúng, đủ, chính xác và kịp thời. Trên cơ sở đó đảm bảo việc quyết toán kinh phí được nhanh, chính xác, đồng thời cung cấp các tài liệu có tính chuẩn mực cao cho các cơ quan có thẩm quyền xét duyệt. - Cơ quan tài chính phải thường xuyên xem xét khả năng đảm bảo kinh phí cho nhu cầu chi ngân sách nhà nước để có biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm thiết lập lại thế cân đối mới trong qua trình chấp hành dự toán. - Thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình nhận và sử dụng kinh phí tại mỗi đơn vị sao cho mỗi khoản chi tiêu đảm bảo theo dự toán, đúng định mức tiêu chuẩn của Nhà nước, góp phần nâng cao tính tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý chi ngân sách. * Quyết toán chi ngân sách nhà nước: Quyết toán chi ngân sách nhà nước là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý chi tài chính. Đó là quá trình kiểm tra, rà soát, chỉnh lý lại các số liệu đã được phản ánh sau một kỳ chấp hành dự toán để phân tích, đánh giá kết quả chấp hành dự toán, rút ra những kinh nghiệm và bài học cần thiết cho kỳ chấp hành dự toán tiếp theo. Bởi vậy, trong quá trình quyết toán các khoản chi ngân sách phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau: - Lập đầy đủ các loại báo cáo tài chính và gửi kịp thời cho các cơ quan có thẩm quyền xét duyệt theo chế độ quy định. - Số liệu trong báo cáo phải đảm bảo tính chính xác, trung thực. Nội dung các báo cáo tài chính phải theo đúng nội dung ghi trong dự toán được duyệt và theo đúng mục lục ngân sách nhà nước quy định. - Báo cáo quyết toán năm của các đơn vị dự toán các cấp trước khi trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phải có xác nhận của Kho bạc nhà nước đồng cấp và phải được cơ quan Kiểm toán nhà nước kiểm toán. - Báo cáo quyết toán của các đơn vị dự toán không được để xảy ra tình trạng quyết toán chi lớn hơn thu. 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp 1.3.1. Chế độ quản lý tài chính công 1.3.1.1. Luật Ngân sách nhà nước Để quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, củng cố luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách và tài sản của Nhà nước, tăng tích lũy nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại...., cần quản lý ngân sách nhà nước theo luật. Phù hợp với yêu cầu đó, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Ngân sách nhà nước năm 1997. Sau đó, tại Khóa họp XI, Kỳ họp thứ hai năm 2002 Quốc hội đã bổ sung và tiếp tục hoàn thiện Luật Ngân sách nhà nước. Từ khi có Luật Ngân sách nhà nước mọi khoản chi ngân sách nhà nước, trong đó có chi cho ĐVSN, đều phải tuân theo Luật. Ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước. Theo Luật Ngân sách nhà nước, các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước phải lập, chấp hành, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, quyết toán ngân sách nhà nước theo các quy định thống nhất trong cả nước. Ngoài ra, việc sử dụng ngân sách nhà nước phải đúng mục đích và theo mục lục mà Luật đã quy định. Nhờ có Luật Ngân sách nhà nước, quản lý tài chính trong các ĐVSN trở nên minh bạch hơn, ổn định trong thời gian đủ dài để các đơn vị thụ hưởng ngân sách có điều kiện tìm phương án sử dụng ngân sách hiệu quả, kích thích tính tự chủ của ĐVSN nhiều hơn trước trong tìm kiếm lợi ích từ tiết kiệm chi ngân sách nhà nước, tạo cơ chế kiểm tra, giám sát của Nhà nước và cơ quan ngôn luận đối với việc sử dụng ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, do luật Ngân sách nhà nước của ta còn chưa thực sự hoàn thiện, nhiều quy định còn cứng nhắc, ví dụ như quy định phải sử dụng ngân sách theo mục lục ngân sách, quy định ngân sách cấp dưới thuộc ngân sách cấp trên,… đã hạn chế quyền tự chủ của đơn vị cơ sở trong sử dụng ngân sách hiệu quả. Ngoài ra, muốn cải tiến quản lý tài chính ở các ĐVSN phải chờ sự thay đổi của Luật Ngân sách nhà nước nên thường chậm chạp. 1.3.1.2. Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước là toàn bộ các chính sách, chế độ chi tài chính thống nhất trong các cơ quan nhà nước mà các ĐVSN phải tuân thủ. Trong cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước, các công cụ về định mức chi tiêu, danh mục được phép chi tiêu, quy trình xét duyệt và cấp ngân sách, phân cấp quản lý chi tài chính công...có vai trò quan trọng. Thông qua cơ chế quản lý tài chính, Nhà nước kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng các nguồn lực tài chính công trong các ĐVSN. Chính vì thế, cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước là cơ sở, nền tảng của quản lý tài chính trong các ĐVSN. Tính chất tiến bộ hay lạc hậu của cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý tài chính trong các ĐVSN. Một mặt, cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước tạo ra môi trường pháp lý cho việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động của đơn vị. Nó được xây dựng dựa trên quan điểm định hướng về chính sách quản lý ĐVSN trong từng giai đoạn cụ thể của Nhà nước nhằm cụ thể hóa các chính sách đó. Cơ chế này sẽ vạch ra các khung pháp lý về mô hình quản lý tài chính của ĐVSN, từ việc xây dựng các tiêu chuẩn, định mức, các quy định về lập dự toán, điều chỉnh dự toán, cấp phát kinh phí, kiểm tra, kiểm soát,.đến quyết toán kinh phí, nhằm phát huy tối đa hiệu quả quản lý vĩ mô của Nhà nước có tính đến quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị. Do đó, nếu cơ chế tài chính phù hợp sẽ tạo điều kiện tăng cường và tập trung nguồn lực tài chính, đảm bảo sự linh hoạt, năng động và hữu hiệu của các nguồn lực tài chính, giúp cho ĐVSN thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn được giao. Ngược lại, nếu các định mức quá lạc hậu, quy trình cấp phát và kiểm tra quá rắc rối, phức tạp thì không chỉ chi phí quản lý tài chính tăng, mà còn gây tình trạng che dấu, biến báo các khoản chi cho hợp lệ, hoặc quản lý tài chính không theo kịp hoạt động chuyên môn trong các ĐVSN. Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước đối với ĐVSN có tác động đến chương trình chi tiêu ngân sách quốc gia, ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia về hoạt động sự nghiệp. Vì vậy, cơ chế tài chính đó nếu được thiết lập phù hợp, hiệu quả sẽ đảm bảo cung ứng đủ nguồn kinh phí cho hoạt động chuyên môn, tránh được thất thoát, lãng phí các nguồn lực tài chính, đảm bảo phát huy tối đa hiệu quả, tạo tiền đề vật chất cho việc thực hiện tốt các chương trình quốc gia về hoạt động sự nghiệp. Ngược lại, nếu cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước không phù hợp sẽ làm cho các chương trình được thực hiện không như mong muốn, thậm chí làm cho chương trình phá sản. Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước đóng vai trò như một cán cân công lý, đảm bảo sự công bằng, hợp lý trong việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính giữa các lĩnh vực hoạt động sự nghiệp khác nhau, cũng như giữa các ĐVSN trong cùng một lĩnh vực. Nhờ đó, các ĐVSN dù hoạt động ở đâu, lĩnh vực nào cũng được quan tâm, tạo điều kiện phát triển tương xứng với yêu cầu của xã hội đối với lĩnh vực đó và tiềm lực kinh tế của quốc gia đó. Mặt khác, cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước vạch ra hành lang pháp lý cho ĐVSN nhưng nếu các cơ chế này không phù hợp sẽ trở thành hàng rào trói buộc, cản trở đến quá trình tạo lập và sử dụng nguồn lực tài chính của ĐVSN, ảnh hưởng xấu đến kết quả hoạt động chuyên môn của đơn vị. Nếu cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước sơ hở, lỏng lẻo có thể làm hao tổn ngân sách nhà nước, thất thoát, lãng phí các nguồn lực tài chính khác mà không đạt được mục tiêu chính trị, xã hội đã định. 1.3.2. Đặc điểm của đơn vị sự nghiệp 1.3.2.1. Đặc điểm của ngành Đặc điểm hoạt động của ngành là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý tài chính của ĐVSN. Do đặc điểm hoạt động của các đơn vị khác nhau dẫn đến mô hình quản lý tài chính của các đơn vị cũng sẽ khác nhau. Các ĐVSN nằm trong từng ngành sẽ được đơn vị chủ quản thiết lập cho những cơ chế quản lý tài chính nội bộ, nhất là hệ thống định mức chi tiêu, áp dụng riêng trong ngành. Cơ chế quản lý này vừa phải cụ thể hóa các văn bản pháp quy của Nhà nước, vừa đáp ứng được những yêu cầu riêng của ngành, phù hợp với những yêu cầu quản lý cụ thể, đặc thù mà Nhà nước chưa quy định, sao cho công tác quản lý tài chính thích hợp và chặt chẽ hơn. Nhìn chung, do chịu tác động của những cơ quan quản lý ngành, nên cơ chế quản lý theo ngành các ĐVSN thường chặt chẽ hơn quy định chung của Nhà nước. Một số ngành có những chính sách quản lý tập trung, hạn chế phân cấp quản lý cho các đơn vị thành viên làm ảnh hưởng đến tính tự chủ về tài chính của ĐVSN trong ngành đó. Một số ngành lại mở rộng cho đơn vị trực thuộc dẫn đến sự không công bằng giữa các ĐVSN thuộc các ngành khác nhau. Ngoài ra, do tính chất hoạt động, do tầm quan trọng của các ngành khác nhau mà sự ưu tiên cấp phát ngân sách và phân cấp quyền tự chủ tài chính của Nhà nước cũng khác nhau. 1.3.2.2. Quy mô, tầm quan trọng của đơn vị sự nghiệp Quy mô, tính phức tạp và tầm quan trọng của từng ĐVSN cũng ảnh hưởng đến quản lý tài chính nội bộ đơn vị. Nếu ĐVSN có quy mô lớn, các bộ phận phụ thuộc hoạt động phân tán thì chế độ quản lý tài chính nội bộ thiên về phân cấp rộng cho đơn vị cơ sở, cơ quan quản lý cao nhất của ĐVSN chỉ tập trung đảm nhiệm những khâu quản lý trọng yếu, cần thống nhất trong đơn vị hoặc các khâu mà cấp cao đảm nhiệm hiệu quả hơn. ở các ĐVSN có quy mô nhỏ, kết cấu đơn giản thì bộ máy quản lý tài chính gọn nhẹ, thường chỉ bao gồm cán bộ phòng tài chính kế toán, phòng này trực tiếp quản lý tài chính ở các bộ phận của đơn vị. Thường các ĐVSN có tầm quan trọng thì Nhà nước sẽ ưu tiên hơn trong cấp phát vốn đầu tư và cấp kinh phí thường xuyên, ngay cả trong các thời kỳ khó khăn. Các ĐVSN kém quan trọng hơn đôi khi phải thu hẹp quy mô hoạt động hoặc giảm bớt đầu mối khi tài chính nhà nước gặp khó khăn. Hơn nữa, trong chế độ quản lý tài chính công thống nhất, các ĐVSN quan trọng đôi khi được cho phép có những khoản chi ngoại lệ phục vụ các nhiệm vụ đặc biệt. Những yếu tố này cũng ảnh hưởng nhất định đến quản lý tài chính ở ĐVSN. 1.3.3. Thị trường đầu vào, đầu ra của đơn vị sự nghiệp 1.3.3.1. Thị trường đầu vào của đơn vị sự nghiệp ĐVSN là một cơ quan nhà nước nên phải tuân thủ các quy định của Nhà nước về chi tiêu. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, các ĐVSN phải mua các vật tư, thiết bị, máy móc theo giá thị trường. Nếu giá cả thị trường biến động lên, ĐVSN rất khó khăn trong việc đi xin kinh phí bổ sung, bởi nguồn kinh phí Nhà nước cấp được ổn định cho một số năm. Trong trường hợp này, các ĐVSN buộc phải thắt lưng, buộc bụng cố gắng chi dùng trong số tiền được cấp. Để tránh tình thế khó khăn đó, các ĐVSN có xu hướng đấu tranh để các định mức chi tiêu nới rộng hơn thực tế chút ít, hoặc luận chứng để được hưởng khoản kinh phí nhiều hơn ngay từ đầu. Sự đan xen giữa cơ chế thị trường và cơ chế quản lý chi tiêu của Nhà nước là yếu tố gây khó khăn rất lớn cho quản lý tài chính trong các ĐVSN. Bản thân chế độ lương của cán bộ, công nhân viên trong các ĐVSN cũng là cả một vấn đề phức tạp. Một mặt, các ĐVSN phải trả lương cho người làm việc trong cơ quan mình theo bảng và thang lương của Nhà nước; mặt khác, các đơn vị này phải tìm cơ chế cho cán bộ, công nhân viên có thu nhập thêm, ít nhất cũng ngang bằng các đơn vị khác để giữ người giỏi. Lấy tiền ở đâu để tăng thu nhập cho người lao động trong các ĐVSN là bài học nan giải trong các ĐVSN hiện nay. Hơn nữa, các ĐVSN, nhất là các viện nghiên cứu, các trường đại học, các bệnh viện..., là nơi đòi hỏi các chuyên gia có trình độ cao. Nếu không có chế độ lương thỏa đáng thì không có được đội ngũ chuyên gia như vậy. Để khắc phục khó khăn này, nhiều ĐVSN tổ chức thêm các hoạt động dịch vụ ngoài luồng, cho phép người lao động tranh thủ làm thêm ở nhà v.v. Tình trạng này càng làm cho quản lý tài chính trong các ĐVSN càng khó khăn hơn. 1.3.3.2. Thị trường đầu ra của đơn vị sự nghiệp Các ĐVSN cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho xã hội theo hai phương thức: độc quyền hoặc cạnh tranh. Đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ độc quyền như đài phát thanh, truyền hình, kiểm tra chất lượng, văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao…thì quản lý tài chính theo chế độ của Nhà nước thuận lợi hơn, nhưng cũng thường vấp phải vấn đề trì trệ, lạc hậu của định mức, chính sách do sự quan liêu của các cơ quan ban hành chính sách và sức ép của các đơn vị cung ứng dịch vụ sự nghiệp vì không có đối chứng so sánh. Với các ĐVSN độc quyền, Nhà nước cần tăng cường vai trò hướng dẫn và giám sát của các cơ quan chức năng cấp trên. Đối với các ĐVSN cung cấp dịch vụ và sản phẩm chịu sự cạnh tranh của cơ sở tư nhân như giáo dục, y tế, … thì quản lý tài chính đối với ĐVSN buộc phải thay đổi nhanh hơn theo cơ chế thị trường, nếu không ĐVSN sẽ không tồn tại được cả về hai phía: Hoặc định mức không đủ để cung cấp dịch vụ với chất lượng cạnh tranh thì hoạt động của ĐVSN sẽ èo uột, thậm chí chết yểu; Hoặc định mức quá cao sẽ dẫn đến lãng phí, phi hiệu quả. Vì thế, đối với các ĐVSN cung ứng sản phẩm, dịch vụ có tính cạnh tranh, Nhà nước cần mở rộng tương đối quyền tự chủ cho đơn vị, đi đôi với quy định chế độ tự chịu trách nhiệm. Một trong những loại hình cơ chế như vậy là khoán chi tài chính. 1.3.4. Năng lực quản lý tài chính nội tại của đơn vị sự nghiệp 1.3.4.1. Trình độ cán bộ quản lý tài chính của đơn vị sự nghiệp Con người là nhân tố trung tâm của bộ máy quản lý, là khâu trọng yếu trong việc xử lý các thông tin để đề ra các quyết định quản lý. Trình độ cán bộ quản lý là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến tính kịp thời chính xác của các quyết định quản lý, do đó nó có ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý, quyết định sự thành bại của công tác quản lý nói chung cũng như công tác quản lý tài chính nói riêng. Đối với các cơ quan quản lý cấp trên, nếu cán bộ quản lý tài chính có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, sẽ đưa ra được những biện pháp quản lý phù hợp, xử lý thông tin quản lý kịp thời, chính xác làm cho hoạt động quản lý ngày càng đạt hiệu quả cao. Ngược lại, nếu cán bộ cấp trên yếu kém, không dám chịu trách nhiệm thì cơ chế quản lý tài chính sẽ trì trệ, lạc hậu, kém hiệu quả. Đối với đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác tài chính kế toán, nếu có năng lực, trình độ chuyên môn tốt, có kinh nghiệm công tác sẽ đưa công tác quản lý tài chính kế toán đi vào nề nếp, tuân thủ các chế độ quy định về tài chính kế toán của Nhà nước, góp phần vào hiệu quả của công tác quản lý tài chính. ĐVSN nếu không có cán bộ quản lý tài chính chuyên nghiệp và thành thạo thì nguy cơ thất thoát, sai chế độ chính sách và chậm trễ là rất lớn. 1.3.4.2. Hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị sự nghiệp Hệ thống kiểm soát nội bộ là các quy định và các thủ tục kiểm soát do đơn vị xây dựng và áp dụng nhằm bảo đảm cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các quy định, để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót, nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị. Hệ thống kiểm soát nội bộ là chìa khóa để quản lý tài chính ở ĐVSN thực hiện hiệu quả, đúng chế độ, chính sách của Nhà nước. Hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị bao gồm môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán và các thủ tục kiểm soát. Môi trường kiểm soát là những nhận thức, quan điểm, sự quan tâm và hoạt động lãnh đạo đơn vị đối với hệ thống kiểm soát nội bộ và vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ trong đơn vị. Môi trường kiểm soát được đề cao sẽ giúp ĐVSN giảm thiểu nguy cơ sai lầm. Hệ thống kế toán là các quy định về kế toán và các thủ tục kế toán mà đơn vị áp dụng để thực hiện ghi chép kế toán và lập báo cáo tài chính. Hệ thống kế toán là công nghệ mà quản lý tài chính ĐVSN phải tuân thủ. Công nghệ này có tính pháp lý quốc gia. Thủ tục kiểm soát là các quy chế và thủ tục do Ban lãnh đạo đơn vị thiết lập và chỉ đạo thực hiện trong đơn vị nhằm đạt được mục tiêu quản lý cụ thể. Thủ tục kiểm soát được tuân thủ sẽ giúp cán bộ quản lý tài chính phát hiện kịp thời sai lầm để sửa chữa. Nếu ĐVSN có hệ thống kiểm soát nội bộ chặt chẽ, hữu hiệu, thì công tác quản lý tài chính sẽ được tạo điều kiện thuận lợi rất nhiều. Hệ thống kiểm soát nội bộ bảo đảm cho công tác tài chính được đặt đúng vị trí, được quan tâm đúng mức; hệ thống kế toán được vận hành có hiệu quả, đúng chế độ quy định; các thủ tục kiểm tra, kiểm soát được thiết lập đầy đủ, đồng bộ, chặt chẽ; giúp đơn vị phát hiện kịp thời mọi sai sót; ngăn chặn hữu hiệu các hành vi gian lận trong công tác tài chính. Chương 2 Thực trạng quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông Tấn Xã việt nam 2.1. Quá trình hình thành và đặc điểm của thông tấn xã Việt Nam 2.1.1. Sơ lược về lịch sử hình thành Thông tấn xã Việt Nam Trước cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước ta không có hãng thông tấn. Tin tức lưu truyền trong nước chủ yếu do các hãng tin của Pháp và phương Tây cung cấp, Sở Tuyên truyền báo chí của Pháp phát hành. Ngay sau ngày khởi nghĩa thành công ở Hà Nội (19/8/1945), Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam mới đã lập Bộ Tuyên truyền trong đó có Nha Thông tin Việt Nam (tiền thân của TTXVN và Đài Tiếng nói Việt Nam hiện nay). Khi đó, Nha Thông tin được giao nhiệm vụ tiếp quản phòng thu tin và đài phát sóng của Pháp. Ngày 23/8/1945 VNTTX chính thức hoạt động bằng cách thu và khai thác tin của AFP ở Sài Gòn và Pari, nhận ngang các đài của quân đội Pháp chuyển về Pháp, Đài Sài Gòn GZR liên lạc hai chiều với Pari. Ngay từ ngày đó, mỗi ngày đài thu 25.000 từ tin phục vụ Trung ương, Hồ Chủ Tịch và công tác tuyên truyền. Sau gần hai tuần lễ chuẩn bị, ngày 15/9/1945, Đài vô tuyến điện Bạch Mai đã phát đi toàn thế giới các bản tin đầu tiên của VNTTX (viết tắt tiếng Anh là VNA và tiếng Pháp là AVI) với nội dung giới thiệu danh sách Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và toàn văn bản “Tuyên ngôn độc lập” lịch sử bằng 3 thứ tiếng: Việt, Anh và Pháp, thông báo với thế giới sự ra đời của nước Việt Nam mới. Từ đó, ngày 15/9 được lấy là ngày truyền thống của VNTTX (nay là TTXVN). Trải qua 61 năm chiến đấu, lao động, xây dựng và phát triển, từ một nhóm cán bộ với ít máy thu phát lạc hậu, TTXVN đã trở thành một Trung tâm thông tin chiến lược quốc gia hùng mạnh đáng tin cậy của Đảng và Nhà nước, một ngân hàng thông tin, ảnh lớn của các cơ quan thông tin đại chúng trong và ngoài nước, một hãng thông tấn quốc gia có uy tín trong khu vực. Ngày nay, TTXVN bao gồm hệ thống các phân hệ đa dạng, phân bố ở trong và ngoài nước. Ngoài cơ quan Tổng xã có trụ sở đặt tại số 5 Lý Thường Kiệt - Hà Nội, với các ban biên tập tin, ảnh, các tòa soạn báo, bản tin chuyên đề, các trung tâm chuyên ngành (kỹ thuật, dữ kiện - tư liệu, ảnh báo chí, nghe nhìn, bồi dưỡng nghiệp vụ, tin học và hợp tác quốc tế), nhà xuất bản, các đơn vị làm chức năng quản lý, hậu cần và các doanh nghiệp, TTXVN còn có 2 Văn phòng đại diện tại TP.Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, các phân xã tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 25 phân xã ở nước ngoài, trải đều trên năm châu lục. Hiện nay, TTXVN phát hành 35 ấn phẩm gồm các loại tin, báo ngày, báo tuần, báo tháng (đối nội và đối ngoại), tạp chí, báo ảnh, báo điện tử với khối lượng gần 15 triệu bản mỗi năm. Về ảnh, TTXVN lưu trữ hơn 50 vạn kiểu phim trong đó có 5.000 kiểu phim về Bác Hồ, hàng ngàn kiểu phim về các dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, công tác tổ chức cán bộ và đào tạo bồi dưỡng cũng được coi trọng, mỗi năm có hàng trăm lượt người được đi học các lớp nghiệp vụ, lý luận chính trị, pháp luật, ngoại ngữ, vi tính ở trong nước và nước ngoài. Trong 61 năm qua, TTXVN đã đào tạo 23 khóa phóng viên. Chỉ tính từ 1999 đến nay đã thi tuyển và mở 3 lớp đào tạo phóng viên, tuyển mới 300 cán bộ trẻ thay thế cho lực lượng phóng viên biên tập ở các ban biên tập và các phân xã. TTXVN hiện có quan hệ hợp tác song phương và đa phương với 40 hãng thông tấn quốc tế và các tờ báo lớn của một số nước trên thế giới, trở thành thành viên của Hội Nhà báo quốc tế (OIJ), Tổ chức thông tấn các nước không liên kết (NANAP) và là ủy viên ủy ban phối hợp của NANAP; thành viên của Tổ chức Thông tấn Châu á - Thái Bình Dương (OANA) và là ủy viên Hội đồng chấp hành của OANA; là thành viên Thông tấn xã các nước ASEAN (ANEX). Với những đóng góp của mình trong 61 năm qua, TTXVN đã được Đảng và Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất và nhiều phần thưởng cao quý khác. 2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, vai trò của Thông tấn xã Việt Nam Ngày 18/7/2003, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải ký Nghị định số 82/2003/NĐ- CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của TTXVN thay thế Nghị định 66/NĐ-CP ngày 24/8/1998. 2.1.2.1. Vị trí và chức năng của Thông tấn xã Việt Nam TTXVN là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính phủ thực hiện chức năng thông tấn nhà nước trong việc phát hành tin, văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước, cung cấp thông tin phục vụ yêu cầu lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước; thu thập thông tin, phổ biến thông tin bằng các loại hình báo chí phục vụ các đối tượng có nhu cầu trong và ngoài nước; thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể về đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc TTXVN theo quy định của pháp luật. TTXVN chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Văn hóa-Thông tin về hoạt động báo chí. 2.1.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Thông tấn xã Việt Nam TTXVN có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thuộc Chính phủ hoạt động sự nghiệp theo quy định tại Nghị định số 30/2003/NĐ-CP ngày 01 tháng 4 năm 2003 của Chính phủ về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan thuộc Chính phủ. Theo NĐ này, TTXVN có những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:  Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 5 năm, hàng năm và các dự án quan trọng khác của TTXVN; tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch sau khi được phê duyệt.  Phát hành tin, văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước; thu thập, biên soạn tin, ảnh, tư liệu và tài liệu tham khảo phục vụ kịp thời yêu cầu lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.  Thu thập, biên soạn và phổ biến thông tin (tin, bài, tư liệu, tài liệu, sách, ảnh, sản phẩm nghe nhìn, sản phẩm đa phương tiện) phục vụ mọi đối tượng có nhu cầu trong và ngoài nước theo quy định của Luật Báo chí, Luật Xuất bản.  Khi được Thủ tướng Chính phủ ủy nhiệm, TTXVN được phép công bố những quan điểm chính thống của Nhà nước về các vấn đề thời sự, chỉnh hướng những thông tin không phù hợp, cải chính những thông tin sai lệch, bác bỏ những thông tin có dụng ý xuyên tạc.  Tham gia thực hiện công tác thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước theo quy định của pháp luật.  Phối hợp với Bộ Văn hóa-Thông tin quản lý các nguồn tin báo chí của các hãng thông tấn nước ngoài lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định của pháp luật.  Thực hiện lưu trữ quốc gia về tư liệu thông tin; là ngân hàng dữ kiện-dữ liệu về tư liệu thông tin và quản lý tư liệu ảnh quốc gia theo quy định của pháp luật.  Phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện nhiệm vụ chung về thông tin và những nhiệm vụ liên quan khác phục vụ công tác quốc phòng – an ninh.  Trình Bộ trưởng được Thủ tướng Chính phủ phân công ký ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm chuyên môn, nghiệp vụ và định mức kinh tế kỹ thuật về thông tấn được áp dụng trong cả nước.  Tổ chức nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ về nghiệp vụ thông tấn, công nghệ thông tin phục vụ chức năng thông tấn, báo chí.  Thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể về đại diện chủ sở hữu phần vốn tại doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc TTXVN quản lý theo quy định của pháp luật.  Thực hiện hợp tác quốc tế theo quy định của pháp luật.  Quản lý các dự án đầu tư và xây dựng thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật.  Tham gia thẩm định các đề án, dự án quan trọng thuộc chuyên môn, nghiệp vụ theo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.  Quyết định và chỉ đạo thực hiện chương trình cải cách hành chính của TTXVN theo mục tiêu và nội dung chương trình cải cách hành chính nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.  Quản lý tổ chức bộ máy, biên chế; chỉ đạo thực hiện chế độ tiền lương và các chế độ chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc phạm vi quản lý của TTXVN; đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ và kỹ thuật thông tấn, báo chí đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của TTXVN.  Quản lý tài chính, tài sản được giao và tổ chức thực hiện phần ngân sách nhà nước cấp và phần thu được theo quy định của pháp luật.  Thực hiện chế độ báo cáo với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. 2.1.3. Mô hình tổ chức quản lý hiện nay của Thông tấn xã Việt Nam 2.1.3.1. Mô hình tổ chức bộ máy * Các tổ chức giúp việc Tổng giám đốc: 1. Ban Thư ký Biên tập 2. Ban Tổ chức - cán bộ 3. Ban Kế hoạch Tài vụ 4. Ban Kiểm tra 5. Văn phòng * Các tổ chức biên tập: 1. Ban Biên tập tin Trong nước 2. Ban Biên tập tin Thế giới 3. Ban Biên tập tin Đối ngoại 4. Ban Biên tập-sản xuất ảnh báo chí 5. Ban Biên tập tin Kinh tế 6. Báo ảnh Việt Nam 7. Trung tâm Dữ kiện - Tư liệu * Các tổ chức khác: 1. Trung tâm Kỹ thuật thông tấn 2. Trung tâm Hợp tác quốc tế thông tấn 3. Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ Thông tấn 4. Trung tâm Tin học 5. Các phân xã TTXVN ở trong nước và nước ngoài 6. Văn phòng đại diện TTXVN tại TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, các tòa soạn báo chí, cơ sở xuất bản, phát hành, nghe nhìn… 2.1.3.2. Mô hình quản lý tài chính của Thông tấn xã Việt Nam Trên cơ sở Quyết định số 2140/QĐ-BTC ngày 10/07/2003 của Bộ Tài chính về việc cho TTXVN thực hiện tự chủ tài chính theo cơ chế bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên theo quy định tại Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ, TTXVN đã sắp xếp, quản lý và tổ chức lại công việc nhằm vừa thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao, vừa tích cực thực hiện nhiệm vụ kinh tế, góp phần trang trải một phần kinh phí hoạt động và tăng thu nhập cho phóng viên và cán bộ TTXVN. TTXVN có 8 ĐVSN, trong đó có 7 ĐVSN có thu và 1 ĐVSN không có thu là ĐVSN Văn phòng TTXVN. - Đối với ĐVSN không có thu Văn phòng TTXVN thì nguồn thu chính là ngân sách nhà nước do TTXVN cấp. - Khối các ĐVSN có thu ngoài nguồn ngân sách nhà nước cấp còn có nguồn thu bán báo, thu quảng cáo, thu hoạt động khác. Cụ thể năm 2005 doanh thu của khối sự nghiệp có thu là 95.590.803.055 đồng, tổng số nộp cho ngân sách nhà nước đạt 6.300.494.229 đồng [23]. 2.2. Thực trạng quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam 2.2.1. Thực trạng quản lý tài chính của Thông tấn xã Việt Nam đối với các đơn vị sự nghiệp trực thuộc 2.2.1.1. Quy chế về tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp đặc thù áp dụng trong hệ thống các đơn vị sự nghiệp của Thông tấn xã Việt Nam Quy chế chi tiêu nội bộ về tiền lương, tiền công của TTXVN được xây dựng dựa trên các quy định như sau: - Lương cơ bản và các chế độ phụ cấp hiện hành (gồm phụ cấp chức vụ, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp khu vực và phụ cấp độc hại) theo Nghị định số 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ. - Các quy định về định mức lao động của TTXVN. - Chỉ tiêu biên chế định biên Bộ Nội vụ giao. - Thông báo giao chỉ tiêu biên chế của Tổng giám đốc TTXVN cho các đơn vị trực thuộc. - Số lao động hợp đồng có thời hạn một năm trở lên được lãnh đạo TTXVN duyệt. - Hệ thống định mức lao động cho từng đơn vị. Dựa trên các quy định nói trên, TTXVN đã xác định quỹ lương như sau: * Xác định quỹ tiền lương, tiền công Căn cứ xác định: - Số biên chế có mặt tại thời điểm 31/12 của năm trước thực hiện theo chỉ tiêu được Tổng giám đốc TTXVN giao. - Số lao động hợp đồng không xác định thời hạn và lao động hợp đồng xác định thời hạn từ 1 năm trở lên, tính đến ngày 31/12 năm trước và được lãnh đạo TTXVN duyệt. - Hệ số lương bình quân và hệ số phụ cấp bình quân của đơn vị theo Nghị định số 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ. Quỹ tiền lương được xác định như sau: Quỹ tiền lươn g của đơn vị = Lương tối thiểu chung người/thán g do nhà nước quy định x Hệ số điều (1+ chỉnh) tăng thêm x Hệ số lương cấp bậc b/q và hệ số p/c lương b/q x Số lao động trong biên chế và lao động hợp đồng có thời hạn 1 năm x 12 tháng Hệ số điều chỉnh tăng thêm tối đa: 2 lần - Hệ số lương cấp bậc bình quân và hệ số phụ cấp bình quân tính theo lương thực tế thực hiện của cán bộ trong biên chế và lao động hợp đồng có thời hạn từ 1 năm trở lên theo Nghị định 25/CP ngày 23/5/1993. - Việc trích nộp BHXH, BHYT, kinh phí công đoàn thực hiện theo quy định hiện hành của Nhà nước. Chế độ tiền công đối với lao động hợp đồng vụ việc, hợp đồng thử việc: Trong phạm vi chỉ tiêu biên chế và quỹ tiền lương được giao, thủ trưởng đơn vị chủ động bố trí, sắp xếp lao động cho phù hợp, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Các đơn vị có sử dụng một số lao động hợp đồng thử việc và hợp đồng vụ việc có thời hạn dưới 1 năm, được lãnh đạo TTXVN cho phép, sẽ được sử dụng một khoản kinh phí ngoài quỹ lương được giao để thuê mướn lao động. Tiền công của lao động hợp đồng thử việc và lao động hợp đồng vụ việc được thực hiện theo hình thức khoán gọn. Mức tiền cụ thể dựa trên sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật hiện hành và được Tổng giám đốc TTXVN phê duyệt. * Phương án và hình thức chi trả tiền lương, tiền công cho người lao động. Căn cứ trả lương cho người lao động: - Trước hết đảm bảo tiền lương cơ bản và các chế độ phụ cấp do Nhà nước quy định cho số lao động trong biên chế và lao động hợp đồng có thời hạn từ 1 năm trở lên theo Nghị định số 25/CP ngày 23/5/1993 của Chính phủ, sau đó mới chi trả thêm cho từng người lao động được tính dựa trên chất lượng và hiệu quả công việc theo nguyên tắc: Người nào có hiệu suất lao động cao, chất lượng công việc tốt, đóng góp nhiều cho việc tăng thu, tiết kiệm chi thì được trả cao. - Căn cứ vào định mức lao động của đơn vị xác định cho từng loại công việc và cho từng người (bằng sản phẩm theo định biên lao động hoặc công việc theo thời gian). - Căn cứ vào kết quả hoàn thành công việc được thủ trưởng đơn vị giao có bình xét chấm điểm phân loại. Hình thức trả lương cho người lao động: - Đối với khối các ban biên tập, tòa soạn Các ban biên tập, sản xuất tin- ảnh, các phân xã và các tòa soạn, gồm phóng viên, biên tập viên, biên dịch viên được trả lương theo sản phẩm căn cứ vào định mức tin, bài, ảnh được duyệt, số lượng, chất lượng sản phẩm được giao và mức độ hoàn thành công việc. - Đối với khối kỹ thuật. Chủ yếu áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm, theo đặc thù công việc. - Đối với khối các ban chức năng, các trung tâm, các văn phòng đại diện và các đơn vị còn lại. áp dụng hình thức trả lương theo mức độ hoàn thành công việc. Tiêu chuẩn chung để làm căn cứ chi trả cho người lao động: Mức 1: Hoàn thành nhiệm vụ được giao, đảm bảo ngày công, giờ công theo quy định của Nhà nước, chấp hành tốt nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị được hưởng mức lương cơ bản hệ số 1 (bao gồm lương, phụ cấp lương theo Nghị định 25/CP ngày 23/5/1993 và các chế độ bảo hiểm xã hội khác theo quy định). Mức 2: (phần tăng thêm): Vượt định mức hoặc hoàn thành nhiệm vụ được giao ở mức độ tốt trở lên, đảm bảo ngày công, giờ công theo quy định của nhà nước, chấp hành tốt nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị, không có sai sót trong chuyên môn. Thủ trưởng đơn vị được quyền quyết định tăng mức hưởng đối với những người hoàn thành xuất sắc các công việc hoặc hạ mức hưởng đối với những trường hợp không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm khuyết điểm, để xảy ra sai sót trong công tác chuyên môn, số tăng thêm không vượt quá mức được phép chi của đơn vị trình Ban lãnh đạo cơ quan xem xét, quyết định. Chế độ khen thưởng: Ngoài hai mức hưởng như trên, các cá nhân có thành tích đặc biệt xuất sắc trong công tác, thủ trưởng đơn vị, sau khi thống nhất với tổ chức công đoàn tại đơn vị, trình Tổng giám đốc xét khen thưởng đột xuất. Tiền lương cá nhân: Tiền lương cá nhân được trả theo tháng và chia làm 2 kỳ: kỳ 1 trả phần lương cơ bản (mức 1), chậm nhất vào ngày 10 hàng tháng. Kỳ 2 trả phần tăng thêm được hưởng, không chậm hơn ngày cuối cùng của tháng đó. Căn cứ vào quỹ tiền lương thực tế của đơn vị, tiền lương cơ bản của người lao động được xác định như sau: Tiền lương của cá nhân = Lương tối thiểu chung người/tháng do Nhà nước qui định x Hệ số (1+ điều chỉnh) tăng thêm x Hệ số lương cấp bậc và hệ số phụ cấp lương Hàng tháng, căn cứ vào Quỹ lương do Tổng giám đốc TTXVN giao cho các đơn vị, thủ trưởng đơn vị căn cứ vào định mức lao động, kết quả hoàn thành công việc của cá nhân được giao trong tháng tiến hành bình xét để trả lương cho từng người lao động theo 2 mức nói trên. Trước tiên, đảm bảo mức lương cơ bản gồm lương và phụ cấp theo lương theo Nghị định số 25/CP của Chính phủ và lấy đây làm căn cứ để đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn hàng tháng. Phần lương tăng thêm (hệ số điều chỉnh tăng thêm của cá nhân) do thủ trưởng đơn vị kết hợp cùng công đoàn đơn vị xem xét, đánh giá, phân loại và quyết định hệ số tăng thêm của cá nhân trên nguyên tắc cá nhân nào có năng suất lao động cao, chất lượng công việc tốt, đóng góp nhiều cho việc tăng nguồn thu, tiết kiệm chi thì được hưởng cao. Hàng tháng, thủ trưởng đơn vị chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc TTXVN về kết quả công việc được giao của đơn vị mình và công tác phân phối thu nhập cho từng người lao động trong đơn vị, đảm bảo đoàn kết trong nội bộ đơn vị và hoàn thành tốt công việc được giao. Các trường hợp nghỉ phép năm, nghỉ ốm, nghỉ thai sản được thực hiện theo quy định hiện hành của chế độ bảo hiểm xã hội. Cán bộ, công chức, viên chức được cơ quan cử đi học, đào tạo ngắn hạn ở trong nước và nước ngoài từ 1 đến 3 tháng thực hiện theo quy định hiện hành. Ngoài ra, thủ trưởng đơn vị có thể quyết định trợ cấp từ Quỹ phúc lợi cho các đối tượng này sau khi thống nhất với tổ chức công đoàn. Chế độ thanh toán tiền, tiền công: Việc thanh toán tiền lương, tiền công cho người lao động thực hiện theo tháng. Mẫu biểu theo quy định tại Phụ lục số 01 - Mẫu số CO2 - H (ban hành kèm theo quyết định số 999- TC/QĐ/CĐKT ngày 02/11/1996 và sửa đổi bổ sung theo Thông tư số 121/2002/TT/BTC ngày 03/12/2002 của Bộ Tài chính). Các đơn vị hàng tháng sẽ thống kê tình hình thực hiện sản lượng sản phẩm, định mức lao động, năng suất lao động của từng người. Trên cơ sở đó, tính toán mức được hưởng để làm căn cứ chi trả. Thuế thu nhập cá nhân về tiền lương và tiền công (nếu có): Người lao động có trách nhiệm nộp thuế thu nhập cá nhân theo quy định hiện hành của Nhà nước. Các đơn vị trực tiếp chi trả tiền lương cho người lao động có trách nhiệm khấu trừ khoản thuế thu nhập phải nộp (nếu có) của người lao động trước khi chi trả lương. * Xử lý nguồn kinh phí về tiền lương, tiền công, phụ cấp. Những khoản kinh phí về tiền lương, tiền công, phụ cấp được giao trong tháng và năm nếu sử dụng không hết, các đơn vị được chuyển sang tháng và năm sau để tiếp tục sử dụng hoặc chuyển sang nguồn quỹ dự phòng ổn định thu nhập. Trong trường hợp nguồn thu bị giảm sút, không đảm bảo mức tiền lương tối thiểu cho người lao động, thủ trưởng đơn vị thống nhất với tổ chức công đoàn sử dụng quỹ dự phòng ổn định thu nhập để đảm bảo mức tiền lương, tiền công, thu nhập tối thiểu cho người lao động. 2.2.1.2. Quy chế chi nhuận bút các sản phẩm tin, bài, ảnh trên các bản tin, báo in, báo ảnh, báo điện tử và các xuất bản phẩm Ngoài phần tiền lương được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 10/2002/NĐ - CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho ĐVSN có thu thì các phóng viên, biên tập viên được hưởng chế độ nhuận bút theo chương V, Nghị định số 61/2002/NĐ - CP ngày 11/6/2002 của Chính phủ quy định về chế độ nhuận bút. * Trích lập quỹ nhuận bút. Quỹ nhuận bút của TTXVN được xác định bằng số lượng mức hệ số nhuận bút cả năm nhân với giá trị đơn vị hệ số nhuận bút cộng thêm với phần nhuận bút khuyến khích, thù lao (nếu có). Giá trị một đơn vị nhuận bút bằng 10% mức lương tối thiểu. QNB = (số lượng mức HSNB trong năm X Giá trị 1 đơn vị HSNB) + Nhuận bút khuyến khích, thù lao (nếu có) * Sử dụng và quản lý quỹ nhuận bút. Sử dụng quỹ nhuận bút: Quỹ nhuận bút được trích lập theo mức tối đa, nhưng thực tế trả nhuận bút cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm phải căn cứ vào việc đánh giá và xếp loại tác phẩm theo những tiêu chí đã quy định. Quỹ nhuận bút được sử dụng để chi trả các khoản sau: Nhuận bút: Là khoản tiền do bên sử dụng tác phẩm (TTXVN) trả cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm khi tác phẩm được sử dụng. Nhuận bút khuyến khích: là khoản tiền do bên sử dụng tác phẩm (TTXVN) trả thêm cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm nhằm khuyến khích tác giả sáng tạo tác phẩm thuộc loại đề tài và những trường hợp đặc biệt quy định tại Nghị định số 61/2002/NĐ - CP ngày 16/1/2002 của Chính phủ về chế độ nhuận bút. Thù lao: Là khoản tiền do bên sử dụng tác phẩm (TTXVN) trả cho những người thực hiện các công việc có liên quan đến tác phẩm quy định tại Nghị định số 61/2002/NĐ - CP ngày 16/1/2002 của Chính phủ về chế độ nhuận bút. Đối tượng hưởng nhuận bút, thù lao từ quỹ nhuận bút: Tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm của tác phẩm thuộc một trong các nhóm nhuận bút quy định tại Điều 4 Nghị định số 61/2002/NĐ - CP ngày 16/1/2002 của Chính phủ về chế độ nhuận bút, được TTXVN sử dụng. Tác giả là người thuộc TTXVN (trong biên chế hoặc hợp đồng không xác định thời hạn, hợp đồng xác định thời hạn) sáng tạo ra tác phẩm. Những người thuộc TTXVN (trong biên chế hoặc hợp đồng không xác định thời hạn, hợp đồng xác định thời hạn), các cộng tác viên thực hiện các công việc liên quan đến tác phẩm. Bao gồm: - Biên tập viên. - Cộng tác viên - Người chỉ đạo và quản lý. - Người quản lý gián tiếp, phục vụ - Người tham gia hoàn thành, nâng cao chất lượng tác phẩm. Các tác phẩm, văn bản, bản dịch, tài liệu quy định tại Điều 748 Bộ luật Dân sự dưới đây khi được sử dụng thì bên sử dụng trả thù lao cho người sưu tầm, người cung cấp: - Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian, tư liệu tin ảnh quý hiếm; - Văn bản của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế và bản dịch của những văn bản đó. Những tác phẩm sau đây TTXVN không phải trả nhuận bút theo quy định của pháp luật: - Tác phẩm không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận (di sản hoặc không được quyền hưởng di sản quy định tại điều b, khoản 1 Điều 746, Điều 765 của Bộ luật Dân sự và khoản 2 điều 13 Nghị định số 76/NĐ - CP ngày 29 tháng 11 năm 1996 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật Dân sự). - Tác phẩm không rõ tác giả hoặc tác phẩm khuyết danh quy định tại khoản 5 điều 766 của Bộ luật Dân sự. - Tác phẩm đã hết thời hạn hưởng quyền tác giả. - Các văn kiện, văn bản pháp quy, các chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước, cơ quan đoàn thể đã sử dụng trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc đã xuất bản. * Nguyên tắc trả nhuận bút, thù lao: Tác giả là người có tác phẩm được TTXVN sử dụng đăng báo, bản tin in, báo điện tử thì được hưởng 100% nhuận bút. - Tác giả là người thuộc TTXVN sáng tạo ra tác phẩm thì được hưởng thù lao và các lợi ích vật chất khác theo khung thù lao được Tổng giám đốc TTXVN phê duyệt. - Những người thuộc TTXVN và các cộng tác viên thực hiện các công việc liên quan đến tác phẩm thì được hưởng thù lao và các lợi ích vật chất khác theo khung thù lao được Tổng giám đốc TTXVN phê duyệt. Việc thực hiện chi nhuận bút được quy định như sau: - Căn cứ vào thể loại, chất lượng, hệ số các thể loại trong khung nhuận bút và khung thù lao do Tổng giám đốc TTXVN phê duyệt. Nhưng toàn bộ nhuận bút chi trả không vượt quá quỹ nhuận bút đã được trích lập theo Nghị định 61. - Mức trả nhuận bút cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm căn cứ vào thể loại, chất lượng tác phẩm, hiệu quả kinh tế - xã hội của tác phẩm. - Tác giả bản dịch tiếng nước ngoài, tiếng dân tộc thiểu số sang tiếng Việt (dịch xuôi) được hưởng 40% nhuận bút của thể loại tương ứng bằng tiếng Việt. Tác giả bản dịch từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài, tiếng dân tộc thiểu số (dịch ngược) được hưởng 60% nhuận bút của thể loại tương ứng bằng tiếng Việt. - Tác giả người Việt Nam viết trực tiếp bằng tiếng nước ngoài, người Kinh viết trực tiếp bằng tiếng dân tộc thiểu số, người dân tộc thiểu số này viết trực tiếp bằng tiếng dân tộc thiểu số khác, ngoài nhuận bút của tác phẩm đó còn được hưởng thêm nhuận bút khuyến khích bằng 40% nhuận bút của tác phẩm đó. - Tác giả của tác phẩm thực hiện trong điều kiện khó khăn, nguy hiểm như thiên tai, chiến tranh, chống tham nhũng, tội phạm, tệ nạn xã hội... được hưởng thêm nhuận bút khuyến khích tối đa bằng mức nhuận bút của tác phẩm đó. - Tỷ lệ hưởng nhuận bút giữa người phỏng vấn và người được phỏng vấn do hai bên tự thỏa thuận. - Tác phẩm đã sử dụng ở cơ quan báo chí khác hoặc dưới hình thức xuất bản, nếu được sử dụng lại không nhằm mục đích hưởng lợi thì tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm đã nêu ở trên không được hưởng nhuận bút. - Xuất bản phẩm lưu hành nội bộ được trả nhuận bút không quá 80% mức nhuận bút của tác phẩm để kinh doanh cùng thể loại. Việc thực hiện chi trả thù lao được quy định như sau: Thù lao chi trả cho những người thuộc TTXVN, công tác viên hưởng thù lao từ quỹ nhuận bút theo nguyên tắc sau: - Mức chi trả các khoản thù lao của các đơn vị được thực hiện theo hệ số được xác định trên cơ sở mức độ đóng góp của từng người liên quan do thủ trưởng đơn vị quyết định. - Các cộng tác viên được trả thù lao theo thỏa thuận. Những quy định khác: - Các hoạt động khuyến khích sáng tạo phải được lập dự toán hàng năm, được duyệt nội dung và được tính vào quỹ nhuận bút của TTXVN. Khung nhuận bút và khung thù lao đối với tác phẩm tin, ảnh, báo in và báo điện tử: Căn cứ thể loại và chất lượng tác phẩm, các đơn vị, kể cả đơn vị làm ấn phẩm lưu hành nội bộ tự xây dựng khung nhuận bút, khung thù lao của đơn vị mình để trình Tổng giám đốc TTXVN phê duyệt. Trình tự chi trả nhuận bút, thù lao: Hàng tháng, các đơn vị phải tổng hợp việc thực hiện các sản phẩm, công việc theo mẫu đã quy định, trong đó phải ghi rõ số sản phẩm, công việc, số nhuận bút và thù lao phải trả cho từng người. Tổng số trả nhuận bút, thù lao của đơn vị không vượt quá tổng quỹ nhuận bút trong tháng đã được duyệt. Nếu trường hợp vượt có lý do chính đáng, thủ trưởng đơn vị trình Tổng giám đốc TTXVN xem xét, quyết định. Khen thưởng và xử lý vi phạm: Khen thưởng: Những tác phẩm có tính chất phát hiện: Tác phẩm đáp ứng kịp thời, đúng, trúng yêu cầu chỉ đạo tuyên truyền; tác phẩm được đánh giá cao (theo ý kiến của cấp trên, lãnh đạo TTXVN, dư luận xã hội). Mức thưởng tối đa bằng mức nhuận bút của tác phẩm. Trường hợp tác phẩm có giá trị đặc biệt do Tổng giám đốc quyết định mức thưởng. Xử lý vi phạm: Không đảm bảo kế hoạch nội dung công tác tuyên truyền; những sai sót như viết nhầm, bỏ sót sự kiện...và những sai sót khác trên báo, bản tin thì sẽ bị phạt, trừ tiền tùy theo mức độ và do thủ trưởng đơn vị quyết định. Những vi phạm về bản quyền tác giả, Luật Báo chí sẽ bị xử lý theo quy định hiện hành của pháp luật. Những sai phạm về đường lối, quan điểm chính trị hoặc vi phạm pháp luật sẽ bị xử lý tùy theo mức độ kỷ luật lao động, kỷ luật hành chính đến truy cứu trách nhiệm hình sự. 2.2.1.3. Quản lý hoạt động quảng cáo của các đơn vị sự nghiệp có thu * Nguyên tắc: Chi phí quản lý: Thực hiện theo Quy chế chi tiêu nội bộ của TTXVN. Chế độ quản lý, sử dụng tài sản, dụng cụ phục vụ hoạt động sản xuất dịch vụ; sử dụng xe ô tô, máy móc thiết bị đưa vào khai thác trong lao động kết hợp với sản xuất dịch vụ thực hiện theo đúng các quy định hiện hành. Tỷ lệ khấu hao TSCĐ của các tài sản được dùng trong sản xuất và dịch vụ thực hiện theo quy định tại Quyết định số 166/1999/QĐ - BTC ngày 30/12/1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. * Hoạt động quảng cáo trên báo in, báo điện tử: - Số trang quảng cáo: Trên nguyên tắc đảm bảo công tác thông tin tuyên truyền thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao để quảng cáo một cách phù hợp theo Luật Báo chí nhằm tăng nguồn thu, phát triển sự nghiệp Thông tấn. - Đơn giá quảng cáo: Được xây dựng một cách hợp lý, chi tiết cho từng đối tượng quảng cáo. Trong quá trình thực hiện, đơn giá quảng cáo được áp dụng linh hoạt cho từng đối tượng khách hàng. - Chi phí xúc tiến quảng cáo: Được khống chế ở mức tối đa không quá 40% trên tổng doanh thu quảng cáo. - Số chênh lệch thu, chi (tổng thu trừ tổng chi, bao gồm cả các khoản thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước) được sử dụng chi trả lương, nhuận bút, thù lao, chi quản lý khác.....và trích lập 4 quỹ của đơn vị theo quy định hiện hành của Nhà nước. 2.2.1.4. Quản lý quá trình sử dụng tài chính * Công tác phí trong nước: Thực hiện như quy định hiện hành hoặc theo quy định mức công tác phí được duyệt của đơn vị. Trong trường hợp cán bộ đi công tác bằng phương tiện tư nhân và cá nhân, có giấy xác nhận hợp lệ thì được thanh toán. * Chi tiêu hội nghị: Thực hiện theo chế độ Nhà nước đã quy định. Trường hợp do yêu cầu thực tế mà mức chi cao hơn định mức quy định thì các đơn vị cần trình Ban lãnh đạo TTXVN xem xét phê duyệt mới được phép thanh toán. * Chi phí sử dụng điện thoại công vụ tại nhà riêng và điện thoại di động: Đối tượng được trang bị điện thoại công vụ tại nhà riêng và điện thoại di động. Tổng giám đốc và các Phó Tổng giám đốc: Được trang bị 01 máy điện thoại cố định tại nhà riêng và 01 máy điện thoại di động. Chánh Văn phòng, Giám đốc và các Phó giám đốc Trung tâm Kỹ thuật Thông tấn, Giám đốc và Phó giám đốc (phụ trách thông tin) Văn phòng Đại diện TTXVN tại Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh, Trưởng ban biên tập, Tổng biên tập các báo, tạp chí, bản tin - ảnh, Trưởng ban Kế hoạch Tài vụ: Được trang bị 01 máy điện thoại cố định tại nhà riêng và 01 máy điện thoại di động. Các phóng viên tin - ảnh chuyên trách phục vụ hoạt động của Tổng bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ: Được trang bị 01 máy điện thoại cố định tại nhà riêng và 01 máy điện thoại di động nhưng khi kết thúc nhiệm vụ phải bàn giao máy và sim lại cho cơ quan. Trưởng ban Kiểm tra, Trưởng ban Tổ chức cán bộ, Phó Chánh Văn phòng thường trực TTXVN, Giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ Thông tấn, Giám đốc Trung tâm Hợp tác Quốc tế Thông tấn, Giám đốc Trung tâm Dữ kiện - Tư liệu, Giám đốc Trung tâm Tin học, Giám đốc và Tổng biên tập Nhà xuất bản Thông tấn, Giám đốc Trung tâm Nghe nhìn Thông tấn, Phó Trưởng ban biên tập, Phó Tổng biên tập các báo, tạp chí, bản tin - ảnh, Phó Trưởng ban Kế hoạch Tài vụ, Trưởng phòng Quản trị hệ thống, Trưởng phòng Quản lý mạng thông tin, Trưởng phòng Internet, Trưởng phòng thông tin vô tuyến, Trưởng phòng quản lý điện và điều hòa không khí trung tâm, Trưởng phòng Khai thác tin, Trưởng phòng Khai thác ảnh và Trưởng phòng Kỹ thuật tại TP Hồ Chí Minh: Được trang bị 01 máy điện thoại cố định tại nhà riêng. Trưởng phân xã tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: được trang bị 01 máy điện thoại di động. Nếu ở ngoài trụ sở phân xã, được trang bị 01 máy điện thoại cố định tại nhà riêng. Trưởng phân xã TTXVN ở nước ngoài: được trang bị 01 máy điện thoại di động. Nếu ở ngoài trụ sở phân xã, được trang bị 01 máy điện thoại cố định tại nhà riêng. Các phóng viên tin, ảnh khi có quyết định bằng văn bản cử đi thực hiện những chuyến công tác đặc biệt (như đưa tin chụp ảnh về thiên tai hoặc về các sự kiện đặc biệt quan trọng...) thì tùy theo tình hình thực tế và tính chất của sự kiện sẽ được Ban lãnh đạo cơ quan xem xét, cho phép trang bị điện thoại di động dùng trong chuyến đi công tác. Sau khi kết thúc chuyến công tác phải trả lại cho cơ quan máy và sim đã được trang bị. Hình thức và mức thanh toán: - Hàng tháng, cơ quan sẽ thanh toán cho các cán bộ được trang bị điện thoại công vụ tại nhà riêng và điện thoại di động theo mức thực tế sử dụng nhưng không vượt quá mức trần quy định. Nếu quá mức trần sẽ phải trình Ban lãnh đạo cơ quan phê duyệt mới được thanh toán. Mức cước phí này đã bao gồm cả tiền thuê bao. - Mức trần cước phí sử dụng điện thoại: + Đối với điện thoại cố định tại nhà riêng: - Mức 500.000đ/tháng: Tổng giám đốc, các Phó Tổng giám đốc TTXVN. - Mức 400.000đ/tháng: Trưởng ban và tương đương. - Mức 300.000đ/tháng: Phó Trưởng ban và tương đương và các đối tượng khác được trang bị điện thoại cố định tại nhà riêng. + Đối với điện thoại di động: - Mức 700.000đ/tháng: Tổng giám đốc, các Phó Tổng giám đốc TTXVN. - Mức 500.000đ/tháng: Trưởng ban và tương đương. - Mức 300.000đ/tháng: Phó Trưởng ban và tương đương và các đối tượng khác được trang bị điện thoại cố định tại nhà riêng. - Mức 300.000đ/tháng: Các chức danh khác. - Đối với những trường hợp không đủ tiêu chuẩn trang bị điện thoại cố định tại nhà riêng và điện thoại di động theo quy định nói trên, nhưng trong thực tế xét thấy thực sự cần thiết phải trang bị phục vụ công tác thì thủ trưởng đơn vị trình Ban lãnh đạo TTXVN phê duyệt từng đối tượng để được thanh toán cước phí sử dụng điện thoại cho phù hợp. Mức thanh toán tiền cước sử dụng điện thoại (bao gồm cả tiền thuê bao) tối đa không quá 200.000đ /máy/tháng đối với điện thoại cố định tại nhà riêng và 300.000đ/máy/tháng đối với điện thoại di động. - Đối với những quy định khác về chế độ sử dụng điện thoại công vụ tại nhà riêng và điện thoại di động thực hiện theo quy định chung của Chính phủ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan