Luận văn Đặc điểm quá trình dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ và xu hướng vận dụng vào Việt Nam

Tài liệu Luận văn Đặc điểm quá trình dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ và xu hướng vận dụng vào Việt Nam: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 LỜI CẢM ƠN Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nông Khánh Bằng - người thầy đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành luận văn. Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS – TS Phạm Hồng Quang đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong việc tìm kiếm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này. Em xin gửi lời cảm ơn tới Th.S Phạm Văn Thịnh – GVC Khoa Ngoại ngữ - người đã giúp đỡ em rất nhiều trong việc biên dịch tài liệu để em có thể hoàn thành đề tài này. Đề tài nghiên cứu trong luận văn của em là một lĩnh vực mới và tại Việt Nam chưa có hệ thống lý luận cụ thể và thống nhất nên trong quá trình thực hiện em gặp rất nhiều khó khăn. Dù đã cố gắng hoàn thành đề tài song do năng lực của bản thân còn nhiều hạn chế nên chắc chắn luận văn của em không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, chỉ bảo của Thầy Cô giáo cùng toàn thể bạn đọc quan tâm để em hoàn thiện ...

pdf100 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1070 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Đặc điểm quá trình dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ và xu hướng vận dụng vào Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 LỜI CẢM ƠN Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nông Khánh Bằng - người thầy đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành luận văn. Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS – TS Phạm Hồng Quang đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong việc tìm kiếm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này. Em xin gửi lời cảm ơn tới Th.S Phạm Văn Thịnh – GVC Khoa Ngoại ngữ - người đã giúp đỡ em rất nhiều trong việc biên dịch tài liệu để em có thể hoàn thành đề tài này. Đề tài nghiên cứu trong luận văn của em là một lĩnh vực mới và tại Việt Nam chưa có hệ thống lý luận cụ thể và thống nhất nên trong quá trình thực hiện em gặp rất nhiều khó khăn. Dù đã cố gắng hoàn thành đề tài song do năng lực của bản thân còn nhiều hạn chế nên chắc chắn luận văn của em không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, chỉ bảo của Thầy Cô giáo cùng toàn thể bạn đọc quan tâm để em hoàn thiện hơn nữa đề tài nghiên cứu trong luận văn của mình. Em xin trân trọng cảm ơn! Thái Nguyên, tháng 9 năm 2008 Tác giả đề tài C.N Nguyễn Thị Ngọc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 MỤC LỤC Mở đầu Trang 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 4 2. Mục đích nghiên cứu 6 3. Đối tượng nghiên cứu 6 4. Khách thể nghiên cứu 6 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 6 6. Cơ sở phương pháp luận của đề tài 7 7. Phương pháp nghiên cứu 7 8. Phạm vi nghiên cứu 7 9. Cấu trúc của đề tài 7 Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tìm kiếm, phát hiện và dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ. 8 1. Một số quan niệm về tài năng và trẻ em tài năng. 8 1.1. Khái niệm về tài năng. 8 Năng lực 8 Năng khiếu 9 Giỏi 10 Thiên tài 11 Tài năng 12 1.2 . Khái niệm trẻ tài năng theo quan điểm của các nhà khoa học Mỹ 18 1.3. Bồi dưỡng và đào tạo trẻ tài năng 19 2. Những cơ sở lý thuyết của việc lựa chọn và dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ.21 Những tiền đề lịch sử của phương thức dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ. 21 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 Dạy học trẻ tài năng với hình thức dạy học phân hóa trong trường tiểu học ở Mỹ. 26 3. Tìm kiếm, phát hiện và tuyển chọn trẻ tài năng trong hệ thống giáo dục tiểu học của Mỹ. 38 Chương II: Hình thức tổ chức, nội dung, phương pháp dạy trẻ tài năng trong trường tiểu học của Mỹ và một số phương hướng vận dụng vào Việt Nam. 57 1. Hình thức tổ chức dạy học nổi bật trong nhà trường tiểu học ở Mỹ. 58 2. Nội dung dạy học cho trẻ tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ 61 3. Phương pháp dạy học trẻ tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ. 71 4. Một số phương hướng vận dụng trong dạy học trẻ tài năng bậc tiểu học tại Việt Nam. 82 Quan điểm về đào tạo trẻ tài năng ở Việt Nam 82 Một số phương pháp vận dụng trong công tác nhận dạng, tìm kiếm và phát hiện tài năng trẻ em ở bậc tiểu học tại Việt Nam. 84 Một số phương hướng vận dụng cơ bản trong việc xây dựng nội dung dạy học, lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cho trẻ tài năng trong nhà trường tiểu học. 86 Kết luận. 91 Tài liệu tham khảo 92 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức, trong đó chắc chắn mọi lĩnh vực của đời sống toàn nhân loại, của mỗi cộng đồng và của từng cá nhân sẽ có những thay đổi vô cùng sâu sắc, mau lẹ và diễn ra theo phương thức hoàn toàn mới. Trước những cơ hội to lớn và những thách thức hết sức nghiêm trọng và phức tạp đặt ra trong thiên niên kỷ mới, nhiều dân tộc, nhiều quốc gia đang ra sức xem xét lại chiến lược phát triển của mình, dự báo và hoạch định chiến lược ngắn hạn, dài hạn, trong thực tế nhiều vấn đề đã và đang vượt ra khỏi khuôn khổ của tri thức và lối tư duy chiến lược truyền thống. Để hướng tới giải quyết những vấn đề phức tạp đã và sẽ nảy sinh, các dân tộc đều nỗ lực khai thác tốt nhất các nguồn lực vật chất và tinh thần để tạo ra xung lực phát triển vượt trội, đột phá trong tương lai. Trong tất cả các nguồn lực đã từng biết tới thì nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn lực tài năng đã và đang trở thành nguồn lực quan trọng, quyết định nhất. Kết quả phân tích chiến lược từ nhiều góc độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau đã khẳng định chắc chắn rằng cuộc cạnh tranh và hợp tác của nhân loại trong tương lai sẽ chủ yếu là cuộc cạnh tranh trên lĩnh vực trí tuệ, tinh thần và do đó nước nào dân tộc nào có chiến lược nhân tài tốt sẽ là những quốc gia, dân tộc cạnh tranh, hợp tác và phát triển tốt nhất, bền vững nhất. Giáo dục trẻ tài năng được coi là một chương trình chiến lược để tạo ra nguồn lực tài năng phục vụ đất nước. Đây là môi trường gieo mầm và phát triển nhân tài trong mọi lĩnh vực khoa học kỹ thuật, nguồn nhân lực này góp phần quan trọng vào sự phát triển của đất nước và giúp cho việc khẳng định vị thế của một quốc gia trên thế giới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 ở những quốc gia có trình độ khoa học kỹ thuật phát triển cao như Mỹ, quá trình dạy học trẻ tài năng được thiết kế thành một chương trình hoàn chỉnh, thống nhất và mang lại hiệu quả cao. Những thập niên qua với sự phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực đã chứng minh cho sự đúng đắn của các chính sách phát triển tài năng trẻ của nước Mỹ. Quốc gia này đang sở hữu một nguồn lực nhân tài vào bậc nhất trên thế giới mà bất cứ quốc gia nào cũng mong muốn có được. Kết quả các công trình nghiên cứu khoa học cho thấy, để có được đội ngũ tinh túy này, nước Mỹ đã có những chính sách đầu tư hợp lý để phát triển giáo dục - đào tạo. Quá trình dạy học trẻ em tài năng được tổ chức một cách khoa học dựa trên các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ. Mỗi quốc gia đều tiềm ẩn những tài năng trẻ đầy triển vọng, vấn đề cơ bản là cần biết phát hiện và kịp thời bồi dưỡng, tạo điều kiện cho những tài năng này phát triển. Trong rất nhiều những cuộc thi quốc tế về các lĩnh vực như Ôlimpic Toán học, hóa học, sinh học, vật lý, những cuộc thi sáng tạo Rôbôcon… chúng ta luôn giành được những huy chương cao quý. Điều đó cho thấy Việt nam là một trong những quốc gia có tiềm lực trí tuệ to lớn. Tuy nhiên chúng ta chưa phát huy được tối đa sức mạnh nguồn lực này để phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước. Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo nói chung và giáo dục trẻ em tài năng nói riêng. Phát hiện, bồi dưỡng nhân tài là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.( Luật giáo dục 2005) Quá trình dạy học hướng tới việc tìm kiếm và phát hiện tài năng phải bắt đầu từ khi trẻ còn nhỏ, ở những cấp học đầu tiên. Lứa tuổi tiểu học là thời kỳ trẻ bộc lộ rõ nhất những tư chất của mình, do đó để tiến hành dạy học có hiệu quả nhà giáo dục phải đặc biệt chú trọng giai đoạn này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 Nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy, hiện nay ở nước ta quá trình dạy học trẻ em tài năng chưa thực sự đạt hiệu quả cao, thực trạng này là do nhiều nguyên nhân mang lại: Điều kiện cơ sở vật chất, lý luận và phương pháp dạy học dành cho trẻ em tài năng còn thiếu, các công trình nghiên cứu khoa học về giáo dục trẻ em tài năng còn hạn chế… Khắc phục được những khó khăn trên là một công việc khó khăn và phức tạp đòi hỏi phải có sự nghiên cứu và đầu tư thỏa đáng về nhiều mặt. Một trong những biện pháp tích cực đó là học tập có chọn lọc những kinh nghiệm dạy học của các quốc gia phát triển trên thế giới đặc biệt là những quốc gia đã thành công trong lĩnh vực này. Để góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình của quá trình giáo dục trẻ tài năng nói chung và bậc tiểu học nói riêng ở nước ta dựa trên cơ sở đã học tập kinh nghiệm của những quốc gia đã thành công về lĩnh vực này như Mỹ, chúng tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài: “Đặc điểm quá trình dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ và xu hướng vận dụng vào Việt Nam”. 2. Mục đích nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu những đặc điểm cơ bản của quá trình dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học trẻ em tài năng ở Việt Nam. 3. Đối tượng nghiên cứu Đặc điểm quá trình dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ. 4. Khách thể nghiên cứu Quá trình dạy học học sinh trong nhà trường tiểu học ở Mỹ. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 - Nghiên cứu khái niệm tài năng. - Nghiên cứu các phương pháp chuẩn đoán, tìm kiếm và phát hiện trẻ tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ. - Tìm hiểu những quan điểm định hướng dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học của Mỹ. - Nghiên cứu đặc điểm, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ. - Đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học trẻ em tài năng bậc tiểu học ở Việt Nam. 6. Cơ sở phương pháp luận của đề tài Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm hệ thống và quan điểm lịch sử – lôgic. 7. Phương pháp nghiên cứu Đề tài có sử dụng các phương pháp: Phương pháp phân tích. Phương pháp tổng hợp. Phương pháp hệ thống hóa. Phương pháp so sánh. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm… 8. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu đặc điểm quá trình dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ. 9. Cấu trúc của đề tài Bao gồm: Phần mở đầu. Phần nội dung: Chương I + Chương II Kết luận. Danh mục tài liệu tham khảo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÌM KIẾM, PHÁT HIỆN VÀ DẠY HỌC TRẺ EM TÀI NĂNG TRONG NHÀ TRƯỜNG TIỂU HỌC Ở MỸ 1. Một số quan niệm về tài năng và trẻ em tài năng 1.1. Khái niệm về tài năng Lịch sử phát triển nhân loại cho thấy, thời nào cũng có người tài và người tài thời nào cũng có vai trò to lớn trong những bước phát triển nhất định của xã hội mà họ sống. Vì thế từ thời cổ xưa, xã hội đã có những cách thức nhận dạng và đào tạo tài năng để phục vụ cho lợi ích và sự phát triển của xã hội đó. Ngày nay các quốc gia, các dân tộc đang bước vào thế kỷ XXI với sự phát triển nhanh chóng tất cả các mặt khoa hoc - kỹ thuật và kinh tế - xã hội. Thế giới đang trong tình hình mà cơ chế thị trường đang trở nên phổ biến. Năng suất, chất lượng của lao động con người đang trở thành sức mạnh quan trọng của con người trong xã hội. Việc tìm kiếm tích cực những thanh thiếu niên có năng khiếu cao và đào tạo họ trở thành tài năng phục vụ cho sự phát triển của quốc gia hiện đang là quốc sách của các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển trên toàn cầu. 1.1.1. Năng lực *Năng lực: Mọi trẻ sơ sinh bình thường đã có tư chất khác nhau, đó là tất cả những tiềm năng phát triển bẩm sinh được di truyền từ cha mẹ, trong đó, trước hết là những đặc tính cá thể về sinh lý giải phẫu của hệ thần kinh,của não bộ. Chính các tư chất bẩm sinh di truyền này là cơ sở của những năng lực ban đầu của con người gọi là năng lực tự nhiên. Năng lực tự nhiên là loại năng lực được nảy sinh trên cơ sở những tư chất bẩm sinh di truyền, không cần đến các tác động giáo dục đào tạo. Nó cho phép con người giải quyết được những yêu cầu tối thiểu, quen thuộc đặt ra cho mình trong cuộc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 sống. Do sự khác biệt về tư chất nên các em khác nhau về năng lực tự nhiên. Nhưng sự khác nhau đó không lớn đến mức quyết định hoàn toàn sự khác nhau về năng lực của con người trong suốt cuộc đời. Sự đáp ứng yêu cầu của các năng lực tự nhiên là rất hạn hẹp, trong khi cuộc sống phát triển không ngừng luôn đặt ra những yêu cầu mới cần giải quyết. Chính yêu cầu đó trong cuộc sống đã dẫn đến sự hình thành những năng lực loại mới ở con người bằng con đường giáo dục đào tạo. Những năng lực được đào tạo này là loại năng lực được hình thành trên nền tảng của năng lực tự nhiên nhưng là một bậc phát triển cao hơn so với năng lực tự nhiên. Các tài liệu khoa học hiện nay khẳng định rằng, năng lực được đào tạo (hay năng lực tự tạo) là những phẩm chất của quá trình hoạt động tâm lý tương đối ổn định và khái quát của con người, nhờ nó chúng ta giải quyết được (ở mức độ này hay mức độ khác) một hoặc một vài yêu cầu mới nào đó trong cuộc sống. (T1). Năng lực tự tạo chỉ nảy sinh và quan sát được trong hoạt động giải quyết những yêu cầu mới mẻ và do đó nó gắn liền với tính sáng tạo. Khi đã được hình thành ổn định, các năng lực tự tạo thường đi vào hệ thống các năng lực tự nhiên. Còn các năng lực tự nhiên lại báo trước trong chừng mực nào đó về năng lực tự tạo của con người khi họ giải quyết những yêu cầu thuộc loại mới. Năng lực con người ( tự nhiên và tự tạo) là hệ thống tiền đề bên trong và bên ngoài của thành tích hoạt động giải quyết những yêu cầu mới mẻ và xác định của con người. Năng lực của con người thường được phân ra thành các năng lực chung và năng lực chuyên biệt.(T1) Năng lực (tự nhiên và tự tạo) biểu lộ ở tính nhanh, tính dễ dàng, chất lượng tiếp nhận và thực hiện hoạt động, ở bề rộng của sự di chuyển, tính mới mẻ, tính độc đáo của hoạt động giải quyết những yêu cầu mới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 1.1.2. Năng khiếu *Năng khiếu: Chúng ta đã đề cập đến các thuật ngữ Tư chất, Năng lực, trong ngôn ngữ thường nhật hay trong các tài liệu khoa học cũng như trong hoạt động giáo dục đào tạo chúng ta thường gặp thuật ngữ “năng khiếu”. Nhiều tài liệu khoa học cho thấy: tuy giữa chúng còn nhiều điểm khác biệt, các nhà tài năng học đều có quan niệm chung rằng: Năng khiếu đó là hệ thống tiền đề bên trong dựa trên những tư chất bẩm sinh di truyền cho phép con người giải quyết được một hay vài yêu cầu nhất định nào đó trong cuộc sống mặc dù chưa được đào tạo.( T1) Như vậy năng khiếu là một dạng năng lực tự nhiên của con người. Mọi người bình thường đều có năng khiếu nhất định. Năng khiếu có cơ sở là các tư chất, nhưng tư chất là cái có tính đa dạng, đa hướng và tồn tại ở con người ngay khi lọt lòng mẹ, còn năng khiếu chỉ bộc lộ sau này trong những hoạt động giải quyết những yêu cầu nhất định. Năng khiếu không đa dạng, đa hướng như tư chất mà thường là năng khiếu trong một lĩnh vực hoạt động cụ thể nào đó như năng khiếu tổ chức quản lý, năng khiếu kinh doanh...đây thuộc loại năng khiếu chung và các năng khiếu chuyên biệt như năng khiếu âm nhạc, năng khiếu hội hoạ... Sự khác biệt trong năng khiếu cá nhân phụ thuộc vào các thuộc tính thần kinh cao cấp như cường độ, tính linh hoạt, độ nhạy cảm của qúa trình thần kinh và do đó nó phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của các quá trình tâm lý. 1.1.3. Giỏi *Giỏi: Thuật ngữ này thường xuyên trong cuộc sống chúng ta bắt gặp. "Giỏi" là thuật ngữ dùng để chỉ mức độ cao của năng lực, chỉ sự lành nghề, sự thành thạo một hoạt động với những kỹ xảo tinh tế hoàn hảo hay sự uyên thâm kinh nghiệm đến mức điêu luyện trong hoạt động đó. "Giỏi" là cái do con người tạo ra cho mình chứ không phải do trời phú. Trong kỹ thuật, nghệ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 thuật, nghề thủ công...thì khái niệm "giỏi" được hiểu như khái niệm "tài năng". Theo các nhà khoa học chuyên nghiên cứu về tài năng thì để đào tạo một chuyên gia (người giỏi trong một lĩnh vực) ở bất cứ lĩnh vực nào, nghề nào cũng cần đến một khoảng thời gian tối thiểu là khoảng trên dưới 10 năm. Những học sinh có năng khiếu cao về một lĩnh vực nào đó thì dễ dàng thành giỏi trong lĩnh vực ấy hơn. Tuy nhiên có thể không có năng khiếu cao đặc biệt nhưng nếu luyện tập chăm chỉ với lòng say mê cao độ và trong những điều kiện thuận lợi vẫn có thể trở nên giỏi ở một lĩnh vực, ví dụ như giỏi ngoại ngữ, giỏi lịch sử, giỏi ngoại giao... Thời gian khoảng 10 năm cũng là thời gian đủ để đào tạo một chuyên gia trong khoa học công nghệ. ở Cộng hoà liên bang Đức nhà nước đặt ra học vị Juniorprofessor để phong cho những nhà khoa học giỏi trẻ tuổi. Họ là những cử nhân khoa học loại ưu, được làm thẳng tiến sỹ, đã bảo vệ luận án chuyên ngành loại xuất sắc. Các Juniorprofesser được giao đứng đầu một nhóm các nhà khoa học chuyên ngành mới hiện đại. Như vậy họ không chỉ được phong chức danh khoa học mà quan trọng hơn là các nhà khoa học trẻ giỏi ở nước Đức trong thực tế đã được công nhận là chuyên gia, là người giỏi một chuyên ngành hay một tài năng khoa học công nghệ. Tuổi đời của họ thường khoảng trên dưới 30. Cũng vào độ tuổi này ở nước ta hiện nay đã một số người có bằng tiến sỹ chuyên ngành được đào tạo trong nước. Bao nhiêu phần trăm số tiến sỹ trẻ này thực sự là chuyên gia trong một ngành khoa học công nghệ?( T1+T2) 1.1.4. Thiên tài *Thiên tài: Thuật ngữ thiên tài chỉ mức độ cực cao của năng lực, cho phép con người đạt được những thành tựu vô song trong lịch sử. Khác với tài năng, thiên tài dẫn đến những giá trị mới hoàn toàn trên bình diện toàn nhân loại, mở ra thời kỳ mới, một bậc mới của sự phát triển trong một hoặc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 nhiều lĩnh vực nào đó của loài người, tựa như một mốc son đánh dấu một bậc phát triển mới cao hơn của xã hội con người.( T1) Nguồn gốc của thiên tài là một bí ẩn lớn đối với khoa học. Trong quan niệm dân gian và trong tài năng học thế kỷ XX vừa qua, thiên tài luôn được gắn liền với những điều bí ẩn, bất thường, khó làm sáng tỏ. Do tính chất bí ẩn của thiên tài nên các nhà tài năng học ở các nước ít đề cập đến thuật ngữ thiên tài. Chẳng hạn nhà tài năng học hàng đầu của Mỹ Terman đã dùng thuật ngữ trí tuệ cao thay cho thuật ngữ thiên tài.Theo các nhà tài năng học, xã hội không thể chủ động nhận dạng trước về thiên tài và cũng không thể chủ động đào tạo ra các thiên tài. Do vậy tài năng học hiện đại không đề cập đến việc đào tạo thiên tài. Như vậy rõ ràng là các thuật ngữ tài năng học như: học sinh tài năng, sinh viên tài năng, học sinh giỏi, sinh viên giỏi là thích hợp nhất trong công tác nhận dạng, tuyển chọn, đào tạo tài năng ở các trường phổ thông và đại học, bởi vì tài năng ở học sinh chính là tài năng học tập và học sinh giỏi được gọi là học sinh tài năng. Mặc dù vậy, hiện nay hầu hết các trường đào tạo tài năng ở bậc phổ thông nước ta vẫn gọi học sinh của họ là " học sinh năng khiếu” và đặt tên trường của họ là “Trung học phổ thông năng khiếu hoặc trung học phổ thông chuyên". 1.1.5. Tài năng Chúng ta đều biết có nhiều hiện tượng trong khoa học nhân văn được định nghĩa ít nhiều khác nhau. "Tài năng" cũng là một hiện tượng như vậy. Thật ra việc thoả thuận giữa các nhà nghiên cứu về khái niệm tài năng về cơ bản luôn bị quy định bởi nền văn hoá, bởi các giá trị và thái độ xã hội cũng như cơ cấu xã hội hoá. Tuy nhiên lịch sử phát triển khoa học cho thấy, có những hiện tượng chưa có định nghĩa một cách khái quát, chính xác và chưa được mọi người thừa nhận vẫn được các nhà khoa học nghiên cứu và ứng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 dụng. Vậy tài năng được hiểu ra sao? Đây còn là một câu hỏi mà sau hàng trăm năm nghiên cứu, tâm lý học vẫn chưa đưa ra được câu trả lời khái quát và thống nhất chung một cách tuyệt đối. 1.1.5.1. Những định nghĩa tài năng phiến diện (T1) Thực chất của việc định nghĩa tài năng cũng chính là việc cắt nghĩa về bản chất và nguồn gốc của tài năng. Điều này đồng thời cũng là cơ sở để nhận dạng và đào tạo tài năng. Từ việc nghiên cứu, phân tích trên 130 định nghĩa khác nhau về tài năng được đưa ra trong vòng 100 năm qua, các nhà khoa học đã phân định những định nghĩa ấy thành các loại điển hình sau: - Định nghĩa dựa vào các yếu tố đã bộc lộ: Đây là định nghĩa dựa vào các yếu tố đã bộc lộ ra bên ngoài. Theo cách định nghĩa này, một người nào đó được coi là tài năng khi anh ta đã hoàn thành vượt trội một hoạt động nhất định. Định nghĩa về người có tài năng kiểu này được vận dụng để lựa chọn người có tài năng dựa theo những kết quả đã thể hiện ra trong hoạt động của họ. Cách định nghĩa này không phục vụ cho công tác đào tạo tài năng, mà phục vụ cho việc xác định và đánh giá tài năng để làm cơ sở cho việc khen tặng và tôn vinh tài năng. - Định nghĩa dựa vào chỉ số IQ: Kiểu định nghĩa này được nhà tâm lý học Mỹ Terman sử dụng với giá trị IQ >= 140 theo Test Standford - Binet, theo đó "một người được gọi là tài năng khi người đó có hệ số trí tuệ bằng hay lớn hơn 140 theo test Standford - Binet". Tuy nhiên khi áp dụng định nghĩa loại này, nhiều nhà tâm lý lại dùng các trắc nghiệm trí tuệ khác và ấn định giá trị chuẩn khác với Terman, thường là thấp hơn 140 như ở Terman. Ví dụ, năm 1965, Gowan dùng giá trị chuẩn hạn định là 129 trở lên theo test Standford - Binet. Webb (1985) lấy giá trị hạn định là 130... Điển hình trong việc áp dụng kiểu định nghĩa IQ trong định nghĩa tài năng thể hiện rõ nhất ở định nghĩa tài năng của Bộ giáo dục Anh quốc như sau: " Trẻ em và thanh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 niên có năng khiếu cao ở lứa tuổi 8-18 là những em khẳng định được về năng lực trí tụê chung vượt trội ở trường học, đã chứng tỏ điều đó qua một test trí tuệ (test thông minh) đã thực hiện tự lập đáng tin cậy với kết quả Iq từ 130 trở lên, hoặc trong hoạt động giải quyết công việc của mình đã chứng tỏ một trình độ phát triển vượt trội rõ ràng và giữ vững như vậy trong nhiều năm, hoặc đưa ra được một tiên lượng tương đối đáng tin cậy về sự vượt trội trong học tập các môn học hàn lâm hay trong âm nhạc, trong thể thao, trong múa hát, hay trong lĩnh vực nghệ thuật, đồng thời tài năng của chúng không phải chỉ quy trước hết vào sự phát triển thể chất" (Vụ Giáo dục và khoa học - 1997).( T1) - Định nghĩa xã hội: Định nghĩa này dựa trên sự mở rộng quan điểm lý thuyết về tài năng trong mối liên quan với nhiều lĩnh vực. Quan niệm này nảy sinh trên cơ sở yêu cầu của xã hội về những thành tích vượt trội. Loại định nghĩa như vậy được gọi là định nghĩa xã hội.( T1) Theo cách định nghĩa này, người ta cho rằng "một học sinh, sinh viên có thành tích cao vượt trội trong một lĩnh vực nào đó mà mọi người có thể nhận ra được một cách tổng quát thì được gọi là người có tài năng" (Witty - 1965). - Định nghĩa bách phân: Kiểu định nghĩa này xuất phát từ quan niệm cho rằng có một số phần trăm nào đó của dân số được coi là có tài năng. Khái niệm tài năng ở đây gắn liền với những trẻ em có tiềm năng trí tuệ vượt trội cũng như có năng lực giải quyết nhiệm vụ cao ở trường học, về mặt thành tích học tập chúng thuộc số 15- 20 % xếp thứ hạng từ trên xuống dưới. Tuy nhiên, có bao nhiêu phần trăm quần thể được coi là có tài năng thì không có sự thống nhất giữa các nhà khoa học.(T1) - Định nghĩa dựa vào tính sáng tạo: định nghĩa này được hình thành dựa trên cơ sở phê phán, bác bỏ kiểu định nghĩa thuần tuý chỉ dựa vào chỉ số thông minh IQ và chủ trương đặt tính sáng tạo làm cơ sở tiên quyết cho việc đánh giá tài năng con người.Theo quan niệm này, nhà nghiên cứu Gowan cho Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 rằng :"Học sinh, sinh viên tài năng là người có tính sáng tạo cao". Theo nhà nghiên cứu Mỹ - Terman thường trong 100 người có trí thông minh cao thì có 43 người có trí sáng tạo cao. Do vậy chỉ có 43% số này vừa thông minh vừa sáng tạo. - Định nghĩa "Thông minh - Sáng tạo": Nhà tâm lý học Lucitô đề xuất định nghĩa về tài năng dựa vào mô hình trí tuệ, trong đó có định nghĩa về tính sáng tạo. Theo kiểu định nghĩa này "Học sinh tài năng là người có năng lực trí tuệ tiềm năng cao biểu hiện trong năng lực sáng tạo, trong tư duy đánh giá có phê phán ở mức độ cao, hứa hẹn là họ sẽ giải quyết chính những vấn đề của tương lai, thực hiện những đổi mới và đánh giá có phê phán nền văn hoá hiện tại nếu như họ nhận được những điều kiện giáo dục xứng đáng".( T1) Có thể nhận thấy ngay rằng những định nghĩa trên đây mới chỉ đề cập đến một mặt của khái niệm tài năng. Để đưa ra được khái niệm đúng và đầy đủ cần xem xét chúng trong chỉnh thể thống nhất của nó. 1.1.5.2. Những định nghĩa tài năng liên kết phức tạp - Định nghĩa tài năng của Renzulli(1978): Lần đầu tiên vào năm 1978, R.S . Renzulli và cộng sự đã đề xuất mô hình về tài năng. Ông gắn mô hình này với yêu cầu thực tế của công tác nhận dạng tài năng trong đó có sử dụng các test cá nhân, test nhóm và các thông tin khác từ cha mẹ, bạn bè và giáo viên. Sau đó Renzulli đã nhiều lần diễn tả bổ xung và chuyên biệt hoá mô hình này vào các năm 1980,1984,1986,1988. Ông định nghĩa về tài năng như sau: "Tài năng được tạo bởi sự tương tác của 3 tổ hợp cơ bản các thuộc tính nhân cách: năng lực nhận thức học tập, động cơ hứng thú và tính sáng tạo. Trẻ em tài năng là những em có tổ hợp các thuộc tính trên dẫn tới sự hoàn thành hoạt động với chất lượng cao". Định nghĩa về tài năng của Renzulli đã từng được hội thảo về tài năng toán và khoa học công nghệ vùng châu á- TBD tổ chức tại Tôkyô - Nhật Bản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 năm 1993 khuyên dùng đối với giáo dục các nước trong vùng. Định nghĩa này cũng được nhiều nhà nghiên cứu ở các nước khác trên thế giới đặc biệt quan tâm như Mỹ, Anh, Đức, Nhật Bản. Tuy nhiên định nghĩa này của ông đã không tính đến yếu tố sinh lý thần kinh của tài năng. - Định nghĩa tài năng của 2 nhà tâm lý học Đức Wiezerkowski và Wagner (1985): Từ việc phê phán định nghĩa tài năng của Renzulli, 2 nhà tâm lý học này đã đưa ra một mô hình mới bao gồm các yếu tố: các năng khiếu, động cơ môi trường, tính sáng tạo. Trong mỗi yếu tố các ông đã cụ thể hoá thành các thành tố. Các năng khiếu bao gồm : Năng khiếu trí tuệ Năng khiếu nghệ thuật Năng khiếu tâm vận Năng khiếu xã hội. Với sự phân tích cấu trúc nội dung của yếu tố động cơ môi trường thành các thuộc tính như : Chăm chỉ kiên trì Quyết tâm đạt đến thắng lợi Bền vững về xúc cảm Với việc thừa nhận môi trường xung quanh cùng với sự hỗ trợ tối ưu từ bên ngoài, 2 nhà tâm lý học này đã đi xa hơn Renzulli trong việc xác định rõ hơn, chi tiết hơn về nội dung và vai trò của động cơ môi trường đối với tài năng con người. Theo phân tích của 2 tác giả này thì yếu tố xúc cảm, ý chí, thái độ đối với môi trường bên ngoài cũng như thái độ hay sự thừa nhận, hỗ trợ khuyến khích của môi trường bên ngoài có tác động quan trọng đến sự phát triển của tài năng. Cách quan niệm của 2 nhà tâm lý học này đã giúp cho chúng ta có được cái nhìn cụ thể hơn về cấu trúc, nội dung của tài năng để Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 làm cơ sở cho việc thiết kế soạn thảo những công cụ đo đạc, nhận dạng tài năng của con người kể cả tài năng trí tuệ và tài năng chuyên biệt.(T1+ T4) - Định nghĩa tài năng nhiều yếu tố của Moenk (1985): Moenk là nhà tâm lý học giáo dục của Đức, Ông đã tiếp thu có phê phán các mô hình năng khiếu cao của các tác giả và cho rằng những cơ sở di truyền của nhận thức và những thuộc tính nhân cách của con người là khác nhau. Trong cuộc sống và hoạt động con người bị hạn chế, ức chế hoặc được hỗ trợ khuyến khích từ bên ngoài. Họ có thể bị cô lập hoặc được hoà nhập trong xã hội, với gia đình, bạn bè, họ có thể bị nhận định nhầm lẫn là không có năng lực do cách nhận dạng của xã hội, do nhà trường chưa tốt hoặc có thể bị nhận định là thiếu ý chí trong trường học... Vì vậy, tài năng không chỉ được xét dưới 3 góc độ hay 3 thành tố được đặt chông chênh trừu tượng ngoài xã hội như quan niệm của Renzulli, mà tài năng phải được coi là một cơ cấu mở trong đó bao gồm cả các yếu tố của môi trường xã hội. Moenk đã đưa ra mô hình tích hợp về tài năng có tên là "mô hình 3 yếu tố phụ thuộc nhau của tài năng" hay "mô hình các yếu tố của tài năng". Ba yếu tố đó bao gồm: động cơ, các năng lực vượt trội, tính sáng tạo, theo Moenk thì đây chính là 3 yếu tố trụ cột tạo nên tài năng. Mô hình tài năng này có ưu điểm là đã coi "tài năng" như một hiện tượng có cấu trúc mở ra môi trường xã hội (tức là có nguồn gốc xã hội) chứ không còn đóng kín trong cấu trúc sinh học và cấu trúc trí tuệ hàn lâm. Tuy nhiên mô hình này cũng chưa làm nổi bật được vai trò của trí thông minh trong hệ thống các năng lực vượt trội nên việc đo đạc, đánh giá về trí thông minh bằng test trí tuệ truyền thống không thể hiện rõ trong quy trình nhận dạng tài năng. Trong thực tiễn, muốn nhận dạng người có tài năng bao giờ cũng cần phải tiến hành đánh giá về trí thông minh hàn lâm của họ bằng các test IQ truyền thống như một khâu độc lập với việc đánh giá về các năng lực chuyên biệt khác thông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 qua trắc nghiệm trường học hoặc qua hoạt động giải quyết những nhiệm vụ chuyên biệt cụ thể nào đó. Mô hình tài năng của Moenk cũng chưa nhìn nhận đúng mức về vai trò của xã hội, tức là không đề cao những vai trò của các chương trình, dự án phát triển tài năng của nhà nước, của toàn xã hội. Và cũng như các định nghĩa tài năng khác nhau dựa trên quan niệm của Renzulli, định nghĩa này cũng bỏ qua yếu tố sinh lý.(T1) - Định nghĩa về tài năng hiện nay được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam là của tác giả PGS-TS Nguyễn Huy Tú. Dựa trên cơ sở nghiên cứu các định nghĩa khác nhau về tài năng của các nhà nghiên cứu trên thế giới và thực tế ứng dụng mô hình cấu trúc tài năng trong những năm vừa qua ở các nhà trường Việt Nam. Tài năng phải được coi là một cơ cấu mở bao gồm không chỉ trí thông minh cao, tính sáng tạo cao, động cơ mạnh mẽ và các năng lực chuyên biệt vượt trội mà còn phải bao gồm các hiệu ứng tâm lý - nhân cách - xã hội của các quan hệ gia đình, nhà trường, bạn bè và xã hội. Tài năng được quan niệm như vậy sẽ là một cấu trúc mở bao gồm nhiều yếu tố từ cấp độ sinh học đến cấp độ xã hội. Tuy tài năng có cơ sở sinh lý thần kinh được di truyền song nó phát hiện được là nhờ hoạt động của cá nhân trong những điều kiện xã hội cụ thể nhất định. Tài năng tự nhiên chỉ phát triển thành tài năng thực thụ khi được xã hội hỗ trợ, thừa nhận và người tài được xã hội tin dùng, nuôi dưỡng và đãi ngộ thoả đáng kịp thời. Như vậy, "Tài năng là một tổ hợp thuộc tính được cấu tạo nên do sự tương tác của các tổ hợp cơ bản những thuộc tính của nhân cách là trí thông minh cao, động cơ mạnh và năng lực chuyên biệt vượt trội với hiệu quả tác động của các yếu tố môi trường là xã hội, gia đình, trường học và bạn bè. Người tài năng là người có được những tổ hợp thuộc tính trên đây làm tiền đề cho sự hoàn thành có chất lượng cao những hoạt động của mình trong xã hội và vì xã hội".( T1) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 1.2. Khái niệm trẻ tài năng theo quan điểm của các nhà khoa học Mỹ Nước Mỹ mãi đến thế kỷ 19 mới chú ý đến vấn đề giáo dục học sinh tài năng cho đến năm 1920 đã có tới 2/3 các thành phố lớn của Hoa Kỳ đã thực hiện chương trình giáo dục học sinh giỏi, học sinh tài năng. Trong suốt thế kỷ 20 giáo dục học sinh giỏi học sinh tài năng đã trở thành một vấn đề của nước Mỹ. Hàng loạt các tổ chức và các trung tâm nghiên cứu bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh tài năng ra đời: Mensa (1946) The American Association for the Gifted (1947); The National Association for the Gifted (1953) ... Năm 2002 có 38 bang của Hoa Kỳ có đạo luật về giáo dục học sinh giỏi, học sinh tài năng trong đó có 28 bang có thể đáp ứng đầy đủ cho việc giáo dục học sinh giỏi, học sinh tài năng. Khái niệm học sinh tài năng ở Mỹ được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau: Luật bang Georgia định nghĩa như sau: Học sinh tài năng là học sinh chứng minh được trí tuệ ở trình độ cao hoặc có khả năng sáng tạo, thể hiện một động cơ học tập mãnh liệt hoặc đạt xuất sắc trong lĩnh vực lý thuyết khoa học. Đó là người cần một sự giáo dục đặc biệt và sự phục vụ đặc biệt để đạt được trình độ tương ứng với năng lực của người đó.(T3) Theo Clak 2002 ở Mỹ người ta định nghĩa học sinh tài năng đó là những học sinh trẻ tuổi có dấu hiệu về khả năng hoàn thành xuất sắc công việc trong các lĩnh vực như trí tuệ, sự sáng tạo, nghệ thuật, khả năng lãnh đạo hoặc trong lĩnh vực lý thuyết khoa học. Những người này đòi hỏi sự phục vụ và các hoạt động không theo trường lớp thông thường nhằm phát triển hết năng lực của họ.(T3) 1.3. Bồi dưỡng và đào tạo trẻ tài năng Tài năng con người có thể bồi dưỡng, đào tạo được hay không, đó là một câu hỏi được đặt ra từ khá lâu và được tranh luận tiếp tục trong suốt hàng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 thế kỷ qua. Sự trả lời câu hỏi trên phản ánh quan điểm của các học giả trong lĩnh vực này. Trong khoa học có nhiều quan điểm khác nhau về sự phát triển của tài năng: Thuyết phát triển nội sinh, thuyết phát triển ngoại sinh, thuyết hội tụ, thuyết Mác-xít. Thuyết Mác-xít đã chỉ ra rằng con người không phải là khách thể thụ động của những yếu tố phát triển của nó và nhân cách cũng như mọi thuộc tính cấu tạo nên nó không phải là kết quả cơ học của di truyền bẩm sinh, của môi trường hay của sự phát triển chung của cả 2 yếu tố đó. Theo thuyết này, con người tự tạo ra nhân cách của mình và chủ yếu là bằng hoạt động tương tác tích cực với các điều kiện sống bên ngoài của môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh họ. Nhưng các điều kiện này không tác động trực tiếp mà tác động gián tiếp thông qua hoạt động của cá nhân làm hình thành nên nhân cách và từng thuộc tính của nhân cách đó. Điều kiện môi trường, trước hết là môi trường giáo dục (theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp) có vai trò thực sự tích cực và sáng tạo trong sự phát triển của nhân cách. Nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục (theo nghĩa hẹp) là tổ chức mọi điều kiện phát triển (nhà trường và phi nhà trường) sao cho trẻ em có thể tiếp thu và thực hiện các hoạt động giải quyết những yêu cầu thực tiễn muôn màu, muôn vẻ được đặt ra để hình thành nhân cách nói chung (cũng như từng thuộc tính của nó nói riêng) cho phù hợp với mục đích giáo dục do xã hội đề ra. Như vậy, từ những trình bày trên đây, có thể nói rằng : là một thuộc tính của nhân cách, tài năng mang đặc tính của nhân cách và có thể giáo dục đào tạo được. Các nhà giáo dục ở Liên bang Nga những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước đã quan tâm rất nhiều đến vấn đề này. Họ cho rằng trong nhân dân có rất nhiều tài năng, và tài năng không phải tự nhiên có được mà chính là do con người tạo ra. Sở dĩ xã hội thiếu tài năng là vì nhà trường và xã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 hội không đặt ra nhiệm vụ đào tạo tài năng hoặc có đặt ra nhưng chưa đào tạo đúng mà thôi. Theo quan niệm và kinh nghiệm hơn 30 năm đào tạo tài năng, tiến sỹ Volkow cho rằng về nguyên tắc, đào tạo tài năng là không khó, chỉ cần mỗi trường biết tạo ra những điều kiện để học sinh thử sức nhiều lần trong những hoạt động độc lập, sáng tạo khác nhau. Từ những kinh nghiệm của mình, các nhà giáo dục Nga cũng thấy rằng để đào tạo một chuyên gia giỏi trong mọi lĩnh vực chúng ta cần một khoảng thời gian tương đương nhau vào khoảng trên dưới 10 năm. Bắt đầu bồi dưỡng tài năng càng sớm thì người tài xuất hiện càng sớm. Hiện tượng một số em tốt nghiệp tú tài, thậm chí là nhận bằng cử nhân ở độ tuổi 13 - 14 ở Nga, Mỹ và các nước khác hiện nay chính là kết quả của giáo dục đào tạo. Các nhà giáo dục Đức cho rằng, bồi dưỡng tài năng trước hết là hình thành ở học sinh những đặc điểm và thuộc tính nhân cách như nhu cầu và hứng thú trí tuệ, mức độ nhu cầu, tính nhạy cảm, trí tưởng tượng và khả năng làm việc tốt trong thời gian hạn định và khả năng cộng tác. Theo kinh nghiệm của họ thì bồi dưỡng tài năng có nghĩa là: làm bộc lộ nhu cầu trí tuệ và khát vọng thực hiện nhu cầu đó; tạo được mục đích riêng và theo đuổi nó một cách có trách nhiệm; hình thành hệ giá trị bên trong; tận dụng được sự mẫn cảm trong sự phát triển để gắn kết vào mục đích và hệ giá trị bên trong nó. Từ thực tiễn trên về công tác đào tạo, dạy học trẻ tài năng các nhà khoa học đã đưa ra kết luận: Đào tạo, bồi dưỡng trẻ tài năng không phải là truyền thụ có tính áp đặt những tri thức kỹ năng mà đơn giản là tạo cơ hội cho học sinh có năng khiếu cao thể hiện tài năng bằng các hoạt động bổ sung, nâng cao, trong đó các em được động viên, khuyến khích, hỗ trợ để đương đầu với những thử thách ngày càng cao trong học tập hay luyện tâp.( T1) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 2. Những cơ sở lý thuyết của việc lựa chọn và dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường Tiểu học ở Mỹ 2.1. Những tiền đề lịch sử của phương thức dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ Hệ thống tìm kiếm và dạy học trẻ em tài năng ở Mỹ được phát triển mạnh mẽ dưới những ảnh hưởng của các chính sách giáo dục quốc gia. Sự quan tâm đến vấn đề tìm kiếm và dạy học cho trẻ tài năng xuất hiện ở Mỹ vào giữa Thế kỷ XIX. Đây là sáng kiến của một nhân viên hậu cần trong trường phổ thông của thành phố Xanh - Lu - I tên là WILLIAM KHALIC vào năm 1868. Trong các nhà trường lúc đó chương trình hỗ trợ cho "những học sinh nhanh nhẹn" với tên gọi là "góp phần tăng tốc" đã được thực hiện. Những yếu tố đầu tiên của cuộc thử nghiệm được áp dụng rộng rãi ở Mỹ nhằm mục đích phát hiện khả năng và sự phát triển trí tuệ của công dân ở các lứa tuổi. Chính phủ liên bang của Mỹ dành sự chú ý đặc biệt đến vấn đề tài năng. Trong báo cáo của chính phủ Mỹ năm 1954 về "Dự trữ nguồn tài năng của Mỹ" đã nhấn mạnh rằng: "Sự tiến bộ của quốc gia Mỹ, sức mạnh kinh tế quân sự... phụ thuộc trước hết vào bộ phận làm việc bằng đầu chứ không phải bằng tay của dân tộc". (T1) Đầu Thế kỷ XXI, Mỹ đã chứng minh sự đầu tư vào con người ngày càng đóng vai trò quyết định trong việc đảm bảo các ưu thế cạnh tranh của đất nước ở trình độ quốc gia cũng như là trên thế giới. Sự phát triển của nền giáo dục Mỹ trong những năm gần đây ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành nền kinh tế cơ bản - trí tuệ của con người. Trong báo cáo kinh tế của Tổng thống Mỹ B.Clintơn tại hội nghị năm 1999 đã thẳng thắn chỉ ra rằng "chính nền giáo dục là chiếc chìa khoá mở ra sự phồn vinh trong tương lai của đất nước".(T5) Nền giáo dục ở Mỹ được coi là lĩnh vực thuộc thẩm quyền của các bang và chính quyền địa phương. Cho đến nay ở Mỹ có 50 hệ thống giáo dục Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 khác nhau ở các bang. Trong mỗi bang có một cơ quan quản lý nền giáo dục của mình. Chính điều này tạo nên sự khác biệt và những đặc trưng riêng của mỗi khu nhưng vẫn trong giới hạn do Luật giáo dục quy định. Hiện nay ở Mỹ có khoảng 15 ngàn trường phổ thông đang hoạt động. Quyền hạn của chính phủ Liên bang chỉ giới hạn trong vấn đề cung cấp kinh phí giáo dục đảm bảo sự bình ổn trong xã hội của đất nước Mỹ. Tuy nhiên có thể nói giáo dục là một lĩnh vực được quan tâm hàng đầu ở Mỹ. Đây là lĩnh vực được đầu tư cao và nó luôn chiếm một vị trí đáng kể trong các chương trình vận động tranh cử qua các đời tổng thống. Vấn đề dạy học trẻ em có năng khiếu cao để phát triển thành tài năng ở Mỹ được quan tâm đặc biệt nhưng nó không tách rời khỏi quá trình dạy học ở các nhà trường Tiểu học của Mỹ nói chung. Vấn đề là ở chỗ ngay trong quá trình dạy học tại các lớp thông thường họ đã có những phương thức giảng dạy giúp học sinh tài năng có thể phát huy đuợc năng lực của bản thân và khẳng định đẳng cấp riêng của mình giữa những học sinh bình thường. Không cần sự tách biệt một cách rõ rệt thành trường chuyên, trường năng khiếu như ở Việt Nam nhưng tài năng không bị thui chột mà vẫn có thể toả sáng. Cách mà các trường Tiểu học ở Mỹ lựa chọn để dạy học trẻ tài năng và trẻ có năng khiếu cao đó là dạy học cá nhân hoá ngay trong các lớp học, trong các trường tiểu học thông thường và có sự thống nhất để tạo thành một hệ thống giữa các cấp học, lớp học. ở Mỹ, cha mẹ có thể lựa chọn cho con mình theo học tại các trường công lập hoặc dân lập. Tại các trường công lập trẻ em có thể theo học miễn phí 12 năm. Tuy nhiên ở Hoa kỳ không có một hệ thống giáo dục chung thống nhất cho mọi lứa tuổi như ở Việt Nam hay ở Nga, chương trình giáo dục ở các thành phố khác nhau và ở các bang cũng khác nhau. Các bang có thể tuỳ vào vào thực tế để lựa chọn môn học phù hợp tuy nhiên vẫn phải căn cứ vào các yêu cầu chung của nhà nước do Bộ giáo dục ban hành.( T6) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 Trong các trường công cũng như trường tư ở Mỹ cũng có các lớp chuyên sâu về một môn nào đó thường xuyên được thực hành theo chương trình riêng, mức độ tài năng được đánh giá theo kết quả của Test Standart Achivement. ở Mỹ không có hệ thống đánh giá chung của toàn quốc gia, tại một số trường thì áp dụng thang điểm số, một số trường lại áp dụng thang điểm chữ. Do các trường công lập hoạt động do nhà nước cung cấp kinh phí nên các trang thiết bị và phương tiện phục vụ cho học tập hạn chế hơn hẳn các trường tư thục huy động được sự đóng góp của gia đình học sinh. ở các trường tư mỗi năm cha mẹ học sinh phải trả từ 2 - 10 ngàn đô la mỗi năm trên đầu 1 học sinh vì vậy các trường có điều kiện thuê giáo viên giỏi và trang bị cho lớp học tốt hơn. Hầu hết trẻ tài năng của Mỹ đều được trưởng thành từ những trường tiểu học tư thục, nơi trẻ có điều kiện thuận lợi hơn để học tập và tiếp cận được tri thức. Phân tích các tài liệu tâm lý - giáo dục ở Mỹ cho phép xác định một loạt các tiền đề lý luận chỉ ra việc tổ chức có hiệu quả quá trình dạy các học sinh tài năng ở các lớp dưới của Mỹ. Tại đây trong nhiều năm đã áp dụng hệ thống giáo dục chung được xây dựng trong việc tìm kiếm cá nhân, chọn lọc và tính đến yếu tố bẩm sinh của mỗi học sinh khi mới bắt đầu vào học cũng như trong quá trình học tập của cá nhân học sinh đó sao cho phù hợp với những tư chất được bộc lộ. Từ đó tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát triển khả năng và tài năng của mỗi học sinh. Khi dạy cho học sinh tài năng cần tính đến sự kế thừa giữa các khâu của quá trình giáo dục Mỹ. Giáo dục Tiểu học có vị trí vô cùng quan trọng vì nó chính là giai đoạn đặt nền móng của tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, chủ yếu không chỉ xác định tính chất sau này của việc dạy học mà cả đường đời của mỗi cá nhân học sinh. Trường tiểu học có mối liên hệ chặt chẽ với các bậc học tiếp theo của thang giáo dục, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 phát hiện được những đặc điểm học tập ở bậc tiểu học nghĩa là hiểu được nhiều đặc điểm của toàn bộ hệ thống giáo dục. Trường tiểu học ở Mỹ là hiện tượng độc đáo với hàng loạt những nét khác biệt với các trường tiểu học ở các nước phát triển khác trên thế giới. Đã rất nhiều năm việc dạy cho trẻ em tài năng tại các trường tiểu học không được chú ý quan tâm đúng mức. Trước những năm 50 của thế kỷ XIX có 3 môn học truyền thống của trường tiểu học (còn gọi là trường sơ cấp) ở Mỹ có vai trò quan trọng bậc nhất là làm toán, đọc, viết với sự tái tạo lại những dữ liệu sẵn có là cơ bản. Phân tích nguồn gốc chỉ ra sự thay đổi căn bản trong quan niệm về giáo dục tiểu học diễn ra trong khoảng thời gian từ 1870 - 1920. Điều đó liên quan đến việc thông qua những đạo luật bắt buộc về việc học tập ở bậc tiểu học. Thời kỳ này số học sinh tăng lên hơn 2 lần và chương trình dạy học cũng được mở rộng. Các đề tài thực hành gắn liền với đời sống cá nhân và đời sống xã hội được đưa vào giảng dạy. Các nghiên cứu của các nhà bác học Châu Âu đã tạo điều kiện xem xét lại các nguyên tắc dạy học tiểu học. I.F Robert ( 1776 - 1841) đề nghị tính đến quyền lợi của trẻ em trong quá trình dạy học và thiết lập mối liên kết giữa các môn học. Những ý tưởng của Ph.Phơrebel (1782 - 1852) về tự hiện thực hóa nhân cách đứa trẻ trong quá trình tham gia tích cực vào hoạt động nhóm và ý tưởng của Maria Mongtexoro (1870 - 1952) về cá thể hoá việc dạy học và thích nghi với việc học tập tích cực có ảnh hưởng lớn đến ý tưởng giáo dục của nước Mỹ. Vai trò đáng kể trong việc thay đổi luận thuyết về dạy học tiểu học thuộc về Đơruyi (1859-1952) và những người kế nghiệp đã thống nhất vào khuynh hướng "Giáo dục tiến bộ" trong đó trình bày quan niệm lý thuyết dạy học. Vào năm 1896,Ông đã thành lập trường tiểu học thực nghiệm dành cho lứa tuổi này và cố gắng thể hiện lý luận của mình và trình bày dạng dạy học mới. Trẻ em trong trường tiểu học lúc này được tiếp cận với những luồng thông tin khác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 nhau thuộc nhiều lĩnh vực đa dạng tiến bộ. Dạy học không còn mang tính tái hiện những dữ liệu một cách máy móc mà gắn vào hoạt động thực hành, vào "việc làm". Nhà khoa học này đặc biệt nhấn mạnh nguyên tắc dạy học cơ bản là "dạy bằng cách làm". Những tiến bộ mới trong lý luận dạy học bậc tiểu học nói chung cũng tác động to lớn tới dạy học trẻ tài năng. Hơn lúc nào hết dạy học trẻ tài năng cần được chú trọng bởi các nhà khoa học Mỹ đều khẳng định đây là giai đoạn vô cùng quan trọng cho tài năng bộc lộ và phát triển. ở Mỹ có nhu cầu rất lớn về những người có đầu óc sáng tạo, không một dòng người nhập cư, không sự tìm kiếm riêng nào có thể thoả mãn nhu cầu này. ở đâu có thể tìm được những con người sáng tạo nếu như không phải là ở tuổi ấu thơ. Chính sự tìm kiếm, phát hiện và bồi dưỡng cho trẻ từ lúc nhỏ thì mới có thể tạo ra một lực lượng tài năng đầy sáng tạo. Chính tài năng của trẻ em đòi hỏi phải có chương trình được vạch ra với mục tiêu rõ rệt có sự đảm bảo. Cần nhận thức rõ một điều là những trẻ em như vậy chính là "tinh hoa của dân tộc", là kho tàng quý giá nhất, trẻ em tài năng được coi là niềm hy vọng của nước Mỹ hiện đại. Những nhà tâm lý học, giáo dục học có tên tuổi của Mỹ (Renzullin, Ginfo..) không cho rằng làm việc với trẻ em tài năng, xây dựng cho chúng những ngôi trường đặc biệt, tạo cho chúng những chương trình đặc biệt đó là đã tạo nên tinh hoa mà đó chỉ là góp phần thúc đẩy tài năng, thể hiện sự trân trọng đối với điều hiếm có của con người, điều không lặp lại ở mỗi con người. Rõ ràng là ở Mỹ sự chú ý phát triển tiềm năng của trẻ em được chú trọng và sự quan tâm đặc biệt dành cho vấn đề dạy dỗ trẻ em tài năng, tạo điều kiện cho tiềm năng đặc sắc của trẻ em tài năng được phát triển. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 Chính sách nhà nước có mục tiêu rõ rệt của Mỹ đảm bảo cho điều đó được thực hiện ở mức độ cao. Hàng năm ngân sách chi cho giáo dục ở Mỹ là 6,9% tổng thu nhập quốc dân trong đó chi cho giáo dục tiểu học và trung học là 3,9% - 4%. Ngân sách chi cho giáo dục ở Mỹ cao gấp 165 lần so với chi phí ở nước Nga và càng không thể so sánh với Việt Nam. Sự đầu tư cao đảm bảo cho giáo dục có chất lượng cao hơn. Đối với dạy học cho trẻ em tài năng trong các nhà trường tiểu học thì sự đầu tư kinh phí giúp cho học sinh có điều kiện tiếp thu được nhiều hơn, đa dạng hơn những tri thức thông qua sự hỗ trợ của phương tiện kỹ thuật hiện đại. Một trong những yếu tố giữ vai trò quan trọng hàng đầu giúp cho quá trình dạy học học sinh tài năng có hiệu quả ở Mỹ đó là phương thức dạy học cá nhân hoá và phân hoá. Dạy học cá nhân hoá có vai trò đặc biệt xét trên quan điểm hiện đại hoá trường học và trước tiên là sử dụng những khả năng còn tiềm ẩn trong học sinh cũng như trong việc phát triển năng khiếu và tài năng của họ.(T6) Việc nghiên cứu những tư liệu chính thức và chương trình chính giành cho trẻ em tài năng cho phép khẳng định: Dạy học như một quá trình cá nhân hoá, phần lớn dựa vào việc tự học có tính đến năng lực và quyền lợi của học sinh ở Mỹ. Xác định cơ cấu và tổ chức của toàn bộ quá trình học tập và giáo dục, quy định cả việc hiện đại hoá hình thức và phương pháp dạy học bậc Tiểu học. 2.2. Dạy học trẻ tài năng với hình thức dạy học phân hoá trong trường tiểu học ở Mỹ * Dạy học "cá nhân hoá": ở Mỹ khái niệm "cá nhân hoá" hoạt động dạy học thường bao hàm bất kỳ hình thức và phương pháp nào tính đến những đặc điểm cá nhân của học sinh trong đó có cả những học sinh tài năng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 Dạy học cá nhân hoá đôi khi được xem như chiến lược dạy học. Theo quan điểm của nhà bác học Mỹ Gronlunda, điều này được thể hiện trong những dạng sau: 1. Từ biến dạng tối thiểu trong giao tiếp nhóm đến dạy học độc lập hoàn toàn. 2. Thay đổi nhịp độ, mục tiêu, phương pháp dạy học, nội dung dạy học và đòi hỏi về kết quả học tập. 3. áp dụng dạy học cá nhân hoá với tất các môn học Vấn đề dạy học "cá nhân hoá" ở Mỹ đã được xem xét lại trong vòng 100 năm trở lại đây. Khuynh hướng chủ đạo trong các vấn đề lý luận chính là cơ sở của dạy học cá nhân hóa và tự học của học sinh trong quá trình giáo dục và dạy học. (T5 + T6) Trong nửa đầu thế kỷ XX, vị trí của những nhà giáo dục học thuộc phái giữa luôn được nâng cao. Đơruyi ủng hộ cho khuynh hướng giáo dục thực hành, ông đề nghị giải quyết các nhiệm vụ của cách dạy học này bằng sự phát triển toàn diện của đứa trẻ. Trẻ em đó là sự khởi đầu, là trung tâm và cũng là đoạn kết của tất cả. Theo quan điểm của nhà bác học Mỹ Ađam nội dung cần được xem xét từ phía học sinh chứ không phải từ phía người dạy. Cũng cần nhận thấy là trong giai đoạn trước đó việc dạy học chỉ đảm bảo cho con em của giai cấp giàu có bằng phương pháp cá nhân hoá thì nay đã được mở rộng. Mục tiêu phát triển tối đa của tất cả trẻ tài năng được thừa nhận là mục tiêu hàng đầu. Theo quan điểm của các nhà giáo dục học Mỹ (Gơronlanđo, Evanxo..) khả năng cá nhân hoá dạy học đã được mở ra cùng với sự phát triển của phương tiện kỹ thuật và sự phổ biến của vi tính vào quá trình học tập. Cá nhân hoá dạy học được quy định bởi sự khác biệt lớn của những phẩm chất học sinh mà kết quả học tập phụ thuộc vào những phẩm chất ấy. ở đây bao gồm cả trình độ kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, kỹ năng học tập và năng khiếu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 Ngoài ra cũng cần tính đến những đặc điểm và trạng thái khác nhau ở mỗi học sinh, chúng luôn hoặc nhất thời có ảnh hưởng đến những học sinh đó và chúng được tính đến trong những trường hợp cá biệt. Vì dạy học cá nhân hóa đòi hỏi sự chú ý đến những đặc điểm nêu trên nên mục đích dạy học đặc thù của nó thể hiện ở chỗ để hoàn thiện kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh, hiện thực hoá chương trình học tập bằng cách nâng cao trình độ kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nói riêng, chuyên sâu và mở rộng kiến thức cho học sinh, xuất phát từ lợi ích và những khả năng đặc biệt của học sinh bằng phương pháp "cá nhân hoá". Mục tiêu phát triển của phương pháp "cá nhân hoá" được thực hiện trong việc hình thành và phát triển tư duy lôgic, kỹ năng lao động học tập dựa vào sự phát triển gần đây nhất của học sinh. Hiện nay "cá nhân hoá" dạy học trong các trường phổ thông của Mỹ dựa trên cơ sở của lý luận dạy học nhằm đạt được các mục tiêu hoặc dạy học lành nghề. Điều cốt lõi của lý luận này là hệ thống giáo dục mà thực hiện nó sẽ cho phép tất cả các học sinh thực hành được các mục tiêu học tập. Blum cho rằng :"Con đường cơ bản của cá nhân hoá là con đường lựa chọn học sinh theo khả năng trí tuệ vào những kiểu trường và lớp khác nhau". Sự thích ứng nhanh việc học tập với trình độ phát triển của mỗi học sinh nhờ sự giúp đỡ của phương pháp dạy học "cá thể hoá" được thừa nhận là rất quan trọng trong lập luận của một nhà giáo dục khác là Ganê. Ông cũng cho rằng để đạt được mục tiêu dạy học "cần phải chú ý đến trình độ học sinh đã đạt được và hướng dẫn một cách chi tiết hoạt động học của học sinh đó".(T1) Có thể nói dạy học phân hoá ở Mỹ được tiến hành khá phổ biến trong các trường tiểu học trên khắp nước Mỹ. Đây là một cách góp phần đào tạo nên rất nhiều thế hệ người tài cho quốc gia phát triển vào bậc nhất thế giới này. Song song với việc nâng cao trình độ đào tạo chung cho toàn thể học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 sinh thì quan điểm dạy học phân hóa vẫn được duy trì và củng cố. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ XIX - XX, ở Mỹ đã hình thành và phát triển mạng lưới trường tiểu học và thực hiện phân hoá dạy học. Đặc điểm nổi bật của các trường này là chương trình học tập đa dạng. Đây cũng là điểm đặc thù của các trường tiểu học Mỹ trong quá trình dạy học cho trẻ em tài năng. Sự phân hoá trong dạy học là một trong những cách để giải quyết vấn đề dạy trẻ tài năng. Phương pháp này giúp loại bỏ sự cào bằng tồn tại trong học tập có xu hướng "trung bình hoá" con người. Yêu cầu chú ý đến đặc điểm riêng của trẻ, phát huy tiềm năng sáng tạo của chúng và năng khiếu của chúng là một trong những yêu cầu của dạy học phân hoá. Hiện nay tính chất của sự phân hoá này có nhiều thay đổi. Việc chú trọng đặc biệt dành cho sự phân hoá theo năng lực. Tất cả học sinh trong lứa tuổi từ 7-16 phải học 1 trong 10 cấp độ. Trong mỗi nhóm tuổi có thể nghiên cứu tài liệu của môn học ở mỗi cấp độ khác nhau. Trẻ em tài năng có khả năng học tập ở những cấp học cao nhất. Ngoài ra còn 20% thời gian trẻ có thể dành cho việc nghiên cứu các môn học phù hợp với sở thích và nhu cầu đặc biệt của chúng, tạo điều kiện chuyên biệt hoá học tập. Mỗi một phần của chương trình học tập đều được đặt ra với những mục tiêu phù hợp với trình độ này hoặc trình độ khác. Tại mỗi bang khác nhau quy định số lượng cấp độ dạy học khác nhau. Học sinh tuỳ theo mức độ tài năng của mình để chuyển lên cấp trên một cách nhanh hay chậm. Một chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực tài năng là Casepơlan nhận xét rằng : "chương trình học tập đặc biệt cho trẻ tài năng" cần phải phản ánh những đặc điểm phân biệt giữa các em với những bạn có năng khiếu trung bình cùng độ tuổi. Như vậy có bao nhiêu điểm đặc biệt thì có bấy nhiêu dạng phân hoá trong dạy học. Nhưng các nhà nghiên cứu khác nhau đã miêu tả khác nhau những đặc điểm của trẻ tài năng và tính chất biểu hiện của những đặc điểm đó. Số lượng đặc điểm tương đối lớn, các dạng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 phân hoá ít hơn rất nhiều so với những đặc điểm đó thậm chí còn ít hơn các dạng tài năng của trẻ. Đa số các nhà nghiên cứu đều gặp nhau ở chỗ : Sự phân hoá trong dạy học cần được xây dựng dựa trên những đặc điểm cơ bản và chủ đạo của trẻ tài năng. Bao gồm: trình độ phát triển cao của tư duy, tính độc lập, không ỷ nại, ham muốn chỉ huy... ở Mỹ có hàng loạt các loại hình dạy học phân hóa hướng vào dạy học cho trẻ em tài năng trong các độ tuổi. Chúng ta chủ yếu xem xét một số khuynh hướng dạy học trẻ em tài năng ở những lớp dưới. Cụ thể có những dạng phân hoá theo các tiêu chí sau: 1. Phân hoá theo thành tích trong học tập (mức độ thành công trong học tập): Phân hoá theo phương án này được xem là đơn giản nhất của sự phân hoá. Nhiều giáo viên vẫn giữ quan điểm của mình và luôn khẳng định "trẻ em tài năng đó là những đứa trẻ thành công trong học tập (học sinh xuất sắc)". Từ đó xuất hiện việc xếp những học sinh giỏi vào một lớp, những em trung bình vào một lớp và những học sinh yếu vào một lớp thứ ba. Nếu nhận xét khách quan thì nhìn nhận trên đây cũng có cơ sở của nó vì về cơ bản nó đã đưa ra tiêu chí rõ ràng song cũng nảy sinh một vấn đề. Khi dạy học phân hoá theo cách này các nhà giáo dục đã dựa vào "cái đã được học" để đánh giá năng lực của trẻ trong khi người đối lập quan điểm này là các nhà tâm lý học, giáo dục học lại hướng tới "cái đang học". Tuy nhiên "cái đang học" lại rất khó để đưa vào chẩn đoán. Thành tích học tập tự nó vẫn chưa phải là yếu tố đảm bảo cho những năng lực trí tuệ cao. Điều này đã đưa các nhà nghiên cứu đến ý nghĩ cần thiết phải tìm kiếm sự liên kết những đặc điểm nhân cách nào đó chứng minh được trình độ năng khiếu chung, từ đó có thể xây dựng phương án cá thể hoá theo mức độ năng khiếu chung.(T6) 2. Phân hoá theo năng lực chung: Dạng phân hoá này trong dạy học nó được thể hiện ở cách hiểu liên quan đến năng lực chung của học sinh. Điều cốt yếu của quan điểm dạy học này là ở hệ thống kiểm tra Test. Kết quả của quan điểm này là nhiều trường Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 chuyên dành cho trẻ em tài năng đã được thành lập. Luận điểm cơ bản của quan điểm phân hoá này dựa trên ý tưởng rất đơn giản " Sự khác biệt về chất của trẻ em tài năng so với những đứa trẻ bình thường cùng lứa tuổi cũng lớn như sự khác biệt giữa những đứa trẻ tài năng với những đứa trẻ kém phát triển về trí tuệ. Bởi vì có trường dành cho trẻ thiểu năng thì cũng cần có trường dành cho trẻ tài năng". Về quan điểm dạy học phân hoá này đã được các nhà giáo dục học Mỹ (E.Biono, Xixco) phân tích và chỉ ra một số khiếm khuyết: khái niệm chung " tài năng" chưa rõ ràng, độ tin cậy của phương pháp luận về đồng nhất tài năng chưa đầy đủ và điều quan trọng nhất về mặt thực tiễn là hoàn toàn thiếu những lý luận thoả đáng về sự dự báo phát triển của tài năng.(T6) 3. Phân hoá theo chuyên môn: Dạy cho trẻ em tài năng Ý tưởng về các trường chuyên tương đối phổ biến trên toàn thế giới, mặc dù còn nhiều vấn đề cần phải khắc phục vẫn chưa được tìm ra hoặc rất khó để khắc phục. Cơ sở lý luận của quan điểm dạy học này là lý luận chưa đánh giá hết quan niệm về tài năng như : Liên kết đặc điểm cá nhân, phủ nhận khả năng xác định mức độ tài năng chỉ dựa vào đặc trưng về chất của tài năng đó. Trẻ "tài năng" được xếp vào nhóm "mạnh" trong dạy học. Chương trình học có thể đưa ra những yêu cầu cao hơn so với các nhóm còn lại. Sự phân hoá mang những đặc trưng riêng tạo cho quá trình dạy học trong nhà trường tiểu học ở Mỹ nói chung và qúa trình đào tạo trẻ tài năng trong nhà trường tiểu học nói riêng mang tính cá biệt so với các môi trường dạy học của các nước trên thế giới. Trong giới hạn của mỗi bộ môn khi áp dụng dạy học phân hoá có thể lựa chọn các phương án và vấn đề khác nhau tuỳ theo năng lực và nhu cầu của những nhóm học sinh nhất định. Trong những năm gần đây nhằm mục tiêu nâng cao hệ thống định hướng, ở Mỹ đã xuất hiện khuynh hướng học tập của các nhóm trẻ "cơ động" với những khả năng hỗn hợp. Học sinh có thể tạm thời tập hợp thành lớp, giải tán và thành lập lớp mới theo yêu cầu của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 bài học, môn học hoặc sở thích cá nhân và cũng có thể sử dụng phương pháp được chú ý nhiều nhất là thành lập các nhóm hoặc cá nhân Trong hệ thống giáo dục của Mỹ có rất nhiều kiểu trường lớp khác nhau cho học sinh tài năng. Ví dụ "các trường từ tính", "các lớp học danh dự", "trường học không chia độ", "các lớp học học hỗn hợp"...v.v...(T6) *Trường học không chia độ: Trong lĩnh vực tổ chức hình thức và phương pháp dạy học cho trẻ tài năng thì trường học không chia độ là loại hình trường phổ biến và mới được mở ra. Thực tế ý tưởng trường không chia độ không phải là mới, nó là sự phát triển của đề án cũ "Đantôn" và "Vinnhetca". Wiliam Ragan là chuyên gia lớn nhất của Mỹ về giáo dục tiểu học đã giải thích rõ ý đồ của trường học "không chia độ" bằng cách thức sau: "Giúp cho mỗi học sinh lớn lên tương quan với tư chất nội tâm của nó mà không làm mất khả năng học tập của học sinh có năng lực, giúp cho học sinh đó học như khả năng và nỗ lực của nó cho phép và không bắt buộc học sinh yếu phải căng ra trước những yêu cầu đòi hỏi vượt quá sức". Hệ thống "không phân chia độ" thường được áp dụng ở 3 năm học đầu tiên, mặc dù có những trường chỉ tồn tại 6 năm. Chương trình học được phân thành 8 - 12 cấp độ (levels). Học sinh tiến hành hoạt động tự học trong những nhóm nhỏ được hình thành từ những trẻ em có cùng năng lực. Học sinh có thể chuyển sang cấp độ sau ngay sau khi hoàn thành chương trình của cấp độ trước mà không cần phải đợi các học sinh khác. Như vậy, với học sinh có năng lực có thể hoàn thành chương trình 3 năm sau 2 năm và chuyển lên khoảng trung gian của trường tiểu học (năm thứ 4, 5, 6 của chương trình học) trong một số trường hợp cũng không phân chia độ. Đối với học sinh khác sự chuyển cấp độ có thể mất 4 năm hoặc lâu hơn. Khi miêu tả trường học "không chia độ" như một dạng tổ chức học tập hiện đại đáp ứng các yêu cầu của tâm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 lý học, các tác giả của cuốn sách "Cá thể hoá dạy học ở trường tiểu học" đã chỉ ra những ưu điểm của phương pháp này là đã làm biến mất các khái niệm " học kém"," lưu ban". Trung tâm của phương pháp này là cá nhân với các đặc điểm riêng của mình. Trường học "không chia độ đã kéo theo rất nhiều thay đổi và ngay cả trong cấu trúc xây dựng trường. Không gian lớp học không còn bị bó hẹp trong những bức tường, học sinh có thể học tập trung trong những phòng học lớn không còn những bức tường kiên cố mà thay vào đó là những tấm phên có thể gấp nếp và di động. Tại phòng học như thế này đồng thời có lúc có thể đến 100 đứa trẻ học tập với 4 - 5 thầy cô. Vẫn 1 đứa trẻ có thể học đọc với 1 thầy dạy ở "cấp độ 5", còn khi đến giờ hình học có thể chuyển sang góc kia của phòng để học với thầy ở "cấp độ 3". Học sinh cũng có thể tiến hành hoạt động tự học theo các nhóm nhỏ dưới sự theo dõi của giáo viên. Trong một số giờ học như giờ nghiên cứu xã hội, giờ nhạc, hát thì bọn trẻ có thể học cùng nhau.(T6) Việc sử dụng các phương pháp phân hoá trong nội bộ trường nghĩa là phân chia học sinh trong phạm vi trường học đó chiếm một vị trí đặc biệt trong nền giáo dục của Mỹ. Có 2 dạng phân hoá: Phân hoá ngoài (chia học sinh có cùng đặc điểm thành các nhóm, lớp, khoá). Phân hoá trong (sử dụng các phương pháp dạy học khác nhau trên lớp với học sinh của 1 lớp). Trong các lớp học người ta sử dụng 2 hình thức phân hoá chính là theo năng lực và theo sở thích. Trong trường hợp thứ nhất tiêu chí cơ bản để phân chia thành các nhóm là thành tích học tập. Học sinh được phân theo các nhóm hoặc là phụ thuộc vào thành tích học tập của tất cả các môn học hoặc là của từng môn cụ thể. Phân hoá theo sở thích nhờ việc đưa vào kế hoạch học tập các môn học lựa chọn, làm việc theo nhóm, giới thiệu cho học sinh khả năng lựa chọn các vấn đề riêng trong giới hạn của 1 môn học. Phân tích các dạng cơ bản của dạy học phân hoá trong trường tiểu học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 35 của các bang khác nhau của Mỹ (Caliphoocnia, Phloriđa, Viếcghinia...v.v) chúng tôi làm rõ các hình thức hiệu quả nhất đảm bảo nhu cầu học tập của học sinh tài năng. - Một trong những hình thức dạy học là "Banding", hình thức này dựa trên cơ sở của việc phân chia tất các học sinh ở một lứa tuổi trong nhóm căn cứ vào mức độ trí tuệ. Trình độ trí tuệ được xác định nhờ các bài kiểm tra Test khả năng diễn đạt và tư duy có thể đo được năng lực học tập. Sau khi tốt nghiệp tiểu học, 25% học sinh được chuyển lên học ở "band" cao hơn (Top band); 50% học ở "band" trung (middle band) và 25% học ở "band" thấp (Bottom band). Mặt khác đây là một bước đi đảm bảo tốt nhất cho nhu cầu học tập của tất cả học sinh, nhưng việc học tập trong các "band" chủ yếu hướng cho học sinh trung bình, còn nhu cầu học cao hơn của học sinh tài năng chiếm 2 - 3% số học sinh trong lớp thì không đáp ứng hoàn toàn. - Hình thức thứ 2 đó là Streaming - chia thành các "nhóm": Đó là phương pháp "nhóm" theo năng lực, giống như chia thành Band. ở đây có rất nhiều nhóm khác nhau tạo nên khả năng làm các nhóm giống nhau hơn là các Band. Tuy nhiên phương pháp này chỉ được áp dụng trong trường tiểu học ở một số bang như : Phloriđa, New York còn chủ yếu nó được áp dụng trong trường phổ thông. Những trẻ em tài năng luôn luôn không tìm được chỗ của mình trong hệ thống này, vì thế tại một số trường người ta thành lập cho học sinh tài năng những nhóm đặc biệt, ở đó các môn học như tiếng Latinh, ả rập và một số môn khác được đưa vào dạy và học. Điều này đảm bảo cho việc học tập phát triển với tốc độ cao. - Phân tích các tài liệu cho thấy rằng nhu cầu học tập của trẻ tài năng được đảm bảo và có thể phát huy hiệu quả nhất ở hình thức thứ 3 đó là hình thức "Setting". Hình thức này chia học sinh thành các nhóm dựa trên cơ sở căn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 36 cứ vào thành tích học tập từng môn của học sinh. Các nhà giáo dục học Mỹ cho rằng "setting" có ưu điểm hơn các hình thức tổ chức học tập khác ở chỗ: Thứ nhất: Các giờ học với lớp học có cùng thành phần học sinh cho phép giáo viên xác định nội dung, hình thức và phương pháp giảng dạy phù hợp với trình độ năng lực của học sinh, đo được độ phức tạp của tài liệu học tập với trình độ đào tạo của mỗi học sinh. Thứ hai: Thành phần học sinh giống nhau khích lệ được mỗi học sinh nâng cao thành tích học tập của mình, tạo khả năng so sánh thành tích học tập của cá nhân mình so với thành tích của các học sinh khác có năng lực trong lớp. Thứ ba: Những trẻ tài năng mà năng lực của chúng được thể hiện không phải ở tất cả các môn sẽ có điều kiện phát huy tiềm năng của mình. Hình thức dạy học này là công bằng trong xã hội bởi vì nó được xây dựng trên cơ sở của sự khác biệt về năng lực trí tuệ. "Setting" là hình thức dạy học linh hoạt bởi vì theo kết quả của thành tích học tập 3 học kỳ học sinh có thể chuyển lên học ở "set" khác. "Setting" tạo điều kiện bộc lộ năng lực của tất cả trẻ em mà sự độc đáo của chúng ở một mức độ nhất định vẫn được duy trì trong lớp, bởi vì trong một số buổi học học sinh làm việc trong các nhóm "năng lực hỗn hợp". Một trong những điều kiện để thực hiện "setting" đó là có thời khoá biểu linh hoạt và sự tổ chức học tập mạch lạc. Trong hình thức học tập này mỗi học sinh có thời khoá biểu riêng của mình. Phân tích chương trình học tập ở một số bang như Oa-sinh-tơn; Caliphonia...có thể rút ra kết luận rằng ở các trường tiểu học Mỹ thường có sự thay đổi dạy học ở các nhóm "năng lực hỗn hợp". Các hình thức dạy học ở các nhóm năng lực tạo điều kiện thuận lợi để dạy trẻ tài năng thường được sử dụng. Thêm vào đó những ưu thế đặc biệt đã được mang đến bởi sự phân chia theo kết quả học tập từng môn. Khuynh hướng cơ bản của việc nâng cao hiệu quả dạy học trong các nhóm "năng lực hỗn hợp" ở trường tiểu học Mỹ là sự Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 áp dụng các phương tiện dạy học cá nhân khác nhau cũng như công việc của đội ngũ giáo viên trong nhóm. (T6) Như vậy, ở các trường phổ thông của Mỹ, nơi diễn ra sớm sự phân chia các nhóm học sinh trên cơ sở trình độ học tập của bậc tiểu học, đã thực hiện việc "cá nhân hoá" và "phân hoá" việc dạy - học. Khác với phương pháp học tập của các quốc gia, mỗi học sinh có khả năng tự chọn môn học và hiển nhiên mở rộng phạm vi quyền hạn về xã hội và giao tiếp cá nhân. Các quan điểm này xác định việc phát triển các phương thức hiện đại dạy trẻ tài năng ở các trường tiểu học của Mỹ. Trường tiểu học hiện đại đang đứng trước nhiệm vụ đã xác định xu thế và nguyên tắc hoạt động do các nhà giáo dục học và tâm lý học hàng đầu của Mỹ xác lập, đó là: 1. Trong các trường học không cần phải có chương trình thống nhất và những yêu cầu thống nhất với kiến thức của học sinh, bởi vì tất cả các học sinh đều có tư chất khác nhau, mức độ phát triển khác nhau vì thế mỗi học sinh đều có chương trình học tập riêng của mình. Những động cơ bên trong của việc học tập sẽ được phát hiện ra khi đứa trẻ thấy mối liên hệ của nó với sở thích và nhu cầu của mình. Việc học tập phải được xem như một quá trình của riêng cá nhân. 2. Trường học cần phải dạy cho trẻ em tự suy nghĩ độc lập, vì thế việc học tập cần phải dựa vào phương pháp có thể thôi thúc học sinh tìm tòi khám phá của riêng mình, không dung thứ cho việc nắm thông tin một cách máy móc. 3. Cần phải cải tổ phương thức học tập theo nguyên tắc lò so xoắn: Học sinh sớm làm quen với những ý tưởng và khái niệm khoa học cơ bản sau đó đến những khái niệm và ý tưởng ở mức độ cao và phức tạp hơn. 4. Cần phải thực hiện liên thông giữa các môn học giúp cho học sinh hiểu được mối liên quan qua lại giữa các lĩnh vực khác nhau của tri thức. Vì thế bên cạnh những môn học thuần tuý về lý luận cần phải đưa vào chương Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 trình học những vấn đề, những môn học có thể phá tan ranh giới giữa các môn học và dạy cho học sinh quan điểm liên thông các môn trong việc tìm kiếm cách giải quyết. (T6) Trong thời kỳ hiện nay, để đạt được mục tiêu đặt ra bởi các nhà giáo dục học Mỹ người ta sử dụng rộng rãi phương pháp cá nhân hoá phù hợp với khả năng và năng khiếu của học sinh khi mỗi học sinh nào đó theo phương pháp học riêng của mình với các chương trình dành cho trẻ tài năng. Sự phân tích nêu trên về xuất phát điểm tâm lý - giáo dục chỉ ra rằng: phương pháp dạy trẻ tài năng ở các trường tiểu học Mỹ luôn được phát triển và không ngừng hoàn thiện. Dù vậy các tổ chức xã hội của đất nước này vẫn luôn biểu hiện sự không hài lòng của mình với tình hình chung. Thứ nhất: Các phương tiện dùng cho các chương trình đặc biệt để dạy trẻ tài năng chưa đủ, các phương tiện do liên bang cung cấp cũng quá ít ỏi. Thứ hai: Không phải ở tất cả các bang đều có chương trình như thế và không phải ở tất cả các bang đều có yêu cầu cụ thể với các giáo viên làm việc với trẻ tài năng. Đa số các chương trình học tập đều không tính đến trẻ em tài năng có năng khiếu cả 24 giờ trong ngày và năng khiếu của chúng như một quy luật và được thể hiện trong một số phương diện. Các chuyên gia dạy dỗ trẻ tài năng ở Mỹ được phân thành 2 phái. Những người theo phái thứ nhất cho rằng trẻ tài năng có thể phát triển trong các trường bình thường với các phương pháp học tập riêng đã được ấn định bắt buộc. Phái thứ hai lại cho rằng tài năng của trẻ được bộc lộ đầy đủ hơn ở các trường chuyên hóa. Hiện nay phần lớn trẻ tài năng của Mỹ đang được học trong những trường bình thường nhưng theo chương trình đặc biệt được xây dựng khó hơn, phức tạp hơn rất nhiều so với chương trình thông thường. Phương thức đào tạo và hình thành tinh hoa và trí tuệ ở Mỹ được đảm bảo trước tiên bởi sự hoạt động của các cơ quan giáo dục các cấp. Các nguyên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 tắc hoạt động cơ bản là sự linh hoạt, nghĩa là khả năng nhanh chóng thích nghi với những nhu cầu thay đổi của cuộc sống, cá nhân hoá việc dạy học và sự tham gia của toàn xã hội vào đào tạo trẻ tài năng. Một trong những mũi nhọn của việc dạy học trẻ tài năng ở Mỹ là câu hỏi: Trẻ tài năng xuất hiện nhiều ở tầng lớp nào trong xã hội? Chủ tịch liên hiệp các nước toàn Châu Âu về giúp đỡ trẻ tài năng, nhà giáo dục học và tâm lý học nổi tiếng người Anh Phơrimen cho rằng luận điểm coi trẻ tài năng chỉ được sinh ra trong những gia đình có đặc quyền là một luận điểm không đúng. Phần lớn tài năng được phát triển khi trẻ em có nhiều khả năng để phát huy năng lực của mình. Trẻ em xuất thân trong những gia đình không khá giả thường không được nhận ra, không được phát huy đôi khi còn bị thui chột. Phiromen viết: " Nếu như chúng được giúp đỡ như con cái của các gia đình có đặc quyền thì thành tích của chúng trong cuộc sống cũng rất lớn lao".Quan điểm này cũng được khẳng định bởi sự nghiên cứu của nhà bác học Mỹ Blum. Tuy nhiên trong một số trường hợp tài năng được hình thành trong những môi trường không thuận lợi. (T6) Qua những tài liệu nghiên cứu trên có thể thấy rõ lịch sử phát triển của lý luận dạy học cho trẻ em tài năng ở Mỹ nói chung và tài năng trong nhà trường tiểu học nói riêng. Với những đặc trưng của nền văn hoá và nhu cầu tất yếu của sự phát triển, nước Mỹ đang dành sự quan tâm cho lĩnh vực phát triển tài năng, đã và đang là quốc gia sở hữu một nguồn tài năng con người vào bậc nhất thế giới. Sớm nhận thấy vai trò tiền đề trong sự phát triển của trẻ ở bậc tiểu học, Mỹ đã xây dựng chiến lược tìm kiếm, phát hiện và tiến hành đào tạo trẻ tài năng ngay từ tiểu học bằng các phương pháp dạy học phân hoá giúp trẻ có cơ hội bộc lộ năng lực riêng của bản thân trong các lĩnh vực. Trên cơ sở đó tiếp tục đưa vào giảng dạy các chương trình được xây dựng đặc biệt giành riêng để đào tạo lớp trẻ có năng khiếu cao. Cho đến thời điểm này Mỹ đã chứng minh được hiệu quả to lớn trong công tác đào tạo lớp người tài năng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 thể hiện thông qua sự phát triển mạnh mẽ của những thành tựu trong các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật. 3. Tìm kiếm, phát hiện và tuyển chọn trẻ tài năng trong hệ thống giáo dục tiểu học của Mỹ Tìm kiếm, phát hiện và kích thích sự phát triển tài năng của trẻ là một chức năng quan trọng của trường Tiểu học Mỹ. Bộ Giáo dục và khoa học, các uỷ ban, ban ngành của chính phủ, nhiều trường Đại học và cao đẳng đều tham gia vào công tác tổ chức tìm kiếm trẻ tài năng một cách đa dạng và tổng thể. Ban hành những quy định đặc biệt về lĩnh vực tâm lý - giáo dục, thành lập những tổ chức xã hội và các quỹ tạo sự giúp đỡ đáng kể cho học sinh, giáo viên, phụ huynh giúp định hướng con người và phát hiện tài năng. Sự tương hợp tối ưu giữa những chương trình học tập cụ thể với nhu cầu của nhóm người được xác định chính là mục đích của phương pháp tìm kiếm trẻ tài năng trong nhà trường tiểu học Mỹ. Quan điểm có uy tín trong việc tìm kiếm trẻ tài năng ở Mỹ là sự áp dụng các phương pháp đa dạng trong tuyển chọn sơ bộ trẻ em và sự theo dõi thường xuyên thành tích của trẻ khi bắt đầu được tuyển vào nhóm. Trong điều kiện nếu như trẻ không đạt được các tiến bộ rõ rệt trong học tập hoặc không chú tâm học tập thì trẻ sẽ được chuyển sang lớp khác phù hợp với nhu cầu và năng lực của trẻ hơn. Nếu như chương trình được tiến hành trong các lớp thường thì nhà giáo dục có thể đơn giản dừng những giờ học theo chương trình đặc biệt với đứa trẻ này. Theo quan điểm này việc soạn thảo phương pháp hiệu quả tìm kiếm tài năng có tính kinh nghiệm còn chương trình được giải quyết nhờ sự theo dõi liên tục thành tích của trẻ. Việc phân tích phương pháp tìm kiếm ở các bang Caliphoocnia, Philađenphia, Phlorida và các bang khác đã chỉ ra rằng: Hiện nay phương pháp coi sự theo dõi thường xuyên - nguyên tắc "Cửa quay" là phương pháp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 hiệu quả hơn cả. Theo quan điểm này nhóm dự tuyển rộng lớn được bao trùm bởi chương trình. Trẻ em được đưa vào hoặc đưa ra khỏi chương trình học tập ở những thời điểm khác nhau của năm học phụ thuộc vào hứng thú và thành tích của chúng trong giới hạn của chương trình cũng như ngoài giới hạn đó. Trong việc phát hiện trẻ tài năng ở Mỹ các nhà biên soạn chương trình dựa vào thủ tục tìm kiếm, các chương trình học tập đặc biệt xuất phát từ quy định nội dung học tập dành cho tài năng. Có 2 quan điểm cơ bản về quá trình hình thành tài năng, quan điểm thứ nhất căn cứ vào hệ thống đánh giá duy nhất, còn quan điểm thứ hai dựa vào hệ thống đánh giá tổng thể. Ví dụ, theo hệ thống đánh giá duy nhất là mỗi đứa trẻ cần phải đạt được hơn 135 điểm theo thang của Standford - Binet. Trong những năm gần đây, tương ứng với những chương trình hiện đại là quan điểm phát hiện trẻ tài năng trên cơ sở của hệ thống đánh giá toàn bộ. Trên cơ sở các thể thức đánh giá nhiều mặt, trong đó có kết qủa của các bài thử nghiệm nhóm, sự tiến cử của giáo viên, một nhóm dự tuyển được ấn định. Đứa trẻ phải đưa ra một kết quả cao trong ba dạng đánh giá bất kỳ hoặc phải đạt được một tổng điểm đã được ấn định theo thang điểm của Standford - Binet trong đó có tính đến ý kiến của uỷ ban tuyển chọn. Khi tiến hành đánh giá toàn bộ các nhà giáo dục học Mỹ đã khẳng định rằng: "Những nhận xét có được, các phương thức và tiêu chí tuyển lựa cần phải dựa vào sự tương xứng một cách thực tế giữa chương trình đặc biệt được đưa ra với nhu cầu và năng lực của trẻ em đã được tuyển chọn vào đánh giá". Trong giai đoạn hiện nay, để mở rộng lý luận và thực tiễn của khái niệm "tài năng" và vấn đề phát hiện trẻ tài năng trong các nhóm khác nhau trong các tầng lớp nhân dân cần phải hoàn thiện các phương pháp truyền thống đang được sử dụng để phát hiện tài năng trẻ. Sự áp dụng một cách truyền thống các bài thể nghiệm về năng lực trí tuệ và sáng tạo của trẻ em Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 cũng như thể nghiệm đánh giá thành tích của chúng có thể cần phải sử dụng bổ xung các thang đánh giá do giáo viên điền vào, các thông tin từ các bậc cha mẹ, những số liệu theo dõi và các bài thử nghiệm đã hướng dẫn về tiêu chí. Trong quá trình nghiên cứu cần lưu ý rằng việc phát hiện tài năng là một quá trình tương đối dài gắn với quá trình phát triển của trẻ tài năng và thực hiện thành công không chỉ bằng một lần thử nghiệm. Trong việc phát hiện trẻ tài năng ở những lớp dưới của bậc tiểu học ở Mỹ người ta sử dụng phương pháp sau: 1. Các phương pháp quy chuẩn hoá đo trí tuệ : Theo thang đo trí tuệ của Standford - Binet; thang đo trí tuệ của Vêxnherôpxki dùng cho trẻ em sắp đến tuổi đi học và học sinh lớp dưới; bài thử nghiệm Test của Xlôcxon để đo trí tuệ của trẻ em và người lớn.... 2. Các bài thử nghiệm test đã quy chuẩn hoá đo thành tích: Bài thử nghiệm test nhà nước cho trẻ chuẩn bị tới trường mức I; Bài thử nghiệm Standford - binet đo thành tích cho trẻ tiểu học mức I; Bài thử nghiệm dự bị chung mức I...v.v 3. Các bài thử nghiệm test đã qua chuẩn hoá đo sự vận động phát triển: Bài thử nghiệm đo kỹ xảo vận động cơ bản, bài thử nghiệm đánh giá sự phối hợp nhìn - vận động... 4. Các bài thử nghiệm đã quy chuản hoá đánh giá sự phát triển về mặt xã hội: Thang đo của Caliphoocnia về sự hiểu biết xã hội của trẻ sắp đến tuổi đi học và học sinh lớp dưới; Thang đo sự trưởng thành về mặt xã hội...(T6) Sự phân tích năng lực của trẻ em lứa tuổi nhỏ của tiểu học có tính phổ biến rộng rãi trong việc phát hiện tài năng ở Mỹ nhờ các bài thử nghiệm có tính định hướng quy chuẩn. Sự khác biệt của các bài thử nghiệm này so với các phương pháp cổ điển là ở chỗ nhiệm vụ của các bài thử nghiệm này không phải là đánh giá năng lực của trẻ bằng cách so sánh chúng với các kết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43 quả lấy riêng của những người đồng tuổi bởi vì mục đích cơ bản là xác định mức độ nắm vững các khái niệm và kỹ năng, chỗ dựa cơ bản để đánh giá là xem trẻ biết làm cái gì và biết những gì? Phương pháp trên cho phép người giáo viên theo dõi quá trình phát triển của đứa trẻ là nguồn gốc đáng giá của thông tin khi so sánh chương trình học tập cá nhân của mỗi đứa trẻ. Một công cụ quan trọng nữa để phát hiện trẻ tài năng ở Mỹ đó là sử dụng các thang đánh giá và ghi chép, kiểm tra theo dõi. Phương pháp quan sát và thang đánh giá trên cơ sở các thông số đã được ấn định là một trong những phương pháp được sử dụng phổ biến ở Mỹ trong việc xác định tài năng của trẻ. Thực tế chỉ ra rằng nếu những giáo viên có đủ kinh nghiệm trong việc dùng các thang đánh giá đặc biệt này thì ý kiến của họ có thể coi là cơ sở đáng tin cậy của thông tin trong quá trình phát hiện sớm tài năng của trẻ. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu theo dõi sự chính xác giữa những đánh giá do cha mẹ cung cấp và giữa các kết quả thử nghiệm về trí tuệ giữa các học sinh lớp dưới. Những nghiên cứu này nói lên rằng: "Những bản ghi chép kiểm tra do cha mẹ viết hoàn toàn có thể được sử dụng như những thông tin có giá trị về những năng lực trí tuệ của trẻ". Như vậy những đánh giá của những người quan sát lớn tuổi có tiếp xúc chặt chẽ và thường xuyên với đứa trẻ, có kinh nghiệm sử dụng các thang đánh giá, biết xác định câu trả lời và phản xạ của đứa trẻ, biết nhận xét một cách rõ ràng nhất tài năng là những đánh giá khách quan nhất. Trong các trường Tiểu học Mỹ người ta sử dụng rộng rãi những bản tự khai và trưng cầu ý kiến khác nhau đối với người lớn cũng như trẻ em nhằm mục đích phát hiện mức độ và tính chất năng lực của học sinh, mối quan tâm và sở thích của chúng. Ví dụ: Thang đánh giá đặc thù tài năng của trẻ; Bản mẫu đánh giá tài năng trong đề án "RAPYHT"; Bản thăm dò dư luận đối với cha mẹ trong đề án "Seattle"...v.v (T6) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44 Việc điền vào tờ khai là bắt buộc khi chuyển từ trường này sang trường khác ở Mỹ. Chúng tôi xin đưa ra một số mẫu tờ khai dành cho cha mẹ của tác giả F.Vecnon: 1. Tên đứa trẻ 2. Giới tính, lứa tuổi 3. Tên trường 4. Lớp 5. Những tính chất nào cho phép ông bà kết luận rằng đứa trẻ có năng khiếu trên mức bình thường? Hãy chọn một vài điểm được liệt kê dưới đây hoặc có thể thêm vào những điểm khác nếu ông bà muốn: a, Nói lưu loát và ghi nhớ những từ khó ở lứa tuổi 2 b, Học đọc trước 5 tuổi c, Bộc lộ sự hiểu biết khác thường về những vấn đề và ý tưởng không tương ứng với lứa tuổi. d, Bộc lộ những kiến thức trong nhiều lĩnh vực và có trí nhớ tốt. e, Có năng khiếu tưởng tượng khác thường. f, Biểu hiện sáng kiến trong khi vui chơi cũng như học tập. g, Nói rằng ở trường rất buồn vì quá đơn điệu. h, Luôn nhận được sự đánh giá cao. Hãy chỉ ra một số tính chất khác nữa: 6. Bao nhiêu giờ trong tuần (không tính ở trường) nó dành cho việc đọc? 7. Trẻ say mê cơ bản trong việc đọc với loại sách, tạp chí hay báo nào? 8. Trẻ say mê và có sở thích đặc biệt nào? ( Sưu tầm, vẽ mẫu, chụp ảnh, hội hoạ...) 9. Ông bà làm gì nhằm mục đích phát huy tài năng và những hứng thú đặc biệt ở trẻ? Hãy kiểm tra theo các mức độ cho dưới đây: a, Cung cấp sách để nâng cao trình độ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45 b, Đảm bảo phương tiện để học các môn khoa học tự nhiên, hình mẫu, vẽ... c, Đưa chúng đến thư viện địa phương. d, Tổ chức những bài học nhạc. e, Tổ chức những cuộc tham quan của gia đình đến viện bảo tàng hoặc triển lãm. f, Tạo điều kiện để đứa trẻ thường xuyên được xem những buổi truyền hình nghiêm túc hơn là xem những bộ phim trinh thám, thể thao hay các chương trình hài. g, Giúp trẻ hoàn thành công việc nội trợ. h, Dạy trẻ học toán, các môn khoa học tự nhiên, ngoại ngữ ở trình độ cao hơn. y, Đi nghe hoà nhạc hay xem những bộ phim hay. k, Thảo luận cùng đứa trẻ về những sự kiện thế giới. 10. Ông bà, Chồng (bà), Vợ (ông) có những say mê hoặc tài năng gì có thể có ích trong hoạt động nhóm với trẻ tài năng? Những bản khai trên đây đã giúp nhiều cho việc phát hiện tài năng, bởi vì chúng bổ xung cho sự theo dõi của giáo viên, làm cho giáo viên quen với năng lực phát triển của học sinh, với hứng thú, với hoàn cảnh gia đình, truyền thống gia đình, cho phép giáo viên đưa ra kết luận về trình độ và tính chất năng lực của học sinh.(T1+T6) Khi phát hiện trẻ tài năng các nhà bác học Mỹ nhấn mạnh rằng "không một bài thử nghiệm hoặc một phương pháp quan sát nào có thể cố giành được vai trò đặc biệt trong quá trình phát hiện trẻ tài năng. Độ tin cậy và tính khách quan của quá trình này tỉ lệ với khối lượng thông tin thu thập một cách tương đối từ đứa trẻ". Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46 Những chứng minh cụ thể đã nêu trên về tiểu sử chỉ ra rằng đặc điểm về hoạt động đời sống của đứa trẻ là rất quan trọng. Sau khi thu thập những thông tin đó có thể tiến hành việc phân tích toàn diện làm cơ sở cho việc so sánh các chương trình học tập khi phát hiện trẻ tài năng. Mỗi chương trình cần được định hướng bởi một hệ thống các phương pháp phát hiện tài năng riêng. Ví dụ, phương pháp tìm kiếm được soạn thảo ở trường Đại học tổng hợp bang Ilinoi - Mỹ: (phương pháp này cũng được áp dụng ở nhiều bang khác như: Caliphonia, Philađenphia, Phloriđa...) quá trình phát hiện tài năng gồm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: Tìm kiếm nhờ các thông báo rộng rãi cho tất cả các bậc cha mẹ trong một vùng cụ thể, các trẻ em vào nhóm học theo một chương trình đặc biệt. Giai đoạn 2: Thể thức đánh giá: Các bậc cha mẹ được yêu cầu điền vào các bản thăm dò ý kiến, trong đó có chứa những câu hỏi có liên quan đến năng lực và hứng thú của đứa trẻ. Đồng thời nhà tâm lý học cũng tiến hành cuộc thử nghiệm cá nhân với đứa trẻ. Như vậy thông tin về trình độ phát triển năng động sáng tạo và trí tuệ của đứa trẻ được rút ra từ 2 nguồn độc lập : từ cha mẹ của trẻ và từ các chuyên gia đã tiến hành thử nghiệm riêng với đứa trẻ. Giai đoạn 3: Tuyển chọn. Hội đồng tuyển chọn phân tích kết quả nghiên cứu và thành lập các nhóm. Mục đích của giai đoạn này là lựa chọn thành phần học sinh phù hợp nhất với việc học tập theo chương trình đặc biệt. Hơn nữa cần phải đảm bảo sự bao trùm bởi chương trình này đối với tất cả trẻ em thuộc nhiều chủng tộc khác nhau, các tộc người và của các tầng lớp kinh tế - xã hội khác nhau cũng như sự tương ứng về số lượng trẻ em cùng tuổi và giới tính. Quá trình tìm kiếm và phát hiện trẻ tài năng kéo dài từ 2-3 tháng. Kết quả của quá trình này là việc hình thành các nhóm học sinh nhỏ tuổi để học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47 theo chương trình mà xu hướng đặc thù của nó cho phép chúng phát huy tài năng của mình. Dưới đây là mô hình về những nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng phương pháp phát hiện trẻ tài năng do các nhà nghiên cứu Mỹ đang áp dụng: (T6) Những nguyên tắc cơ bản xây dựng phương pháp phát hiện trẻ tài năng: 1. Có định nghĩa rộng và có tính ứng dụng thực hành về khái niệm tài năng. 2. Vạch ra kế hoạch và chương trình học tập cho trẻ tài năng chưa đến tuổi đi học 3. Vạch ra được các hình thức đánh giá: a, Xác định được các chức năng được đánh giá b, Xác định toàn bộ kiến thức cần đánh giá 4. Vạch rõ các tiêu chí tuyển chọn. 5. Đảm bảo tính hiệu quả của tìm kiếm và phát hiện trẻ tài năng. Cần phải thấy rằng sự đánh giá năng lực sáng tạo ở Mỹ là một thành phần quan trọng trong quá trình phát hiện tài năng của trẻ. Hiện nay sự đánh giá năng lực sáng tạo về cơ bản được tiến hành trên cơ sở các phương pháp của Tôrenxơ. Đó là những bài thử nghiệm về tư duy sáng tạo hình ảnh và tư duy sáng tạo bằng lời, năng lực sáng tạo trong hành động và cử chỉ. Một điều quan trọng của việc phát hiện tài năng trẻ trong các nhà trường tiểu học của Mỹ đó là xây dựng các tình huống sáng tạo trong học tập, bởi vì chỉ trong điều kiện đó mới xuất hiện khả năng thể hiện năng lực của trẻ trong những dạng hoạt động khác nhau. Những tình huống như vậy rất cần cho sự phát triển năng lực không chỉ cho trẻ tài năng mà đa số trẻ em. Nhà giáo dục học, nhà tâm lý học, biên tập tạp chí "Giáo dục trẻ tài năng trên thế giới" B. Iônix đã nghiên cứu điều kiện này rất tỉ mỉ. Bà nhận xét rằng : "Đối với ngữ cảnh sáng tạo mà trong đó mỗi đứa trẻ được đánh giá theo sự đóng góp mà nó đã làm thì điều quan trọng là sự kích thích tò mò của học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48 sinh, phát triển nhu cầu của chúng, nâng cao động cơ, tự do nói và hành động, khi học sinh không sợ nói và làm một cái gì đó vượt ra ngoài giới hạn của chương trình học tập đã được quy định một cách ngiêm ngặt". Theo quan điểm của nhà nghiên cứu Mỹ C.Cuperơ: " Giáo dục trẻ tài năng sẽ không trở thành tinh hoa nếu sự giáo dục này không liên kết với chương trình phổ thông". Kinh nghiệm hoạt động của chính tác giả với tư cách là nhà quản lý giáo dục phổ thông khu Pac - vây (Bang Mitsuri) đã chứng minh cho quan điểm trên. Tác giả này cũng đưa ra nhận định là ở đứa trẻ những năng lực khác thường hôm nay không thể xác định bằng các phương pháp cổ điển của cuộc thử nghiệm chỉ số IQ. Có 2 sự khác nhau căn bản trong chỉ số xác định trẻ tài năng so với các phương pháp thử nghiệm kiểu truyền thống: - Mức độ cần thiết của tính chất dành cho lao động sáng tạo, sự hiện diện một phía của nó không xác định được tư chất tài năng. - Những nhiệm vụ ở trường phải tạo khả năng cho học sinh thể hiện những đặc điểm dưới dạng khác thường đặc biệt. Giáo viên đã được xác định cần phải theo dõi xem học sinh có tương xứng với việc giải quyết vấn đề bằng con đường cần thiết hay không? Học sinh có nắm được kiến thức của chương trình bậc cao hơn hay không? Có biết sử dụng kiến thức đó hay không? Điều này xuất hiện nhu cầu là phải lôi cuốn được nhiều giáo viên vào trong quá trình này để có thể thu được những đánh giá khách quan hơn. Phương pháp chủ yếu phát hiện tài năng của trẻ trong điều kiện có ngữ cảnh sáng tạo trong lớp học được nhiều nhà giáo dục học thừa nhận đó là "quan sát" mà "sự quan sát chăm chú và tinh tế từ phía người giáo viên cùng với bầu không khí tạo khả năng bộc lộ tính cá nhân là yêu cầu đầu tiên của việc phát hiện tính chất đặc biệt của đứa trẻ". Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 Sự tiến hành quan sát thành thạo và khéo léo sẽ tạo cho người giáo viên nắm được một cách chính xác những tính chất biểu hiện sớm của tài năng. Các nhà giáo dục học Mỹ coi trình độ cao về trí tuệ chung của học sinh cần phải được xác định nhờ các bài kiểm tra thử nghiệm Test về mặt trí tuệ, đây được coi là tính chất cơ bản của tài năng đồng thời nó cũng là tính chất còn đang tạo ra sự tranh luận nhiều nhất. Họ nhấn mạnh rằng "tài năng không bị giới hạn và không chỉ được xác định bởi trí tuệ cơ bản mà là tổng hợp của 3 thành phần: năng lực trí tuệ chung; những nét đặc thù về tính cách của đứa trẻ; sự nhạy bén và năng động. Nhiều nhà nghiên cứu cũng coi tính ham hiểu biết của trẻ cũng là một đặc điểm quan trọng của tài năng. Phát triển tính tò mò, ham hiểu biết của trẻ, năng khiếu với những câu hỏi phỏng vấn phụ thuộc vào môi trường, đặc biệt phụ thuộc vào bầu không khí trong gia đình, ví dụ : thái độ của các thành viên trong gia đình trước những câu hỏi của trẻ. Nhà nghiên cứu người Anh N.Tempec khẳng định rằng vấn đề cơ bản không phải ở số lượng câu hỏi mà là chất lượng và tính chất của các câu hỏi: "Chính chất lượng của câu hỏi, độ sâu sắc của ý nghĩ đã nhắc cho ta biết năng lực trí tuệ của đứa trẻ". Số lượng của từ cũng như việc biết đọc nhanh và sớm là một đặc điểm của trình độ cao của năng lực. Những đứa trẻ có sự phát triển cao năng lực lời nói về cơ bản xuất thân trong những gia đình khá giả, nơi có điều kiện tốt cho trẻ chuẩn bị đến trường. Trong các gia đình này cha mẹ thường có điều kiện đầu tư về đồ chơi, sách vở và mọi người thường quan tâm trò chuyện với trẻ. Những đứa trẻ này thường trải qua các cuộc thử nghiệm rất tốt. (T6) Trong tình hình hiện nay, vấn đề có tính thời sự cấp thiết đó là phải dạy cho giáo viên phương pháp phát hiện tài năng của trẻ. N.Tempec coi việc đọc sách hướng dẫn là một dấu hiệu của tài năng, bởi những trẻ tài năng thường Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 có sở thích với một lĩnh vực tri thức nào đó ngay từ thời thơ ấu. Sự nhanh nhẹn của đứa trẻ tài năng được thể hiện ở việc tìm ra một cách nhanh chóng câu trả lời cho câu hỏi của giáo viên. Trong những giờ thảo luận trẻ có thể phát hiện ra lỗi của giáo viên, có biểu hiện không muốn thua kém thầy cô của mình về trình độ trí tuệ. Đặc điểm tư duy nổi bật của đứa trẻ tài năng đã được phát hiện bởi X.Bơrigiex. Đặc điểm này thể hiện trong "sự nhảy vọt qua các mức độ" trong tư duy. Là người đầu tiên tìm ra vấn đề này hay vấn đề kia nhưng đứa trẻ tài năng khi anh yêu cầu nó, nó vẫn sẽ không thể giải thích được các bước giải quyết vấn đề đó. Phản ứng của giáo viên trong trường hợp này thường là tiêu cực bởi vì giáo viên không thể hiểu rằng đứa trẻ tài năng đơn giản không nhận ra các mức độ và các bước tiến hành vì nó đâu cần chúng. Nhịp độ học tập bình thường của học sinh trung bình dường như quá chậm đối với học sinh tài năng. Học sinh tài năng khác với học sinh trung bình ở chỗ chúng không cần có sự ôn tập thường xuyên, điều này làm mất đi hứng thú của chúng đối với việc học tập, làm chúng buồn chán. Thường trẻ tài năng suy nghĩ nhanh hơn là viết vì thế viết có thể không cẩn thận và điều này có thể làm giáo viên không thiện cảm với chúng. Trong nhiều nghiên cứu về tâm lý giáo dục ở Mỹ sự quan tâm đặc biệt dành cho việc nghiên cứu một đặc điểm của trẻ tài năng được biểu hiện ở "chiều sâu, chiều rộng và sự rõ ràng của tri giác cũng như ở sự mẫn cảm cao. Trẻ tài năng đặc biệt cảm thấy cả sự chân thực, cả điều giả tạo trong hành vi của giáo viên và không phải ngẫu nhiên trong số những học sinh có thái độ quá tiêu cực với trường học ta lại gặp những học sinh tài năng".(T1+T4) Trẻ tài năng khác nhau về thể chất và những đặc điểm nhân cách. Trong tâm lý và giáo dục ở Mỹ một học sinh tài năng đó là "một người mạnh mẽ không cần những vấn đề đặc biệt về tình cảm, là một người không chỉ có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 năng lực trí tuệ cao mà còn có cả một sức mạnh thể lực". Đối với trẻ tài năng sự say mê một công việc, sự tập trung cao độ để hoàn thành công việc, sự thờ ơ hoàn toàn với xung quanh. Không có một sự ồn ào nào của bạn bè trong giờ giải lao, không một bản nhạc nào, không một cái gì gây cản trở cho nó là những đặc tính của trẻ tài năng. Nhiều học sinh tài năng có những cuộc ganh đua trong học tập, chúng bị lôi cuốn vào việc muốn đứng đầu trong lớp, trong trường. Khi tồn tại trong một nhóm với nhiều trình độ trí tuệ khác nhau ở những học sinh tài năng có thể xuất hiện sự thích khoe mẽ. Một số nhà giáo dục xem đó như một cách để dạy học riêng biệt. Một tính chất phổ biến cao của học sinh tài năng đó là năng lực sáng tạo. Năng lực sáng tạo theo quan điểm của các nhà tâm lý học đó là những năng lực chủ yếu của trí tuệ, có thể được phát triển bằng con đường thực hành tương ứng. Sự kết hợp tính linh hoạt, độc đáo và mẫn cảm với những ý tưởng cho phép người đang suy nghĩ tách ra khỏi những tư duy lặp lại thông thường, sử dụng các phương thức và cách giải quyết hiệu quả khác mà kết quả của nó làm thoả mãn người suy nghĩ và có thể thoả mãn cho cả những người khác. Những đứa trẻ có năng lực sáng tạo cao thường không được các nhà nghiên cứu Mỹ đánh giá đầy đủ và có khi chúng bị rơi vào nhóm những đứa trẻ kém năng lực bởi vì trong trường thường chú trọng hơn việc đánh giá năng lực ghi nhớ và tái hiện những điều đã học. Những phẩm chất của con người thể hiện trong quá trình hoạt động là rất quan trọng đôi khi còn là một bộ phận xác định tài năng. "Những năng lực trí tuệ có thể được xác định về lý thuyết, từ những đặc điểm của nhân cách bởi vì mức độ thể hiện năng lực không chỉ phụ thuộc vào năng khiếu bẩm sinh, vào những nhân tố tác động giáo dục có mục đích mà còn phụ thuộc vào chính nhân cách đang phát triển. Trong thực tế rất khó để xác định cái gì có ý nghĩa quyết định Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 trong việc hình thành năng lực của học sinh: bản chất phong phú bẩm sinh, môi trường thuận lợi hay sự kiên trì, yêu lao động, chăm chỉ. Tất cả những cái đó liên quan chặt chẽ với nhau rất khó có thể xác định mức độ đóng góp của chúng trong việc hình thành tài năng. Trên cơ sở phân tích những đặc điểm lớn của trẻ tài năng các nhà bác học đã tiến hành soạn thảo "những bài kiểm tra" phát hiện tài năng dùng rộng rãi cho các giáo viên và cha mẹ học sinh sử dụng trong quá trình làm việc thực tế với trẻ. Không phải trong các bài kiểm tra học sinh có thể bộc lộ tất cả những nét nhân cách đặc biệt của mình nhưng số lượng những nét đó phải buộc người giáo viên phải tiếp nhận các mức hình thành trình độ năng lực của học sinh. X. Lâyden, nhà tâm lý học đưa ra trong cuốn sách của mình một bài kiểm tra, trong đó chỉ ra những nét tương ứng mà trẻ tài năng phải có: - Có kiến thức rộng, thường hiểu biết nhiều hơn cả giáo viên và thường coi những cuốn sách hướng dẫn là quá đơn giản. - Nhanh chóng nắm vững thông tin và ghi nhớ nó, không cần ôn lại, trong trường hợp ngược lại thì bị rơi vào sự hấp tấp. - Rất ham hiểu biết và thường xuyên muốn biết nguyên nhân của hiện tượng này hay hiện tượng khác. - Hiểu tốt mối liên hệ giữa nguyên nhân và hệ quả. - Đưa ra nhiều câu hỏi không cùng với câu hỏi của các học sinh khác. - Nhanh chóng nắm bắt những nguyên tắc cơ bản không cần những giải thích dài dòng. - Nhanh chóng tổng kết được vấn đề. - Thường thấy được những mối liên hệ với các hiện tượng mà đại đa số học sinh đều lảng tránh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 53 - Nghe chỉ một phần giải thích, không chú ý và quan tâm đến những phần khác song vẫn biết nội dung vấn đề và nếu được hỏi có thể trả lời chính xác. - Nhảy vọt qua các "mức độ" trong quá trình học tập. - Nhanh chóng chuyển từ ví dụ cụ thể sang các nguyên tắc trừu tượng và cơ bản, phát hiện đúng lôgic và sự khác nhau nổi bật. - Nếu thích thú với một điều gì đó trẻ sẽ lưu ý rất lâu. - Thường thích những "vấn đề của người lớn" một cách sâu sắc. - Có trí tưởng tượng và hình dung phong phú. - Luôn khao khát hoàn thành nhiệm vụ. - Có tính hài hước, nhanh chóng nắm vững hàm ý và nghĩa bóng của từ và lời nói. - Không muốn bị phụ thuộc vào những quyết định độc đoán, muốn tranh luận và tìm ra nguyên nhân và lời giải thích. - Tốc độ suy nghĩ nhanh hơn khả năng thể chất vì thế thường không sẵn sàng viết trong thời gian dài và thích nói hơn là viết. - Nhanh chóng đi vào vấn đề và thường chiếm vai trò thủ lĩnh trong nhóm hoạt động. ( T1+T6) Trong nhà trường Tiểu học ở Mỹ thường áp dụng bài thử nghiệm của nhà tâm lý học Lây - cốc, trong đó có những đặc điểm sau: nắm vững ngôn ngữ; độ nhanh của quá trình suy nghĩ; có trí nhớ đặc biệt; trí tưởng tượng phát triển; sự quan sát sắc sảo; độ tập trung chú ý cao và nghị lực lớn; năng khiếu cao với những câu hỏi mở; tính độc đáo và tính đặc sắc của những câu viết, câu nói; thành công trong giải quyết các vấn đề; đọc rộng; thiếu nhẫn nại trong những công việc thủ cựu. Trên cơ sở của những đặc điểm này các giáo viên Mỹ đã đưa ra và sử dụng rộng rãi để phát hiện trẻ tài năng với một bài kiểm tra đặc biệt, trong đó mỗi phẩm chất được đánh giá theo hệ 5 điểm, tổng điểm chung cho phép bố Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 54 trí học sinh theo trình độ năng lực. Một bài kiểm tra của Lây - cốc có dạng sau đây: Tên trẻ Mery Đgiôn Giới tính: Nữ Tuổi: 9 tuổi 3 tháng Đặc điểm Không đạt Yếu Trung bình Tốt Xuất sắc Sử dụng ngôn ngữ x Trình độ trí tuệ chung x Tốc độ suy nghĩ x Tưởng tượng x Trí nhớ x Quan sát x Tập trung trí nhớ và nỗ lực x Năng khiếu x ý tưởng độc đáo x Giải quyết vấn đề x Khối lượng đọc x Năng khiếu với câu hỏi x Trong nền giáo dục học ở Mỹ, để phát hiện và tuyển chọn trẻ tài năng người ta thường tổ chức các cuộc thi Ôlimpic và thi tuyển. Khi nghiên cứu phương pháp này như một phương tiện để định hướng tài năng ta thấy rằng có sự khác nhau về tính hiệu quả. Tính hiệu quả của chúng phụ thuộc vào các loại hình thi tuyển, chuyên môn, sự thông thạo của các nhà tổ chức vào các yêu cầu được đưa ra. Trong các cuộc thi khác nhau có thể so sánh kết quả của học sinh ở những lĩnh vực này hay lĩnh vực khác trên cơ sở đó có thể lựa chọn được những học sinh tài năng nhất. Đa số các chuyên gia Mỹ và Anh coi lứa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 55 tuổi từ 3 - 6 là lứa tuổi tốt nhất để xác định tài năng của trẻ. Tuy nhiên đây phải là một quá trình diễn ra trong thời gian dài li

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf1LV08_SPNguyenThiNgoc.PDF
Tài liệu liên quan