Tài liệu Luận văn Các nhân tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán: Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 1 
Luận văn 
Đề tài “CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN 
GIÁ CHỨNG KHOÁN”
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 2 
Lời Mở Đầu 
1) Đặt vấn đề: 
 Trong một vài năm trở lại đây Việt Nam đã có được nhiều thuận lợi trên con đường hội 
nhập quốc tế, đặc biệt từ khi gia nhập WTO nền kinh tế càng có bước phát triển mạnh mẽ, 
biểu hiện điển hình là sự sôi nổi của thị trường chứng khoán trong năm 2006 và 2007 đã 
đưa thị trường chứng khoán Việt Nam vượt lên xếp thứ 24 thế giới về tốc độ tăng trưởng. 
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi ta cũng gặp phải những khó khăn không ít. từ giữa năm 
2007, lạm phát đã tác động xấu đến toàn bộ nền kinh tế của nước ta nói chung cũng như góp 
phần tạo nên một bức tranh đỏ ảm đạm trên Thị Trường Chứng Khoán nói riêng. Do sự phát 
triển quá nhanh và quá nóng đối với một thị trường còn quá non trẻ và sự thiếu kinh 
nghiệm, thiếu hiểu biết của những nhà đầu tư ngắn hạn đã tạo ra những rủi ro đ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
47 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1367 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Các nhân tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 1 
Luận văn 
Đề tài “CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN 
GIÁ CHỨNG KHOÁN”
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 2 
Lời Mở Đầu 
1) Đặt vấn đề: 
 Trong một vài năm trở lại đây Việt Nam đã có được nhiều thuận lợi trên con đường hội 
nhập quốc tế, đặc biệt từ khi gia nhập WTO nền kinh tế càng có bước phát triển mạnh mẽ, 
biểu hiện điển hình là sự sôi nổi của thị trường chứng khoán trong năm 2006 và 2007 đã 
đưa thị trường chứng khoán Việt Nam vượt lên xếp thứ 24 thế giới về tốc độ tăng trưởng. 
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi ta cũng gặp phải những khó khăn không ít. từ giữa năm 
2007, lạm phát đã tác động xấu đến toàn bộ nền kinh tế của nước ta nói chung cũng như góp 
phần tạo nên một bức tranh đỏ ảm đạm trên Thị Trường Chứng Khoán nói riêng. Do sự phát 
triển quá nhanh và quá nóng đối với một thị trường còn quá non trẻ và sự thiếu kinh 
nghiệm, thiếu hiểu biết của những nhà đầu tư ngắn hạn đã tạo ra những rủi ro đáng tiếc, 
cùng với sự ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế giới, thị trường bất động sản, vàng,… đã 
làm cho thị trường chứng khoán nước ta có nhiều biến động đáng kể, biểu hiện rõ ràng nhất 
là sự biến động về giá, bởi giá cả chính là yếu tố quyết định trong chứng khoán. 
 Giống như mọi hoạt động kinh tế khác, hoạt động trên trên thị trường chứng khoán cũng 
diễn ra theo chu kỳ tăng-giảm-tăng. Vào thời kỳ giá gia tăng, TTCK gọi nó là “ bull 
market”. Bull là con bò tót. Người ta cũng dùng tiếng lóng ‘’bull” để chỉ người lạc quan 
thường đẩy cho giă cả tăng. Thời kỳ giá giảm sút được gọi là “bear market”. “Bear” là con 
gấu. Người ta gọi “bear” nhìn tình hình bi quan và làm cho giá giảm xuống. Giá cả ở TTCK 
là một cuộc đấu tranh giữa hai loại người này. Vậy tại sao lại có sự lên xuống của giá cả? 
Những nhân tố nào đã làm nên sự thay đổi này ? Đây chính là mối quan tâm nhất của nhiều 
nhà đầu tư tham gia vào TTCK và cũng là lý do chọn đề tài “CÁC NHÂN TỐ ẢNH 
HƯỞNG ĐẾN GIÁ CHỨNG KHOÁN” với mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm 
rõ về các nhân tố ảnh hưởng tới Thị Trường Chứng Khoán Việt Nam trong thời gian qua để 
các nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán có thể khắc phục hay làm giảm sự ảnh 
hưởng đó đến mức tối thiểu đối với việc quản lý của nhà nước, các doanh nghiệp. 
 Do đề tài còn mới mẻ, thời gian nghiên cứu hạn hẹp,nghiên cứu trên quy mô tổng thể nói 
chung nên việc phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến giá chứng khoán một cách 
toàn diện và xác thực là điều rất khó khăn rất mong được sự góp ý của các thầy (cô) giáo 
cùng các bạn, để đề tài được hoàn thiện hơn. 
2) Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu: 
 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tíc các ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế, xã 
hội, chính trị pháp luật đến giá chứng khoán 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 3 
 Phương pháp nghiên cứu: sử dụng các phương pháp phân tích giá chứng khoán lá 
phương pháp phân tích cơ bản và phương pháp phân tích kỹ thuật với những số liệu thực 
tế, các bảng biểu cũng như các đồ thị minh hoạ. 
3) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 
 Các nhân tố kinh tế vĩ mô, chính trị xã hội, pháp luật và một số chứng khoán tiêu biểu 
minh họa sự ảnh hưởng từ các nhân tố đã phân tích(thêm phân tích kt). 
Chương 1 -Cơ Sở Lý Luận Về Thị Trường Chứng Khoán 
1.1 Khái niệm và bản chất của thị trường chứng khoán: 
1.1.1 Khái niệm: 
 Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi 
diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này 
được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những 
người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã 
được phát hành ở thị trường sơ cấp. 
1.1.2 Bản chất: 
 Thị trường chứng khoán phản ánh các quan hệ trao đổi, mua bán quyền sở hữu tư liệu sản 
xuất và vốn bằng tiền, tức là mua bán quyền sở hữu vốn. Trong nền kinh tế thị trường, vốn 
được lưu thông như một loại hàng hóa có giá trị và giá trị sử dụng. Thị trường chứng khoán 
là hình thái phát triển cao của nền sản xuất hàng hóa. 
1.2 Đặc điểm và vai trò của Thị trường chứng khoán 
1.2.1 Đặc điểm: 
 Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính, được chuyên môn hóa 
về mua bán các chứng khoán trung và dại hạn. Thị trường chứng khoán ra đời là một tất yếu 
khách quan. 
1.2.2 Vai trò : 
 Thị trường chứng khoán là phương tiện huy động vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, thúc 
đẩy nền kinh tế phát triển. 
 Thị trường chứng khoán là công cụ khuyến khích dân cư tiết kiệm và sử dụng tiền tiết 
kiệm này vào đầu tư, từ đó xã hội hóa việc đầu tư. 
 Thị trường chứng khoán thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 4 
 Thị trường chứng khoán góp phần điều hòa vốn giữa các ngành trong nền kinh tế, tạo 
nên sự phát triển nhanh và đồng đều trong nền kinh tế. 
 Thị trường chứng khoán là công cụ thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài. 
1.3 Phân loại Thị trường chứng khoán: 
1.3.1 Căn cứ vào phương tện pháp lý của hình thức thị trường tổ chức thị trường: 
 Thị trường chứng khoán chính thức ( The stock exchange ) hay còn gọi là thị trường 
chứng khoán tập trung, là thị trường chứng khoán hoạt động theo các quy định pháp 
luật, là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng ký. TTCK chính thức có địa 
điểm và thời gian ,ua bán rõ rệt, giá cả được định theo thể thức đấu giá công khai, có sự 
kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán. TTCK được thực hiện bằng 
các Sở giao dịgh chứng khoán. 
 TTCK phi chính thức ( Over the counter market – OTC ) hay còn gọi là TTCK phi tập 
trung là TTCK mua bán chứng khoán ngoài Sở giao dịch, không có địa điểm tập trung 
những người môi giói, những người kinh doanh chứng khoán như ở Sở giao dịch chứng 
khoán, không có sự kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán, không có 
ngày giờ hay thủ tục nhất định mà do sự thỏa thuận của người mua và người bán được 
thực hiện bởi các công ty chứng khoán thành viên. Phương thức giao dịch thông qua 
mạng điện thoại và vi tính. Các chứng khaons giao dịch trên thị trường này thường là 
các loại chứng khoán không được đăng ký, ít người biết hay ít được mua bán. 
1.3.2 Căn cứ vào tính chất phát hành hay lưu hành của chứng khoán: 
TTCK sơ cấp: TTCK sơ cấp còn gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành các 
loại chứng khoán. Đây là nơi diễn ra cá loại hoạt động mua bán chứng khoán mới phát 
hành lần đầu, cho phép các chủ thể cần nguồn tài chính tiếp nhận được các nguồn tài 
chính bằng việc phát hành các chứng khoán mới, những chứng khoán bán cho người đầu 
tiên mua nó nhằm thu hút vốn đầu tư. 
 TTCK sơ cấp là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành. Thị trường này tập trung các 
nguồn vốn nhàn rỗi của các nhà đầu tư về phía các đơn vị phát hành, đồng thời các 
chứng khoán được chuyển đến tay các nhà đầu tư lần đầu. Thị trường sơ cấp làm tăng 
vốn cho nền kinh tế đồng thời tạo ra hàng hóa chứng khoán do thị trướng thứ cấp. Việc 
phát hành chứng khoán ở thị trường sơ cấp nhằm thu hút mọi nguồn vốn đầu tư, tiết 
kiệm vào phát triển kinh tế. 
Đối tượng mua bán trên TTCK sơ cấp là quyền sử dụng các nguồn tài chính. Thị trường 
này chỉ được tổ chức một lần, việc phát hành chứng khoán được bắt đầu kể từ khi đơn vị 
phát hành chứng khoán chào bán chứng khoán ra công chúng và chấm dứt khi toàn bộ số 
chứng khoán của đợt phát hànhđến tay các nhà đầu tư thứ nhất. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 5 
 TTCK thứ cấp: là thị trường cấp hai hay thị trường lưu thông, thị trường mua đi bán lại 
các loại chứng khoán đã được phát hành trên TTCK sơ cấp, làm thay đổi quyền sở hữu 
chứng khoán. Đây là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán đến tay người thứ 
hai, tức là thị trường diễn ra việc mua bán lại các chứng khoán đã được phát hành trên 
TTCK sơ cấp. 
TTCK thứ cấp là một loại thị trường cạnh tranh tự do. Trên thị trường này, các nhà đầu 
tư, các nhà môi giới, các nhà kinh doanh chứng khoán được tự do tham gia. Mặt khác, 
giá cả của chứng khoán phản ánh nguyên tắc cạnh tranh và kết quả của quan hệ cung cầu 
chứng khoán. Thị trường thứ cấp là một thị trường hoạt động liên tục không ngừng nghỉ. 
Các nhà đầu tư có thể mua bán chứng khoán nhiều lần trên thị trường này. 
1.3.3 Căn cứ vào phương thức giao dịch: 
 Thị trường giao ngay (Spots market) còn gọi là thị trường thời điểm, tức là thị trường 
thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán theo gía thỏa thuận của ngày giao dịch nhưng 
việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra tiếp sau đó hai ngày. 
 Thị trường tương lai (Future market) là thị trường mua bán chứng khoán theo một hợp 
đồng định sẵn, giá cả được thỏa thuận trong ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và 
giao hoán sẽ diễn ra trong một kỳ hạn nhất định trong tương lai. 
1.3.4 Căn cứ vào đặc điểm các loại hàng hóa lưu hành trên thị trường chứng 
khoán: 
 Theo căn cứ này, TTCK được chia làm 3 loại thị trường: 
 Thị trường cổ phiếu 
 Thị trường trái phiếu. 
 Thị trường các công cụ và nguồn gốc chứng khoán. 
Chương 2: Giới Thiệu Chung Về Giá Chứng Khoán 
2.1 Khái niệm chứng khoán: 
 Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu 
đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình 
thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: 
 Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; 
 Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp 
đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 6 
2.2 Đặc điểm và vai trò của chứng khoán: 
2.2.1 Đặc điểm: 
 Chứng khoán là giá khoán động sản, tức là các công cụ vốn dài hạn. 
2.2.2 Vai trò: 
 Chứng khoán là công cụ rất hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường để tạo nên một 
lượng vốn tiền tệ khổng tồ tài trợ dài hạn cho các mục đích mở rộng sản xuất kinh doanh 
của các doanh nghiệp hay các dự án đầu tư của Nhà Nước và tư nhân. 
 Chứng khoán là giấy tờ có giá trị kinh tế hay nói cách khác đó là công cụ tài chính có 
giá trị tương ứng như tiền mặt và được mua bán hoặc chuyển nhượng. Chứng khoán là một 
loại hàng hóa rất tiêu biểu trong cơ chế kinh tế thị trường tự do. 
2.3 Phân loại chứng khoán: 
2.3.1 Căn cứ vào nội dung chứng khoán: 
 Chứng khoán nợ là loại chứng khoán do Nhà Nước hoặc các doanh nghiệp 
phát hành cần huy động vốn cho các mục đích tài trợ dài hạn. Ví dụ: trái 
phiếu. 
 Chứng khoán vốn là giấy tờ chứng nhận sự góp vốn kinh doanh vào công 
ty cổ phần. Ví dụ: các loại cổ phiếu. 
2.3.2 Căn cứ vào hình thức chứng khoán: 
 Chứng khoán vô danh là loại chứng khoán không có gi tên người sở hữu 
trên các cổ phiếu, trái phiếu. Loại chứng khoán này có thể dễ dàng mua bán 
hay chuyển đổi trên thị trường chứng khoán. 
 Chứng khoán ký danh là loại chứng khoán mà tên người sở hữu lưu giữ 
trong hồ sơ của chủ thể phát hành trên chứng khoán. Việc chuyển tên người 
sở hữu chứng khoán này có phần khó khăn hơn và phải có sự đồng ý của cơ 
quan phát hành chứng khoán. 
2.3.3 Căn cứ vào lợi tức chứng khoán: 
 Chứng khoán có lợi tức ổn định là loại chứng khoán mà người cầm giữ loại 
chứng khoán này được hưởng lợi tức ổn định theo tỷ lệ lãi suất tính trên 
mệnh giá chứng khoán điển hình là trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi. 
 Chứng khoán có lợi tức không ổn định là loại chứng khoán mà các nhà đầu 
tư mong đợi 1 mức lợi tức cao hơn nhiều so với chứng khoán có lợi tức ổn 
định, lãi suất không được ghi trên chứng khoán. Các loại chứng khoán này 
thường mang tính chất rủi ro cao và không ổn định. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 7 
Chương 3: Phân Tích Những Yếu Tố Tác Động Đến Giá Chứng Khoán 
Thị trường chứng khoán đang trở thành một điểm nóng thu hút sự quan tâm rất 
lớn của mọi đối tượng trong xã hội. Cùng với sự quan tâm đó, giới tham gia thị trường 
chứng khoán cũng bắt đầu quan tâm đến những kĩ thuật ứng dụng trong phân tích và 
đánh giá để đưa ra quyết định đầu tư phù hợp. Hai hệ thống kĩ thuật phân tích được nói 
đến nhiều nhất là phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật. 
 Phân tích cơ bản là việc phân tích bản cân đối tài khoản và bản báo cáo lợi 
tức của công ty để xem xét chất lượng của công ty cũng như việc phát triển 
của công ty theo thời gian, nhờ đó tiên đoán các chuyển biến giá chứng 
khoán. Việc phân tích cơ bản sẽ đánh giá một chứng khoán dưới giá trị hay 
trên giá trị hiện hành. 
 Phân tích kỹ thuật là phương pháp dựa vào biểu đồ, đồ thị diễn biến giá cả 
và khối lượng giao dịch của cổ phiếu nhằm phân tích các biến động cung 
cầu đối với cổ phiếu để chỉ ra cách ứng xử trước mắt đối với giá cả, tức là 
chỉ cho nhà phân tích thời điểm nên mua vào, bán ra hay giữ nguyên cổ 
phiếu trên thị trường. 
 Phân tích cơ bản hoàn toàn dựa vào các yếu tố đầu vào và khả năng phân tích 
mang tính chủ quan. Vì vậy, cùng một cổ phiếu có thể có nhiều kết quả nhận 
định và phân tích khác nhau và phân tích cơ bản thường được coi là bỏ qua 
yếu tố tâm lý đầu tư, còn phân tích phân tích kỹ thuật chủ yếu dựa vào nghiên 
cứu biến động giá thị trường của cổ phiếu, và tập trung nhấn mạnh vào hành 
vi biến động về giá và về khối lượng giao dịch cũng như các xu hướng của 
hành vi giá và khối lượng đó. 
3.1 Phân Tích Cơ Bản: 
3.1.1 Các nhân tố vĩ mô tác động Đến thị trường chứng khoán: 
3.1.1.1 Các ảnh hưởng của môi trường chính trị, xã hội và pháp luật: 
 Môi trường chính trị cũng có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường chứng khoán, 
xã hội luôn có những tác động nhất định đến hoạt động của TTCK. Yếu tố 
chính trị bao gồm những thay đổi về chính phủ và các hoạt động chính trị. 
Tuy nhiên ở nước ta tình hình chính trị tương đối ổn định nên ta có thể bỏ qua 
yếu tố này. 
 Môi trường xã hội và pháp luật : Hệ thống chính sách có tác động rất lớn 
đến bản thân TTCK và hoạt động của các doanh nghiệp. Mỗi thay đổi chính 
sách có thể kéo theo các tác động làm giá chứng khoán tăng hoặc giảm, nhất 
là trong những thời điểm nhạy cảm. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 8 
 Đây là những yếu tố phi kinh tế nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến giá chứng 
khoán trên thị trường. Nếu những yếu tố này có khả năng ảnh hưởng tích cực tới tình 
hình kinh doanh của DN thì giá cổ phiếu của DN sẽ tăng lên. 
3.1.1.2 Các ảnh hưởng kinh tế vĩ mô: 
- Tỷ giá hối đoái: 
 Tỷ giá hối đoái có tác động đến TTCK trên cả 2 giác độ là môi 
trường tài chính và chính bản thân hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, 
đặc biệt là những doanh nghiệp nhập nguyên liệu hay tiêu thụ sản phẩm ở 
nước ngoài. 
 Tỷ giá hối đoái tăng cao đã tác động tới thị trường chứng khoán khá nhiều, 
các nguồn vốn nước ngoài được đầu tư nhiều vào thị trường chứng khoán 
nhưng việc tỷ giá hối đoái tăng mạnh đã làm nảy sinh lí do khiến các nhà đầu 
tư nước ngoài rút vốn khỏi thị trường, một lượng vốn lớn nhanh chóng bị rút 
khỏi thị trường sẽ làm giá chứng khoán giảm và điều này sẽ tác động làm tăng 
lãi suất. Nếu lãi suất tăng sẽ trở thành gánh nặng cho kinh tế và ngược lại. 
- Lạm phát: là sự mất giá của đồng tiền, nó làm thay đổi hành vi tiêu dùng và 
tiết kiệm của dân cư và doanh nghiệp. Tỷ lệ lạm phát không hợp lý sẽ gây khó 
khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, ngăn cản sự tăng trưởng và đổi mới 
doanh nghiệp. 
 Lạm phát tăng thường là dấu hiệu cho thấy, sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ 
không bền vững, lãi suất sẽ tăng lên, khả năng thu lợi nhuận của DN bị hạ 
thấp khiến giá cổ phiếu giảm. Lạm phát càng thấp thì càng có nhiều khả năng 
cổ phiếu sẽ tăng giá và ngược lại. 
 Thông thường, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển tốt và 
có xu hướng giảm khi nền kinh tế giảm sút. Như vậy, nếu dự đoán được xu 
hướng phát triển của nền kinh tế, thì có thể dự báo được xu thế phát triển 
chung của TTCK. Vì vậy việc dự đoán tình hình kinh tế để xem xét các ảnh 
hưởng của nó đến giá chứng khoán cũng rất quan trọng đến các nhà đầu tư. 
- Lãi suất: Lãi suất Trái phiếu Chính phủ được coi là lãi suất chuẩn, những thay 
đổi trong lãi suất trái phiếu Chính phủ sẽ làm ảnh hưởng tới giá chứng khoán, 
khi lãi suất chuẩn tăng làm cho giá cả của các loại chứng khoán khác giảm 
xuống, ngược lại lãi suất chuẩn giảm lại làm cho giá của chứng khoán tăng 
lên. 
 Bình thường, lãi suất thực chất không là gì khác hơn ngoài chi phí mà một 
ngưòi phải trả cho việc sử dụng tiền của người khác. Thế nhưng câu chuyện 
về lãi suất khi nó chạy sang thị trường chứng khoán lại không dừng lại ở đó. 
 Mối quan hệ giữa lãi suất và giá trái phiếu là mối quan hệ trực tiếp và ngược 
chiều nhau. Giá của trái phiếu là giá trị hiện tại của các dòng tiền. Khi lãi suất 
thị trường càng cao thì các dòng tiền bị chiết khấu với lãi suất càng lớn, do 
vậy dẫn đến giá trái phiếu càng nhỏ. Do đó, giữa lãi suất thị trường và lãi suất 
trái phiếu có quan hệ tỷ lệ nghịch: khi lãi suất ngân hàng tăng cao hơn lãi suất 
trái phiếu, giá trái phiếu sẽ sụt giảm. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 9 
 Không chỉ vậy, quan hệ quan hệ giữa lãi suất thì trường và lãi suất chứng 
khoán là mối quan hệ gián tiếp tác động đến giá của chứng khoán. Nếu lãi 
suất thị trường cao hơn lãi suất chứng khoán thì giá chứng khoán sẽ giảm, 
điều này khiến cho hoạt động trên thị trường chứng khoán giảm sút vì người 
ta thích gửn tiền vào ngân hàng hơn là mua chứng khoán. 
3.1.2 Phân tích ngành: 
3.1.2.1 Lĩnh vực kinh doanh 
 Trong nền kinh tế, có rất nhiều ngành khác nhau như: dược phẩm, hoá chất 
công nghệ thông tin, cơ khí, dịch vụ tài chính…Trong quá trình phân tích cần 
xác định ngành nào có triển vọng phát triển để có quyết định đầu tư hợp lý. Doanh 
nghiệp đó đang sản xuất - kinh doanh sản phẩm nào là chủ yếu, thể hiện qua tỷ trọng 
doanh thu và lợi nhuận của sản phẩm đó trên doanh thu và lợi nhuận của DN. Biết được 
lĩnh vực kinh doanh chính của công ty giúp NĐT có cái nhìn rõ nét hơn về những ảnh 
hưởng có thể tác động tới DN như môi trường kinh tế vĩ mô, luật pháp, thiên tai, đối thủ 
cạnh tranh...Ngoài việc nghiên cứu chính bản thân ngành đó thì những vấn đề như : 
chính sách xuất, nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan, các quy định về thuế của Chính phủ 
đối với một ngành cụ thể nào đó cũng có ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán của ngành 
này. 
 Có những ngành khi nền kinh tế đi theo chiều hướng giảm thì giá cả của các 
cổ phiếu ngành này cũng không bị ảnh hưởng bao nhiêu, thậm chí là tăng như ngành y 
dược, hay công ty kinh doang trong những lĩnh vực liên quan đến các sản phẩm thiết yếu 
như gạo. 
3.1.2.2 Vốn và cơ cấu vốn: 
 Cơ cấu sở hữu vốn: Nhà nước nắm bao nhiêu phần trăm; cổ đông chiến lược, 
cổ đông tổ chức, cá nhân nắm số lượng lớn; cổ phiếu lưu hành, số cổ phiếu bị 
hạn chế chuyển nhượng. Thông thường, một cổ phiếu có nhiều cổ đông chiến 
lược thì tốt trong dài hạn và kỳ vọng của NĐT tăng cao dẫn đến giá của loại 
chứng khoán này cũng tăng cao hơn. Ngoài ra, khi DN có tỷ lệ sở hữu của 
Nhà nước và cổ đông chiến lược lớn thì số cổ phiếu đang giao dịch trên thị 
trường ít hơn nhiều so với tổng số cổ phiếu, điều này thường có lợi cho giá cổ 
phiếu vì lượng cung bị hạn chế. 
 Vốn chủ sở hữu, thặng dư vốn, lợi nhuận: nếu một DN có lợi nhuận lớn và tỷ 
lệ vay nợ hiện tại cao thì nhiều khả năng DN sẽ tăng vốn để giảm bớt chi phí 
vay. Một cấu trúc vốn tối ưu được định nghĩa là một cấu trúc vốn trong đó chi 
phí sử dụng vốn bình quân nhỏ nhất và giá trị doanh nghiệp đạt lớn nhất. Vấn 
đề cốt lõi của cấu trúc vốn tối ưu là khi doanh nghiệp vay nợ, doanh nghiệp 
tận dụng được lợi thế của lá chắn thuế từ nợ vay, bản chất của vấn đề này là 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 10 
lãi suất mà doanh nghiệp trả cho nợ được miễn thuế (vì thuế được đánh sau lãi 
vay). Một cách đơn giản ta có thể hình dung là giá trị của doanh nghiệp khi 
vay nợ sẽ bằng giá trị của doanh nghiệp không vay nợ cộng với hiện giá của lá 
chắn thuế từ nợ. Một điều kiện nữa của cấu trúc vốn tối ưu là còn phải xem 
xét đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, tức là thu nhập trước thuế và 
lãi vay (EBIT) phải vượt qua điểm bàng quang để doanh nghiệp có thể tận 
dụng được đòn cân nợ. Hơn nữa,khi đồng vốn của doanh nghiệp ngày càng 
được xã hội hóa, áp lực của công chúng cổ đông đối với thành tích của doanh 
nghiệp ngày càng tăng. Và đối với phần lớn cổ đông đại chúng thì thành tích 
hoạt động của doanh nghiệp cuối cùng được đo lường bằng mức cổ tức được 
chia cho mỗi cổ phần (EPS - Earning per share) và - hoặc là sự tăng giá của cổ 
phiếu trên thị trường chứng khoán. Nhưng vì sự tăng giá của cổ phiếu cũng 
phần lớn dựa trên EPS nên suy cho cùng, điều mà cổ đông đại chúng mong 
muốn đối với kết quả hoạt động hàng năm của doanh nghiệp là một tỷ lệ chia 
cổ tức cao nhưng nếu DN có vốn chủ sở hữu lớn hơn nhiều so với vốn điều lệ 
thì điều đó dễ dàng làm cho EPS của cổ phiếu đó tăng cao. 
 Quá trình tăng vốn của DN: cần tìm hiểu vốn hiện tại cũng như nhu cầu tăng 
vốn trong thời gian tới vì ở Việt Nam, có một thực tế là cả trước và sau khi 
DN tăng vốn thì giá cổ phiếu thường biến động khá mạnh, biến động theo xu 
hướng cùng chiều nhau. 
3.1.2.3 Giao dịch của nhà ĐTNN và các tổ chức lớn: 
 HĐQT bao gồm những ai, tỷ lệ vốn góp của họ; chiến lược đề ra có vì quyền 
lợi của cổ đông, liệu có sự phân biệt đối xử giữa cổ đông tổ chức và cổ đông 
nhỏ lẻ. 
 Số lượng cổ phiếu nắm giữ của thành viên HĐQT, Ban giám đốc, Ban kiểm 
soát và những người liên quan: nếu số lượng nắm giữ cổ phiếu càng lớn thì rõ 
ràng là họ đều đặt niềm tin vào khả năng tăng trưởng của cổ phiếu và đó là tín 
hiệu tốt (giá chứng khaons tăng ). Còn khi họ bán ra với số lượng lớn thì 
thường đó là tín hiệu xấu đồng nghĩa với việc giá chứng khoán sẽ giảm. 
3.1.2.4 Chỉ số tài chính: 
Phân tích chỉ số tài chính là một phần quan trọng của phân tích cơ bản. Phân tích 
tỷ số liên quan đến việc so sánh các con số với nhau để tạo nên các tỷ số và từ đó dựa 
vào các tỷ số này để đánh giá xem hoạt động của công ty đang trong tình trạng suy giảm 
hay tăng trưởng. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 11 
Các tỷ số cần phải được so sánh giữa các thời kỳ trong cùng một công ty để thấy 
được công ty đang tăng trưởng hay suy giảm, và với các công ty trong cùng ngành để 
thấy công ty đó hoạt động tốt hay xấu so với mức trung bình ngành. 
Có 4 nhóm chỉ số chính sau: + Chỉ số khả năng sinh lợi. 
 + Chỉ số khả năng thanh toán và đòn cân nợ. 
 + Chỉ số hiệu quả hoạt động. 
 + Chỉ số đầu tư của cổ đông. 
a) Nhóm chỉ số khả năng sinh lợi: 
Các nhà đầu tư, các cổ đông và các nhà quản lý tài chính đặc biệt chú ý tới khả 
năng sinh lãi của các công ty. Việc phân tích lợi nhuận có thể bắt đầu bằng việc nghiên 
cứu cách thức một công ty sử dụng cơ cấu vốn. Các nhà quản lý giỏi sử dụng có hiệu 
quả tài sản của mình. Thông qua việc tăng hiệu quả sản xuất, các công ty có thể giảm 
hoặc kiểm soát được các chi phí. Tỷ lệ lợi nhuận do bất kỳ một công ty nào đạt được là 
quan trọng nếu các nhà quản lý của công ty đó mong muốn thu hút vốn và thực hiện việc 
tài trợ thành công cho sự phát triển của công ty.Nếu tỷ lệ lợi nhuận của một công ty tụt 
xuống dưới mức có thể chấp nhận được, thì P/E giá trên thu nhập và giá trị các cổ phiếu 
của công ty sẽ giảm xuống – điều đó giải thích tại sao việc đánh giá khả năng sinh lời lại 
đặc biệt quan trọng đối với một công ty. 
 Hệ số tổng lợi nhuận 
Hệ số tổng lợi nhuận cho biết mức độ hiệu quả khi sử dụng nguyên liệu và lao 
động trong quy trình sản xuất của ban quản lý một công ty. 
HSTLN = Doanh số – Trị giá hàng đã bán tính theo giá mua/ Doanh số bán 
Ví dụ: Hệ số tổng lợi nhuận : Nếu một công ty có doanh số bán là 1.000.000 USD 
và trị giá hàng bán tính theo giá mua lên tới 600.000 USD, thì hệ số tổng lợi nhuận của 
công ty sẽ là: Hệ số tổng lợi nhuận = $1.000.000 – $600.000/ $1.000.000 = 40% 
Khi chi phí lao động và chi phí nguyên liệu tăng nhanh, hệ số tổng lợi nhuận chắc 
chắn sẽ giảm xuống, trừ khi công ty có thể chuyển các chi phí này cho khách hàng của 
mình dưới hình thức nâng giá bán sản phẩm. Một cách để tìm xem các chi phí này có 
quá cao không là so sánh hệ số tổng lợi nhuận của một công ty với hệ số của các công ty 
tương đồng. Nếu hệ số tổng lợi nhuận của các công ty đối thủ cạnh tranh cao hơn, thì 
công ty cần phải thực hiện một biện pháp nào đó để có được sự kiểm soát tốt hơn đối với 
chi phí lao động và nguyên liệu. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 12 
 Hệ số lợi nhuận hoạt động: 
Hệ số lợi nhuận hoạt động cho biết ban quản lý của một công ty đã thành công 
đến mức nào trong việc tạo ra lợi nhuận từ hoạt động của công ty. 
Mức lãi hoạt động = EBIT/ Doanh thu 
Tử số của hệ số này là thu nhập trước thuế và lãi hay chính là thu nhập tính được 
sau khi lấy doanh thu trừ trị giá hàng đã bán tính theo giá mua và các chi phí hoạt động 
EBIT. 
Ví dụ: Hệ số lợi nhuận hoạt động: Nếu EBIT lên tới 200.000 USD trong khi 
doanh thu là 1.000.000 USD, thì mức lãi hoạt động là: 
Hệ số lợi nhuận hoạt động = 200.000 USD/ 1.000.000 = 20%. 
Hệ số này là một thước đo đơn giản nhằm xác định đòn bẩy hoạt động mà một 
công ty đạt được trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Hệ số biên lợi 
nhuận hoạt động cho biết một Đô la doanh thu có thể tạo ra bao nhiêu EBIT. Hệ số lợi 
nhuận hoạt động cao có nghĩa là quản lý chi phí có hiệu quả hay nghĩa là doanh thu tăng 
nhanh hơn chi phí hoạt động. Các nhà quản lý cần phải tìm ra các nguyên nhân khiến hệ 
số lợi nhuận hoạt động cao hay thấp để từ đó họ có thể xác định xem công ty hoạt động 
có hiệu quả hay không, hoặc xem giá bán sản phẩm đã tăng nhanh hơn hay chậm hơn chi 
phí vốn. 
 Hệ số lợi nhuận ròng 
Hệ số lợi nhuận ròng là hệ số lợi nhuận từ mọi giai đoạn kinh doanh. Nói cách 
khác, đây là tỷ số so sánh lợi nhuận ròng với doanh số bán. 
Mức lãi ròng = Lợi nhuận ròng/ Doanh số 
Ví dụ: Hệ số lợi nhuận ròng: Nếu lợi nhuận sau thuế của một công ty là 100.000 
USD và doanh thu của nó là 1.000.000 USD thì: 
Hệ số lợi nhuận ròng = 100.000 USD/ 1.000.000 = 10% 
Một số công ty có mức lợi nhuận ròng hơn 20%, và một số khác có chỉ đạt 
khoảng từ 3% đến 5%. Hệ số lợi nhuận ròng giữa các ngành khác nhau là khác nhau. 
Thông thường, các công ty được quản lý tốt đạt được mức lợi nhuận ròng tương đối cao 
hơn vì các công ty này quản lý các nguồn vốn của mình có hiệu quả hơn. Xét từ góc độ 
nhà đầu tư, một công ty sẽ ở vào tình trạng thuận lợi nếu có mức lợi nhuận ròng cao hơn 
lợi nhuận ròng trung bình của ngành và, nếu có thể, có mức lợi nhuận liên tục tăng. 
Ngoài ra, một công ty càng giảm chi phí của mình một cách hiệu quả – ở bất kỳ doanh 
số nào – thì mức lợi nhuận ròng của nó càng cao. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 13 
 Hệ số thu nhập trên cổ phần 
Hệ số thu nhập trên cổ phần ROE là thước đo tỷ suất lợi nhuận của các cổ đông. 
Nhà phân tích chứng khoán, cũng như các cổ đông, đặc biệt quan tâm đến hệ số này. 
Nói chung, hệ số thu nhập trên cổ phần càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn. 
Hệ số này là một cách đánh giá khả năng sinh lời và các tỷ suất lợi nhuận của công ty 
khi so sánh với hệ số thu nhập trên cổ phần của các cổ phiếu khác. Hệ số này có thể 
được tính như sau: 
ROE = Lợi nhuận ròng sau thuế/ Vốn cổ đông hay giá trị tài sản ròng hữu hình 
 Thu nhập trên tổng vốn đầu tư (ROCE) 
ROCE = (Lợi nhuận trước lãi và thuế) / (Tổng tài sản - nợ ngắn hạn) 
Chỉ số ROCE cho thấy sự hiệu quả và khả năng sinh lợi từ trong việc sử dụng vốn 
đầu tư của một công ty. 
Một công ty nên cho thấy chỉ số ROCE cao hơn mức lãi suất đi vay, nếu không 
sự gia tăng vốn vay sẽ làm giảm thu nhập của cổ đông. 
Các chỉ số cấp hai: ROCE = Chỉ số lợi nhuận x Vòng quay tài sản 
 LN trước thuế và lãi = LN trước lãi và thuế x Doanh thu 
(Tổng tài sản - nợ ngắn hạn) Doanh thu (Tổng tài sản - nợ ngắn hạn) 
Vòng quay tài sản cho thấy hiệu quả trong việc sử dụng tài sản để tạo ra thu nhập. 
Giữa chỉ số lợi nhuận ròng và vòng quay tài sản có mối quan hệ cân bằng, cụ thể 
là: 
• Một chỉ số lợi nhuận cao có thể đồng nghĩa với giá bán cao, dẫn đến khả năng 
lớn là doanh số sẽ giảm và vì vậy vòng quay tài sản sẽ thấp hơn. 
• Vòng quay tài sản cao có nghĩa công ty đang có doanh số cao, để làm được điều 
này thì công ty có thể phải giảm giá để chấp nhận mức lợi nhuận thấp hơn. 
Nhìn chung, các chỉ số lợi nhuận của công ty càng cao càng tốt, nhưng cũng như 
các nhóm chỉ số khác, chưa đủ để đánh giá chính xác về một công ty khi xem xét 
các chỉ số này một cách riêng biệt. Một điều quan trọng nữa là cần so sánh chỉ số 
này qua các thời kỳ của công ty, so sánh với chỉ số trung bình của ngành và với 
các đối thủ cạnh tranh. 
 Hệ số thu nhập trên đầu tư ROI 
Hệ số thu nhập trên đầu tư ROI được công ty Du Pont phát triển cho mục đích sử 
dụng riêng, nhưng ngày nay nó được rất nhiều công ty lớn sử dụng như là một cách thức 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 14 
tiện lợi để xác định tổng thể các ảnh hưởng của các biên lợi nhuận doanh thu tổng tài 
sản. 
ROI = Thu nhập ròng/ Doanh số bán x Doanh số bán/ Tổng tài sản 
Hay : 
ROI = Thu nhập ròng/ Tổng tài sản 
Mục đích của công thức này là so sánh cách thức tạo lợi nhuận của một công ty, 
và cách thức công ty sử dụng tài sản để tạo doanh thu. Nếu tài sản được sử dụng có hiệu 
quả, thì thu nhập và ROI sẽ cao, và nếu ngược lại, thu nhập và ROI sẽ thấp. 
b) Nhóm chỉ số thanh toán và nợ: 
Chỉ số thanh toán thử nghiệm mức độ thanh toán của một công ty. Hai hệ số 
thông dụng được sử dụng để xác định khả năng thanh toán của một công ty bao gồm 
hệ số khả năng thanh toán hiện tại tỷ lệ tài sản trên nợ và hệ số khả năng thanh toán 
nhanh hay còn gọi là hệ số thử axit. 
 Hệ số khả năng thanh toán hiện tại: 
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại là mối tương quan giữa tài sản lưu động và các 
khoản nợ ngắn hạn. 
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại = Tài sản lưu động / Nợ ngắn hạn 
Ví dụ: Hệ số khả năng thanh toán hiện tại 
Một công ty với tài sản lưu động trị giá 20 triệu USD và có các khoản nợ ngắn 
hạn trị giá 10 triệu USD sẽ có hệ số khả năng thanh toán hiện tại là 2,0. 
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại = $20.000.000 / $10.000.000 = 2,0 
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại cho thấy mức độ an toàn của một công ty 
trong việc đáp ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số này có thể khác 
nhau, tuỳ thuộc vào ngành công nghiệp và loại công ty. Hệ số bằng 2,0 hoặc lớn hơn có 
thể tốt cho một công ty sản xuất, trong khi hệ số bằng 1,5 có thể chấp nhận được với một 
công ty dịch vụ công cộng vì nguồn tiền mặt dự tính thu vào cao và nợ hiện tại hay nợ 
ngắn hạn nhỏ. 
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại không phản ánh được tính linh hoạt của một 
công ty. Hiển nhiên là một công ty có dự trữ tiền mặt lớn và các chứng khoán khả mại sẽ 
có khả năng thanh toán lớn hơn một công ty có mức hàng tồn kho lớn. Một hệ số được 
thiết lập chi tiết hơn khi xem xét vấn đề cơ cấu tài sản có thể loại bỏ được những thành 
tố kém tính thanh khoản nhất trong tài sản lưu động chính là hệ số khả năng thanh toán 
nhanh. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 15 
 Hệ số khả năng thanh toán nhanh. 
Bằng cách loại bỏ giá trị không chắc chắn của hàng trong kho và tập trung vào 
những tài sản có khả năng chuyển đổi dễ dàng, hệ số khả năng thanh toán nhanh được 
thiết lập nhằm xác định khả năng đáp ứng nhu cầu trả nợ của công ty trong trường hợp 
doanh số bán tụt xuống một cách bất lợi. 
Hệ số KNTT nhanh = (Tài sản lưu động - Hàng dự trữ) / Nợ ngắn hạn 
Ví dụ: Hệ số khả năng thanh toán nhanh 
Trong ví dụ trước, tài sản lưu động trị giá 20 triệu USD. Nhưng điều gì sẽ xảy ra 
nếu 5 triệu USD trong phần tài sản đó là hàng trong kho. 
Hệ số khả năng thanh toán nhanh = 20.000.000 - $5.000.000 / $10.000.000 = 1,5 
Con số này có thể cho bạn biết rằng công ty có khả năng đáp ứng việc thanh toán 
nợ ngắn hạn vì công ty không gặp khó khăn nào trong việc chuyển các tài sản lưu động 
khác thành tiền mặt. Mặt khác, công ty này có thể có các khoản phải thu khó đòi hoặc 
hoạt động trong một ngành công nghiệp vô cùng nhạy cảm mà các chủ nợ đòi hỏi phải 
được thanh toán nhanh. Do đó, công ty này có thể đòi hệ số thanh toán nhanh bằng 0,2 
lần, và mức 1,5 lần có thể cho thấy rằng công ty đang cố gắng giảm hàng dự trữ hoặc 
tăng giá trị của các tài sản dễ chuyển đổi khác của mình. 
Việc sử dụng thông minh các hệ số đòi hỏi bạn phải vận dụng chúng trong mối liên 
hệ với các thông tin khác. 
 Chỉ số đòn cân nợ: 
Chỉ số này liên quan đến cơ cấu vốn dài hạn của một công ty và được dùng để 
xác định mức độ rủi ro liên quan đến việc nắm giữ vốn cổ phần trong một công ty. 
Một công ty với đòn cân nợ cao thì có nhiều khả năng gặp phải sự đi xuống trong 
chu trình kinh doanh bởi vì công ty đó phải tiếp tục trả các khoản nợ cho dù doanh số 
đang giảm sút. Một công ty với tỷ lệ vốn chủ sở hữu cao có thể cho thấy tình hình tài 
chính vững mạnh. 
Đòn cân nợ = Tổng nợ dài hạn / (Tổng vốn cổ phần + tổng nợ dài hạn) 
c) Nhóm chỉ số hiệu quả hoạt động 
 Kỳ thu tiền bình quân: 
Kỳ thu tiền bình quân cho thấy khoảng thời gian trung bình cần thiết để một công 
ty thu hồi các khoản nợ từ khách hàng. 
Xem xét xu hướng của kỳ thu tiền bình quân qua các thời kỳ của một công ty là 
có hiệu quả nhất. Nếu vòng quay các khoản phải thu tăng từ năm này qua năm khác cho 
thấy khả năng yếu kém trong việc quản lý công nợ ở một công ty. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 16 
Kỳ thu tiền BQ =( Phải thu khách hàng x 365 ngày) / Doanh thu bán chịu 
 Số ngày vòng quay hàng tồn kho: 
Số ngày vòng quay hàng tồn kho cho thấy khoảng thời gian trung bình hàng tồn 
kho được lưu giữ. 
Sự tăng lên của vòng quay hàng tồn kho qua các năm cho thấy sự chậm đi trong 
công việc kinh doanh hoặc là sự tích trữ hàng tồn kho ở một công ty, điều đó cũng có thể 
được hiểu rằng đầu tư vào hàng tồn kho đang trên mức cần thiết. 
Số ngày vòng quay HTK = (Hàng tồn kho x 365 ngày) / Giá vốn hàng bán 
 Kỳ thanh toán bình quân: 
Kỳ thanh toán tiền bình quân cho thấy khoảng thời gian trung bình của một công 
ty trong việc thanh toán các khoản nợ với nhà cung cấp. 
Sự gia tăng kỳ thanh toán tiền bình quân qua các năm là dấu hiệu của việc thiếu 
hụt vốn đầu tư dài hạn hoặc khả năng quản lý tài sản lưu động yếu kém, đó là kết quả 
của việc gia tăng các khoản phải trả nhà cung cấp, gia tăng hạn mức thấu chi tại ngân 
hàng. 
Kỳ TTBQ = (Phải trả khách hàng x 365 ngày) / Tổng giá trị hàng mua chịu trong 
năm 
d) Nhóm chỉ số đầu tư của cổ đông 
 Thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS): 
Thu nhập của mỗi cổ phần cho thấy khả năng sinh lợi của một công ty. Thu nhập 
trên mỗi cổ phần được xem như là chỉ số đơn lập quan trọng nhất trong việc xác định giá 
trị cổ phiếu. 
EPS =(Tổng thu nhập thuần - cổ tức cổ đông ưu đãi) / Số lượng cổ phiếu lưu 
hành bình quân. 
 Tỷ suất thu nhập trên thị giá cổ phần: 
Tỷ suất này phản ánh mối quan hệ giữa cổ tức nhà đầu tư nhận được từ công ty 
với giá cổ phiếu mà nhà đầu tư mua vào, cụ thế hơn, tỷ suất này thể hiện kỳ vọng hiện 
hành của nhà đầu tư vào thu nhập từ việc đầu tư vào cổ phần của một công ty. 
Tỷ suất TN trên thị giá cổ phần = Cổ tức trên một cổ phần / Thị giá một cổ phần 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 17 
 Chỉ số giá trên thu nhập (P/E): là một trong những chỉ số phân tích quan 
trọng trong quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư. Thu nhập từ cổ 
phiếu sẽ có ảnh hưởng quyết định đến giá thị trường của cổ phiếu đó. Hệ số 
P/E đo lường mối quan hệ giữa giá thị trường (Market Price - PM) và thu 
nhập của mỗi cổ phiếu (Earning Per Share - EPS) và được tính như sau: 
PE = Thị giá mỗi cổ phần(PM) / thu nhập mỗi cổ phần(EPS) 
P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao nhiêu lần, 
hay nhà đầu tư phải trả giá cho một đồng thu nhập bao nhiêu. P/E được tính cho từng cổ 
phiếu một và tính trung bình cho tất cả các cổ phiếu và hệ số này thường được công bố 
trên báo chí. Nếu hệ số P/E cao thì điều đó có nghĩa là người đầu tư dự kiến tốc độ tăng 
cổ tức cao trong tương lai; cổ phiếu có rủi ro thấp nên người đầu tư thoả mãn với tỷ suất 
vốn hoá thị trường thấp; dự đoán công ty có tốc độ tăng trưởng trung bình và sẽ trả cổ 
tức cao. Hệ số P/E rất có ích cho việc định giá cổ phiếu. Giả sử người đầu tư có cổ phiếu 
XYZ không được giao dịch sôi động trên thị trường, vậy cổ phiếu đó có giá bao nhiêu là 
hợp lý? Chúng ta chỉ cần nhìn vào hệ số P/E được công bố đối với nhóm các loại cổ 
phiếu tương tự với cổ phiếu XYZ, sau đó nhân thu nhập của công ty với hệ số P/E sẽ cho 
chúng ta giá của loại cổ phiếu XYZ. 
Chỉ số P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao 
nhiêu lần, hay nhà đầu tư phải trả giá cho một đồng thu nhập bao nhiêu. 
Nhìn chung, một công ty với chỉ số P/E cao cho thấy các nhà đầu tư đang kỳ vọng 
sự tăng trưởng về lợi nhuận trong tương lai của công ty đó cao hơn so với các công ty có 
chỉ số P/E thấp. 
Việc đánh giá sẽ có hiệu quả hơn hơn khi so sánh P/E của công ty này với P/E 
của công ty khác trong cùng ngành và so sánh với P/E trung bình của ngành. 
3.1.2.5 Các chỉ số khác: 
Ngoài 4 chỉ số quan trọng trên các nhà đầu tư còn dựa trên 2 chỉ số sau để phân 
tích có nên đầu tư vào loại chứng khoán của công ty hay không. Đó là: chỉ số rủi ro và 
chỉ số tăng trưởng tiềm năng. 
a) Chỉ số rủi ro: bao gồm chỉ số rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính. Rủi ro kinh 
doanh liên quan đến sự thay đổi trong thu nhập ví dụ như rủi ro của dòng tiền 
không ổn định qua các thời gian khác nhau. Rủi ro tài chính là rủi ro liên quan đến 
cấu trúc tài chính của công ty, ví dụ như việc sử dụng nợ. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 18 
 Chỉ số rủi ro kinh doanh 
Rủi ro kinh doanh được định nghĩa như là rủi ro liên quan đến những biến động 
trong doanh thu. Để đo lường rủi ro kinh doanh ngưòi ta dùng nhiều phương thức từ đơn 
giản đến phức tạp. 
- Phương thức đơn giản: 
Bốn chỉ số dưới đây đại diện cho phương thức đơn giản trong việc tính toán các 
chỉ số rủi ro kinh doanh. Rủi ro kinh doanh là rủi ro mà công ty có thể kiếm được ít tiền 
hơn hoặc tệ hơn là mất tiền khi doanh số giảm xuống. Trong một môi trường có doanh 
số đang trên đà sụp giảm, một công ty có thể thua lỗ nếu công ty ấy sử dụng chi phí cố 
định quá nhiều. Nếu phần lớn chi phí trong công ty chỉ là chi phí biến đổi thì nó sẽ ít khi 
nào rơi vào tình trạng trên. Tất cả các doanh nghiệp đều sử dụng chi phí cố định và chi 
phí biến đổi. Do vậy việc hiểu được cấu trúc chi phí cố định của doanh nghiệp thật sự là 
điều cần thiết khi đánh giá rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp đó. Một vài chỉ số thường 
được sử dụng là : 
+ Chỉ số biến lợi nhuận phân phối: Chỉ số này cho biết phần lợi nhuận tăng thêm 
từ sự thay đổi của mỗi đô la trong doanh thu. Nếu chỉ số biên phân phối lợi nhuận của 
công ty bằng 20%, sau đó nếu có sự sụp giảm $50.000 trong doanh thu thì sẽ có sự sụp 
giảm $10.000 trong lợi nhuận. Biến phân phối= 1 - (chi phí biến đổi/ doanh thu) 
+ Mức độ ảnh hưởng của đòn bẩy kinh doanh (OLE): Chỉ số đòn bẩy kinh doanh 
được sử dụng để dự đoán bao nhiêu phần trăm thay đổi trong thu nhập và tỷ suất sinh lợi 
trên tài sản đối với mỗi phần trăm thay đổi trong doanh thu. 
Nếu doanh nghiệp có OLE lớn hơn 1 thì sau đó đòn bẩy kinh doanh vẫn được duy 
trì. Nếu OLE bằng 1, sau đó tất cả các chi phí là biến đổi, vì vậy cứ 10% gia tăng trong 
doanh thu, thì ROA của công ty cũng gia tăng 10%. 
Chỉ số ảnh hưởng đòn bẩy kinh doanh ( OLE)= chỉ số Biên lợi nhuận phân phối/ 
phần trăm thay đổi trong thu nhập (ROA) 
+ Mức độ ảnh hưởng đòn bẩy tài chính( FLE): Công ty sử dụng nợ để tài trợ cho 
các hoạt động, do đó sẽ tạo nên ảnh hưởng của đòn bẩy tài chính và gia tăng tỷ suất sinh 
lợi cho các cổ đông, thể hiện rủi ro kinh doanh tăng thêm khi doanh thu thay đổi. 
FLE = thu nhập hoạt động/ thu nhập thuần. 
Nếu một công ty có FLE bằng 1.33 thì, khi thu nhập hoạt động gia tăng 50% sẽ tạo nên 
sự gia tăng 67% trong thu nhập ròng. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 19 
+ Chỉ số hiệu ứng đòn bẩy tổng thể (TLE) bằng sự kết hợp giữa OLE và FLE ta 
có hiệu ứng đòn bẩy tổng thể (TLE). 
TLE= OLE x FLE 
Trong ví dụ trước, doanh số gia tăng $50.000, OLE bằng 20% và FLE bằng 1.33. 
Chỉ số hiệu ứng đòn bẩy tồng thể bằng $13,333, ví dụ, thu nhập ròng sẽ tăng $13.33 cho 
mỗi $50.000 doanh thu tăng thêm. 
 Chỉ số rủi ro tài chính 
Các chỉ số về rủi ro tài chính liên quan đến cấu trúc tài chính của công ty, phân 
tích việc sử dụng nợ của công ty. 
+ Tỷ số nợ trên tổng vốn: Chỉ số này cho thấy tỷ lệ nợ được sử dụng trong tổng 
cấu trúc vốn của công ty. Tỷ số nợ trên vốn lớn ám chỉ rằng các cổ đông đang thực hiện 
chính sách thâm dụng nợ và và do đó làm cho công ty trở nên rủi ro hơn. 
Nợ trên tổng vốn= tổng nợ/ tổng vốn 
Trong đó: 
Tổng nợ = nợ ngắn hạn + nợ dài hạn 
Tổng vốn = tổng nợ + tổng vốn chủ sở hữu. 
+ Tỷ số nợ trên vốn cổ phần: 
Nợ trên vốn cổ phần= tổng nợ/ tổng vốn cổ phần 
 Chỉ số khả năng thanh toán lãi vay: 
Chỉ số này cho biết với mỗi đồng chi phí lãi vay thì có bao nhiêu đồng EBIT đảm 
bảo thanh toán và được đo lường: 
Khả năng TT lãi vay = thu nhập trước thuế và lãi vay ( EBIT)/ lãi vay 
 Chỉ số khả năng thanh toán các chi phí tài chính cố định: 
Trong doanh nghiệp ngoài lãi vay thì còn một số chi phí tài chính cố định khác 
như chi phí thuê tài chính, thuê hoạt động,… 
Chỉ số khả năng thanh toán các chi phí tài chính cố định = thu nhập trước các chi 
phí tài chính cố định/ chi phí tài chính cố định 
 Khả năng tiền mặt đảm bảo chi trả lãi vay: 
Dòng tiền hoạt động điều chỉnh được định nghĩa là dòng tiền hoạt động + chi phí 
tài chính cố định + thuế phải trả 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 20 
Khả năng tiền mặt đảm bảo chi trả lãi vay = dòng tiền hoạt động điều chỉnh/ 
chi phí lãi vay 
 Khả năng tiền mặt đảm bảo chi trả các chi phí tài chính cố định: 
Khả năng tiền mặt đảm bảo chi trả các chi phí tài chính cố định = dòng tiền 
hoạt động điều chỉnh / chi phí tài chính cổ định 
 Chỉ số chi tiêu vốn : 
Chỉ số này cho biết thông tin bao nhiêu tiền mặt được tạo ra từ hoạt động của 
doanh nghiệp sẽ được để lại sau khi thực hiện các nghĩa vụ thanh toán của chi tiêu vốn 
để phục vụ cho các khoản nợ của công ty. Nếu chỉ số này bằng 2, có nghĩa là công ty 
đang hoạt động bằng 2 lần so với những gì nó thật sự cần để tái đầu tư cho doanh nghiệp 
tiếp tục hoạt động, phần thặng dư có thể được phân bổ để trả bớt nợ. 
Chỉ số chi tiêu vốn = dòng tiền hoạt động/ chi tiêu vốn. 
 Chỉ số dòng tiền với nợ: 
Chỉ số này cung cấp thông tin cho biết bao nhiêu tiền mặt của công ty tạo ra từ 
hoạt động có thể được sử dụng để trả tổng nợ. 
Chỉ số dòng tiền so với nợ = dòng tiền từ hoạt động/ tổng nợ 
b) Chỉ số tăng trưởng tiềm năng: đây là các chỉ số cực kỳ có ý nghĩa với các cổ 
đông và nhà đầu tư để xem xét xem công ty đáng giá đến đâu và cho phép các chủ nợ dự 
đoán được khả năng trả nợ của các khoản nợ hiện hành và đánh giá các khoản nợ tăng 
thêm nếu có. 
Chỉ số tăng trưởng (G) =RR x ROE 
Trong đó: 
 RR= Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại = 1- ( cổ tức/ tổng thu nhập ròng) 
 ROE = thu nhập ròng / tổng vốn chủ sở hữu= thu nhập ròng/ doanh thu * 
doanh thu/ tổng tài sản * tổng tài sản/ vốn cổ phần. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 21 
3.1.2.6 Hạn chế của các chỉ số tài chính: 
Trên đây là một số các chỉ số tài chính cơ bản nhằm đánh giá tình hình hoạt động 
kinh doanh cũng như khả năng tài chính và tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp. 
Tuy nhiên còn có các hạn chế sau: 
 Nhiều công ty lớn hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau của các ngành khác 
nhau. Đối với những công ty như thế này thì rất khó tìm thấy một loạt các chỉ số ngành 
có ý nghĩa. 
 Lạm phát có thể là yếu tố làm cho bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp bị” 
bóp méo” đi đáng kể. Trong trường hợp này, lợi nhuận có thể cũng bị ảnh hưởng. Tuy 
nhiên phân tích các chỉ số tài chính của một công ty qua thời gian hay qua phân tích so 
sánh với các đối thủ cạnh tranh nên được xem xét kỹ càng. 
 Yếu tố mùa vụ cũng có thể là sai lệch các chỉ số tài chính. Hiểu yếu tố mùa vụ 
ảnh hưởng như thế nào đến doanh nghiệp có thể giảm thiểu khả năng hiểu sai các chỉ số 
tài chính. Ví dụ, hàng tồn kho của doanh nghiệp bán lẻ có thể cao trong mùa hè để chuẩn 
bị cung cấp cho khách hàng vào năm học mới. Do đó, khoản phải trả của doanh nghiệp 
tăng lên và ROA của nó thấp xuống. 
 Các phương pháp kế toán khác nhau cũng có thể bóp méo sự so sánh giữa các 
công ty với nhau, thậm chí là ngay trong 1 công ty. 
 Thật khó để nhận định được một chỉ số là tốt hay xấu. Một chỉ số tiền mặt cao 
trong quá khứ đối với công ty tăng trưởng có thể là một dấu hiệu tốt, nhưng cũng có thể 
là một dấu hiệu cho thấy công ty đã chuyển qua giai đoạn tăng trưởng và nên được định 
giá thấp xuống. 
 Vì vậy cần phải hết sức lưu ý rằng các chỉ số đứng một mình thì nó cũng 
không có nhiều ý nghĩa. Các nhà phân tích khi sử dụng các chỉ số tài chính cần phải kết 
hợp với nhiều yếu tố khác thí dụ như: 
 Chỉ số trung bình ngành: 
+ So sánh công ty với trung bình ngành là dạng so sánh phổ biến hay gặp. 
+ So sánh trong bối cảnh chung của nền kinh tế: Đôi khi cần phải nhìn tổng 
thể chu kỳ kinh tế, điều này sẽ giúp nàh phân tích hiểu và dự đoán được tình 
hình công ty trong các điều kiện thay đổi khác nhau của nền kinh tế, ngay cả 
trong giai đoạn nền kinh tế suy thoái. 
 + So sánh với kết quả hoạt động trong quá khứ của doanh nghiệp : đây cũng là 
dạng so sánh thường gặp. So sánh dạng này tương tự như phân tích chuỗi thời 
gian để nhìn ra khuynh hướng cho các chỉ số. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 22 
3.1.2.7 Thương hiệu, sản phẩm và hệ thống phân phối - dịch vụ : 
 Thương hiệu: 
+ Trước đây, các sản phẩm thường gánh chịu trách nhiệm về số phận của một 
công ty. Nếu hàng hóa bán ra bị sụt giảm, doanh nghiệp sẽ kết luận sản phẩm của họ 
đang gặp thất bại. Ngày nay, các công ty không đổ lỗi cho sản phẩm mà là cho thương 
hiệu. Các thương hiệu trở nên quý giá hơn những tài sản hữu hình của chúng và cũng có 
nghĩa là chúng hoàn toàn có thể đánh mất giá trị này bất cứ lúc nào. Nếu hình ảnh 
thương hiệu bị vấy bẩn qua một vụ tai tiếng truyền thông, một sự kiện gây tranh luận 
hay ngay cả một lời đồn đại được rao truyền qua Internet thì một công ty cũng có thể 
thấy mình đang đối mặt với những nguy hiểm cận kề. Như vậy, việc thiết lập thương 
hiệu không còn đơn giản là một cách để tránh khỏi thất bại nữa. Nó là tất cả, các công ty 
sống hay chết là tùy thuộc vào sức mạnh thương hiệu của họ. 
+ Nhà đầu tư có thể chấp nhận trả giá cao hơn khi mua một loại cổ phiếu có 
thương hiệu (ví dụ như ACB…) 
 Giá chứng khoán cao hay thấp cũng phụ thuộc vào thương hiệu của loại chứng khoán 
đó, nó bắt nguồn công ty nào phát hành, nguồn gốc phát triển ra sao… 
3.1.2.8 HĐQT, Ban giám đốc, Ban kiểm soát : 
HĐQT, Ban giám đốc, Ban kiểm soát phải là những người có năng lực, công 
bằng, rõ ràng và có trách nhiệm trong mọi công tác, phải thống nhất nhau, đặc biệt là 
Ban kiểm soát vì chính họ là người cho biết mọi thông tin liên quan đến doanh nghiệp có 
chính xác không, thông tin này có thể làm ảnh hưởng xấu hay tốt đến giá cổ phiếu của 
doanh nghiệp. 
3.2 Phân tích kỹ thuật: 
3.2.1 Giới thiệu chung 
 Lịch sử hình thành : Lịch sử của Phân tích kỹ thuật bắt nguồn từ cách đây hơn 
100 năm. 
 Charles H. Dow (đưa ra chỉ số bình quân của giá đóng cửa của 11 cổ phiếu quan 
trọng nhất thị trường Mĩ, năm 1884) 
 William Peter Hamilton (tiếp tục nghiên cứu và xuất bản cuốn sách “The 
Stock Market Barometer” vào năm 1922). 
 Richard W. Schabacker năm 1920_1930 đưa ra khái niệm phân tích kĩ thuật. 
 Tiếp đó là Edward và Magee (người cha của Phân tích kỹ thuật) với “Technical 
Analysis of Stock Trend”. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 23 
 Bây giờ là : John Murphy, Jack Schwager, Martin Pring, … thì mới thực sự ra đời 
cái tên “Phân tích kỹ thuật ” và được nâng cao, tổng kết thành một hệ thống lý luận quan 
trọng trong phân tích đầu tư trên thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính 
nói chung. 
 Các quan điểm về Phân tích kỹ thuật: 
Nguyên lý của thành công trong đầu tư chứng khoán là dựa trên giả định rằng trong 
tương lai người ta sẽ tiếp tục lặp lại những sai lầm mà họ đã mắc phải trong quá khứ. 
(Edwin Lefevre, Reminiscenses of a Stock Operator). 
Thị trường chứng khoán hay bất kì thị trường nào đều không bao giờ phản ánh đúng 
giá trị thực của một hàng hóa được trao đổi bên trong đó mà nó phản ánh giá trị mà nhà 
đầu tư nhận thức được và cho rằng nó đáng giá như thế. 
Giá của bất kì một chứng khoán đã cho nào đều không chi ra mối quan hệ thực tế 
giữa cung và cầu mà là phản ánh kỳ vọng tương lai của cung và cầu. 
Hiểu một cách rộng nhất thì Phân tích kỹ thuật luôn cố gắng nghiên cứu tình trạng 
“sức khỏe hiện tại của toàn thị trường hay của mỗi chứng khoán với mục đích là nhằm 
dự báo biến động tương lai của giá bằng cách dựa trên những kinh nghiệm có được với 
các hình mẫu kĩ thuật (hay mô hình kĩ thuật) thị trường đã xuất hiện trong quá khứ và áp 
dụng lại khi có mô hình tương tự xuất hiện. Giả thuyết căn bản trong Phân tích kỹ thuật 
là những kiến thức đã có về giá và hình mẫu đồ thị trong quá khứ sẽ được sử dụng “tham 
khảo” nhằm xác định giá có xu thế như thế nào trong tương lai đối với mỗi thị trường cụ 
thể. 
 Những giả định cơ sở: 
“Biến động của thị trường” chỉ 3 yếu tố: biến động chính cung cấp thong tin cho 
quá trình Phân tích kỹ thuật là giá, khối lượng giao dịch và số lượng hợp đồng chưa tất 
toán (open interest). 
Có 3 giả định làm cơ sở cho việc tiếp cận Phân tích kỹ thuật: 
 Biến động thị trường phản ánh tất cả: Đây có thể coi là nền tảng của Phân 
tích kỹ thuật. Mọi lý thuyết, phân tích khác muốn được chấp nhận thì trước 
tiên phải hiểu và chấp nhận giả định này. Các nhà Phân tích kỹ thuật cho rằng 
bất cứ yếu tố nào có khả năng ảnh hưởng đến giá như tâm lý, chính trị hay các 
yếu tố tài chính của doanh nghiệp, tổ chức. . . đều được phản ánh rõ trong giá 
thị trường. Do đó có người cho rằng việc nghiên cứu biến động của giá là tất 
cả những gì ta cần và thực sự không thể phản đối lại ý kiến này. 
 Giá vận động theo xu thế: Khái niệm về xu thế là khái niệm vô cùng quan 
trọng trong Phân tích kỹ thuật do đó cần hiểu kĩ về giả định này trước khi 
muốn tìm hiểu sâu thêm về nó. Mục đích của việc xác lập đồ thị mô tả những 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 24 
biến động giá trên thị trường là nhằm xác định được sớm những xu thế giá, từ 
đó sẽ tham gia giao dịch trên cơ sở những xu thế này. Trên thực tế những kĩ 
thuật ở đây đều mang tính lặp lại những xu thế giá có từ trước tức là mục đích 
của Phân tích kỹ thuật là nhằm xác định sự lặp lại của những dạng biến động 
của giá đã xuất hiện trong quá khứ để có thể tận dụng kinh nghiệm và đưa ra 
những quyết định phù hợp. 
 Lịch sử sẽ tự lặp lại : Phần lớn nội dung của Phân tích kỹ thuật và việc nghiên 
cứu biến động thị trường đều phải nhằm vào nghiên cứu tâm lý con người. 
Chẳng hạn như những mô hình giá, những mô hình này đã được xác định và 
chứng minh từ hơn 100 năm nay, chúng giống như những bức tranh về đồ thị 
biến động giá. Những bức tranh này chỉ ra tâm lý của thị trường đang là lên 
giá hay xuống giá. Việc áp dụng những mô hình này đã phát huy hiệu quả 
trong quá khứ và được giả định rằng sẽ vẫn tiếp tục có hiệu quả trong tương 
lai bởi chúng dựa trên phân tích nghiên cứu tâm lý con người mà tâm lý con 
người thì thường không thay đổi. 
3.2.2 Phân tích chỉ số kỹ thuật: 
3.2.2.1 Chỉ số giá cổ phiếu: 
Hiện nay các nước trên thế giới dùng 5 phương pháp để tính chỉ số giá cổ phiếu, đó 
là : 
 Phương pháp Passcher: Đây là loại chỉ số giá cổ phiếu thông dụng nhất và nó là 
chỉ số giá bình quân gia quyền giá trị với khối lượng (quyền số) là số lượng 
chứng khoán niêm yết thời kì tính toán. Kết quả tính sẽ phụ thuộc vào cơ cấu 
khối lượng tính toán. 
Người ta dùng công thức sau để tính: 
Trong đó : Ip là chỉ số giá Passcher 
Pt là giá thời kì t 
Po là giá thời kì gốc 
Qt là khối lượng thời điểm tính hoặc cơ cấu của khối lượng thời điểm tính toán. Chỉ số 
bình quân Passcher là chỉ số giá bình quân gia quyền giá trị lấy khối lượng là khối lượng 
thời kì tính toán, vì vậy kết quả tính sẽ phụ thuộc vào cơ cấu khối lượng (cơ cấu chứng 
khoán niêm yết) thời điểm tính toán. Và các chỉ số KOSPI (Hàn Quốc), S&P500 (Mỹ), 
Ip = 
∑ Qt Pt / ∑QtPo 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 25 
FTSE100 (Anh), TOPIX (Nhật)…và VN- Index của Việt Nam áp dụng theo phương 
pháp này. 
 Phương pháp Laspeyres: Chỉ số giá bình quân Laspeyres là chỉ số giá bình quân 
gia quyền giá trị, lấy quyền số là số cổ phiếu niêm yết thời kì gốc. Như vậy kết 
quả tính sẽ phụ vào cơ cấu giá trị thời kì gốc: 
Trong đó : IL là chỉ số giá bình quân Laspeyres 
Pt là giá thời kì báo cáo 
Po là giá thời kì gốc 
Qo là khối lượng (quyền số) thời kì gốc hoặc cơ cấu của khối lượng C (số lượng cổ phiếu 
niêm yết) thời kì gốc. 
Có ít nước áp dụng phương pháp này, đó là chỉ số FAZ, DAX của Đức. 
 Chỉ số giá bình quân Fisher : Chỉ số giá bình quân Fisher là chỉ số giá bình quân 
nhân giữa chỉ số giá Passcher và chỉ số giá Laspeyres: phương pháp này trung 
hòa được yếu điểm của hai phương pháp trên, tức là giá trị chỉ số tính toán ra phụ 
thuộc vào khối lượng hoặc giá trị (quyền số) của cả 2 thời kì : kì gốc và kì tính 
toán. 
Trong đó: IF là chỉ số Fisher 
IP là chỉ số giá Passcher 
IL là chỉ số giá bình quân Laspeyres 
Về mặt lý luận có phương pháp này, nhưng trong thống kê chưa thấy nước nào áp dụng. 
 Phương pháp bình quân đơn giản : Ngoài các phương pháp trên , phương pháp 
tính giá bình quân đơn giản cũng thường được áp dụng. Công thức đơn giản là lấy 
tổng thị giá của chứng khoán chia cho số chứng tham gia tính toán : 
I F = (I P I L )1/2 
IL =
 ∑Qo Pt / ∑ Qo Po 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 26 
Trong đó : 
IP là giá bình quân 
Pi là giá Chứng khoán i 
n là số lượng chứng khoán đưa vào tính 
Các chỉ số họ Dow Jone của Mỹ, Nikkei225 của Nhật, MBI của Ý áp dụng phương pháp 
này. Phương pháp này sẽ tốt khi mức giá của các cổ phiếu tham gia niêm yết khá đồng 
đều,hay độ lệch chuẩn (s) của nó thấp. 
 Phương pháp bình quân nhân đơn giản : 
Cách tính : 
Chúng ta chỉ nên dùng loại chỉ số này khi lệch chuẩn khá cao, (s) cao. Các chỉ số : Value 
line (Mỹ), FT-30 (Anh) áp dụng phương pháp tính bình quân nhân đơn giản này. Tuy 
nhiêu về mặt lý luận, chúng ta có thể tính theo phương pháp bình quân cộng hoặc bình 
quân nhân gia quyền với quyền số là số chứng khoán niêm yết. Quyền số thường được 
dùng trong tính toán chỉ số giá cổ phiếu là số chứng khoán niêm yết. Riêng ở Đài Loan 
thì họ dùng số chứng khoán trong lưu thông làm quyền số, bởi vì tỷ lệ đầu tư của công 
chúng rất cao ( 80-90%) ở đây. 
3.2.2.2 Chỉ số chứng khoán Việt Nam 
Chỉ số chứng khoán là thước đo cơ bản nhất, cho thấy mức thay đổi giá chung 
của phiên giao dịch hiện hành so với phiên giao dịch liền kề trước đó, đặc trưng bởi 
điểm hoặc phần trăm: 
VN-Index = (tổng giá trị hiện hành cổ phiếu)/(tổng giá trị cổ phiếu ở thời điểm gốc) 
Trong đó, 
 ∑Q1P1 : Tổng giá trị tại thời điểm tính 
IP = (P Pi)1/2 
Ip(Pi ) /n 
VN-Index =  Q1P1Qo Po 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 27 
∑Q0 P0 : Tổng giá trị tại thời điểm gốc (Hệ số chia) 
P0 , P1 : Giá cả giao dịch thực tế tại thời điểm gốc và thời điểm tính. 
Q0 , P0 : Khối lượng cổ phần của công ty tại thời điểm gốc và thời điểm tính. 
Trong trường hợp có thay đổi số chứng khoán niêm yết, chẳng hạn thêm một loại cổ 
phiếu, chỉ số VN-Index được điều chỉnh: 
VN-Index = (tổng giá trị hiện hành cổ phiếu + giá trị điều chỉnh cổ phiếu)/(tổng giá 
trị cổ phiếu ở thời điểm gốc) 
Nếu có loại cổ phiếu rút khỏi thị trường chứng khoán, chỉ số VN-Index sẽ là: 
VN-Index = (tổng giá trị hiện hành cổ phiếu - giá trị điều chỉnh cổ phiếu)/(tổng giá 
trị cổ phiếu ở thời điểm gốc). 
3.2.3 Phân Tích Biểu Đồ Kỹ Thuật: 
3.2.3.1 Các loại biểu đồ: 
Hiện nay trên Thị trường chứng khoán các chuyên viên phân tích dùng rất nhiều 
các loại biểu đồ khác nhau để phân tích, trong đó có 3 loại biểu đồ được dùng một cách 
phổ biến nhất đó là: biểu đồ dạng đường (Line chart), biểu đồ dạng then chắn (Bar 
chart), biểu đồ dạng ống (Candlestick chart). 
 Biểu đồ dạng đường (Line chart) . 
Dạng biểu đồ này từ trước tới nay thường được sử dụng trên Thị trường chứng 
khoán, và cũng là loại biểu đồ được dùng một cách phổ biến nhất trong các ngành khoa 
học khác dùng để mô phỏng các hiện tượng kinh tế và xã hội…và nó cũng là loại biểu 
đồ được con người dùng trong thời gian lâu dài nhất. Nhưng hiện nay trên Thị trường 
chứng khoán do khoa học kỹ thuật phát triển, diễn biến của Thị trường chứng khoán 
ngày càng phức tạp cho nên loại biểu đồ này ngày càng ít được sử dụng nhất là trên các 
Thị trường chứng khoán hiện đại. Hiện nay nó chủ yếu được sử dụng trên các Thị trường 
chứng khoán mới đi vào hoạt động trong thời gian ngắn, khớp lệnh theo phương pháp 
khớp lệnh định kỳ theo từng phiên hoặc nhiều lần trong một phiên nhưng mức độ giao 
dịch chưa thể đạt được như Thị trường chứng khoán dùng phương pháp khớp lệnh liên 
tục.Ưu điểm của loại biểu đồ này là dễ sử dụng, lý do chính là vì nó được sử dụng trên 
tất cả các Thị trường chứng khoán trên khắp thế giới từ trước tới nay. Hiện nay loại biểu 
đồ này ít được sử dụng để phân tích trên các Thị trường chứng khoán hiện đại vì các Thị 
trường chứng khoán hiện đại ngày nay thường diễn biến khá phức tạp, mức độ dao động 
trong thời gian ngắn với độ lệch khá cao, nếu dùng loại biểu đồ này để phân tích thì 
thường mang lại hiệu quả thấp trong phân tích. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 28 
 Đồ thị biến động VNIndex 
Hiện nay trên các Thị trường chứng khoán hiện đại đang dùng một số loại biểu đồ 
trong Phân tích kỹ thuật mang lại hiệu quả cao đó là Bar chart và Candlestick chart. 
 Biểu đồ dạng then chắn (Bar chart). 
Ví dụ về dạng biểu đồ dạng then chắn (Bar chart): 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 29 
 Cổ phiếu General Electric (Mỹ) 
Trên các Thị trường chứng khoán hiện đại trên thế giới hiện nay các chuyên viên 
phân tích thường dùng loại biểu đồ này trong phân tích là chủ yếu lý do chính vì tính ưu 
việt của nó đó là sự phản ánh rõ nét sự biến động của giá chứng khoán. 
 Hai kí tự mà dạng biểu đồ này sử dụng đó là: 
Loại biểu đồ này thường được áp dụng để phân tích trên các Thị trường chứng khoán 
hiện đại khớp lệnh theo hình thức khớp lệnh liên tục, độ dao động của giá chứng khoán 
trong một phiên giao dịch là tương đối lớn. 
 Biểu đồ dạng ống (Candlestick chart) 
Ví dụ về dạng biểu đồ dạng ống (Candlestick chart): 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 30 
Đồ thị biến đông giá của YAHOO, (nguồn:  
Đây là dạng biểu đồ cải tiến của biểu đồ dạng then chắn (Bar chart), nó được 
người Nhật Bản khám phá và áp dụng trên Thị trường chứng khoán của họ đầu tiên. Giờ 
đây nó đang dần được phổ biến hầu hết trên các Thị trường chứng khoán hiện đại trên 
toàn thế giới. Dạng biểu đồ này phản ánh rõ nét nhất về sự biến động của giá chứng 
khoán trên thị trường chứng khoán khớp lệnh theo hình thức khớp lệnh định kỳ. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 31 
Hai kí tự mà loại biểu đồ này sử dụng là: 
3.2.4 Phân tích các đường biểu diễn 
3.2.4.1 Xu thế, Đường xu thế, Kênh 
 Xu thế: Xu thế gồm có cả xu thế giá tăng và xu thế giá giảm. Xu thế giá tăng 
gồm liên tiếp những đỉnh giá cao dần và đáy giá cao dần (đỉnh trước cao hơn 
đỉnh sau và đáy trước cao hơn đáy sau). Một xu thế giá tăng sẽ được coi là vẫn 
duy trì cho đến khi xuất hiện một đáy mới thấp hơn đáy trước nó. Ngược lại 
xu thế giá giảm cũng sẽ được coi là vẫn đang tiếp diễn cho đến khi xuất hiện 
một đỉnh mới cao hơn đỉnh trước nó. 
 Đường xu thế: Xu thế giá tăng và xu thế giá giảm cũng được nghiên cứu dưới 
dạng các đường xu thế. Với xu thế giá tăng ta có đường xu thế giá tăng, đây là 
đường nối các điểm đáy cao dần lên và đường xu thế giảm là đường nối các 
đỉnh thấp dần. Đường xu thế có thể kéo dài thậm chí nhiều năm. Qui trình vẽ 
một đường xu thế khá đơn giản nhưng cũng rất dễ nhầm. Điều căn bản là phải 
có những dấu hiệu chắc chắn về sự xuất hiện một xu thế giá. Khi muốn vẽ một 
xu thế giá tăng ta phải có ít nhất hai điểm đáy mà đáy sau cao hơn đáy trước. 
Tất nhiên điều kiện cần và đủ để có thể vẽ được một đường thẳng là phải có 
hai điểm, tuy nhiên người ta thường đợi cho đến khi xuất hiện một đáy thứ ba 
cao hơn hai đáy trước và đường xu thế đi qua cả 3 đáy (một cách tương đối). 
Điều này có nghĩa là đường xu thế có thể không đi qua đáy thứ ba mà chỉ đi 
sát, nhìn chung như thế là đạt yêu cầu. Nhưng một đường xu thế đi qua cả đáy 
bao giờ cũng được coi là một đường xu thế chính xác và có độ tin cậy cao. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 32 
Khi một đường xu thế đã được xác nhận về độ chính xác thì nó sẽ trở nên rất hữu 
ích bởi tính chính xác ấy đảm bảo chắc chắn hướng chuyển động ổn định của giá. Với xu 
thế giá tăng, sau mỗi đợt tăng biến động điều chỉnh xuất hiện sẽ kéo giá xuống sát hoặc 
đến đúng đường xu thế những sẽ không xuống thấp hơn nếu xu thế thị trường vẫn đang 
ổn định. Đường xu thế lúc này là biên thấp nhất của dao động giá. Tương tự, với thị 
trường đang có xu thế giá giảm thì đường xu thế sẽ là biên cao nhất cho mọi dao động 
giá. Như thế, các đường xu thế chính xác của thị trường sẽ là các biên dao động cơ sở để 
xác định mức giá mua và bán tối đa và tối thiểu hợp lý. 
Nếu chuyển động của đồ thị vượt lên đường xu thế giảm hoặc xuống dưới đường 
xu thế giá tăng thì đây là dấu hiệu, có thể nói là sớm nhất, cho sự thay đổi trong xu thế 
thị trường. 
 Kênh: Kênh là khoảng giao động của giá, nếu giá sẽ dao động trong một dải thì 
dải đó gọi là kênh. Dải dao động đó được xác định bởi hai đường biên là đường 
xu thế và đường kênh (channel line), hai đường này song song với nhau. Vấn đề 
là làm sao có thể xác định được hai đường này. 
Sau khi đã xác định được đường xu thế như trên, giả sử với xu thế giá tăng, ta vẽ 
đường kênh là một đường song song với đường xu thế và đi qua đỉnh giá rõ nhất đầu 
tiên. Nếu ở lần tăng giá tiếp theo giá tăng đến gần hoặc chạm vào đường kênh rồi lại 
giảm xuống đến gần đường xu thế thì khả năng có thể tồn tại một kênh dao động của giá. 
Với xu thế giá giảm việc vẽ và xác định kênh là hoàn toàn tương tự, tất nhiên là theo 
hướng ngược lại. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 33 
Mỗi lần giá chạm vào hoặc đến gần đường kênh rồi quay trở lại xuống đến đường 
xu thế là một lần kênh được kiểm tra thành công. Kênh tồn tại càng lâu với càng nhiều 
lần thử thành công thì vai trò cũng như độ tin cậy của nó càng lớn. Kênh có thể sử dụng 
cho kiếm lời trong ngắn hạn và thậm chí một số nhà đầu tư táo bạo còn sử dụng đường 
kênh để tiến hành những giao dịch ngược hướng với xu thế thị trường nhằm tìm kiếm 
những khoản lợi lớn hơn cho dù giao dịch ngược hướng thị trường có thể là một chiến 
thuật nguy hiểm và phải trả giá đắt. 
Khi chuyển động của giá trên thị trường phá vỡ đường xu thế thì có thể gây ra sự 
đảo chiều của xu thế thị trường, nhưng nếu đường kênh bị chuyển động của giá phá vỡ 
(khi giá vượt ra ngoài đường kênh) thì tác động lại hoàn toàn ngược lại: đây là dấu hiệu 
cho sự gia tăng sức mạnh của xu thế hiện tại, thậm chí một số nhà đầu tư tin tưởng rằng 
việc giá chuyển động làm mất đi đường kênh sẽ xác nhận cho một xu thế ổn định trong 
thời gian dài và là cơ hội cho những nhà đầu tư thực hiện những hợp đồng dài hạn. 
Ngược lại, khi giá không lên được đến đường kênh mà quay ngược trở lại quá 
sớm thì đây lại là dấu hiệu dự báo sớm sự suy giảm của xu thế hiện tại và là dấu hiệu 
cho thấy có thể chuyển động của giá sẽ phá vỡ đường xu thế. 
Nói chung việc chuyển động của giá không thể đạt đến sát một trong hai đường 
biêncủa kênh có thể là một dấu hiệu sớm cho thấy xu thế giá có thể thay đổi và khả 
năngchuyển động của giá có khả năng sẽ phá vỡ đường biên còn lại của kênh. Với xu thế 
giá tăng, có thể có hai trường hợp (trong các hình vẽ ở hai trường hợp này ta giả định 
ban đầu kênh đang có xu thế hướng lên- xu thế tăng giá, hoàn toàn tương tự nếu muốn 
xem xét đối với xu thế giá giảm). 
Nếu chuyển động của giá vượt qua đường kênh một khoảng lớn thì đây là dấu 
hiệu cho thấy xu thế lên giá đang mạnh lên, thường ta sẽ phải vẽ một đường xu thế mới 
dốc hơn từ điểm đáy cuối cùng song song với đường kênh mới. Thực tế cho thấy đường 
xu thế mới này hoạt động tốt hơn đường cũ. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 34 
Nếu giá không đạt được đến đường kênh và chuyển động phá vỡ đường xu thế thì 
điều này chỉ ra rằng xu thế thị trường đổi ch iều thành xu thế giá giảm. Hai đỉnh mới 
xuất hiện (đỉnh 5 và 7) sẽ là cơ sở để vẽ đường xu thế giá giảm, tương tự ta sẽ vẽ đường 
kênh song song đường xu thế và đi qua đáy 4. Chú ý là ở đây có sự đổi vai trò đường xu 
thế ban đầu trở thành đường kênh và ngược lại. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 35 
Ngoài ra kênh và các đường kênh còn mang một ý nghĩa khác: Khi giá chuyển 
động phá vỡ xu thế hiện tại - xuất hiện ‘breakout’ từ kênh hiện tại, giá thường sẽ chuyển 
động một khoảng bằng với độ rộng của kênh đó. 
Như thế, để xác định điểm dừng của chuyển động này ta có thể tính tương đối 
chính xác bằng cách đo độ rộng của kênh vừa bị phá vỡ và dự kiến điểm dừng từ điểm 
giá vượt ra ngoài kênh (Tuy nhiên cần luôn luôn lưu ý rằng trong hai đường biên của 
kênh thì đường xu thế luôn có vai trò quan trọng và đáng tin cậy hơn, đường kênh chỉ là 
một công cụ kĩ thuật xuất phát từ đường xu thế). 
3.2.4.2 Quá trình hình thành một xu thế thông thường. 
Giả sử một cổ phiếu đang trong xu thế tăng mạnh và tăng từ mức giá 12 lên đến 
24, đồng thời trên thị trường cũng đang có một khối lượng cổ phiếu lớn đang được chào 
bán. Kết quả của việc này là thị trường có thể phản ứng và hình thành một xu thế điều 
chỉnh trung gian (tạm thời), làm giá giảm xuống còn 18, hoặc cũng có thể phản ứng của 
thị trường làm xuất hiện hàng loạt những dao động nhỏ quanh mức, chẳng hạn, từ 24 
xuống đến 21 tạo thành một dạng hình mẫu mang tính củng cố xu thế hiện tại. Sau thời 
gian điều chỉnh hoặc củng cố này sẽ xuất hiện một đợt tăng giá mới và đưa giá lên đến 
30, tại đó cung lại đầy và dư, làm ngưng lại đợt tăng giá này. Lúc đó lại có thể xuất hiện 
một trong hai dạng mô hình điều chỉnh hay củng cố. Nếu xảy ra điều chỉnh, câu hỏi đặt 
ra là xu thế giảm tạm thời này sẽ xuất hiện ở mức nào? Câu trả lời là mức giá 24, đây là 
đỉnh đầu tiên của xu thế tăng giá chính (cấp 1) trên thị trường - mức giá này thấp hơn 
mức giá hiện tại và tại đó lại xuất hiện tổng giá trị giao dịch rất lớn. Khi đó nó đóng vai 
trò và hoạt động như một mức kháng cự, tạo ra sự ngưng tăng hay đảo chiều của đợt 
tăng giá đầu tiên. Sau khi bị vượt qua thì vai trò của nó lại là mức hỗ trợ, làm ngưng hay 
có thể đảo chiều, dù rất ít xu thế giảm giá đang diễn ra trên thị trường. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 36 
Một ví dụ tương tự đưa ra với một cổ phiếu đang trong xu thế giá giảm. Giả sử cổ 
phiếu đang ở một đỉnh lớn của toàn thị trường ở mức giá 70, giá giảm xuống còn 50. ở 
tại mức 50 xuất hiện một đỉnh điểm diễn ra các giao dịch nhưng chỉ mang tính tạm thời. 
Thị trường có tổng khối lượng giao dịch lớn, giá tăng lên, có thể lại trượt xuống một 
chút như một dạng kiểm tra mức giá 50 có thực sự là một điểm dừng quan trọng của thị 
trường hay không. Sau đó xuất hiện giai đoạn hồi phục đưa giá lên 60. Tại mức 60 sức 
mua yếu dần, xu thế giá đảo lại và đi xuống, giá sẽ giảm mạnh hơn ở đợt giảm mới này 
và làm xuất hiện một mức đáy thấp hơn là 42. Đến đây, lặp lại thời kỳ trước, nhu cầu 
mua lại tăng lên và lại xuất hiện quá trình hồi phục lần hai. Chúng ta có thể tự tin chờ 
đợt hồi phục từ mức giá 42 này lên sẽ tăng lên đến mức kháng cự (đã được kiểm tra là 
“mạnh”) đó là mức giá 50. ở đợt giảm lần đầu mức giá này đóng vai trò mức hỗ trợ, bây 
giờ nó đóng vai trò mức kháng cự, mức đáy lúc trước trở thành mức đỉnh của thị trường. 
Vậy ta đặt ra câu hỏi tại sao có sự chuyển vai trò ở hai ví dụ trên? Ta bắt với ví dụ 
thứ 2 trước. Giá đầu tiên giảm xuống đến 50 và xuất hiện khối lượng giao dịch tương đối 
lớn, rồi lại đảo chiều tăng lên 60 nhưng lực tăng yếu dần. Ở mức giá 50, rất nhiều cổ 
phiếu đã được giao dịch, với mỗi người bán đều có ít nhất một người mua tương ứng. 
Một số người đã mua nhưng với chủ định nắm giữ trong ngắn hạn và đã bán đi, bây giờ 
họ không còn quan tâm đến loại cổ phiếu này. Một số khác là những nhà đầu tư ngắn 
hạn và thậm chí cả một số chuyên gia có thể đã mua ở mức giá 50 bởi đơn giản là họ 
thấy thị trường đang ở một mức đáy tạm thời và mua với mong muốn kiếm lãi khi giá 
tăng lên theo dự kiến của họ, hoàn toàn có thể giả sử họ đã thực hiện được mục đích của 
mình và đã thoát ra khỏi thị trường trước khi giá tụt xuống dưới mức 50. Với đa số 
những nhà đầu tư còn lại, quyết định mua của họ là do họ thấy mức giá 50 là mức giá 
thấp đủ thảo mãn họ bởi chỉ vài tháng trước giá cổ phiếu được bán trên mức 70, rõ ràng 
50 là một mức giá hời, đồng thời họ cũng cho rằng giá sẽ lại lên và lên nữa trong thời 
gian dài. 
Nhưng hãy đặt mình vào vị trí của những người vừa mua cổ phiếu đó. Họ nhìn 
thấy giátăng hàng ngày, lên 55 rồi lên 58 rồi đến 60, những nhận định của họ lúc trước 
có vẻ đúng và họ vẫn tiếp tục nắm giữ cổ phiếu. Rồi xu thế tăng này yếu đi, giá lại giảm 
xuống còn 57, 55 rồi 52 rồi lại về 50. Họ có lo lắng một chút những rồi lại vẫn cho rằng 
50 là mức rất rẻ, vẫn hời, đặc biệt khi thị trường dừng lại ở mức giá 50 trong một thời 
gian ngắn. 
Rồi giá lại giảm tiếp phá vỡ mức giá 50. Lúc đầu có thể họ vẫn hi vọng đây chỉ là 
mức giảm tạm thời, là một chút biến động của giá và thị trường sẽ hồi phục nhanh 
chóng. Thế nhưng hi vọng ấy mất đi khi xu thế giảm giá vẫn tiếp tục và không hề tỏ ra là 
sẽ có điều chỉnh. Những nhầ đầu tư bắt đầu tỏ ra lo lắng, có điều gì đó không ổn đã xảy 
ra. Cho đến khi giá giảm còn 45, mức giá hời lúc trước không còn là một quả cam ngọt 
nữa mà là một quả chanh. 
Với ví dụ thứ nhất về xu thế tăng giá của thị trường. Khi giá tăng từ 12 đến 24 các 
nhà đầu tư đều cho rằng 24 là mức giá tương đối cao so với 12 (mức giá mà họ đã mua 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 37 
vào) do đó họ bán, khi mà sau đó giá giảm xuống một chút đến 20, họ đều tự chúc mừng 
cho sự sáng suốt của mình. Nhưng rồi xu thế giá lại đảo chiều, giá tăng vọt lên 30, họ sẽ 
không còn cảm thấy như vậy nữa. Họ ước gì mình vẫn nắm giữ cổ phiếu đó và có thể 
muốn mua lại cổ phiếu này, tất nhiên là không mua cao hơn 24, rõ ràng nếu giá giảm 
xuống còn 24 sẽ có rất nhiều nhà đầu tư lại mua vào với hi vọng kiếm lời nhiều hơn. 
Những ví dụ trên đây phản ánh một cách chung nhất tâm lý của những nhà đầu tư 
trên thị trường và tác động của họ tới việc hình thành cũng như sự chuyển vai trò của 
mức kháng cự và hỗ trợ. Qua đó ta cũng nhận thấy rằng tại một mức giá kháng cự hay 
hỗ trợ, nếu giá dao động quanh nó càng lâu thì vai trò và sức mạnh của nó càng lớn và 
một xu thế giá phải thực sự mạnh mới có thể phá vỡ hay vượt qua được nó. Một mức 
kháng cự hay hỗ trợ được duy trì càng lâu thì những biến động có khả năng vượt qua nó 
càng có ý nghĩa và có thể được coi là những dấu hiệu cho những biến động lớn của thị 
trường. 
Thêm một nhận xét nữa là khối lượng giao dịch cũng có ý nghĩa rất quan trọng 
trong xác định các mức kháng cự và hỗ trợ. Nếu mức kháng cự hay hỗ trợ hình thành mà 
không có dấu hiệu gì về sự thay đổi trong khối lượng giao dịch thì mức độ tin cậy cũng 
như độ bền vững của chúng là không cao. Trái lại nếu một mức hỗ trợ chẳng hạn được 
hình thành với khối lượng giao dịch rất lớn, điều này có nghĩa là tại đó nhu cầu giao dịch 
là rất lớn, rõ rang mức độ phản ánh cũng như ý nghĩa của nó là cao và quan trọng hơn 
nhiều. 
3.2.4.3 Mức hoàn lại - Khung giao dịch - Hỗ trợ và Kháng cự 
 Mức hoàn lại. 
Trong bất kì một đồ thị nào ta đều thấy sau một giai đoạn giá chuyển động theo xu 
thế của thị trường thì giá sẽ hoàn lại một chút trước khi quay trở lại chuyển động theo xu 
thế cũ. Những chuyển động ngược xu thế này thường có độ lớn ở vào những khoản có 
thể dự đoán được và được gọi là mức hoàn lại. Mức hoàn lại trung bình thường gặp nhất 
là 50%. Bên cạnh đó còn có các mức hoàn lại thường thấy khác đó là các mức 1/3 và 
2/3. Nói cách khác, nếu chia một xu thế giá thành ba phần thì nói mức hoàn lại thấp nhất 
là 33% và cao nhất là 66% có nghĩa là ở giai đoạn điều chỉnh của xu thế đó giá sẽ hoàn 
lại ít nhất 1/3 mức tăng (hay giảm) mà nó đạt được trong xu thế trước đó và mức hoàn 
lại đó không vượt quá 2/3 mức tăng (hay giảm) trước đó đạt được. Nếu mức hoàn lại cao 
hơn thì khả năng sẽ xảy ra sự đảo chiều thị trường tức là giá sẽ chuyển động theo xu thế 
đảo ngược xu thế trước mà không quay lại chuyển động theo xu thế đó. 
 Khung Giao Dịch. 
Thị trường có thể ở một trong 3 xu thế là xu thế tăng, xu thế giảm và xu thế dao động 
ngang. Nhiều người cho rằng thị trường chỉ có thể tăng hoặc giảm, nhưng thực tế có đến 
1/3 thời gian giá chuyển động theo một hình mẫu dạng ‘phẳng’ nằm ngang gọi là khung 
giao dịch. Khung giao dịch là một dải nằm ngang trên đồ thị trong đó bao gồm các dao 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 38 
động của giá trong một giai đoạn dài. Nói chung hầu hết các biến động của thị trường sẽ 
diễn ra bên trong khung giao dịch. Tuy nhiên khi thị trường có biến động dạng khung 
giao dịch thì lại rất khó kiếm được lợi nhuận. Khung giao dịch phản ánh thời kỳ mà áp 
lực cung cầu là tương đối cân bằng và giá duy trì ở mức cân bằng thị trường. Đôi khi 
người ta còn gọi thời kỳ mà giá biến động theo khung giao dịch là thời kỳ không có xu 
thế thị trường. Hầu hết các công cụ kinh tế đều được tạo ra để có thể áp dụng vào các thị 
trường có xu thế tăng hoặc giảm rõ rệt còn khi thị trường ở dang không có xu thế rõ rệt 
thì các công cụ này nhìn chung hoạt động kém hiệu quả, thậm chí là không thể áp dụng. 
Đây cũng chính là thời kỳ gây khó chịu nhất cho những người đi theo Phân tích kỹ thuật 
và gây ra nhiều lỗ nhất. Trong những tình huống ấy nhà đầu tư luôn phải đối mặt với 
một trong ba quyết định là mua, bán hay đứng ngoài không tham gia vào thị trường và 
thông thường thì quyết định không tham gia vào thị trường luôn là quyết định sáng suốt 
nhất. 
Thực tế cũng có một số phương pháp có thể áp dụng để kiếm lời khi thị trường xuất 
hiện dạng khung giao dịch, chẳng hạn như sử dụng các chỉ số dao động thị trường 
(Oscillators) mà ta sẽ nghiên cứu ở phần sau. Nhìn chung rất khó có thể dự đoán sự 
xuấthiện trong tương lai của mô hình khung giao dịch. Mô hình này cũng có thể kéo dài 
trong nhiều tháng, một năm hay nhiều năm. Cũng giống như kênh, khung giao dịch cũng 
có các đường biên bên trên và bên dưới, đây chính là các đường kháng cự và hỗ trợ của 
khung (ta sẽ nghiên cứu về kháng cự và hỗ trợ ở phần sau). Những “sự phá vỡ” (break 
out) ra ngoài khung có thể là các dấu hiệu quan trọng để tiến hành các giao dịch. Tuy 
nhiên cũng cần lưu ý bởi giá cũng thường dao động vượt ra ngoài khung nhưng chỉ với 
một lượng nhỏ, sau đó quay trở lại bên trong khung. Đôi khi nguyên nhân của hiện 
tượng này là do những lệnh dừng mà nhà đầu tư đã đặt và những lệnh này tác động đến 
những vùng giá nằm ngoài khung. Khi những lệnh này kết thúc thì giá sẽ trở lại dao 
động bên trong khung giao dịch nếu không có những lý do liên quan đến những yếu tố 
tài chính cơ bản hay có sự xuất hiện khối lượng giao dịch lớn duy trì sự vượt ra ấy. Nhìn 
chung nhà đầu tư không nên đi theo ngay những “breakout” mới xuất hiện mà nên chờ 
thêm một dao động tiếp theo xác nhận “breakout” này cho dù điều này có thể làm chậm 
lại một chút nhưng sẽ tránh được rất nhiều dấu hiệu sai và tránh được những khoản lỗ. 
 Hỗ trợ và kháng cự 
Việc nghiên cứu về mức hỗ trợ và kháng cự là một trong những vấn đề khá quan 
trọng đối với Phân tích kỹ thuật. Nó cho phép người nghiên cứu có thêm những cơ sở 
mới trong việc chọn các loại cổ phiếu để mua hay bán, trong dự đoán các biến động tiềm 
năng, trong việc chỉ ra những thời điểm mà thị trường có thể gây ra rắc rối cho nhà đầu 
tư. Trên thực tế, nhiều nhà đầu tư có kinh nghiệm đã xây dựng cho họ một “hệ thống đầu 
tư” riêng dựa hầu hết vào những nguyên lý về mức kháng cự và hỗ trợ. Việc nghiên cứu 
về mức kháng cự và hỗ trợ một cách đầy đủ cần rất nhiều thời gian và cần thêm nhiều 
yếu tố khác, người viết chỉ xin đưa ra một số khía cạnh cơ bản nhất với mục đích đưa ra 
cơ sở lý thuyết cơ bản nhất về khái niệm quan trọng này của Phân tích kỹ thuật. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 39 
Mức kháng cự và hỗ trợ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nghiên cứu phân tích 
các hình mẫu kỹ thuật. Những kiến thức cơ bản về mức kháng cự và hỗ trợ sẽ giúp 
người nghiên cứu dễ dàng hiểu bản chất và các ứng dụng của các hình mẫu đó. 
Mức hỗ trợ thường được dùng khá thông dụng. Trên thị trường phố Wall, bạn có 
thể nghe thấy việc một nhóm nhà đầu tư luôn sẵn sàng hỗ trợ thị trường bằng cách mua 
tất cả các chứng khoán chào bán nếu giá giảm 5 điểm. Vậy mức hỗ trợ là gì? Ta có thể 
định nghĩa mức hỗ trợ là việc mua thực tế hay khả năng mua với khối lượng đủ để làm 
ngưng lại xu thế giảm của giá trong một thời kỳ đáng kể (tương đối dài). Mức kháng cự 
lại ngược lại với mức hỗ trợ: đó là việc bán, trong thực tế hay tiềm năng, một khối lượng 
đủ để thoả mãn tất cả các mức chào mua, do đó, làm giá ngừng không tăng nữa trong 
một khoảng thời gian nhất định. Như thế mức kháng cự và hỗ trợ là gần giống theo thứ 
tự với khối lượng cầu và khối lượng cung. Mức hỗ trợ là mức giá ở đó mức cầu cho một 
cổ phiếu là đủ để, ít nhất là, làm dừng xu thế giảm giá của thị trường và cũng có thể đổi 
chiều xu thế đó, tức làlàm xu thế giá đi xuống quay ngược đi lên. Từ đó ta có định nghĩa 
về mức kháng cự, đó là mức giá mà ở đó lượng cung đủ để giá sẽ ngừng không tăng nữa 
và có thể chuyển động ngược lại đi xuống. Theo lý thuyết thì mỗi mức giá có một lượng 
cung và cầu nhất định. Nhưng khoản hỗ trợ thể hiện sự tập trung của cầu còn khoảng 
kháng cự thể hiện sự tập trung của cung. Như vậy với một hình mẫu giá nhất định, chẳng 
hạn ta xét với hình mẫu dạng hình chữ nhật (mô hình này phản ánh giai đoạn thị trường 
gồm rất nhiều những dao động nhỏ của giá theo hướng ngang đồ thị chứ không hướng 
lên hay hướng xuống rõ rệt, hai đường nối các đỉnh và các đáy của thị trường trong giai 
đoạn này gần như song song, không cần thiết phải song song 100% nhưng độ lệch phải 
rất nhỏ, hay có thể nói là một dạng của khung giao dịch), đường nối các đỉnh có thể coi 
là mức kháng cự, còn đường nối các đáy được coi là mức hỗ trợ. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 40 
Nhìn chung trong giai đoạn hai mức này còn phát huy hiệu lực thì giá sẽ không 
vượt quá mức kháng cự và không xuống dưới mức hỗ trợ. Nhưng với tư cách một nhà 
đầu tư ta sẽ quan tâm hơn đến việc xác định tại sao và yếu tố nào làm xuất hiện các mức 
kháng cự và hỗ trợ ở một mức giá nhất định. Các chuyên gia còn tập trung nghiên cứu 
thời điểm giá lên đạt đến mức kháng cự và khi nào giá xuống đến mức hỗ trợ. 
Cơ sở của những dự đoán này cũng là những dữ liệu cơ bản hình thành nên lý 
thuyết về hỗ trợ và kháng cự, đó là khi giá trị giao dịch có xu hướng bị tập trung tại một 
số mức giá có khối lượng các cổ phiếu được giao dịch lớn. Điều đáng chú ý là tại bất kì 
mức giá nào xuất hiện mức khối lượng giao dịch lớn thường đều trở thành điểm đảo 
chiều đối với xu thế hiện tại của thị trường và mọi điểm đảo chiều đều có xu hướng lặp 
đi lặp lại thường xuyên và hoàn toàn mang tính tự nhiên. Có một thực tế quan trọng mà 
nhiều khi một số người quan sát và phân tích biểu đồ một cách ngẫu nhiên không nhận 
ra đó là: những mức giá đó đang dần dần chuyển vai trò từ hỗ trợ thành kháng cự và 
ngược lại từ kháng cự thành hỗ trợ. Nếu như biến động của giá vượt qua một đỉnh giá đã 
được hình thành trước đó thì đỉnh này sẽ đóng vai trò là khoảng đáy của xu thế giảm giá 
(điều chỉnh) sẽ xuất hiện sau xu thế tăng hiện tại và một đáy sau khi đã bị giá vượt 
xuống dưới sẽ trở thành khoảng đỉnh của xu thế tăng sẽ xuất hiện ngay sau đó. 
3.2.4.4 Đường hỗ trợ và kháng cự: 
Có thể ở Việt Nam, khái niệm đường hỗ trợ, đường kháng cự còn rất lạ lẫm đối 
với nhiều nhà đầu tư song khái niệm này được nhắc tới và sử dụng rất phổ biến trong 
phân tích kĩ thuật, thậm chí còn coi là kim chỉ nam của nhiều nhà đầu tư cổ phiếu. Bài 
viết này nhằm cung cấp các kiến thức cơ bản nhất về mức hỗ trợ, mức kháng cự cũng 
như cách xác định các mức giá có khả năng xảy ra trong tương lai. 
Một trong những yếu tố quan trọng trong phân tích kĩ thuật đó là "giá cả của cổ 
phiếu chịu sự tác động mạnh mẽ của mức hỗ trợ và mức kháng cự". Hỗ trợ là thuật ngữ 
dùng để chỉ các tác động giữ cho giá cổ phiếu luôn cao hơn một mức nào đó, còn kháng 
cự ngược lại, là thuật ngữ được sử dụng để chỉ các tác động khiến cho giá cổ phiếu luôn 
thấp hơn một mức nhất định nào đó. Chúng ta thấy rằng lịch sử thường lặp lại, nếu trong 
quá khứ các mức giá đã từng đóng vai trò là giá kháng cự,thì chúng có xu hướng sẽ lặp 
lại vai trò đó trong tương lai. Việc biểu diễn được các đường hỗ trợ hay kháng cự trên đồ 
thị cổ phiếu sẽ giúp nhà đầu tư xác định được tầm quan trọng của chúng trong quá khứ 
cũng như tiên liệu được các biến động trong tương lai. Khi nhận thấy thị trường đang 
giao dịch với mức giá gần và hướng về các mức trên, ta có thể đưa ra một số dự báo hợp 
lý về giá cả cổ phiếu trong thời gian tới, từ đó có được các quyết định đầu tư cho riêng 
phù hợp theo yêu cầu của họ. 
Vậy thế nào là hỗ trợ, thế nào là kháng cự và hình thù của chúng trên các đồ thị 
cổ phiếu ra sao? Để giải quyết được câu hỏi này, hãy cùng quan sát một đồ thị có biểu 
diễn các đường kháng cự và đường hỗ trợ tại các mức giá hết sức rõ ràng và dễ nhận 
biết. Sử dụng các thông tin rút ra từ bảng này ta có thể biết được liệu các mức kháng cự 
hay hỗ trợ này có lặp lại không khi giá cổ phiếu có xu hướng chạm tới các mức giá đó. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 41 
Trước khi đi sâu tìm hiểu các biểu đồ ta làm rõ một số thuật ngữ và các nguyên nhân dẫn 
tới sự hình thành của các đường này. 
“ Hỗ trợ là việc mua, có thể trên thực tế hoặc tiềm năng, một khối lượng lớn cổ 
phiếu trong một giai đoạn nhất định nhằm ngăn chặn không cho giá của chúng giảm 
thêm nữa. Kháng cự, ngược với hỗ trợ, là việc bán một lượng lớn cổ phiếu nhằm đáp 
ứng các lệnh mua, khiến cho mức giá không tăng thêm nữa. Xét về quan hệ cung cầu thì 
hỗ trợ là mức giá mà tại đó cầu lớn hơn cung, còn kháng cự là mức giá tại đó cầu nhỏ 
hơn cung”. 
Robert Edwards và John Magee trong tác phẩm “Technical analysis of stock trend” (phân tích kĩ thuật 
xu thế biến động cổ phiếu). 
Hãy cùng quan sát bảng 1 để thấy rõ hơn. Đây là biểu đồ chứng khoán của công 
ty Rubbermaid từ tháng 6 năm 1997 đến tháng 9 năm 1998. Đồ thị thể hiện ba lần giá cổ 
phiếu lên cao hơn mức 27.5 điểm ( tại A ,B ,C), sau đó lại đảo chiều và giảm giá. Kế đó, 
sau khi vượt qua mức 27.5 điểm vào tháng 1 năm 1998 giá cổ phiếu lại tụt xuống (điểm 
D ,E ,F) trước khi tăng lên tới mức 35 điểm. Một đường thẳng được kẻ sao cho càng gần 
với cả sáu điểm này càng tốt. Trong bảng này, ta thấy mức giá đóng vai trò kháng cự tại 
điểm A-C, sau đó đảo chiều và đóng vai trò hỗ trợ tại điểm D-E. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 42 
Để giải thích được hành vi của thị trường, chúng ta cần phân tích rõ đồ thị này 
hơn chút nữa. Sau khi sụt giảm mạnh từ mức 30 điểm vào giữa tháng 7 năm 1997, giá cổ 
phiếu sau đó đã tăng lên mức 27.5 (điểm A) vào tháng 8, lại sụt giảm, rồi tăng lên mức 
27.25 điểm vào tháng 8, sau đó lại sụt giảm. Chu kì này lại tiếp diễn một lần nữa vào 
tháng 1 năm 1998, sau đó lại được đẩy từ mức 27.5 điểm lên mức 29.5 điểm vào tháng 
hai. 
Giả định rằng trước khi diễn ra sự sụt giá vào giữa tháng 7 năm 1997, các nhà đầu 
tư mua cổ phiếu ở mức giá dưới 30 điểm đã kiếm được một khoản lợi nhuận sau khi bán 
lại các cổ phiếu này cho các nhà đầu tư mới ở mức giá 30 điểm. Nhưng ngay sau đó, 
nhiều người trong số các cổ đông mới này đã đau khổ khi phải chứng kiến tiền đầu tư 
của mình bỗng nhiên giảm đi mất 15% chỉ sau một đêm ngắn ngủi (giá giảm xuống mức 
25.5 điểm) và đương nhiên ai cũng mong ngóng ngày giá tăng để giảm bớt khoản lỗ. 
Mặt khác, các nhà đầu tư đã lỡ cơ hội kiếm lời từ việc tăng giá ngay trước đó (từ 
thấp hơn 30 lên 30 điểm) thì lại coi đây là một cơ hội tốt để mua vào, đơn giản vì mới 
chỉ hai ngày trước đó, mức giá còn ngất ngưởng 30 điểm. Chính vì tâm lý này nên giá cổ 
phiếu đã tăng lên mức 27.5 (điểm A), và các cổ đông mua cổ phiếu ở mức giá 30 cũng 
nhẹ nhõm hơn một chút vì mức lỗ của họ chỉ còn 2.5 điểm thay vì 4.5 điểm như trước 
đây. Nhiều người chấp nhận mức lỗ này, và không muốn kéo dài tình trạng lo lắng cho 
túi tiền của mình, họ quyết định bán cổ phiếu ra, khiến cho giá sụt xuống. Chu trình này 
lặp lại (điểm B và C) cho đến khi một bộ phận lớn các nhà đầu tư không chấp nhận mức 
lỗ 2.5 điểm và vẫn quyết định nắm giữ cổ phiếu, khiến cho mức giá tiếp tục tăng và vượt 
qua mức 27.5 vào tháng 2 năm 1998, tiếp tục tăng lên mức 29.5 điểm. 
Tại mức giá này, nhiều nhà đầu tư cảm thấy hài lòng với quyết định nắm giữ cổ 
phiếu của mình, chấp nhận mức lỗ 0.5 điểm, lo sợ vì mức giá duy trì yếu trong thời gian 
dài, họ quyết định bán cổ phiếu, khiến cho giá lại giảm xuống mức 27.5 (điểm D). Hiện 
tượng này tiếp tục xảy ra thêm hai lần nữa (điểm E, F) cho đến khi những nhà đầu tư 
chấp nhận chịu mức lỗ nhỏ đã ra khỏi thị trường, lúc này giá cả lại được đẩy lên mức 30 
điểm vào tháng 5 năm 1998. 
Quá trình trên không chỉ xảy ra tại mức giá này mà nó xảy ra ngay tại mỗi mức 
giá cổ phiếu được giao dịch. Mặc dù điều này có vẻ quá đơn giản, nhưng đó là một trong 
những kiểu ra quyết định của các nhà đầu tư giúp hình thành nên mức hỗ trợ và mức 
kháng cự. Một vài nhân tố quan trọng hơn cả sẽ có ảnh hưởng lớn đến biểu hiện của giá 
cả, tuy nhiên nếu không tính tới các nhân tố này, các mức hỗ trợ và kháng cự này có thể 
có những tác động rõ rệt đến hình dạng của bảng biểu chứng khoán thường ngày. Nhưng 
quan trọng hơn cả, bằng cách kết hợp kiến thức về mức hỗ trợ, mức kháng cự cùng với 
các công cụ phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật khác, chúng ta có thể có những sự so 
sánh, dự đoán xu hướng biến động của giá cả, chớp thời cơ làm giàu, hơn là bị động 
gánh chịu và sửng sốt trước những biến đổi bất ngờ của nó. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 43 
Bảng thứ hai lại là một ví dụ khác, thể hiện biến động theo từng ngày của cổ 
phiếu OSSi (Outback Steakhouse). Kể từ đầu năm 1998 tới giữa tháng 2, giá cổ phiếu 
tăng từ 28.5 lên 34.5 điểm (tại A). Hãy chú ý tới phần đường biểu diễn nằm sát nhau 
ngay trên đường hỗ trợ được kẻ tại mức 34.5, và những biến động của giá cả trong vài 
tháng tiếp đó khi nó tăng giảm chạm mức hỗ trợ 4 lần tại B, C, D, E. Từ điểm E cho đến 
cuối tháng 7, giá tăng lên tới tận mức đỉnh điểm là 41(tại F), ngay sau đó lại tụt dốc rất 
nhanh xuyên qua đường hỗ trợ, xuống mức 32.5 vào đầu tháng 8. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 44 
Vì F là điểm cao nhất trong cả thời kì phân tích, ta sẽ kẻ một đường thẳng từ điểm 
G đến điểm E, kéo thẳng đường này sang phía phải (gọi là đường xu thế). Hãy chú ý 
rằng điểm dừng H trước ngày giá giảm từ 36 xuống 32.5 điển (I) nằm ngay trên đường 
này. Sự sụt giảm tương đối lớn ngay ngày sau đó cho thấy đường xu thế này đóng vai trò 
như một đường hỗ trợ, một khi vượt qua được "rào cản" này, giá sẽ rớt tự do. Đồng thời 
điều này cũng có nghĩa là đường hỗ trợ và kháng cự không nhất thiết phải là đường 
ngang, nó có thể là một đường xiên. Trên thực tế, cũng có thể coi chính các đường xu 
thế này như đường hỗ trợ hay kháng cự. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 45 
Quay lại với các điểm nằm trên đường hỗ trợ (A, B, C, D, E). Vì mức giá giảm 
xuống dưới 34.5 nên giá đã phá vỡ đường hỗ trợ và đường xu thế. Trong tháng 8 mức 
giá chủ yếu giao động nhẹ quanh mức 34.5, lúc này đường xu thế không còn đóng vai 
trò như một đường hỗ trợ nữa, nó đã đảo chiều và đóng vai trò như một đường kháng cự 
cho đến khi giá giảm xuống mức thấp hơn, đến tháng 9, cổ phiếu này được giao dịch ở 
mức 26. Mức độ quan trọng và đáng tin cậy trong việc dự đoán tương lai của đường hỗ 
trợ hay kháng cự trong phân tích kĩ thuật liên quan trực tiếp đến sô lần giá chạm tới các 
đường này và chuyển động ngược trở lại. Trong đồ thị số 4, có ít nhất là 7 lần giá đạt tới 
mức kháng cự/hỗ trợ và sau đó đảo chiều. Con số này chứng tỏ rằng các đường này rất 
có ý nghĩa và đáng tin cậy, có thể dùng để dự đoán các biến động của giá trong tương 
lai. Nó có đáng tin 100% không? Tất nhiên là không, chẳng có phương pháp phân tích 
nào lại đáng tin 100% bởi thị trường còn chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố, tuy nhiên 
theo như đồ thị này thì khả năng giá sẽ đảo chiều là rất lớn. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 46 
Theo đồ thị trên, khi mức giá không giữ xu thế tăng nữa, chúng ta sẽ kẻ một 
đường xu thế mới để thể hiện hướng biến động mới của giá cả. Một đường thẳng nối từ 
F, kéo dài qua J là đường xu thế mới. Một đường thẳng khác nối từ H, song song với 
đường xu thế trên có vẻ "bao trọn" được biên giao động của giá trong thời gian từ tháng 
7 đến tháng 9, đây chính là môt hình hỗ trợ-kháng cự đường xiên điển hình. 
 Nhìn chung, hỗ trợ và kháng cự không phải là công cụ dự đoán chính xác 100% 
sự biến động của giá cả trong tương lai, thay vào đó chúng là công cụ dùng để cảnh báo 
các nhà đầu tư về một số điểm cần xem xét thẩm tra kĩ càng. Bằng cách sử dụng đường 
hỗ trợ và kháng cự kèm với các chỉ số khác, chúng ta có thể biết được các tác động của 
chúng (nếu có) đối với giá cổ phiếu, với độ chính xác tuỳ theo số lần giá cả chạm mức 
kháng cự hay hỗ trợ. 
Tóm lại Phân tích kỹ thuật là một nghệ thuật nhìn nhận và cảm nhận được sự biến 
động của những động thái trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên nó không đơn giản vì 
còn quá mới ở Việt Nam khi sử dụng phân tích kỹ thuật và còn một số hạn chế trên thị 
trường và vấn đề pháp lý trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán. 
Các Nhân Tố A ̉nh Hưởng Đến Giá Chứng Khoán Page 47 
KẾT LUẬN 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn- CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ CHỨNG KHOÁN.pdf