Luận văn Bảo toàn và phát triển vốn tự có tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam

Tài liệu Luận văn Bảo toàn và phát triển vốn tự có tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam: Luận Văn Đề Tài: Bảo toàn và phát triển vốn tự có tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam LỜI  MỞ ĐẦU  1. SỰ  CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI  Tháng  12  năm  2008,  thế giới  tài  chính  toàn  cầu  sững  sốt  khi  nghe  tin  Lehmon Brother, một trong những ngân hàng đầu tư hàng đầu của Mỹ tuyên bố  phá sản. Điều này đã châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái  kinh tế tệ hại nhất kể từ cuộc đại suy thoái trong thập niên 30 của thế kỷ 19. Sự  sụp đổ của các tổ chức tài chính toàn cầu một thời là niềm kêu hãnh của quốc  gia có nền tài chính hùng mạnh nhất thế giới đem đến nhiều thắc mắc cho các  nhà kinh tế thế giới. Hàng loạt các câu hỏi, giả thuyết được đặt nhằm tìm hiểu  những lý do. Tuy nhiên, khi căn bệnh còn chưa kịp chuẩn đoán thì mức độ lây  lan càng  thêm nghiêm  trọng, khi mà chính phủ các nước giàu và nghèo cùng  nhau can thiệp bằng nhiều cách khác nhau để tránh một sự đổ vỡ mang tính dây  chuyền xảy ra.  Đến đây các nhà kinh tế cũng như những ngư...

pdf65 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1129 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Luận văn Bảo toàn và phát triển vốn tự có tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận Văn Đề Tài: Bảo toàn và phát triển vốn tự có tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam LỜI  MỞ ĐẦU  1. SỰ  CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI  Tháng  12  năm  2008,  thế giới  tài  chính  toàn  cầu  sững  sốt  khi  nghe  tin  Lehmon Brother, một trong những ngân hàng đầu tư hàng đầu của Mỹ tuyên bố  phá sản. Điều này đã châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái  kinh tế tệ hại nhất kể từ cuộc đại suy thoái trong thập niên 30 của thế kỷ 19. Sự  sụp đổ của các tổ chức tài chính toàn cầu một thời là niềm kêu hãnh của quốc  gia có nền tài chính hùng mạnh nhất thế giới đem đến nhiều thắc mắc cho các  nhà kinh tế thế giới. Hàng loạt các câu hỏi, giả thuyết được đặt nhằm tìm hiểu  những lý do. Tuy nhiên, khi căn bệnh còn chưa kịp chuẩn đoán thì mức độ lây  lan càng  thêm nghiêm  trọng, khi mà chính phủ các nước giàu và nghèo cùng  nhau can thiệp bằng nhiều cách khác nhau để tránh một sự đổ vỡ mang tính dây  chuyền xảy ra.  Đến đây các nhà kinh tế cũng như những người dân nộp thuế tự hỏi rằng:  sự kiểm soát tính hiệu quả của việc sử dụng những đồng vốn tại các tổ chức tài  chính  trong quá khứ như  thế nào? Các  chính  sách  kiểm  soát độ  an  toàn hoạt  động, mức độ rủi ro kinh doanh và đầu tư đã được theo dõi khoa học, chặt chẽ  hay chưa?…Rất nhiều các câu hỏi được đặt ra  trong các kỳ họp của hội đồng  kinh tế quốc gia hoặc khi Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) điều trần trước Quốc  hội.  Tại  Việt Nam,  mặc  dù  ảnh  hưởng  không  nhiều  từ  cuộc  khủng  hoảng  tài  chính toàn cầu (do chúng ta chưa đầu tư vào các sản phẩm tài chính phức tạp  của thế giới) nhưng nền kinh tế nói chung và các tổ chức tài chính trong nước  nói riêng cũng bị ảnh hưởng theo từ cuộc suy thoái kinh tế thế giới. Do đó việc  nhìn nhận lại các cơ chế hay chính sách quản lý rủi ro, quản lý vốn tại các ngân  hàng thương mại cổ phần là việc cần phải làm và nên làm trong giai đoạn hiện  nay khi mà cả thế giới đã có những thay đổi trong quan điểm về tái cơ cấu nền  tài chính toàn cầu cũng như các phương pháp quản lý, điều hành kinh tế. Và  đây cũng là một trong những lý do mà tôi chọn đề tài này: “ Bảo toàn và  phát triển vốn tự có tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam ”.  2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI  ­ Đánh giá việc bảo toàn và phát triển nguồn vốn tự có của các ngân hàng  thương mại cổ phần Việt Nam trong giai đoạn trong giai đoạn hội nhập kinh tế  toàn cầu và trước sự tác động của cuộc khủng hoãng tài chính thế giới.  ­ Chỉ ra các thực trạng trong công tác kiểm soát và phát triển nguồn vốn tự  có tại các ngân hàng thương mại cổ phần.  ­ Cuối  cùng  là đưa  ra  các đề  xuất  nhằm nâng  cao  hiệu  quả  công  tác  bảo  toàn và phát triển nguồn vốn tự có trong hoạt động của các ngân hàng thương  mại cổ phần Việt Nam.  3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU:  Đối  tượng được nghiên cứu của đề tài là nguồn vốn tự có trong phạm vi hoạt  động của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.  4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CÚU:  Phương pháp  nghiên cứu được sử dụng trong đề tài này là phương pháp phân  tích  thống  kê,  phương pháp  quy  nạp  và  kết  quả  nghiên  cứu  của một  số nhà  nghiên cứu khác.  5. KẾT CẤU LUẬN VĂN:  Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn được kết cấu làm 03 chương:  Chương  1:  TỔNG  QUAN  VỀ BẢO  TOÀN  VÀ PHÁT  TRIỂN  VỐN  TỰ  CÓ CỦA CÁC NHTMCP Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN  TỰ  CÓ TẠI CÁC NHTMCP VN  Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO Hiệu quả  CÔNG  TÁC  BẢO  TOÀN  VÀ  PHÁT  TRIỂN  VỐN  TỰ  CÓ  TẠI  CÁC  NHTMCP VN CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO TOÀN VÀ  PHÁT TRIỂN VỐN  TỰ CÓ  CỦA CÁC NHTMCP  1.1. KHÁI NIỆM VÀ CHỨC NĂNG CỦA CÁC NH TMCP  1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại  Ngân  hàng  trước  tiên  là một  tổ chức  trung  gian  tài  chính.  Trung  gian  tài  chính là  là một tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân thực hiện chức năng trung  gian giữa hai hay nhiều bên trong một hoạt động tài chính nhất định. Cũng có  thể hiểu theo một cách định nghĩa khác, trung gian tài chính là một tổ chức hỗ  trợ các kênh luân chuyển vốn giữa người cho vay và người đi vay theo phương  thức gián tiếp. Những tổ chức trung gian tài chính mà ta thường nghe nhắc đến  bao gồm: ngân hàng,  tổ chức công nghiệp/ hiệp hội,  tổ chức  tín dụng nghiệp  đoàn, đơn  vị  tư vấn/cố  vấn  tài  chính  và môi giới,  các  hình  thức  công  ty bảo  hiểm, quỹ tương hỗ, quỹ hưu trí. Ngân hàng có thể định nghĩa đơn giản là tổ  chức hoạt động kinh doanh cung  cấp  các dịch  vụ ngân hàng để  tìm kiếm  lợi  nhuận. Ngân hàng phát  triển  qua  nhiều  hình  thái,  theo  xu  thế  ngày  càng mở  rộng. Sự mở rộng  thể hiện ở lượng dịch vụ, quy mô dịch vụ và ở sự lan rộng  vượt  ra ngoài mọi  biên  giới  địa  lý. Ngày  nay  người  ta  nhắc  đến  những  khái  niệm là ngân hàng bán lẻ, ngân hàng bán buôn, ngân hàng đầu tư…Ngân hàng  bán lẻ chỉ những hệ thống ngân hàng lớn, nhiều chi nhánh mà đối tượng phục  vụ thường là các khách hàng cá nhân, đơn vị riêng lẻ và tập trung và các dịch  vụ là tiết kiệm, tạo tài khoản giao dịch, thanh toán, thế chấp , cho vay các các  nhân, các  loại  thẻ  tín dụng…Ngân hàng bán buôn là  loại ngân hàng chỉ cung  cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp, làm vai trò trung gian cho các doanh nghiệp.  1.1.2 Khái niệm ngân hàng thương mại cổ  phần  Ngân  hàng  thương mại  cổ phần  là  các  ngân  hàng  hoạt  động  kinh  doanh,  thương mại theo mô hình cổ phần và tuân theo các luật riêng của Chính phủ và  các  quy  chế,  quy  định  của  Ngân  hàng  nhà  nước  khi  hoạt  động.  Ngân  hàng  thương mại cổ phần có những đặc thù khác biệt với các ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại liên doanh và chi nhánh ngân hàng thương  mại nước ngoài.  1.1.3 Chức năng của NHTMCP  Chức năng tập trung vốn của nền kinh tế: Trong nền kinh tế có những chủ  thể có dư tiền và khoản tiền đó chưa được sử dụng một cách triệt để (ví dụ như  vẫn còn cất giấu trong nhà chưa được mang ra lưu thông) nhưng họ cũng muốn  tiền này sinh lời cho mình và họ nghĩ là cho vay và có những chủ thể cần tiền  để hoạt động kinh doanh. Nhưng những chủ thể này không quen biết nhau và  cũng  có  thể  không  tin  tưởng  nhau  nên  tiền  vẫn  chưa  được  lưu  thông.  Ngân  hàng thương mại với vai trò trung gian của mình, nhận tiền từ người muốn cho  vay,  trả  lãi cho họ và đem số tiền ấy cho người muốn vay vay lại. Thực hiện  được điều này NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền  kinh tế, mặt khác với số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền  kinh  tế để  sản xuất kinh doanh. Qua đó nó thúc đẩy nền kinh  tế phát  triển và  NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay và với số lãi suất chênh lệch  có được nó sẽ duy trì hoạt động của mình. Vai trò trung gian này trở nên phong  phú hơn  với  việc  phát  hành  thêm  cổ phiếu,  trái  phiếu,… NHTM  có thể làm  trung  gian  giữa  công  ty  và  các  nhà  đầu  tư,  chuyển  giao  mệnh  lệnh  trên  thị  trường chứng khoán, đảm nhận việc mua trái phiếu công ty…  Chức năng làm trung gian thanh toán và  quản lý các phương tiện thanh  toán: Chức năng này có nghĩa là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản  hay chi  trả tiền theo lệnh của chủ tài khoản. Khi các khách hàng gởi  tiền vào  ngân hàng, họ sẽ được đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu  chi một cách nhanh chóng tiện lợi, nhất là đối với các khỏan thanh tóan có giá  trị lớn, ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém khó khăn và  không an toàn (ví dụ: chi phí lưu thông, vận chuyển, bảo quản…)  Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ  lưu thông  và độc quyền quản lý các công cụ  đó (séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán…) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều vể chi phí  lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân  chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa. Ở các nước phát triển phần  lớn thanh toán được thực hiện qua séc và được thực hiện bằng việc bù trừ thông  qua hệ thống ngân hàng thương mại. Ngoài ra việc thực hiện chức năng là thủ  quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán đã tạo  cơ sở cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay.  Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển việc sử  dụng hình thức chuyển  tiền bằng đện tử là chuyện bình thường và chính điều này đưa đến việc không  sử dụng séc ngân hàng mà dùng thẻ như thẻ tín dụng. Họ thanh toán bằng cách  nối mạng các máy vi tính của các ngân hàng thương mại  trong nước nhằm thực  hiện  chuyển  vốn  từ  tài  khoản  người  này  sang  người  khác  một  cách  nhanh  chóng.  Chức  năng  tạo  ra  tiền  ngân  hàng  trong  hệ  thống  ngân  hàng  hai  cấp:  Vào cuối thế kỷ 19 hệ thống ngân hàng hai cấp được hình thành, các ngân hàng  không còn họat động riêng lẽ nữa mà tạo thành hệ thống, trong đó ngân hàng  trung ương là cơ quan quản lý về tiền tệ,  tín dụng là ngân hàng của các ngân  hàng. Các ngân hàng còn lại kinh doanh tiền tệ, nhờ họat động trong hệ thống  các NHTM đã tạo ra bút tệ thay thế cho tiền mặt.  1.2  KHÁI  NIỆM,  CHỨC  NĂNG  VÀ PHÂN  LOẠI  VỐN  TỰ  CÓ NHTMCP  1.2.1. Khái niệm vốn  tự có:  vốn  tự  có  là nguồn vốn ban đầu để một doanh  nghiệp bắt đầu  tiến hành quá  trình hoạt động. Hay nói các khác vốn  tự có  là  nguồn vốn riệng của ngân hàng do chủ sở hữu đóng góp và nó còn được tạo ra  trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ lại. Nguồn vốn này quyết  định quy mô hoạt động của một ngân hàng cũng như các khả năng bảo vệ chính  tổ chức sinh ra nguồn vốn này trong suốt quá trình hoạt động. 1.2.2. Chức năng của vốn tự có  Trong  hoạt động  của một  ngân  hàng,  nguồn  vốn  có  vai  trò hết  sức  quan  trọng. Ngoài việc giúp duy trì hoạt động kinh doanh hằng ngày của ngân hàng,  một ngân hàng với  nguồn vốn phong phú giúp  tạo nên  tính  thanh khoản  cho  toàn hệ thống tài chính thông qua các kênh phân phối vốn lại  trên thị  trường,  thực hiện các chỉ tiêu kinh tế của chính phủ trong từng thời kỳ cụ thể cũng như  các chiến lược kinh tế cơ bản của Nhà nước.  Trong tương quan so sách quy mô hoạt động của các ngân hàng trong nước  và các  ngân  hàng  trong  khu  vực,  nguồn  vốn  là chỉ tiêu  so  sánh  cơ bản  giúp  phản  ánh sức mạnh, tiềm lực của từng ngân hàng cũng như khả năng chống đỡ  các cú sốc tài chính nếu xảy ra. Từ đó, giúp phân loại, xếp hạng các ngân hàng  với nhau để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, các chuyên gia kinh tế, các nhà  quản  lý…đánh  giá,  lựa  chọn,  tìm  cơ  hội  đầu  tư  và  giám  sát  tốt  hơn  nền  tài  chính của quốc gia.  Bởi  vì  là thành  phần  cơ bản  trong  nguồn  vốn  của  ngân  hàng  nên  vốn  tự có đóng vai  trò rất quan  trọng  trong chức năng chung của nguồn vốn ngân  hàng.  Và chức  năng  của  vốn  tự có giúp  chúng  ra  có  cái  nhìn  sâu  hơn,  cụ thể hơn về chức năng của nguồn vốn. theo đó, bản thân vốn tự có có thêm  các chức năng chính sau đây: ·  Chức  năng  bảo  vệ: Trong  hoạt  đông  kinh  doanh  có  rất  nhiều  rủi  ro,  những rủi ro này khi xảy ra sẽ gây ra những thiệt hại lớn cho ngân hàng,  đôi khi nó có thể dẫn ngân hàng đến chỗ phá sản. Khi đó vốn tự có sẽ  giúp ngân hàng bù đắp được những thiệt hại phát sinh và đảm bảo cho  ngân hàng tránh khỏi nguy cơ trên.  Trong một số trường hợp ngân hàng  mất  khả  năng  chi  trả  thì  vốn  tự  có  sẽ  được  sử  dụng  để  hoàn  trả  cho  khách  hàng. Ngoài  ra,  do  mối  quan  hệ  hỗ  tương  giữa  ngân  hàng  với  khách hàng, vốn tự có còn có chức năng bảo vệ cho khách hàng không  bị mất vốn khi gửi tiền tại ngân hàng. ·  Chức năng hoạt động:  Thể hiện ở chổ vốn tự có có thể được sử dụng để  cho vay, hùn vốn hoặc đầu tư chứng khoán nhằm mang lại lợi nhuận cho  ngân hàng. Tuy nhiên, do vốn tự có chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng  nguồn vốn kinh doanh nên lợi nhuận mà nó mang  lại  cũng không cao.  Vì vậy chức năng hoạt đông ở đây cũng chỉ là thứ yếu. ·  Chức năng điều chỉnh:  Vốn tự có là đối tượng mà các cơ quan quản lý  ngân hàng thường hướng vào đó để ban hành những quy định nhằm điều  chỉnh hoạt  động  của  các ngân  hàng,  là  tiêu  chuẩn để  xác định  tính  an  toàn  (ví dụ như các ngân hàng không được đầu  tư vào  tài  sản cố định  vượt qúa 50% vốn của ngân hàng). Vốn tự có còn là căn cứ để xác định  và điều chỉnh các giới hạn hoạt động nhằm đảm bảo ngân hàng an toàn  trong kinh doanh.  1.2.3 Phân loại vốn tự có:  Vốn  tự có của các ngân hàng thương mại được chia ra làm cấp : ·  Vốn cấp 1 bao gồm vốn điều lệ và các quỹ dự trữ . Ở VN, vốn cấp 1 về  cơ  bản  gồm  (i)  vốn điều  lệ,  (ii)  lợi  nhuận  giữ  lại,  (iii)  các  quỹ  dự  trữ  được lập trên cơ sở trích lập từ lợi nhuận của các tổ chức tín dụng như  quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư  phát  triển. Theo Quyết Định 457/2005/QĐ­NHNN ngày 19/4/2005 của  Ngân hàng Nhà nước, vốn cấp 1 được dung để xác định giới hạn mua,  đầu tư vào tài sản cố định của tổ chức tín dụng ( theo quy định hiện hành  là không quá 50%). ·  Vốn cấp 2 là các nguồn vốn tự bổ sung hoặc có nguồn gốc từ bên ngoài  của tổ chức tín dụng. Ở VN, vốn cấp 2 về cơ bản bao gồm (i) phần giá  trị tăng thêm do định giá lại tài sản của tổ chức tín dụng ( bao gồm 50%  giá trị  tăng thêm đối với  tài sản cố định, 40% giá trị  tăng thêm đối với  các  loại  chứng khoán đầu  tư),  (ii) nguồn vốn gia  tăng hoặc bổ sung  từ  bên ngoài  (bao  gồm  trái phiếu  chuyển  đổi,  cổ phiếu  ưu đãi  và một  số  công cụ nợ  thứ cấp nhất định) và  (iii) dự phòng chung cho  rủi  ro  tính dụng  (tối  đa  bằng  1,25%  tổng  tài  sản  “Có”  rủi  ro). Tuy  nhiên, Quyết  Định  457/2005/QĐ­NHNN  ngày  19/4/2005  của  Ngân  hàng  Nhà  nước  đưa ra một số hạn chế về vốn cấp 2. Ngoài một số điều kiện khác, tổng  giá trị vốn cấp 2 tối đa bằng 100% tổng giá trị vốn cấp 1 và tổng gía trị  trái  phiếu  chuyển  đổi,  cổ phiếu  ưu đãi  và  các  công  cụ nợ  khác  tối  đa  bằng 50% vốn cấp 1.  Việc xác định vốn tự có theo hai cấp theo Quyết  định 457/2005/QĐ­NHNN  ngày 19/04/2005 của Ngân hàng Nhà nước sẽ cho phép các ngân hàng thương  mại trong nước tính toán cụ thể và nâng cao được mức vốn tự có của mình vốn  dĩ trước đây phần lớn chỉ được tính trên cơ sở vốn cấp 1. Do đó, hiện nay các  tổ chức tín dụng cũng sẽ dễ dàng hơn trong việc tuân thủ các tỷ lệ an toàn tính  trên cơ sở vốn tự có.  Ngoài ra một điều đáng lưu ý là: các tổ chức tín dụng phải  trừ ra khỏi vốn  tự có của mình (i) toàn bộ phần giá trị giảm đi của các tài sản cố định hay các  chứng khoán đầu tư do định giá lại, (ii) tổng số vốn góp hoặc cổ phần trong tổ  chức tín dụng khác, (iii) phần góp vốn,  liên doanh, mua cổ phần của quỹ đầu  tư,  doanh nghiệp  vượt mức  15%  vốn  tự  có,  và  (iv)  lỗ  kinh  doanh kể  cả  các  khoản lỗ luỹ kế.  1.3 CÁC BIỆN PHÁP BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN TỰ CÓ CỦA  CÁC NHTMCP  1.3.1 Nguồn bên ngoài ·Phát hành cổ phiếu thường:  Ưu điểm: Không phải hoàn  trả cho người mua cổ phiếu, cổ  tức của cổ phiếu  thường không phải là gánh nặng về tài chính cho ngân hàng trong những năm  làm ăn thua lỗ. Phương pháp này làm tăng quy mô vốn nên cũng làm tăng khả  năng vay nợ của ngân hàng trong tương lai. Nhược  điểm:  Chi  phí  cao  và  có  thể  làm  loãng  quyền  sở  hữu  ngân  hàng  (Dulution), giảm mức cổ  tức trên mỗi cổ phiếu (Earning per share),  làm giảm  tỷ lệ đòn bẩy tài chính mà ngân hàng có thể tận dụng. ·Phát hành cổ  phiếu ưu đãi vĩnh viễn:  Ưu  điểm:  Không phải  hoàn  trả  vốn  và  không  làm phân  tán  quyền  kiểm  soát  ngân hàng, tăng khả năng vay nợ của ngân hàng trong tương lai.  Nhược  điểm:  Cổ  tức  phải  trả  cho  các  cổ  đông  là  gánh  nặng  tài  chính  trong  những năm ngân hàng bị thua lỗ, chi phí phát hành cao, giảm mức cổ tức trên  mỗi cổ phiếu. ·Phát hành giấy nợ thứ cấp (thời hạn tối thiểu 7 năm):  Ưu điểm: Chi phí thấp và không làm phân tán quyền kiểm soát của ngân hàng.  Đây là phương pháp hiệu qủa vì trái phiếu này được các nhà đầu tư ưa chuộng  trên thị trường.  Nhược điểm: Phải hoàn  trả cho người mua  trái phiếu khi đến hạn,  lãi  trả cho  trái phiếu là gánh nặng cho ngân hàng về tài chính.  Ngân  hàng  còn  có thể thực  hiện  các  biện  pháp  tăng  vốn  từ nguồn  bên  ngoài  khác như bán tài sản và  thuê lại, chuyển đổi chứng khoán nợ thành cổ phiếu...  1.3.2 Nguồn bên trong:  Chủ yếu do tăng lợi nhuận giữ lại. Đây là lợi nhuận ngân hàng đạt được trong  năm, nhưng không chia cho các cổ đông mà giữ lại để tăng vốn.  Ưu điểm: Không tốn kém chi phí, không làm loãng quyền kiểm soát ngân hàng  và không phải hoàn trả. Phương pháp này giúp ngân hàng không phụ thuộc vào  thị trường vốn nên tránh được chi phí huy động vốn. Nhược điểm: Chỉ áp dụng với các ngân hàng lớn, làm ăn có lãi liên tục và đều  đặn. Hình thức này không thể áp dụng thường xuyên vì nó làm ảnh hưởng đến  quyền lợi của cổ đông.  Phương pháp này phụ thuộc vào: ·  Chính sách cổ  tức  của  ngân hàng: Chính  sách này cho biết ngân hàng  cần phải giữ  lại bao nhiêu  thu nhập để  tăng vốn phục vụ cho mở  rộng  kinh doanh và bao nhiêu thu nhập sẽ được chia cho các cổ đông.  Ta có:  Mức  thu  nhập  giữ  lại  Tỷ  lệ thu  nhập  giữ lại  (Lợi  nhuận  không  chia)  =  Thu nhập sau thuế  Tổng  giá trị  cổ tức Tỷ lệ chi  trả cổ tức  =  Thu  nhập  sau  thuế  Tỷ lệ  thu nhập giữ lại quá thấp sẽ làm cho mức tăng trưởng vốn ngân hàng sẽ  chậm,  dẫn  đến  giảm  khả năng mở  rộng  tài  sản  sinh  lời,  tăng  rủi  ro  phá  sản.  Ngược lại, nếu tỷ lệ thu nhập giữ lại quá lớn sẽ làm giảm thu nhập của cổ đông  dẫn đến thị giá cổ phiếu của ngân hàng bị giảm. ·  Tốc độ  tăng vốn  từ nguồn nội bộ: Một  tỷ  lệ  tăng  trưởng vốn  từ nguồn  nội  bộ  lý  tưởng phải đáp ứng  cả  hai  yêu  cầu: Một  là, ngân hàng  tăng  trưởng được tài sản có (đặc biệt là các khoản cho vay); hai là, không làm  suy giảm quá mức tỷ số vốn/tài sản của ngân hàng.  Ở VN, các tổ chức tín dụng có thể dùng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ để tăng  vốn điều lệ của mình theo Quyết định 797/2002/QĐ­NHNN ngày 29 tháng 07  năm 2002 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam ký ban hành. Theo  đó, tại điều 22 có sửa đổi lại như sau: “Vốn điều lệ của Ngân hàng thương mại  cổ phần có thể được tăng bằng cách phát hành cổ phiếu mới hoặc được bổ sung  từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, đánh giá lại tài sản cố định và các quỹ khác  theo quy định của pháp luật nhưng phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua  và  phải được Ngân hàng Nhà nước  chấp  thuận bằng  văn  bản  trước  khi  thực  hiện.”  Kết luận chương 1  Qua phần trình trong chương 1 cho chúng ta cái nhìn cơ bản về  những khái  niệm, đặc điểm, chức năng của các ngân hàng  thương mại cổ phần. Gắn  liền  với quá trình hình thành và phát triển của các ngân hàng thương mại thì nguồn  vốn tự có ban đầu là yếu tố vô cùng quan trọng. Vì thế các khái quát về công  tác bảo  toàn và phát  triển vốn  tự có giúp cho chúng  ta hiểu  rõ hơn  tầm quan  trọng của nhân tố cơ bản này. Và từ đây giúp chúng ta có những hiểu biết ban  đầu về các đối tượng được đưa ra nghiên cứu trong chương này trước khi đi sâu  vào các thực trạng đang tồn tài ở chương tiếp theo. CHƯƠNG  2:  THỰC  TRẠNG  CÔNG  TÁC  BẢO  TOÀN  VÀ  PHÁT  TRIỂN VỐN TỰ CÓ TẠI CÁC NHTMCP VIỆT NAM HIỆN NAY  2.1 KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ  PHÁT TRIỂN CỦA  HỆ THỐNG NHTMCP VN:  Cho đến nay, ngành ngân hàng nước ta đã trải qua 59 năm (1951 đến nay)  xây  dựng  và phát  triển,  với  nhiều  chặng  đường  gay  go  và phức  tạp  nhưng  vẫn ổn định  và phát  triển  tốt. Đặc biệt  là  chặng đường  từ năm 1986  cho đến  nay, chặng đường đổi mới căn bản và toàn diện của hệ thống ngân hàng VN.  Thực hiện đường  lối đổi mới  toàn diện  theo  tinh  thần của Đại hội Đảng  toàn  quốc lần thứ VI (năm1986), Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là Thủ tướng  chính phủ)  ký  quyết  định  số 218/CT ngày  3.7.1987  cho  làm  thử việc  chuyển  hoạt động ngân  hàng  sang hạch  toán  kinh  tế và  kinh  doanh Xã hộ  chủ  nghĩa  HCN (làm thử đầu tiên tại TP.HCM từ tháng 7.1987, Hà Nội, Gia Lai...), sau  đó tổng kết và Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng đã ban hành Nghị định 53/HĐBT  ngày 26.3.1988 đổi mới mô hình tổ chức bộ máy ngân hàng Việt Nam, với sự  ra đời của hệ thống ngân hàng chuyên doanh. Đến năm 1990, cơ chế đổi mới  ngân hàng được hoàn thiện  thông qua việc công bố hai Pháp  lệnh ngân hàng  vào ngày 24.5.1990  (Pháp  lệnh Ngân hàng Nhà nước VN và Pháp  lệnh ngân  hàng, hợp  tác xã  tín dụng và công  ty tài chính) đã chính  thức chuyển cơ chế  hoạt  động  của hệ  thống Ngân Hàng Việt Nam  từ  “một  cấp”  sang  “hai  cấp”.  Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về  tiền  tệ,  tín dụng,  thanh  toán, ngoại hối  và  ngân hàng,  là ngân hàng duy nhất  được  phát  hành,  là  ngân  hàng  của  các  ngân  hàng,  là  ngân  hàng  của  Nhà  nước…, còn hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng do các  tổ chức tín dụng thực hiện. Các tổ chức tín dụng bao gồm: ngân hàng thương  mại  quốc  doanh,  ngân  hàng  thương mại  cổ phần,  ngân  hàng  liên  doanh,  chi  nhánh ngân  hàng nước ngoài,  hợp  tác  xã  tín  dụng,  công  ty  tài  chính.  Tháng  12.1997 trước yêu cầu cao của thực tiễn hai Pháp lệnh ngân hàng đã được Quốc  hội nâng lên thành hai luật về ngân hàng (có hiệu lực từ ngày 1.10.1998) và sau  đó Luật NHNN và Luật  các TCTD được  sửa  đổi  và bổ  sung vào năm 2003, 2004.  Như  vậy, hệ thống ngân hàng thương mại VN đã chính thức đánh dấu  sự ra đời và phát triển khoảng trên 20 năm (từ 1990 đến nay). Trải qua chặng  đường  trên, hệ  thống NHTM VN đã không ngừng phát  triển về quy mô  (vốn  điều lệ không ngừng gia tăng, mạng lưới chi nhánh…), chất lượng hoạt động và  hiệu  quả  trong  kinh  doanh.  Mạng  lưới  ngân  hàng  thương mại VN  đến  cuối  năm  2009 đã  có  những buớc phát  triển mạnh phủ  khắp  quận  huyện  và  hình  thành cả trong các trường học. Hệ thống NHTM ở nước ta bao gồm: 5 NHTM  nhà nước (Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng đầu tư và phát  triển VN,  Ngân  hàng  phát  triển VN,  Ngân  hàng  nông  nghiệp  và  phát  triển  nông  thôn,  Ngân hàng phát  triển nhà đồng bằng sông Cửu Long), 39 NHTM cổ phần đô  thị và nông thôn, 24 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 05 ngân hàng liên doanh,  05 ngân hàng 100% vốn tại VN và 01 Quỹ tín dụng nhân dân. Vốn điều lệ của  các NHTM VN không ngừng gia tăng, NHTMNN sau nhiều lần bổ sung vốn đã  nâng tổng vốn chủ sở hữu của 05 NHTMNN lên trên 20.000 tỷ đồng tăng gấp 3  lần so với thời điểm cuối năm 2000. Vốn điều lệ của NHTMCP được gia tăng  đáng kể từ lợi nhuận giữ lại, sáp nhập, các quỹ bổ sung vốn điều lệ, phát hành  thêm  cổ phiếu…  từ  đó  giúp  tổng  vốn  điều  lệ  NHTMCP  đến  cuối  năm 2009  tăng rất nhanh 2000, nhiều NHTMCP có vốn điều lệ trên 1000 tỷ đồng.  2.2 KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NHTMCPVN  2.2.1 Điểm mạnh và điểm yếu của các ngân hàng Việt Nam khi gia nhập  WTO:  Nói  đến điểm mạnh của các ngân hàng trong nước trước hết  là mạng lưới  hoạt động. Các NHTM trong nước có một mạng lưới rộng khắp thông qua các  chi nhánh và sở giao dịch. Thứ hai, các ngân hàng trong nước đã thiết lập được  mối quan hệ với các hệ thống các khách hàng. Mỗi ngân hàng đã có hệ thống  khách hàng truyền thống để chăm sóc và ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ từ  nhiều năm, đặc biệt  là khối các ngân hàng thương mại nhà nước. Thứ ba, với  thâm  niên  hoạt  động  của mình,  các  ngân hàng  nội địa  rất  am  hiểu  tập  quán phong  tục,  tâm  lý khách hàng Việt Nam. Đây  là một  lợi  thế  trong việc chăm  sóc khách hàng.  Các ngân hàng trong nước vẫn còn nhiều hạn chế: Thứ  nhất, năng lực tài  chính  của  các  ngân  hàng  nội địa  còn  rất  non  yếu.  Theo  dự đoán  của VAFI  ­  Hiệp hội các nhà đầu tư Tài chính Việt Nam, quy mô  trung bình của hệ thống  ngân  hàng  thương mại Việt Nam  5  năm  tới  chỉ  vào  khoảng 100  triệu USD/  ngân hàng, đây là khoảng cách rất xa so với mức trung bình 1­2 tỷ USD/ngân  hàng  ở  các  nước  trong  khu  vực.  Thứ hai,  các  ngân  hàng nước  ngoài  có  thể  mạnh về  cung cấp dịch  vụ,  trong  khi đó  các ngân hàng nội địa  chủ  yếu  hoạt  động  trong  lĩnh  vực  tín  dụng.  Theo HSBC, doanh  thu  từ  thanh  toán  quốc  tế  chiếm 1/3 tổng doanh thu của ngân hàng này, khách hàng là các công ty Việt  Nam cách đây 3 năm chỉ chiếm 3%, nay đã chiếm 50% trên tổng số khách hàng  của HSBC, dự đoán 3 năm nữa tăng lên 70%. Thứ ba, là vấn đề công nghệ. Các  ngân hàng nước ngoài vượt khá xa về trình độ công nghệ ngân hàng với các hệ  thống  máy  móc  thiết  bị  cũng  như  các  ứng  dụng  công  nghệ  thông  tin  trong  nghiệp vụ ngân hàng. Và thứ tư là trình độ quản lý. Yếu tố này liên quan đến  vấn đề nhân sự. Việt Nam còn thiếu rất nhiều các chuyên gia cao cấp trong lĩnh  vực ngân hàng. Điều này không những đáng lo ngại cho các ngân hàng nội địa  trong vấn đề quản  lý ngân hàng mà còn  là nguy cơ cạnh  tranh nhân  lực giữa  các ngân hàng sẽ đẩy chi phí tiền lương, tiền công lao động lên cao. Các ngân  hàng trong nước sẽ gặp khó khăn và phải đối mặt với sự chảy máu chất xám.  Bên cạnh những điểm hạn chế hay còn gọi là những nguy cơ tiềm ẩn nêu trên,  các ngân hàng trong nước còn gặp phải vấn đề đáng lo ngại nữa là thị phần co  hẹp.  2.2.2 Động thái của các NHTMCP VN: ·  Thứ  nhất,  các  ngân  hàng  nội  địa  đã  tăng  vốn  điều  lệ.  Giải  pháp  này  nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm rủi ro, nâng cao tiềm lực tài  chính. Theo dự báo của các chuyên gia, trong năm 2007, các ngân hàng  TMCP có  vốn  điều  lệ  1.000  tỉ  đồng  sẽ  chiếm  trên 80%  tổng  số  ngân hàng đang hoạt động. Bên cạnh giải pháp tăng vốn điều lệ, một số ngân  hàng thương mại cổ phần nông thôn trong năm 2006 đã được Ngân hàng  Nhà nước cho phép chuyển đổi mô hình hoạt động từ ngân hàng thương  mại cổ phần nông thôn sang ngân hàng thương mại cổ phần đô thị. Tuy  nhiên, giải pháp tăng vốn điều lệ không tránh khỏi  tình trạng các ngân  hàng tận dụng cơ hội để phát hành cổ phiếu ồ ạt. Việc này có thể không  tốt nếu tỉ  lệ an toàn vốn quá cao (được tính bằng tỉ  lệ vốn điều lệ  trên  tổng tài sản). ·  Thứ  hai,  các  NHTMCP đua nhau  bán  lại  cổ  phần  cho  các  ngân  hàng  nước ngoài. Đứng trước một sân chơi lớn với sự cạnh tranh khốc liệt khi  hội  nhập  vào WTO  và  tận dụng  giai  đoạn  chứng  khoán  bùng nổ  cuối  năm 2007, các ngân hàng TMCP Việt Nam tranh thủ phát hành cổ phiếu  để  tăng  vốn  để  thu  về  sự  chênh  lệch  giá  trị  lớn  và  học  hỏi  các  kinh  nhiệm quản lý tiên tiến, chuyên nghiệp từ các cổ đông nước ngoài trong  thành phần cổ đông chiến lược của ngân hàng Việt Nam. Ta có thể kể  đến một  số  ngân  hàng  TMCP Việt  Nam  đi  theo  con  đường  này  như:  ACB  bán  cổ  phần  cho  Standard  chartered,  Sacombank  thì  chọn ANZ,  Techcombank  thì  có  HSBC,  Habubank  thích  cổ  đông  đến  từ  Đức  –  Deustche bank, Sumitomo chọn Eximbank là đối tác chiến lược trong số  các ngân hàng nội địa hay Southern bank hợp tác với UOB (Singapore)  để cùng nhau phát triển lâu dài… ·  Thứ ba,  các  ngân  hàng  nội  địa  liên  tục  tìm  cách  đa dạng hoá  các  sản  phẩm  dịch  vụ  bằng  cách  hợp  tác  phát  triển  với  các  ngân  hàng  nước  ngoài;  Citibank  kết  hợp  với  NHTMCP Đông  á  về  phát  triển  dịch  vụ  ngân  hàng  bán  lẻ  và  chuyển  kiều  hối;  Hợp  tác  về  liên  kết  thẻ  giữa  VNBC Việt Nam với China Union Pay, một liên kết thẻ lớn nhất và duy  nhất của Trung Quốc, các ngân hàng trong nước cũng đang nắm bắt nhu  cầu của khách hàng để đưa ra các dịch vụ chuyển tiền nhanh. Ngân hàng  ACB kết hợp với Western Union, ngân hàng Công thương cung cấp dịch  vụ kiều hối qua máy rút tiền tự động và hợp tác với Wells­Fargo. Ngân  hàng Đông á với chương trình chuyển tiền kiều hối MoneyGram. ·  Thứ tư, Việt Nam đẩy mạnh hợp tác thành lập ngân hàng liên doanh và  công ty tài chính liên doanh. ·  Thứ năm, một trong những yếu tố quan trọng nữa mà các ngân hàng nội  địa đang cố gắng hành động đó  là  tăng cường đội ngũ nhân  lực  thông  qua  cải  thiện  các  chế  độ  lương  thưởng,  trợ  cấp  cho  nhân  viên để  giữ  chân nhân viên cũ và tìm kiếm những chuyên viên giỏi.  2.2.3 Khái quát tình hình hoạt động của các NHTMCP VN  Là  trung tâm kinh tế lớn nhất và sôi động nhất cả nước, tính đến hết tháng  10­2007, tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại và tổ chức  tín dụng trên địa bàn thành phồ Hồ Chí Minh đạt 437.000 tỷ đồng, tăng 53% so  với cuối năm 2006 và tăng tới 73% so với cùng kỳ năm trước. Đây là mức tăng  lớn nhất từ trước tới nay.  Trong  số đó  thì vốn  huy  động  bằng  nội  tệ đạt  322.706  tỷ đồng,  vốn  huy  động ngoại tệ quy đổi đạt 114.294 tỷ đồng, chiếm 26,1%. Dự báo đến hết năm  2007,  tổng  nguồn  vốn  huy  động  trên  địa  bàn  thành  phố  Hồ  Chí  Minh  đạt  460.000  ­ 465.000  tỷ  đồng,  tăng 62­65% so với  cuối năm 2006. Tại Hà Nội,  tính  đến  hết  tháng  10­2007,  tổng  nguồn  vốn  huy  động  của  các  Ngân  hàng  thương mại và tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội đạt 326.624 tỷ  đồng, tăng 34,54% so với cuối năm 2006, đây là mức tăng lớn nhất trong nhiều  năm. Cũng tính đến hết tháng 10­2007, tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng  thương mại và tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ước tính  đạt 345.000 tỷ đồng, tăng 50% so với cuối năm 2006 và tăng 63% so với cùng  kỳ này năm trước.  Nếu  phân  theo  tiền  tệ thì dư nợ cho  vay  bằng  nội  tệ đạt  241.155  tỷ đồng,  dư nợ  cho  vay  bằng  ngoại  tệ đạt  103.445  tỷ đồng.  Phân  theo  kỳ hạn  thì dư nợ cho  vay  ngắn  hạn  đạt  209.647  tỷ đồng,  dư nợ trung  và  dài  hạn đạt  135.353 tỷ đồng. Do tỷ giá  ổn định,  lãi suất cho vay ngoại  tệ chỉ bằng 50% ­  60% mức lãi suất cho vay nội tệ nên nhiều doanh nghiệp thích vay vốn ngoại tệ hơn, ngược lại người gửi tiền thì thích gửi bằng nội tệ hơn vì lãi suất tiền gửi  cùng kỳ hạn của nội tệ cao gấp 2 lần tiền gửi ngoại tệ. Tại Hà Nội, dư nợ cho  vay cũng tăng với tốc độ rất lớn. Tính đến hết tháng 10­2007, tổng dư nợ cho  vay đạt 163.838 tỷ đồng,  tăng 37,44% so với cuối năm 2006. Dự báo đến hết  năm 2007, dư nợ cho vay sẽ đạt 171.000 ­ 174.000 tỷ đồng, tăng 45% ­ 48% so  với cuối năm trước. Đây cũng là mức tăng cao nhất từ trước đến nay và vượt xa  nhiều so với dự báo từ đầu năm của các ngân hàng. Một số ngân hàng thương  mại cổ phần sẽ có mức tăng trưởng dư nợ tới 55% đến 65%.  Về  cơ cấu dư nợ phân theo thời hạn, cho vay ngắn hạn đạt 100.089 tỷ đồng,  tăng 33,50% và dư  nợ cho vay trung dài hạn đạt 63.749 tỷ đồng, tăng 44,10%.  Tín dụng  trung dài hạn  tăng  cao hơn ngắn hạn  chứng  tỏ nhu  cầu  vốn đầu  tư  chiều sâu, đầu tư cho mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng nhà xưởng,  lắp  đặt trang thiết bị mới và hiện đại tăng lên.  Một nguyên nhân khác, vốn đầu tư cho các khu công nghiệp, khu chế xuất,  khu đô thị mới, dự án nhà  ở, vốn cho vay mua nhà chung cư, mua ô tô, phương  tiện vận chuyển, máy móc thiết bị thi công, xây dựng khách sạn, văn phòng cho  thuê, trung tâm thương mại, siêu thị.... cũng tăng cao.  Về  cơ cấu  dư nợ theo  tiền  tệ,  dư nợ  cho  vay  bằng  nội  tệ đạt  100.092  tỷ đồng, tăng 38,8% và dư nợ cho vay ngoại tệ đạt 34,72%. Nguyên nhân dư nợ  cho vay nội tệ cao hơn ngoại tệ cũng tương tự như ở thành phố Hồ Chí Minh.  Không chỉ riêng Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh mà trong cả nước nhất là  những tỉnh, thành phố lớn có tốc độ công nghiệp hoá nhanh, các luồng vốn huy  động,  thanh  toán,  cho  vay,...  của  hệ  thống  ngân  hàng  cũng  có  tốc  độ  tăng  trưởng cao ngoài dự kiến.  Tại  TP.HCM,  trung  tâm  tài  chính  ­  tiền  tệ lớn nhất  và  sôi động nhất  của  cả nước, nếu như cách đây 4 năm, các Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTM  CP)  còn ở yếu  thế,  thị phần  hoạt động  chỉ bằng  1/2  so  với  các  NHTM  Nhà nước thì  đến nay đã vượt lên trên. Nếu như các NHTM CP có tốc độ tăng trưởng bền vững từ 60% ­ 120% mỗi năm thì các NHTM Nhà nước dường như  đang bị hụt hơi,  tăng trưởng  ì ạch với  tốc độ bình quân chỉ khoảng dưới 20%  mỗi năm. Ngoài ra quy mô vốn chủ sỡ hữu của các ngân hàng ngày càng mở  rộng. Tại TP.HCM, tính đến nay có 18 NHTM CP, tức là các ngân hàng có hội  sở  chính  và  đăng  ký  kinh  doanh  theo  giấy  phép  được  cấp.  Bên  cạnh  đó  còn  hàng trăm chi nhánh NHTM CP của các tỉnh, thành phố khác đang hoạt động,  tham  gia  cạnh  tranh  ở  đây.  Chỉ  tính  riêng 18 NHTM CP  có  trụ  sở  chính  tại  TP.HCM, ước tính đến hết tháng 12/2007, có tổng số vốn chủ sở hữu, bao gồm  vốn điều lệ và các quỹ đạt 24.407 tỷ đồng, tăng 43,1% so với cuối năm 2006.  Trong đó riêng vốn điều lệ đạt 18.766 tỷ đồng, tăng 94,6% so với năm trước và  gấp hơn 2 lần các NHTM CP ở Hà Nội.  Nếu xét về thị phần giữa ngân hàng quốc doanh và  cổ phần thì có sự khác  biệt đáng kể. Ước  tính đến hết  tháng 12/2007,  tổng số  vốn huy động của các  NHTM CP tại TP.HCM đạt 204.411 tỷ  đồng, chiếm 46,9% tổng thị phần huy  động vốn của các ngân hàng trên địa bàn. Trong khi đó các NHTM Nhà nước  vốn  cách  đây  4  năm  còn  chiếm  trên  50%  thị  phần  thì  nay  chỉ  còn  chiếm  35,09%. Các  chi  nhánh Ngân  hàng  nước  ngoài  trước  đây  thường  chỉ  chiếm  12% ­ 13%  thì đến nay chiếm 15,85%. Các Ngân hàng  liên doanh chỉ chiếm  2,48%; tỷ trọng thị phần còn lại các Công ty tài chính, Công ty tài chính và quỹ  tín dụng nhân dân.  Trong khi  đó  tính  đến hết  năm 2006,  tổng nguồn vốn huy động  của khối  NHTM Nhà nước đạt 112.947  tỷ đồng, chiếm 43,49% so với  tổng nguồn vốn  huy động của ngành ngân hàng trên địa bàn, giảm khoảng 4% so với năm 2005.  Khối NHTM cổ phần đạt 99.013 tỷ đồng, chiếm 38,13% và tăng thêm tỷ trọng  thị phần 4,21% so với năm 2005 và tăng trên 10%so với năm 2004. Khối Ngân  hàng  liên doanh đạt 6.655  tỷ  đồng,  chiếm 2,56%; khối chi nhánh Ngân hàng  nước  ngoài đạt  39.560  tỷ  đồng,  chiếm 15,23%; các  công  ty  tài  chính  và  cho  thuê tài chính đạt 1.530 tỷ đồng, chiếm 0.59%. Thị  phần  huy  động  vốn  trong  năm  2007  của  các  NHTM  CP  tăng  lên  nguyên nhân hàng đầu là lãi suất và chính sách khuyến mại hấp dẫn hơn, mạng  lưới được mở rộng, hoạt động quảng bá thương hiệu được triển khai hiệu quả.  Đặc biệt là uy tín, lòng tin của người dân, của khách hàng đối với các NHTM  CP  tăng  lên. Nguyên nhân  là  cho  thị phần  tín dụng của  các NHTM CP  tăng  mạnh trong năm 2007 đó là cùng với lợi thế nói trên đã phân tích ở phần huy  động vốn của các NHTM CP, thì sự năng động tìm kiếm khách hàng. Đặc biệt  là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, linh hoạt trong cho vay, đa dạng hoạt động tín  dụng tiêu dùng, đổi mới quản trị điều hành tín dụng,…là những nguyên nhân  quan trọng làm cho thị phần cho vay của khối ngân hàng này tăng vững chắc.  Trong  khi  đó  các NHTM Nhà nước  thì kém  linh hoạt,  bị  khống  chế tăng  trưởng  dư nợ,  một  số chi  nhánh  có nợ xấu  cao  tập  trung  cho  nâng  cao  chất  lượng tín dụng, cơ chế tiền lương và thu nhập không có tính chất khuyến khích  cho  vay,…đang  làm  cho  khối  ngân  hàng  này  dường  như  “bị  hụt  hơi”  trong  cạnh tranh trên thị trường tín dụng.  Như  là kết qủa tất yếu, khối ngân hàng thương mại cổ phần chiếm gần 50%  thị phần lợi nhuận trên cơ sở nhiều lợi thế cạnh tranh. Tạm thời lấy số liệu đến  hết tháng 9­2007, tổng lợi nhuận trước thuế của các Ngân hàng trên địa bàn TP  HCM đạt 9.013 tỷ đồng, bằng 142,6% so với năm 2006. Trong đó khối NHTM  Nhà  nước  chỉ  chiếm  34,2%,  khối  NHTMCP  chiếm  48,1%,  chi  nhánh  Ngân  hàng nước ngoài chiếm 14,2% và Ngân hàng liên doanh chiếm 3,5%. Không  chỉ chiếm thị phần lớn về cạnh tranh trong lĩnh vực huy động vốn, cho vay, mở  rộng  màng  lưới,  khối  NHTMCP  còn  chiếm  thị  phần  lớn  về  hiệu  quả  kinh  doanh, tức là tổng lợi nhuận trước thuế trong toàn khối ngân hàng.  Kết quả  đó do nhiều nguyên nhân: ·  Nguyên nhân thứ nhất đó là kết quả về mở rộng và đa dạng hoá các dịch  vụ  ngân  hàng  bán  lẻ  tiện  ích,  như  dịch  vụ  thẻ,  kiều  hối,  thanh  toán,  chuyển tiền, kinh doanh vàng,… ·  Nguyên nhân  thứ hai  đó  là đa dạng hoá danh mục  tài  sản  có, đa dạng  hoá  danh mục đầu  tư,  tăng  tỷ  trọng  đầu  tư  vào  giấy  tờ  có giá,  đầu  tư  chứng khoán, đầu  tư mua  cổ phần  của  các  doanh nghiệp  khác, đầu  tư  trên thị trường tiền gửi quốc tế, đầu tư trên thị trường liên ngân hàng,… ·  Nguyên nhân thứ ba là thành lập các Công ty trực thuộc. Những công ty  này hạch toán độc lập, kinh doanh có hiệu quả. ·  Nguyên nhân  thứ  tư  là đầu  tư vào  thị  trường bất động sản, đặc biệt  là  văn phòng cho thuê. ·  Nguyên nhân thứ năm là hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, tăng tốc độ  xử lý công việc, tự động hoá nhiều khâu nghiệp vụ, nên tiết kiệm được  chi phí lao động và tiết kiệm được nhiều chi phí khác. ·  Nguyên nhân  cuối  cùng đó  là nâng  cao  chất  lượng nguồn nhân  lực  và  nâng cao năng suất lao động, làm cho doanh số thu nhập của ngân hàng  tăng nhanh hơn chi phí về nguồn nhân lực. Đây cũng chính là các lợi thế  cạnh tranh của các ngân hàng thương mại cổ phần so với các ngân hàng  thương mại Nhà nước.  Trong khi đó các NHTM Nhà nước  thì "bận rộn" và  "loay hoay" mất quá  nhiều thời gian, công sức và chờ đợi triển khai cổ phần hoá, lo xử lý nợ xấu và  chờ đợi sắp xếp lại chi nhánh, mạng lưới. Trong quản trị điều hành bị lệ thuộc  quá nhiều vào hội  sở chính ở Trung ương  thiếu quyền chủ động. Cơ chế  tiền  lương  và  thu  nhập  không  khuyến  khích  tính  năng  động,  sáng  tạo  trong  kinh  doanh.  Bộ máy  cồng  kềnh,  chất  lượng  nguồn  nhân  lực  hạn  chế… Đó  cũng  chính là điểm yếu, điểm bất lợi của các ngân hàng thương mại Nhà nước trong  cạnh tranh.  Với xu hướng nói  trên trong năm 2008 và một số năm tới, các NHTM CP  tiếp  tục  có sự bứt  phá,  vươn  lên mạnh mẽ trong  cạnh  tranh,  còn  các  NHTM  Nhà nước tiếp tục bận bịu quá nhiều với việc cổ phần hoá cũng như những lực  cản khác, nên sẽ  tiếp tục bị "hụt hơi" trong cuộc đua trên thị trường tài chính –  tiền tệ, ít nhất là ở địa bàn TP.HCM. 2.3 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BÀO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN TỰ  CÓ CỦA CÁC NHTMCP VN  2.3.1  Sự  cần  thiết  và nội  dung  của  công  tác  bảo  toàn và  phát  triển  vốn  tự có  Công  tác  bảo  toàn  vốn  tự có của  các ngân  hàng  thương mại  cổ phần Việt  Nam hiện nay chủ yếu dựa vào các Quyết định, Công văn điều chỉnh của Ngân  hàng  nhà nước  và Thủ tướng  chính  phủ.  Việc  bảo  toàn  và phát  triển  vốn  tự có là  việc đảm bảo an  toàn cho nguồn vốn  tự có  trong suốt quá  trình hoạt  động và ngày càng được bổ sung thêm vào nguồn vốn ban đầu. Theo đó các  ngân hàng phải sử dụng nguồn vốn tự có của mình sao cho hiệu quả và ngày  càng mở  rộng  thêm nguồn vốn này để đáp ứng cho các yêu cầu của cơ quan  quản lý trong quá trình hội nhập.  Các ngân hàng TMCP Việt Nam bảo toàn và phát triển vốn tự có của mình  dựa vào Quyết định 457/2005­NHNN ngày 19/04/2005 về việc ban  hành quy  định  về các  tỷ lệ bảo đảm  an  toàn  trong  hoạt động  của  Tổ chức  tín  dụng  và  Quyết định số 03/2007/QĐ­NHNN  (dưới đây gọi  tắt  là Quyết định 03) ngày  19/01/2007 của Thống đốc NHNN về việc  sửa đổi, bổ  sung một  số điều  của  Quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD ban hành kèm  theo Quyết định số 457/2005/QĐ­NHNN.  Theo đó  các  tổ  chức  tín dụng  (trừ  chi nhánh ngân hàng nước ngoài) phải  duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự có so với tổng tài sản “Có” nội bảng (bao  gồm, ngoài những khoản mục khác, tiền mặt, vàng, tiền gửi, các khoản cho vay  và các khoản phải đòi) và tài sản “ Có” ngoại bảng (bao gồm, ngoài các mục  khác, cam kết bảo lãnh, cho vay, thư tín dụng, và chấp nhận thanh toán) được  điều chỉnh theo theo hệ số rủi ro.  Dựa  trên mức độ rủi  ro, các hệ số rủi  ro cho tài  sản “Có” nội bảng gồm 4  nhóm là 100%, 50%, 20% và 0%. Tuy nhiên, đối với tài sản “Có” ngoại bảng  thì phụ thuộc vào mức độ rủi ro tương đối so với việc cấp tín dụng trực tiếp, giá trị của tài sản này trước tiên phải được chuyển đổi  từ giá trị ngoại bảng sang  giá trị nội bảng theo các hệ số chuyển đổi 100%, 50%, 20% và 0% trước khi  nhân với các hệ số  rủi  ro  ( gồm 3 nhóm  là 100%, 50% và 0%). Trên  thực  tế  hiện nay hầu như chưa có ngân hàng thương mại quốc doanh nào đạt được tỷ lệ  8%. Do vậy, Ngân  hàng Nhà Nước quy định  tối đa 3 năm kể  từ  ngày Quyết  định 457 có hiệu lực thi hành (ngày 15 tháng 05 năm 2005) để các ngân hàng  thương mai  tăng tỷ  lệ an  toàn vốn tối  thiểu bằng mức quy định  trong đó mỗi  năm  tăng 1/3  số  tỷ  lệ còn  thiếu. Tuy nhiên, các  tổ  chức  tín dụng ngoài quốc  doanh mà chưa đạt được tỷ lệ 8% sẽ không được hưởng lợi từ quy định gia hạn  này. Trước mắt một số ngân hàng sẽ phải kêu gọi thêm vốn góp để nâng mức  vốn tự có của mình lên.  Về  mức  vốn  pháp định,  các  ngân  hàng  thương mại  dựa  theo  Nghị định  82/1998/NĐ­CP ngày 03/10/1998 Về ban hành danh mục mức vốn pháp định  của các tổ  chức tín dụng. Theo đó, các tổ chức tín dụng đã được cấp giấy phép  thành lập, hoạt động trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành có vốn điều  lệ  thấp hơn mức vốn pháp định  tại danh mục mức vốn pháp định của  các  tổ  chức tín dụng kèm theo Nghị định này, trong thời hạn 3 năm kể từ ngày Nghị  định này có hiệu lực thi hành, phải tăng vốn điều lệ cho đủ bằng mức vốn pháp  định. Mức tăng vốn điều lệ hàng năm tối thiểu bằng một phần ba (1/3) số vốn  điều lệ còn thiếu so với vốn pháp định. Sau thời hạn 3 năm, vốn điều lệ của các  tổ chức tín dụng không bảo đảm đủ bằng mức vốn pháp định, Ngân hàng Nhà  nước Việt Nam sẽ  thu hồi  giấy  phép hoạt động. Ngày 22/11/2006,  thay mặt  Chính  phủ,  Thủ  tướng  Chính  phủ  Nguyễn  Tấn  Dũng  ký  Nghị  định  141/2006/NĐ­CP ban hành Danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín  dụng.  Theo  đó,  chậm  nhất  vào  ngày  31/12/2008  và  31/12/2010,  tổ  chức  tín  dụng được cấp giấy phép thành lập và hoạt động phải có biện pháp bảo đảm có  số vốn điều  lệ  thực góp hoặc được cấp tối  thiểu  tương đương mức vốn pháp  định. Đối với loại hình: Ngân hàng thương mại cổ phần, liên doanh, Ngân hàng  100% vốn nước ngoài, Quỹ tín dụng nhân dân TW phải có mức vốn pháp định  áp dụng cho đến năm 2008 là 1.000 tỷ đồng, đến năm 2010 là 3.000 tỷ đồng. Ngân  hàng  thương  mại  Nhà  nước,  Ngân  hàng  đầu  tư:  3.000  tỷ  đồng...  Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: 15 triệu USD. Đối với loại hình Công ty tài  chính đến năm 2008 là 300 tỷ đồng, năm 2010 là 500 tỷ đồng…  Cụ  thể, đối với các tổ chức tín dụng được cấp phép thành lập và hoạt động  sau ngày Nghị định 141/2006/NĐ­CP có hiệu lực và trước ngày 31/12/2008, thì  phải đảm bảo có ngay số vốn điều lệ  thực góp hoặc được cấp tối  thiểu tương  đương mức vốn pháp định quy định cho năm 2008. Các tổ chức tín dụng được  cấp  giấy  phép  thành  lập  và hoạt  động  sau ngày  31/12/2008 phải đảm bảo  có  ngay vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương mức vốn pháp  định quy định cho năm 2010. Chính phủ giao Thống đốc Ngân hàng Nhà nước  quyết định xử lý, kể cả việc thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động đối với  tổ chức tín dụng có số vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp thấp hơn mức vốn  pháp định tương ứng đối với từng loại hình tổ chức tín dụng quy định cho từng  thời kỳ.  Về  tỷ lệ tối đa vốn ngắn hạn dùng để cho vay trung dài hạn, theo Nghị định  457/2005QĐ  ngày  19  tháng  04  năm  2005,  các  ngân  hàng  thương mại  được  phép  sử dụng  là 40% và  các  tổ  chức  tín dụng khác  là  30%. Tuy nhiên đứng  trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ tháng 12 năm 2008  và những tín hiệu tăng trưởng nóng của tín dụng trong nước sau gói hỗ trợ lãi  suất  của  chính  phủ,  ngày  10  tháng 08  năm 2009, Thống đốc Ngân hàng nhà  nước ban hành  thông  tư 15/2009/TT­NHNN quy định về  tỷ  lệ  tối đa  sử dụng  vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn của các tổ chức tín dụng hoạt động tại  Việt nam trừ các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. theo đó, tỷ lệ này được quy định  tại Thông tư cụ thể như sau:  ­ Ngân hàng thương mại: 30%  ­ Công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính: 30%  ­ Quỹ tín dụng nhân dân trung ương: 20% So  với  quy  định  về tỷ lệ tối đa  của  nguồn  vốn ngắn  hạn được  sử dụng  để  cho  vay  trung  hạn,  dài  hạn  của  tổ chức  tín  dụng  tại  Quy  định  về các  tỷ lệ bảo đảm  an  toàn  trong  hoạt động  của  tổ chức  tín  dụng  ban  hành  theo  Quyết định số 457/2005/QĐ­NHNN ngày 19/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng  Nhà nước, Thông tư đã quy định cụ thể về các nguồn vốn ngắn hạn,  nguồn vốn  trung hạn, dài hạn của tổ chức tín dụng và cách xác định tỷ lệ nguồn vốn ngắn  hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn của tổ chức tín dụng.  2.3.2 Thực trạng bảo toàn vốn tự  có của các NHTMCP VN  Trong những năm đầu  của  thế kỷ mới,  khi  nhà  nước vẫn đang  từng  bước  thoả thuận với các nước trong tổ chức thương mại thế giới về  việc Việt Nam ra  nhập WTO, thì các doanh nghiệp trong nước cũng từng bước thay đổi mình để  chuẩn  bị  cho  quá  trình Việt  nam  hội  nhập_Cơ  hội  thì  lớn  nhưng  thách  thức  cũng rất lớn.  Riêng  trong  lĩnh  vực  tài  chính_ngân  hàng,  từ năm  1990,  cơ  chế đổi mới  ngân hàng được hoàn  thiện  thông qua việc  công bố hai Pháp  lệnh ngân hàng  vào ngày 24.5.1990  (Pháp  lệnh Ngân hàng Nhà nước VN và Pháp  lệnh ngân  hàng, hợp  tác xã  tín dụng và công  ty tài chính) đã chính  thức chuyển cơ chế  hoạt động của hệ  thống NHVN từ “một cấp” sang “hai cấp”. Theo đó, Ngân  hàng Nhà  nước  (NHNN)  thực  thi  nhiệm  vụ  quản  lý  nhà  nước  về  tiền  tệ,  tín  dụng,  thanh  toán,  ngoại hối  và  ngân  hàng;  là  ngân  hàng duy  nhất  được phát  hành tiền, là ngân hàng của các ngân hàng, là ngân hàng của Nhà nước… Còn  hoạt động kinh doanh  tiền  tệ,  tín dụng, dịch vụ ngân hàng do các  tổ chức  tín  dụng  thực hiện. Các  tổ  chức  tín dụng bao gồm: ngân hàng  thương mại quốc  doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân  hàng nước ngoài, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính. Tháng 12.1997 trước  yêu cầu cao của thực tiễn hai Pháp lệnh ngân hàng đã được Quốc hội nâng lên  thành hai luật về ngân hàng là luật Ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín  dụng(có  hiệu  lực  từ  ngày  01.10.1998)  và  sau  đó  Luật  NHNN  và  Luật  các  TCTD được sửa đổi và bổ sung vào năm 2003, năm 2004. Trải  qua  chặng đường  trên, hệ thống NHTMCP VN đã  không ngừng phát  triển về quy mô (vốn điều  lệ  không ngừng gia  tăng, mạng  lưới chi nhánh…),  chất  lượng  hoạt động  và hiệu  quả trong  kinh  doanh.  Mạng  lưới  ngân  hàng  thương mại  VN  đến  cuối  năm  2005 đã  có  những bước  phát  triển mạnh phủ  khắp  các  quận,  huyện,  tỉnh  thành.  Hệ  thống  NHTM  ở  nước  ta  bao  gồm:  5  NHTM nhà nước (Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng đầu tư và phát triển  VN, Ngân hàng phát triển VN, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn,  Ngân hàng phát  triển nhà đồng bằng sông Cửu Long), 39 NHTM cổ phần đô  thị và nông thôn, 24 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 05 ngân hàng liên doanh,  05 ngân hàng 100% vốn tại VN và 01 Quỹ tín dụng nhân dân. Trong đó Ngân  hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn VN có mạng lưới rộng nhất với hơn  100 chi nhánh cấp 1 và 2.000 chi nhánh cấp 2­4 phủ khắp huyện và cả hệ thống  ngân  hàng  lưu  động.  Hệ  thống  NHTMCP  VN  đã  có  những  đóng  góp  quan  trọng cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế ở nước ta trong nhiều năm qua. Với  nhiều hình thức huy động vốn tương đối đa dạng, NHTMCP VN đã huy động  vốn  hàng  trăm  tỷ  đồng  (năm  2005  tăng  gấp  30  lần  so  với  năm  1990­trên  600.000 tỷ đồng,  tại TP.HCM các NHTMCP huy động đến cuối năm 2005 là  184.600 tỷ đồng gấp 2,8 lần so với năm 2001) từ các nguồn vốn trong xã hội.  Tăng dư nợ cho vay với mọi thành phần kinh tế (dư nợ năm 2005 tăng 40 lần  so với năm 1990, tại TP.HCM dư nợ cho vay cuối năm 2005 của các NHTMCP  170.200 tỷ đồng gấp 3 lần so với năm 2001). Tăng đầu tư vào những chương  trình trọng điểm quốc gia, qua đó góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh  tế, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, kiểm soát lạm phát, thúc  đẩy kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao (GDP tăng bình quân 7.5% trong  5 năm 2001­2005). Góp phần  tạo  công  ăn việc  làm  cho  xã hội  (trong 5  năm  2001­2005 cả nước tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động), góp phần xóa đói giảm  nghèo (tỷ lệ hộ nghèo còn 7%) và làm giàu hợp pháp. Nhiều dịch vụ tiện ích  (chi lương, thu chi hộ, thanh toán chuyển khoản, chuyển tiền tự động, dịch vụ  ngân hàng điện tử, dịch vụ thẻ…) và nhiều sản phẩm mới xuất hiện đã đáp ứng  nhu cầu tiêu dùng của dân cư và sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh  tế. Vốn  điều  lệ của các  ngân  hàng  thương  mại  Việt  Nam  không  ngừng  gia  tăng, ngân hàng thương mại Nhà Nước (NHTMNN) sau nhiều lần bổ sung vốn  đã nâng tổng vốn chủ sở hữu của 05 NHTMNN lên trên 20.000 tỷ đồng tăng  gấp 3 lần so với thời điểm cuối năm 2000. Vốn điều lệ của NHTMCP được gia  tăng đáng kể từ lợi nhuận giữ lại, sáp nhập, các quỹ bổ sung vốn điều lệ, phát  hành  thêm  cổ  phiếu…  từ  đó  giúp  tổng  vốn điều  lệ NHTMCP  đến  cuối  năm  2005 tăng gấp 5 lần so với năm 2000, nhiều NHTMCP có vốn điều lệ trên 500  tỷ đồng­1.000 tỷ đồng.  Dựa  trên các số liệu  thống kê của cơ quan quản  lý,  ta có bảng số liệu tổng  hợp  sau  về  quy  mô vốn  tự có và tổng  tài  sản  có  của  hệ thống  ngân  hàng  thương mại VN trước khi ra nhập WTO như sau:  Bảng 2.1 :  Tổng hợp quy mô vốn tự có và tổng tài sản của NHTMVN  Đơn vị tính: nghìn tỷ đồng  Q4/2003  Q4/2004  Q4/2005  Q2/2006  Vốn tự có  26  32  43  49  Tổng tài sản  539.42  672.27  841.488  944.123  Từ  bảng số liệu ta có  các biểu đồ như sau: Biểu  đồ 2.1:  Nguồn:www.div.gov.vn/Bulletin/ /2007/1/Ban_ve_tang_von_tu_co.pdf  Như  vậy nhìn trực quan vào biểu đồ ta có thể  thấy từ năm 2003 đến năm  2006, hệ thống ngân hàng  thương mại Việt Nam đã có sự  tăng  trưởng khá và  ổn  định  về  quy mô  vốn  tự  có  (Từ  26.000  tỷ  đồng  năm  2003  đã  tăng  thành  49.000 tỷ đồng vào quý 2/2006) Biểu  đồ 2.2:  Nguồn:www.div.gov.vn/Bulletin/ /2007/1/Ban_ve_tang_von_tu_co.pdf  Tỷ  trọng vốn tự có/tổng tài sản của các ngân hàng thương mại nhìn chung  còn thấp chỉ đạt trên dưới 5%. Để đảm bảo hiệu quả sử dụng các nguồn vốn và  đảm bảo phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh thì các ngân hàng thương mại nên  tăng tỷ lệ này nên khoảng từ 8% ­ 10 % là hợp lý  2.3.3. Thực trạng phát triển vốn tự có của các NHTMCP VN  Hoạt  động của các ngân hàng sau một năm gia nhập WTO vẫn diễn biến  bình thường, ngoại trừ sự tăng trưởng khá nhanh của mỗi ngân hàng. Điều này  dường như  khác so với dự báo về những thuận lợi và  thách thức sau khi Việt  Nam  là thành viên chính thức của WTO. Nhưng trên  thực tế,  trong chiều sâu  của sự biến chuyển nội tại, các ngân hàng đang có sự chuyển mình rất lớn.  Độ sâu tài chính của các ngân hàng thương mại (NHTM) đã tăng rất đáng  kể, thể hiện ở các chỉ số tổng tiền gửi/GDP và tổng dư nợ/GDP ngày càng tăng. Nếu năm 2006 tổng tiền gửi/GDP là 78,4% so với mức 66,7% năm 2005 (tăng  khoảng 12%), tín dụng/GDP tăng khoảng 5% thì năm 2007 tốc độ tăng này đã  mạnh hơn nhiều, chỉ số tăng lần lượt là khoảng 92,4% và 84,6%.  Xét  về năng  lực  tài  chính  thể hiện ở quy mô vốn điều  lệ,  cũng có  tốc độ  tăng nhanh hơn năm 2006 (năm 2006 vốn điều lệ của hệ thống ngân hàng tăng  44% so với năm 2005, thì năm 2007 tăng 54% so với 2006, nhất là khối NHTM  nhà nước  tăng 59%, vượt xa con số 2% của năm 2006 so với 2005). Các chi  nhánh ngân hàng nước ngoài cũng có sự tăng trưởng nhanh về quy mô vốn, tài  sản  có  trong  năm 2007,  đưa  thị  phần  tín  dụng  và  huy  động  năm  2007  tăng  khoảng 0,4% so với năm 2006,  trong khi  thời điểm  trước năm 2006 thị phần  của khối này hầu như không thay đổi.  Bên cạnh các chỉ số tài chính thể hiện tốc độ phát triển và độ sâu tài chính  của hệ  thống ngân hàng trong năm 2007, chúng ta cũng thấy rõ tính cạnh tranh  trong  hệ thống  ngân  hàng  ở khía  cạnh  khác  như mức độ  sôi động  của  thị  trường tiền tệ và thị trường vốn. Sự cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường của các  NHTM  cũng  khá  gay  gắt,  thể  hiện  ở  việc  các  đơn vị  đã mở  thêm nhiều  chi  nhánh, phòng giao dịch,  điểm giao dịch. Mức độ mở  tăng nhanh  so  với năm  2006 (riêng TP. HCM chỉ  trong tháng 10 đã có hơn 20 chi nhánh ngân hàng,  phòng và điểm giao dịch được mở). Đồng thời, các NHTM cũng đa dạng hoá  các  sản  phẩm  dịch  vụ,  mở  rộng  thực  hiện  các  nghiệp  vụ  phái  sinh.  Nhiều  NHTMCP đã nới lỏng các điều kiện vay vốn để thu hút khách hàng và đa dạng  hoá  các  sản  phẩm đầu  tư  tín  dụng như mở  rộng  lĩnh  vực  cho  vay  tiêu  dùng  (mua nhà đất, sửa chữa nhà ở, mua ô tô...).  Xu  hướng  hình  thành  tập đoàn  tài  chính  từ các  NHTM  đã  có bước  phát  triển trong năm 2007. Cùng với việc  đa dạng hoá hoạt động ra nhiều lĩnh vực  như  bảo hiểm, tài chính, thuê mua tài chính..., một số NHTM đang tích cực mở  rộng thị trường ra nước ngoài. Quay lại với đề tài tăng quy mô vốn tự có, trong năm 2007 tất cả các ngân  hàng  thương  mại  đều  xây  dựng  cho  mình  một  kế hoạch  tăng  vốn  cụ  thể và đã đạt được những thành công nhất định.  Sau đây là một bảng tổng hợp các thông số về  tình hình tăng vốn tự có của  một số ngân hàng tiêu biểu trong năm. Các số liệu trong bảng thống kê từ các  báo cáo tài chính của các ngân hàng công bố.  Bảng 2.2 : Tổng hợp tình hình tăng vốn tự có:  Đơn vị: nghìn tỷ đồng  Tổng Tsản  Vốn tự  có  Vốn TC/Tổng Ttản (%) Nợ  phải trả Vốn TC/Nợ phải trả(%) Ngân hàng  12/06  12/07  12/0612/07  12/06  12/07  12/06  12/07  12/06  12/07  Agribank  238.5  321.5  2.56  10.45  1.07  3.25  235.94 311.1  1.08  3.36  Vietcombank  166.9  196.1  11.1212.98  6.66  6.62  155.78 183.1  7.14  7.09  BIDV  161.2  204.5  7.55  11.63  4.68  5.69  153.65 192.8  4.91  6.03  Vietinbank  135.4  175  5.61  10.2  4.14  5.83  129.8  164.8  4.32  6.19  ACB  44.6  85.4  1.69  6.25  3.79  7.32  42.91  79.15  3.93  7.89  Sacombank  24.8  64.6  2.8  5.6  11.29  8.67  22  59  12.72  9.49  Eximbank  18.3  33.7  1.95  6.3  10.66  18.69  16.35  27.4  11.92  23  Techcombank 17.32  39.56  1.76  3.57  10.16  9.02  15.56  36  11.31  9.92  VIB  16.5  39.3  1.19  2.18  7.21  5.55  15.31  37.12  7.77  5.87 Từ  bảng số liệu trên ta có  các biểu đồ sau:  Biểu  đồ 2.3:  Tăng trưởng vốn tự có của các ngân hàng năm  2007  0  2  4  6  8  10  12  14  Ag rib an k  Vi etc om ba nk BI DV Vi eti nb an k  AC B  Sa co mb an k  Ex im ba nk Te ch co m ba nk VI B  Ngân hàng  N g h ìn  t ỷ  đ ồ n g vốn tự có Dec­06  vốn tự có Dec­07  Từ  biểu đồ  trên,  ta  thấy  trong  số 9  ngân  hàng  thì  trong  năm  2006  mới  chỉ có ngân  hàng Vietcombank  có  số vốn  tự có trên  10  nghìn  tỷ đồng  (11.12  nghìn tỷ) nhưng đến năm 2007 thì đã có  4 ngân hàng có số vốn tự có trên 10  nghìn tỷ đồng đó là:  Agribank (10.45 nghìn tỷ), Vietcombank(12.98 nghìn tỷ),  BIDV(11.63 nghìn tỷ) và Vietinbank(10.2 nghìn tỷ).  Trong 9 ngân  hàng  trên  thì Agribank dẫn đầu về tốc  độ  tăng  trưởng vốn(  trên  300%  từ 2.56  nghìn  tỷ  lên  10.45  nghìn  tỷ),  tiếp  đó  là  ACB(  270%),  Eximbank(223%), Techcombank(102.8%), sacombank (100%)... Biểu  đồ 2.4:  Vốn tự có/Tổng tài sản(%)  0  2  4  6  8  10  12  14  16  18  20  Ag rib an k  Vi et co m ba nk BI DV Vi et in ba nk AC B  Sa co m ba nk Ex im ba nk Te ch co m ba nk VI B  Ngân hàng  %  Vốn tự có/Tổng tài  sản (%) Dec­06  Vốn tự có/Tổng tài  sản (%) Dec­07  Biểu đồ 2.5:  Vốn tự có/ nợ phải trả(%)  0  5  10  15  20  25  Ag rib an k  Vi etc om ba nk BI DV Vi eti nb an k  AC B  Sa co m ba nk Ex im ba nk Te ch co m ba nk VI B  Ngân Hàng  %  Vốn tự có/Nợ phải  trả(%) Dec­06  Vốn tự có/Nợ phải  trả(%) Dec­07 Qua  hai  biểu đồ  trên  ta  thấy  tỷ trọng  vốn  tự  có/  tổng  tài  sản  và vốn  tự có /nợ  phải  trả của  các  ngân  hàng  là khá đồng  đều  khoảng  từ 6%­12%.  Cá biệt  có Agribank, hai  tỷ lệ này  là khá thấp  chưa đạt đến 5%, và ngân hàng  Eximbank có tỷ lệ  khá cao(vốn tự có/tổng tài sản 2007 là trên 18%;vốn tự có/  nợ  phải  trả  2007  khoảng  23%). Như  ta  đã  biết  vốn  tự có có vai  trò rất  quan  trọng. Nó đảm bảo cho ngân hàng  tránh được những  rủi  ro  trong kinh doanh.  Vì thế mà các ngân hàng cần duy trì một tỷ lệ vốn tự  có/ tổng tài sản một cách  hợp lý khoảng 8% đến 10%. Mặt khác vốn tự có/ nợ phải trả cho ta biết  được  cán cân vốn_nợ của ngân hàng. Khi các ngân hàng sử dụng các biện pháp tăng  vốn, huy động vốn sẽ gây ra sự mất cân đối cán cân này. Nếu tỷ lệ vốn tự có/nợ  phải trả quá cao thì tức là ngân hàng đang kinh doanh phần lớn bằng nguồn vốn  của mình, khá độc lập với thị trường vốn nhưng nếu như vậy lại dẫn đến chi phí  sử dụng vốn cao vì không tận dụng được vốn của người khác để kinh doanh.  Nếu vốn tự có/nợ phải  trả  thấp tức là ngân hàng phụ thuộc khá nhiều vào thị  trường vốn dẫn đến sức ép của nợ nần, tăng rủi ro cho hoạt động kinh doanh.  Song nếu quản lý và sử dụng tốt nguồn vốn vay thì sẽ mang lại khoản lợi nhuận  lớn.  2.4  ĐÁNH  GIÁ CHUNG  VỀ NHỮNG  THÀNH  TỰU  VÀ  TỒN  TẠI  TRONG CÔNG TÁC BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN TỰ CÓ CỦA  CÁC NHTMCP  2.4.1 Những thành tựu đạt được:  Những  thành  tựu  trong  công  tác  bào  toàn  và phát  triển  vốn  tự có của  các  ngân hàng thương mại được thể hiện qua quy mô nguồn vốn tự có  của các đơn  vị theo thời gian. Chúng ta đánh giá  công tác này thông qua các con số vốn tự  có của một vài đơn vị tiêu biểu tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh trong năm  2008, một trung tâm tài chính­ kinh tế quan trọng của đất nước. Tính đến  đầu  năm 2008,  nguồn  vốn  tự có của  các  ngân  hàng  thương mại  trên địa bàn thành phố đạt gần 28.230 tỷ đồng,  tăng hơn 90% so với cùng kỳ  năm  trước. Riêng  vốn điều  lệ của  các ngân hàng  chiếm  trên 23.000  tỷ  đồng,  tăng gần 77% so với năm trước. Trong số này, một ngân hàng có vốn điều lệ  hơn 4.000 tỷ đồng là Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), ba ngân hàng có hơn  2.000 tỷ đồng là Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), Á châu (ACB) và An  Bình (ABBank).  Trên  địa  bàn  thành  phố còn  có 5  ngân  hàng  có vốn  điều  lệ hơn  1.000  tỷ đồng và 7 nhà  băng khác có mức vốn điều lệ trên 500 tỷ  đồng. Tổng tài sản  có của các ngân hàng thương mại này đạt hơn 395.770 tỷ đồng,  tăng hơn gấp  đôi so với một năm trước.  Ngoài ra  ta có thể đánh giá công tác phát  triển nguồn vốn này qua kết quả  hoạt độnh kinh doanh hằng năm của các đơn vị. Một kết quả hoạt động kinh  doanh tốt là cơ sở để duy trì và mở rộng nguồn vốn tự có trong quá trình hoạt  động của mình. Những số liệu về kết quả kinh doanh của một số đơn vị  tiêu  biểu trong năm 2008 sau đây giúp cho chúng ta hiểu thêm về công tác bảo toàn  và phát triển vốn.  Theo kết quả kinh doanh năm 2008 mà Ngân hàng Công thương Việt Nam  (Vietinbank) công bố ngày 11/1, tổng tài sản của ngân hàng này tăng 18%, vốn  tự có đạt hơn 10.800 tỷ đồng, lợi nhuận đạt 1.563 tỷ đồng; trích dự phòng rủi ro  1,500 tỷ đồng. Tính đến hết 31/12/2008, Vietinbank đạt số dư nguồn vốn huy  động 174,6 nghìn  tỷ  đồng,  trong đó  số dư vốn VND  là 146,1 nghìn  tỷ  đồng,  tăng gần 20,000 nghìn tỷ đồng so với đầu năm. Dư nợ cho vay và đầu tư đạt  180,3 nghìn tỷ đồng, tăng gần 27,8 nghìn tỷ đồng; hoạt động cho vay và đầu tư  chiếm tỷ  trọng 92%  tổng  tài sản có. Cũng  tính đến hết năm 2008, dư nợ cho  vay nền kinh tế của Vietinbank đạt 119,9 nghìn tỷ đồng, tăng 18,4%; nợ xấu là  1.303 tỷ đồng, chiếm 1,09% tổng dư nợ…Trước đó, vào ngày 10/1, Ngân hàng  Nông nghiệp  và Phát  triển nông  thôn Việt Nam  (Agribank)  công bố  kết quả  kinh doanh năm 2008, với tổng nguồn vốn tài sản đạt 386,8 nghìn tỷ đồng, tăng 18,3%  so  với đầu năm  (nguồn vốn  tự có đạt 20.989  tỷ đồng,  tăng 9,7%);  lợi  nhuận trước thuế tăng 43%; quỹ tiền lương tăng 32%. Lãi suất đầu vào thực tế  bình quân/tháng  tăng 0,3%; dư nợ cho vay, đầu  tư  tăng trưởng 14,2% so với  đầu  năm 2007. Đặc  biệt,  năm 2008 Agribank  giảm  tuyệt  đối  nguồn vốn vay  Ngân hàng Nhà nước tới 99% (hiện chỉ còn 25,000 tỷ đồng). Năm 2008, tổng  tài  sản của Ngân hàng Đầu  tư và Phát  triển Việt Nam (BIDV) đạt  trên 243,8  nghìn tỷ đồng, huy động vốn đạt 201,1 nghìn tỷ đồng, tổng tín dụng đạt 158,4  nghìn  tỷ  đồng,  dư nợ  tín dụng  cho  vay nền kinh  tế  đạt 149,4  nghìn  tỷ  đồng,  kiểm soát tăng trưởng tín dụng theo đúng chỉ đạo, kiềm chế tốc độ tăng trưởng  tín dụng ở mức 27%. Năm qua, thu dịch vụ ròng của ngân hàng này đạt 1.953  tỷ  đồng,  doanh  số mua bán  ngoại  tệ  ước  đạt  41  tỷ USD…Bên  cạnh  đó,  các  ngân hàng như: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội (HabuBank) và  Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn (SCB)… vừa công bố kết quả kinh  doanh năm 2008.Tổng vốn điều  lệ của HabuBank đạt 2.800  tỷ đồng,  tổng  tài  sản đạt 24.863 tỷ đồng, tổng huy động vốn ước đạt 19.758 tỷ đồng, tổng dư nợ  đạt  10.000  tỷ  đồng  và  lợi  nhuận  trước  thuế  đạt  525  tỷ  đồng. Tính  đến  31/12/2008,  vốn điều  lệ và các  quỹ của  SCB  đạt  2.526  tỷ đồng;  tổng  tài  sản  38.598  tỷ  đồng,  vượt  49%  so  với  năm  2007;  tổng  huy  động  vốn  34.392  tỷ  đồng, vượt 51% so với năm 2007; dư nợ tín dụng 23.278 tỷ đồng, vượt 20% so  với năm 2007. Lợi nhuận trước thuế của ngân hàng đạt 658 tỷ đồng, vượt 83%  so với năm 2007 và vượt kế hoạch lợi nhuận điều chỉnh 2008.  2.4.2 Những tồn tại :  2.4.2.1  Quy  mô vốn  tự có quá nhỏ:  Phần  lớn  các  ngân  hàng  thương  mại  (NHTM)  có vốn  tự có  thấp  và không  đạt  tiêu  chuẩn  an  toàn  vốn.  Vốn  tự  có của  các  NHTM  mới  chiếm  5,4%  tổng  nguồn  vốn  của  các  tổ  chức  tín  dụng(TCTD)  trong đó  vốn điều  lệ  chiếm 3,4%. Ngân hàng  có vốn  tự có  cao  nhất là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), khoảng  250 triệu USD và thấp nhất  là các NHTM cổ phần nông thôn, khoảng 5 triệu  USD. Trong khi đó, ngân hàng trung bình trong khu vực có mức vốn tự có xấp  xỉ 1 tỷ USD. Hệ thống NHTM VN hội nhập quốc tế trong điều kiện điểm xuất phát thấp về trình độ phát triển. Các NHTM yếu về nguồn vốn, trình độ chuyên  môn quản lý, cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động. Năng lực cạnh tranh thấp, tỷ  lệ an toàn vốn bình quân khoảng 3,72% trong khi theo thông lệ quốc tế thì tỷ lệ  an  toàn  vốn bình quân  tối  thiểu 8%. Vốn  tự  có  của NHTM VN nhỏ hơn  rất  nhiều so với các ngân hàng trong khu vực. Ngần hàng có vốn tự có lớn nhất chỉ  khoảng 200 triệu USD, bằng 1/5 vốn tự có của ngân hàng các nước trong khu  vực. Tốc độ tăng vốn tự có của các NHTM còn thấp trong khi  tốc độ tăng tài  sản hiện nay bình quân tăng từ 20%­25% nếu không có những biện pháp thiết  thực tăng vốn tự có với lộ trình cụ thể thì e rằng NHTM VN khó đạt được tỷ lệ  an toàn vốn. Năng lực tài chính của các NHTM còn quá yếu, do vậy khó có thể  đủ tiềm lực về vốn khi tham gia hội nhập chỉ trừ một số ngân hàng có quy mô  vốn lớn, tuy nhiên số ngân hàng này chiếm tỷ lệ rất ít.  2.4.2.2 Huy động vốn ngắn hạn, cho vay dài hạn: đây là tình hình chung trên  thị trường tiền tệ Việt Nam hiện nay. Nếu nhìn nhận thị trường chứng khoán là  nơi để các doanh nghiệp huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho yêu cầu  sản xuất kinh doanh thì thị trường chứng khoán Việt Nam chưa làm được. Năm  2006 khép lại với sự phát triển nhanh chóng của TTCK trong đó góp phần đáng  kể cho sự thành công cho các doanh nghiệp nhà nước IPO, chuyển đổi mô hình  hoạt động. Tuy nhiên sang đầu năm 2007, sự sụt dốc nhanh chóng của TTCK  đã đẩy các doanh nghiệp vào sự bế tắc trong việc huy động vốn, các kế hoạch  IPO bị trì hoãn vô thời hạn nhằm hạn chế nguồn cung cổ phiếu vốn đã trở nên  dồi  dào. Đến  thời điểm này  cùng  với  điều  kiện  kinh  tế  của Việt Nam bị  tác  động mạnh mẽ  từ  kinh  tế  toàn  cầu  như:  giá  dầu  liên  tiếp  phá  kỷ  lục,  khủng  hoãng dưới  tiêu chuẩn của Mỹ…kéo  theo  lạm phát của Việt Nam cao kỷ  lục  trong vòng một  thập  kỷ  trở  lại.  Song song đó ngân hàng nhà nước  tiến hành  nhiều biện pháp để bình ổn thị trường tiền tệ như: đặt ra mức huy động trần lãi  suất  huy  động  và  cho  vay  của  các  tổ  chức  tín  dụng,  phát hành  tín  phiếu  bắt  buộc, khống chế tốc độ tăng trưởng tín dụng ở mức 30% trong năm 2008 sau  khi tăng quá nóng cuối năm 2007. Trước  sự thay  đổi  liên  tục  trong  các  chính  sách  điều  hành  của  Chính  phủ và tình hình biến động phức  tạp của lạm phát, người gửi  tiền hiện  tại  chỉ  dám gửi vào các kỳ hạn ngắn nhằm thích nghi kịp thời với sự thay đổi bất ngờ  từ các chính sách. Điều này đã đẩy các ngân hàng vào các cuộc đua huy động  vốn  chủ  yếu  ở  các  kỳ  hạn  ngắn.  Trái  ngược  với  người  gửi  tiền,  các  doanh  nghiệp đi  vay  nhận  thấy  rằng cần phải  vay  dài  hạn để phòng ngừa  rủi  ro  lãi  suất. Chính  sự  trái  ngược  này  cộng với  việc  cho vay  vốn ồ ạt  vào  cuối  năm  2006 vào lĩnh vực bất động sản, lĩnh vực cần các nguồn vốn trung và dài hạn,  nhằm “hợp thức hoá” tỷ lệ cho vay theo chỉ thị 03 về kiểm soát cho vay chứng  khoán của Chính phủ. Kết hợp các yếu tố trên đây đã dẫn đến hệ quả là các tổ  chức tài chính huy động vốn ngắn hạn, sau đó cho vay dài hạn và khả nặng mất  thanh khoản về kỳ hạn ở một số ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ đã xảy ra.  Lãi suất  trên thị  trường vốn liên ngân hàng lên đến 30%/năm cho kỳ hạn vay  qua đêm (overnight) đã minh chứng cho việc quản lý vốn yếu kém của một số  tố chức tín dụng ở Việt Nam thời gian qua.  Biểu  đồ 2.6: Các mốc lãi suất cơ bản trong thời gian qua (Nguồn: Thomson – Reuters)  Bảng 2.7: Các loại lãi suất cơ bản của Việt Nam  Các loại Lãi suất chính (%)  Ngày tháng01/02/0922/12/0805/12/0821/11/0805/11/0821/10/0811/06/0819/05/0801/02/08  LSCB  7.0  8.5  10.0  11.0  12.0  13.0  14.0  12.0  8.75  LSCK  6.0  7.5  9.0  10.0  11.0  12.0  13.0  11.0  6.0  LSTCK  8.0  9.5  11.0  12.0  13.0  14.0  15.0  13.0  7.5  (Nguồn: Thomson – reuters ngày 23 tháng 01 năm 2009)  2.4.2.3 Quản trị điều hành vốn của nhiều ngân hàng thương mại cổ phần  chưa phù hợp và chưa hiệu quả: Một  trong những nguyên nhân quan  trọng làm cho  lãi  suất  trên  thị trường  liên ngân  hàng  thời  gian  qua  tăng  nóng  là  quản  trị  điều hành  vốn  của nhiều  ngân hàng cổ phần chưa hiệu quả và chưa phù hợp.  Để thấy rõ thực trạng vấn đề này, cần phân tích cơ cấu nguồn vốn của ngân  hàng thương mại dựa trên báo cáo tài chính 2007 đã được kiểm toán. Bản báo  cáo  này  theo  quy  định  của  Ngân  hàng Nhà  nước  đang  được  các  ngân  hàng  thương mại công bố công khai trên phương tiện thông tin đại chúng. Ngân hàng  Thương mại Cổ phần Nông thôn Mỹ Xuyên thời điểm hết năm 2007, tổng tiền  gửi và vay tổ chức tín dụng khác lên tới 624 tỷ đồng, tăng mạnh so với 166 tỷ  đồng của năm 2006. Trong khi đó, vốn huy động từ khách hàng chỉ có 328,7 tỷ  đồng, tăng hơn 3 lần so với mức 109 tỷ đồng cuối năm 2006. Như vậy trong cơ  cấu nguồn vốn 952,7 tỷ đồng thì vốn huy động trên thị trường 2, tức là trên thị  trường liên ngân hàng chiếm tới 65,5%. Cũng tại thời điểm này, dư nợ cho vay  khách  hàng  là 1.266  tỷ đồng,  tăng  hơn 4  lần  so  với mức 392,9  tỷ  đồng  cuối  năm 2006. Ngân hàng Thương mại Cổ phần Gia Định có quy mô rất khiêm tốn  trong hệ  thống ngân  hàng  thương mại  cổ phần,  cũng  tính  đến hết  năm 2007  tổng số tiền gửi và tiền vay của tổ chức tín dụng khác là 840 tỷ đồng, gấp 5 lần  mức 168  tỷ đồng hết năm 2006;  trong khi đó,  tiền gửi và huy động  từ khách  hàng  chỉ  đạt 417  tỷ  đồng,  tăng  rất  chậm  so  với mức 332  tỷ  đồng năm  trước.  Tính chung trong cơ cấu nguồn vốn huy động 1.257 tỷ đồng, thì vốn đi vay trên  thị trường liên ngân hàng chiếm tới 66,8%; trong khi dư nợ cho vay khách hàng  là 1.049 tỷ đồng, tăng 2 lần so với năm 2006.  Nhìn  vào  cơ cấu  nguồn  vốn  huy  động, một  số  ngân  hàng  thương mại  cổ  phần khác mới chuyển từ nông thôn lên đô thị, ngân hàng thương mại cổ phần  quy mô nhỏ  cũng  có  tỷ  trọng  vốn  đi  vay  trên  thị  trường  liên  ngân  hàng  cao  tương tự như hai ngân hàng thương mại cổ phần nói trên. Một ngân hàng khác  thuộc nhóm quy mô khá, đó là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế, cũng  tính đến hết năm 2007 có tổng số tiền gửi và tiền vay các tổ chức tín dụng khác  là 12.846,6 tỷ đồng, tăng hơn 4 lần so với mức 3.429,3 tỷ đồng cuối năm 2006.  Vốn huy động từ khách hàng là 17.686,7 tỷ đồng,  tăng khoảng 1,7 lần so với mức 9.813,5  tỷ đồng cuối năm 2006. Tương  tự,  trong cơ cấu nguồn vốn huy  động là 27.500,2 tỷ đồng thì vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng chiếm  46,7%. Về  sử dụng vốn,  riêng dư nợ cho  vay  khách hàng  là 16.611  tỷ  đồng,  tăng 1,7 lần so với mức 9.058,2 tỷ đồng. Tuy nhiên, ngân hàng thương mại cổ  phần Quốc tế cũng có số dư tiền gửi tại các tổ chức tín dụng khác là 12.347 tỷ  đồng, gấp gần 4 lần năm 2006.  Cũng  thuộc  nhóm  có quy  mô khá,  Ngân  hàng  Thương  mại  Cổ phần  Kỹ Thương đến hết năm 2007 có  tổng tiền gửi và tiền vay của tổ chức tín dụng  khác là 8.458,9 tỷ đồng, tăng gần 1,7 lần so với mức 5.077,8 tỷ đồng cuối năm  2006.  Vốn  huy  động  từ tiền  gửi  của  khách  hàng  là  24.476,6  tỷ  đồng,  tăng  khoảng 2,5 lần so với mức 9.566 tỷ đồng cuối năm 2006. Như vậy, trong tổng  nguồn vốn huy động là 32.934,9 tỷ đồng, thì vốn huy động trên thị trường liên  ngân  hàng  chiếm  25,7%.  Tuy  nhiên,  cũng  tại  thời  điểm  nói  trên Ngân  hàng  Thương mại Cổ phần Kỹ Thương có số dư tiền gửi tại tổ chức tín dụng khác là  9.303,6 tỷ đồng,  lớn hơn số tiền huy động trên thị  trường liên ngân hàng. Dư  nợ cho vay đến hết năm 2007 là 20.486 tỷ đồng, tăng 2,4 lần so với mức 8.696  tỷ đồng cuối năm 2006.  Ngân  hàng  Thương mại  Cổ phần  Nhà Hà Nội,  đến  hết  năm  2007  có tổng  số dư tiền gửi và  tiền vay tổ chức tín dụng khác là 10.805,5 tỷ  đồng, gấp hơn  2 lần so với mức 4.858 tỷ đồng cuối năm 2006. Vốn huy động của khách hàng  là 8.467 tỷ  đồng, tăng 1,7 lần so với mức 4.484,8 tỷ đồng cuối năm 2006.  Như  vậy,  trong  tổng  nguồn  vốn  huy  động  15.290,3  tỷ đồng  thì vốn  huy  động  trên  thị trường  liên  ngân hàng  chiếm  tỷ trọng  70,7%.  Tuy  nhiên, Ngân  hàng  Thương  mại  Cổ phần  Nhà Hà Nội  cũng  có số dư  tiền  gửi  và cho  vay  tổ chức tín dụng khác  là  10.894  tỷ  đồng, gấp 3  lần năm 2006. Tại  thời  điểm  này, dư nợ cho vay khách hàng là 9.285,8 tỷ đồng, tăng gấp 1,9 lần năm 2006. Về  mức độ vay vốn và hiệu quả kinh doanh: Nhìn qua số liệu trong bảng  cân đối tài chính đã được kiểm toán nói trên về góc độ quản trị điều hành vốn  có thể rút ra một số nhận xét: ·  Một là, càng các ngân hàng nhỏ, ngân hàng mới chuyển từ nông thôn lên  đô thị thì mức độ vay mượn vốn trên thị trường liên ngân hàng càng lớn  hơn và tốc độ gia tăng cao. Việc vay nợ này chủ yếu là ngắn hạn, với lãi  suất  cao, nên  hiệu  quả  kinh  doanh hạn  chế  vì  thu  nhập  từ  chênh  lệch  giữa lãi suất đi vay và lãi suất cho vay thấp. ·  Hai là, mức độ đi vay ngắn hạn trên thị  trường liên ngân hàng quá lớn  thì rủi ro thanh khoản ở mức độ rất cao. Khi có những biến động trên thị  trường tiền tệ, như: Ngân hàng Nhà nước tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các  ngân hàng thương mại phải mua một khối lượng lớn tín phiếu bắt buộc,  các  ngân hàng  thương mại  cho vay  chủ  yếu  là  ngân hàng  thương mại  Nhà nước và một số ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô lớn, tiến  hành  thu  hồi  nợ  và hạn  chế  hay  ngừng  cho  vay  ra,  làm  cho  các ngân  hàng thương mại thiếu hụt tạm thời thanh khoản. Khi đó, các ngân hàng  thương mại thường đi vay trên thị trường liên ngân hàng phải chạy đôn  chạy đáo đi vay các ngân hàng thương mại khác với bất cứ lãi suất nào,  hoặc tăng lãi suất huy động vốn trên thị trường. Đây là nguyên nhân của  đợt  lãi  suất  trên  thị  trường  liên  ngân  hàng  tăng  lên  tới  30%  thậm  chí  40%/năm và lãi suất huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế trên  thị  trường  tăng  lên  tới 12%/năm  trong  khoảng  thời  gian  từ ngày  18/2­  1/4/2008 vừa qua. ·  Ba là, khả năng huy động vốn trên thị trường 1, tức là thị trường thu hút  tiền gửi của khách hàng của các ngân hàng thương mại cổ phần quy mô  nhỏ rất hạn chế. Nguyên nhân chủ  yếu do màng  lưới hẹp,  thương hiệu  và  uy  tín  hạn  chế,  dịch  vụ  ngân  hàng  chưa  phát  triển,  năng  lực  cạnh  tranh  thấp,... Trong khi đó, nhu cầu  tăng  trưởng dư nợ cao, cần nhanh  chóng mở rộng quy mô, nên phải đi vay mượn trên thị trường liên ngân  hàng ở mức độ lớn. ·  Bốn là, các ngân hàng thương mại cho vay lớn trên thị trường liên ngân  hàng là những ngân hàng có chiến lược quản trị nguồn vốn rất rõ ràng.  Các ngân hàng thương mại này định hướng một tỷ lệ cho vay nhất định  đối với khách hàng. Bởi vì cho vay trực tiếp khách hàng thường có mức  độ rủi ro cao hơn cho vay món nhỏ chi phí  lớn hơn,  thời gian cho vay  dài.  Trong  khi  đó,  cho  vay  ngân  hàng  thương  mại mại  khác  trên  thị  trường  liên  ngân  hàng  rủi  ro  ít  hơn,  chi  phí  thấp  hơn.  Các  món  vay  thường ngắn hạn: 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng. Món vay lại  lớn nên chi phí thấp. ·  Năm là, các ngân hàng thương mại quy mô khá và lớn thường đa dạng  hoạt động trên thị trường liên ngân hàng, nhận tiền gửi của các tổ chức  tín  dụng khác  và  lại  cho  vay  tổ chức  tín dụng khác. Với  uy  tín  và  sự  năng độ kinh doanh, các  ngân hàng  thương mại này đi  vay,  hay  nhận  được tiền gửi của ngân hàng thương mại khác với lãi suất thấp hơn, thời  gian dài hơn, sau đó đem cho vay ngân hàng thương mại nhỏ có nhu cầu  với  lãi  suất  cao  hơn  và  thời  gian  ngắn  hơn.  Tuy  chênh  lệch  lãi  suất  không lớn nhưng do số tiền cho vay lớn nên cũng đem lại một khoản thu  nhập đáng kể. Trong bối cảnh cạnh tranh và rủi ro tiềm ẩn thì chiến lược  kinh  doanh này  cho phép  tối  đa  hoá  lợi  nhuận  của ngân  hàng  thương  mại. Tuy nhiên,  khi  có diễn biến  bất  thường  trên  thị  trường  tiền  tệ  thì  thường gây ảnh hưởng, tác động dây chuyền, tạo căng thẳng và tăng lãi  suất trên thị trường liên ngân hàng. ·  Sáu là, hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần có tốc độ tăng trưởng  tín dụng rất nóng, gấp 2­4 lần,  thậm chí  tới 7­8 lần năm trước. Tốc độ  tăng quá nhanh đó đi kèm với tiềm ẩn rủi ro về tín dụng, vượt quá khả  năng quản lý của mình.  Từ  thực  tế nói  trên  cũng như từ thực  tế  cơn  sốt nóng  trên  thị trường  tiền  tệ thời gian qua, đòi hỏi các ngân hàng thương mại cần có chiến lược quản trị  điều hành nguồn vốn hiệu quả, phù hợp với thông lệ quốc tế và luôn sẵn sàng chủ động đối phó với mọi tình huống, cần chủ động khống chế tỷ lệ đi vay nợ  trên thị trường liên ngân hàng.  Biểu  đồ 2.8: Tăng Trưởng Tiền Tệ và Tín Dụng  (Nguồn: theo số  liệu của Ngân hàng nhà  nước và IMF) Kết luận chương 2:  Chương 2  khép  lại  với  việc  nêu  ra  và phân  tích  các  vấn  đề đang  tồn  tại  trong công tác bảo toàn vốn tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam  trước những biến động nhanh chóng  của nền kinh  tế  toàn cầu  và  thế  giới  tài  chính trong thời gian gần đây. Những tồn tại này bắt nguồn từ những thực tại  trong  quá  khứ mang  tính  đặc  thù  của  đất  nước,  kèm  theo  những  quan  điểm  mang tính áp đặt trong công tác điều hành, quản trị ở bản thân các đơn vị và cả  các cơ quan quản lý nhà nước.  Tuy  nhiên  nếu  bỏ qua  những  đặc  thù trên,  những  hạn  chế vốn  có thì các  ngân hàng thương mại  đã đạt được những thành tựu vượt bật trong những năm  vừa  qua,  những  nỗ lực  không  ngừng  để đưa  nền  tài  chính  của  nước  ta  càng  hoàn thiện hơn trong xu thế hội nhập cạnh tranh gay gắt và góp phần làm hoàn  thiện hơn các chính sách điều  tiết kinh  tế của Nhà nước. Những nỗ  lực cạnh  tranh của các NHTMCP đã làm cho nền tài chính của đất nước ngày càng vững  mạnh hơn  trong  những năm  tiếp  theo.  Các  giải  pháp mang  tính  chủ  động  từ  phía các NHTMCP này góp phần vào công tác điều hành kinh tế từ Chính phủ,  Ngân hàng nhà nước, các cơ quan quản lý kinh tế có liên quan sẽ được nêu ra  trong chương 3. Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG  TÁC BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN VỐN TỰ CÓ CỦA CÁC NHTMCP  VIỆT NAM  3.1 CÁC KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC NHTMCP VN  3.1.1 Xây dựng cơ cấu huy động và  cho vay hợp lý:  theo quy định hiện tại  của Ngân hàng nhà nước thì các ngân hàng thương mại được phép sử dụng tối  đa 30% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung – dài hạn, quy định này đã được  thắt chặt  hơn từ mức 40% trước đó theo Quy định 457/2005/QĐ­NHNN ngày  19/04/2005. Dựa trên điều kiện thực tế của mỗi ngân hàng mà Ban quản trị xây  dựng cho mình một chiến  lược kinh doanh hợp  lý  trong điều kiện cạnh  tranh  càng gay gắt. Các điều kiện ở đây bao gồm: vốn  tự có, mạng  lưới chi nhánh  hoạt động, mạng lưới khách hàng hiện tại và tiềm năng, hình ảnh, tên tuổi, hệ  thống chương trình công nghệ áp dụng, đội ngũ nhân lực quản trị điều hành và  thực hiện, chiến lược marketing và kinh doanh…Còn nhớ trong thời kỳ xảy ra  tình trạng mất thanh khoản ở một số ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ thì các  ngân  hàng  thương mại  ở Việt Nam  đã mất  đi  phương hướng hoạt  động  của  mình vì  sự ảnh hưởng  từ ngân hàng bạn. Vì vậy, các ngân hàng đã nhảy vào  cuộc đua tăng lãi suất huy động mà hiệu quả sử dụng vốn hầu như không có.  Sự mất tính thanh khoản cục bộ này bắt nguồn từ việc cân đối vốn bất hợp lý ở  một số ngân hàng khi đã giải ngân dài hạn ồ ạt để né tránh chỉ thị 03 về cho vay  chứng khoán, vào lĩnh vực bất động sản cuối năm 2007. Và khi Ngân hàng Nhà  nước triển khai các biện pháp can thiệp để kìm chế lạm phát thì hiện tượng mất  thanh khoản đã xãy ra. Hay nói cách khác là các ngân hàng thương mại đã vi  phạm  các  tỷ  lệ  trong  đảm  bảo  an  toàn  vốn,  sử  dụng  quá mức  cho  phép  các  nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung – dài hạn.  3.1.2 Tuân  thủ các chuẩn mực kiểm soát an  toàn vốn: Hiện nay, các  tỷ  lệ  bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng được thực hiện theo  quy  định  tại  Quyết  định  số  457/2005/QĐ­NHNN  ngày  19/4/2005  của  Ngân  hàng Nhà nước. Việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng được thực hiện  theo  quy  định  tại  Quyết  định  số  493/2005/QĐ­NHNN  ngày  22/4/2005  của  Ngân hàng Nhà nước. Các  quy  định  này  được  xây  dựng  trên  cơ  sở  áp  dụng  chuẩn mực và thông lệ quốc tế phổ biến và thực tiễn hoạt động ngân hàng tại  Việt Nam. Tuy nhiên,  cùng với  sự phát  triển ngày  càng  nhanh, mạnh và  hội  nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của hệ thống ngân hàng Việt Nam thì các quy  định này đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế và kém hiệu quả trong việc bảo đảm an  toàn hoạt động và quản lý rủi ro tín dụng của các tổ chức tín dụng Việt Nam.  Theo đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam gặp phải các vấn  đề cơ bản sau: ·  Về quản  trị  rủi  ro tín dụng: Chưa có nhiều  tổ chức tín dụng xây dựng  chiến lược tín dụng tổng thể và kế hoạch khả thi để thực hiện chiến lược  này, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến việc phát  triển nguồn lực và ưu  tiên đầu tư chiều sâu để tạo vị thế cạnh tranh cho từng tổ chức tín dụng.  Các tổ chức tín dụng chưa xác định được chính xác mức độ rủi ro hiện  có và rủi ro tiềm tàng do một số hạn chế như phân loại nợ theo tiêu chí  định  lượng  là  chủ  yếu,  dẫn  tới  tỷ  lệ  nợ  xấu  chưa phản  ánh  đúng  chất  lượng tín dụng thực tế. Hệ thống thông tin quản trị còn yếu, chưa hỗ trợ  việc phân tích chất lượng tín dụng. Chưa lượng hoá được rủi ro tín dụng  của các đối  tác thanh toán cũng như chưa đánh giá thường xuyên năng  lực của cán bộ tín dụng và mức độ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.  Nhiều tổ chức tín dụng đã xây dựng cẩm nang tín dụng nhưng chưa có  cơ  chế  kiểm  tra,  giám  sát  hiệu  quả  việc  thực  hiện  cẩm  nang này. Hệ  thống xếp hạng tín dụng là cốt lõi của hệ thống quản lý rủi ro tín dụng,  nhưng chưa có nhiều tổ chức tín dụng xây dựng được hệ thống này để  hỗ trợ việc thẩm định, áp dụng chính sách khách hàng, giám sát khách  hàng, phân loại nợ trên cơ sở kết hợp phân tích yếu tố định tính và định  lượng theo thông lệ quốc tế. Chức năng kiểm tra tín dụng độc lập chưa  được phát huy và sử dụng hiệu quả. ·  Về quản trị rủi ro thanh khoản: các chiến lược quản lý thanh khoản của  hầu hết các tổ chức tín dụng đều rất bao quát. Các tổ chức tín dụng chưa có công cụ phù hợp để lượng hoá rủi ro, báo cáo phục vụ quản lý thanh  khoản chủ yếu là ngắn hạn (thường dưới 2 tuần), thiếu các báo cáo phân  tích dài hạn để phục vụ mục tiêu huy động và sử dụng nguồn vốn hiệu  quả. Mặc  dù  cơ  cấu  tổ  chức  quản  lý  rủi  ro  thanh  khoản  đã  được  xây  dựng, nhưng việc vận hành nó chưa hiệu quả, vai trò của ALCO còn mờ  nhạt.  Các  công  cụ  như  phân  tích  và  quản  trị  độ  lệch  thời  gian,  tình  huống, rủi  ro  tập  trung, ảnh hưởng của các cam kết cho vay chưa giải  ngân… chưa được áp dụng phổ biến và linh hoạt. Rất ít tổ chức tín dụng  xây  dựng  kế  hoạch  (giả  định)  đối  phó  tình  trạng  khủng  hoảng  thanh  khoản,  nếu  có  xây  dựng  thì  cũng  chưa  được  luyện  tập  và  cập  nhật  thường xuyên, liên tục. ·  Về quản  trị  rủi  ro  lãi  suất: Các  tổ  chức  tín dụng chưa xây  dựng được  chính sách lãi suất phù hợp với mức độ rủi ro và hoạt động của tổ chức  tín dụng, chính sách lãi suất hiện nay của các tổ chức tín dụng rất dễ bị  dẫn dắt bởi các  yếu  tố  thị  trường; chưa  lượng hoá được  rủi  ro  lãi  suất  cho cơ cấu tài sản nợ ­ có hiện tại của tổ chức tín dụng. Hệ thống thông  tin quản lý chưa hỗ trợ được việc lập báo cáo phục vụ quản lý rủi ro lãi  suất. Hầu hết các tổ chức tín dụng đều chưa có các công cụ nhằm phân  tích độ  nhạy  của  lãi  suất  để xác định  ảnh hưởng của  việc  thay đổi  lãi  suất đối với kết quả hoạt động kinh doanh khi thị trường thay đổi. ·  Về  tuân  thủ  Quyết  định  số  457/2005/QĐ­NHNN  ngày  19/4/2005  quy  định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng:  Việc xác định nhóm các khách hàng có liên quan hầu như chưa thể thực  hiện  và  chưa  có  công  cụ  để  thực  hiện.  Hầu hết  các  tổ  chức  tín  dụng  không phản ánh chính xác báo cáo phân tích thang đáo hạn trong 7 ngày  làm việc  tiếp  theo;  thường sử dụng số  liệu chưa kiểm  toán để báo cáo  Ngân hàng Nhà nước và không báo cáo  lại  sau khi đã có số  liệu kiểm  toán. Một số tổ chức tín dụng sử dụng số liệu ước tính để tính toán tài  sản có rủi ro thay vì số liệu thống kê thực tế. Từ đó  tôi  xin  đưa  ra  các  giải  pháp  sau  đây  nhằm  hạn  chế  các  rủi  ro  trong  hoạt động hiện nay của các ngân hàng thương mại Việt nam: ·  Về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng: cần  phải có quy định áp dụng riêng cho hoạt động hợp nhất (ngân hàng và  toàn  bộ  các pháp  nhân  trực  thuộc)  và hoạt động  của  riêng ngân hàng.  Xem xét lại tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn vì tỷ lệ  này không phát huy  tác dụng  trong  thời gian qua. Cách xác định  tỷ  lệ  này cũng chưa phù hợp (việc xác định cho vay trung và dài hạn dựa vào  thời  gian gốc ban đầu  của  khoản  cho  vay,  trong khi  thời  gian  vay  của  nhiều khoản vay trung, dài hạn chỉ còn lại dưới 12 tháng). Để duy trì tỷ  lệ này, nhiều ngân hàng đã phải cơ cấu lại tài sản và công nợ của mình  bằng cách vay dài hạn từ tổ chức tín dụng nước ngoài và gửi lại chính tổ  chức tín dụng đó dưới hình thức tiền gửi ngắn hạn. Nên bổ sung thêm tỷ  lệ tài sản thanh toán tối thiểu trên tổng tài sản và áp dụng linh hoạt theo  điều kiện thị  trường. Bổ sung vào giới hạn góp vốn mua cổ phần tỷ lệ  biểu quyết của tổ chức tín dụng trong tổ chức kinh tế khác và khống chế  mức góp vốn tối đa của tổ chức tín dụng vào một tổ chức kinh tế. ·  Tuân  thủ  chặt  chẽ  các  quy  định,  quyết  định  hiện  tại  như  Quyết  định  457/2005/QĐ­NHNN  ban  hành  ngày  19/04/2005,  Quyết  định  03/2007/QĐ­NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về  việc ban hành “Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động  của  các  tổ  chức  tín  dụng”.  Quyết  định  493/2005/QĐ­NHNN  ngày  22/04/2005 của ngân hàng nhà nước về việc phân loại nợ, trích lập và sử  dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. ·  Tiến đến các chuẩn mực quốc tế trong các quy định về quản lý rủi ro và  an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Hiện tại các ngân hàng  thương mại Việt Nam đang thực hiện Hiệp định Basel I theo các hướng  dẫn  từ Ngân  hàng Nhà  nước  và  tiến  đến  thực  hiện Basel  II  vào  năm  2010. Do đó các ngân hàng cần chuẩn bị cho mình các điều kiện và tiêu  chuẩn để đáp ứng  các  chuẩn mực quốc  tế  theo  các cam kết  trong  lĩnh vực  tài chính  trong sân chơi WTO trước những sức ép cạnh  tranh gay  gắt từ các ngân hàng ngoại đang và sẽ hoạt động tại Việt Nam.  3.1.3  Tăng  quy mô  hoạt  động:  nằm  trong  lộ  trình  tăng  vốn  theo  quy  định  141/2006/NĐ­CP ngày 26  tháng 11 năm 2006, các ngân hàng  thương mại cổ  phần đang chay đua để tăng vốn điều lệ đúng theo lộ trình của Chính phủ. Xét  trong giai đoạn bùng nổ trở lại của thị  trường chứng khoán Việt Nam thì khả  năng tăng vốn của các ngân hàng thương mại cổ phần dễ dàng hơn thông qua  kênh phát hành thêm cổ phiếu. Việc tăng vốn một mặt nhằm đáp ứng yêu cầu  vốn tối thiểu của Ngân hàng nhà nước, một mặt cũng làm tăng thêm khả năng  kinh doanh của các tổ chức tín dụng  trong điều kiện các chính sách  thúc đẩy  tăng trưởng kinh tế của Chính phủ càng mở rộng thì nhu cầu vốn của các doanh  nghiệp càng nhiều và các ngân hàng thì đua nhau tăng lãi suất để thu hút khách  hàng.  Theo đó, đối với từng ngân hàng thương mại: ·  Phối kết hợp các biện pháp tăng vốn  (phát hành cổ phiếu,  trái phiếu..)  một cách hiệu quả, phù hợp với tình hình của mỗi ngân hàng trong từng  giai đoạn nhằm phát huy tối đa ưu điểm của các biện pháp này và hạn  chế các nhược điểm của từng biện pháp. ·  Sau mỗi  lần  tăng  vốn  cần  sử  dụng một  cách  hiệu  quả  nguồn  vốn  bổ  xung,  kết hợp  với  việc  cải  cách ngân hàng  theo hướng nâng  cao năng  lực quản trị điều hành, năng lực tài chính, mở rộng quy mô và năng lực  cạnh  tranh cho ngân hàng...làm  tăng  lợi nhuận cho ngân hàng dẫn đến  tăng thêm vốn từ lợi nhuận giữ lại. ·  Các  ngân  hàng  thương mại  cần  củng  cố  và  hoàn  thiện mạng  lưới  chi  nhánh  (thế  mạnh  của  NHTM  VN),  đi  liền  với  chính  sách  chăm  sóc  khách hàng và tăng cường công tác tiếp thị; Các ngân hàng thương mại  Việt nam cần tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Tất  cả  nhằm mục  đích  làm  tăng  uy  tín  của  ngân  hàng_Điều  này  rất  quan  trọng đối với những lần tăng vốn tiếp theo. 3.1.4 Thông tin cần được minh bạch, rõ  ràng: trong điều kiện hội nhập kinh  tế quốc  tế, do các đối  tác còn chưa biết gì về nhau  thì những  thông  tin được  công bố  rộng  rãi  ra bên ngoài một cách  trung  thực và chính xác  là những  lời  mời chào đầu tư hiệu quả và thành công nhất. Do những đặt thù về cơ chế trong  quá khứ và văn hóa kinh doanh của người Việt Nam thì bản thân các ngân hàng  thương mại  cần  phải công khai hơn  tình  hình  tài  chính  của mình  trước  công  chúng và các nhà đầu tư. Việc công khai không những về các thông tin được  công bố mà còn các chuẩn mực kế toán, ban quản trị điều hành, chế độ kiểm  soát  rủi ro, quy  trình  ra quyết định đầu  tư và  thi hành,…cần được minh bạch  trong các kỳ đại hội cổ đông.  3.2 CÁC KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ  NƯỚC  3.2.1. Phát triển  thị  trường vốn:  thị  trường vốn ở nước  ta đang ở giai đoạn  đầu của sự phát triển, các thể chế và cấu trúc thị trường đang từng bước được  hoàn thiện. Tuy đã đạt được những kết quả khả quan ban đầu nhưng thị trường  này còn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Vì vậy, thúc đẩy thị trường này ngày càng  phát triển là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hiện nay. Mục tiêu phát triển  thị trường đã được Nhà nước đưa ra là phát triển nhanh, đồng bộ, vững chắc thị  trường vốn Việt Nam. Từng bước đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành  quan trọng của thị trường tài chính, góp phần đắc lực trong việc huy động vốn  cho  đầu  tư  phát  triển  và  cải  cách  nền  kinh  tế.  Phấn  đấu  đến  năm  2020,  thị  trường  vốn Việt Nam phát  triển  tương đương  thị  trường  các nước  trong  khu  vực. Vừa qua, Bộ tài chính đã trình Chính phủ đề án phát triển thị trường vốn  đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Hiện đề án này đang được Chính  phủ xem xét và sẽ quyết định phê duyệt trong thời gian tới…  Theo đánh giá của Bộ Tài chính, thị trường vốn Việt Nam đã thiết lập được  hệ thống  thị  trường  có tổ chức  của Nhà nước  như  cơ chế vận  hành,  cơ quan  quản lý, hạ tầng thị trường, hệ thống các nhà phát hành, các nhà đầu tư và các  trung gian hoạt động trên thị trường. Quy mô của thị trường vốn có bước phát  triển khá mạnh: Tính đến hết năm 2006 đã có 3.400 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa với tổng giá trị vốn Nhà nước bán ra là 35.500 tỷ đồng; 26.000 công  ty cổ phần thành lập mới với số vốn cổ phần huy động khoảng 80.000 tỷ đồng;  hơn 400  loại  trái phiếu Chính phủ,  trái phiếu chính quyền địa phương và  trái  phiếu  doanh  nghiệp  được  phát  hành  với  tổng  dư  nợ  trên  109.000  tỷ  đồng.  Trong đó, 193  loại cổ phiếu đã thực hiện niêm yết và đăng ký giao dịch với  tổng vốn điều lệ  là 20.000 tỷ đồng và giá trị vốn hóa thị trường tại  thời điểm  31/12/2006  là  221.156  tỷ  đồng  (bằng  22,4% GDP  năm  2006);  hệ  thống  các  định chế trung gian thị trường đã được thiết lập. Ngoài số lượng các ngân hàng  thương mại, các tổ chức tài chính, kế toán, kiểm toán tham gia cung cấp dịch  vụ trên thị  trường thì số lượng các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ  cũng tăng mạnh. Số lượng các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào thị  trường chứng khoán ngày càng tăng.  Bên cạnh những kết quả đó, thị trường vốn còn gặp trở ngại khi phát triển:  Tính thống nhất trong điều hành các chính sách liên quan còn hạn chế như điều  hành  chính  sách  tiền  tệ,  lãi  suất;  chính  sách  tham  gia  của  các  ngân  hàng,  tổ  chức tín dụng vào thị trường vốn; chính sách đầu tư gián tiếp; cải cách doanh  nghiệp và quản trị doanh nghiệp; quản lý nợ công…Quy mô thị trường vốn còn  nhỏ khi nguồn cung cấp vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế cho thị trường  chưa nhiều. Việc  phát hành cổ phiếu mới của các công ty cổ phần trực tiếp trên  thị trường còn ít; Giá trị vốn Nhà nước bán ra tại các doanh nghiệp nhà nước cổ  phần hóa  chưa nhiều  (hiện chiếm khoảng 20%  tổng giá  trị  vốn Nhà nước  tại  các doanh nghiệp). Hiện nay, thị trường cổ phiếu tự do thiếu sự kiểm soát của  Nhà nước đang chiếm thị phần lớn. Cổ phiếu của nhiều doanh nghiệp nhà nước  đã cổ phần hóa có quy mô  lớn hoặc lĩnh vực nhạy cảm như ngân hàng, điện  lực, viễn thông, hàng hải vẫn tự do giao dịch trên thị trường không chính thức,  không công khai, minh bạch…đã tác động tiêu cực tới thị trường có tổ chức và  gây ra những bất ổn cho cả hệ thống tài chính. Trong khi đó, sự tham gia ồ ạt  của nhiều nhà đầu tư, hoạt động đầu tư theo phong trào trong khi nguồn cung  hạn  chế đã  làm mất cân đối  về  cung  cầu  chứng khoán, đẩy  giá  chứng khoán  vượt  khỏi  giá  trị  thực  của doanh nghiệp,  gây  ra  tình  trạng  “nóng”  trên  cả  thị trường có tổ chức và thị trường tự do. Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng trung –  dài hạn của ngân  hàng vẫn ở hình  thức truyền  thống. Một khối  lượng  lớn  tài  sản đang tồn tại ở dạng cầm cố, thế chấp vay vốn mà chưa được chứng khoán  hóa. Do vậy, khả năng huy động vốn, thoát vốn và sự liên kết giữa thị trường  tiền tệ với thị trường vốn còn hạn chế.  Từ những kết quả và hạn chế trên, tôi xin đưa ra các giải pháp để phát triển  thị trường vốn trong thời gian tới, bao gồm các nhóm giải pháp sau:  ­ Cần nhanh  chóng hoàn  thiện về  thể  chế, đảm bảo  tính công khai, minh  bạch và có sự kiểm soát của Nhà nước đối với toàn bộ thị  trường;  từng bước  đưa thị trường vốn trở thành một cấu thành quan trọng của thị trường tài chính.  Bên  cạnh đó,  thị  trường vốn  cần phát  triển đa dạng để đáp ứng nhu  cầu huy  động vốn và đầu  tư  của mọi đối  tượng  trong  nền kinh  tế. Phấn đấu đến năm  2010 sẽ hoàn chỉnh cơ bản về cấu trúc thị trường vốn và đến năm 2020 sẽ phát  triển tương đương với các nước trong khu vực. Một số chỉ tiêu cụ thể được dự  báo đến năm 2010 như giá trị vốn hóa thị trường bằng 50%GDP, huy động vốn  cho đầu tư phát triển qua thị trường vốn đạt khoảng 16%GDP; hai tỷ lệ tương  ứng đến năm 2020 dự báo sẽ là 70% và 30%. Mặc dù thị trường vốn phát triển  khá nhanh song quy mô còn nhỏ, chất lượng chưa cao, hàng hóa chưa đa dạng;  tính minh  bạch  công  khai  còn  hạn  chế,  số  lượng nhà  đầu  tư  chuyên  nghiệp  không nhiều. Bên cạnh đó, công tác quản lý giám sát  thị  trường, điều hành vĩ  mô còn nhiều bất cập trong khi năng lực cưỡng chế thực thi của cơ quan giám  sát còn yếu và thiếu. Thị trường tự do chiếm thị phần lớn và tiềm ẩn nhiều rủi  ro bất ổn cho cả hệ thống tài chính. Hoạt động đầu tư thường theo phong trào  trong  khi  nguồn  cung  còn  hạn  chế,  xảy  ra  hiện  tượng mất  cân  đối  cung  cầu  chứng khoán làm cho giá cổ phiếu vượt khỏi giá trị thực của doanh nghiệp và  đã gây ra tình trạng “nóng” trên cả thị  trường có tổ chức và thị  trường tự do.  Tuy nhiên, để thực hiện được những mục tiêu phát triển thị trường vốn như đã  đề  ra  cho  giai đoạn  năm 2010 đến  năm 2020  thì  trước  hết  cần  phát  triển  số  lượng, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại hàng hóa, đáp ứng nhu cầu  thị trường. Điều này được cụ thể hóa bằng việc đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa các  doanh nghiệp nhà nước, các tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước và  gắn  với  niêm  yết  thị  trường  chứng  khoán;  thúc đẩy  các  doanh nghiệp  đã  cổ  phần hóa đủ điều kiện phải thực hiện niêm yết đồng thời tiến hành rà soát để có  thể bán tiếp phần vốn của Nhà nước tại các công ty mà Nhà nước không cần  nắm cổ phần chi phối. Mặt khác, cần đa dạng hóa các loại hình trái phiếu trên  thị  trường  trái  phiếu  như  trái  phiếu  chính  phủ,  trái  phiếu  doanh  nghiệp,  trái  phiếu đô thị,…phát triển các sản phẩm chứng khoán phái sinh như: quyền chọn  mua, bán chứng khoán, hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, các sản phẩm từ  chứng khoán hóa tài sản và các khoản nợ…  ­ Thứ hai, thị trường vốn cần phải phát triển theo hướng hiện đại, hoàn  chỉnh về cấu trúc, được quản lý giám sát bởi Nhà nước và có khả năng  liên kết với các thị trường trong khu vực và quốc tế. Để làm được điều  đó cần sớm hình thành thị trường trái phiếu chuyên biệt nhằm tạo kênh  huy động vốn; hình thành và phát triển thị trường tương lai cho các công  cụ phái sinh; thị trường chứng khoán hóa cho các khoản cho vay trung –  dài  hạn  của  ngân  hàng…hay  việc  phát  triển  thị  trường  cổ  phiếu  theo  nhiều  cấp  độ  để  đáp ứng nhu  cầu  đa  dạng  của  nhiều  loại  hình  doanh  nghiệp.  ­ Thứ ba, cần phát  triển các định chế  trung gian và dịch vụ  thị  trường  bằng  cách  thúc  đẩy  tăng  số  lượng,  chất  lượng hoạt  động  và  năng  lực  hoạt động của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ…cũng như  nghiên cứu  thành  lập các  tổ chức định mức  tín nhiệm  tại Việt Nam và  cho phép một số tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín của nước ngoài  vào hoạt động.  ­ Thứ  tư, phát  triển nhà đầu  tư  trong và ngoài nước, khuyến khích các  định  chế  đầu  tư  chuyên  nghiệp  như  ngân  hàng,  bảo  hiểm,  chứng  khoán,…tham gia vào thị trường. Đa dạng hóa các loại hình quỹ đầu tư  để  thu hút  vốn cư dân  tham gia; khuyến  khích  các  việc  thành  lập quỹ đầu  tư ở nước ngoài đầu  tư dài hạn vào  thị  trường Việt Nam  theo quy  định.  ­  Thứ năm,  phải  nâng  cao  hiệu  quả  quản  lý,  giám  sát  của  Nhà  nước;  nghiên cứu các biện pháp  kiểm  soát vốn  chặt  chẽ  trong những  trường  hợp cần thiết trên nguyên tắc được thể chế hóa, công bố công khai cho  nhà đâu tư và chỉ áp dụng khi có những nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh  của hệ thống tài chính.  (Nguồn: Thời Báo Kinh Tế Việt Nam)  3.2.2 Phát triển thị trường trái phiếu –  thị trường nợ: thị trường trái phiếu  Việt Nam  bao  gồm  tín phiếu  kho  bạc,  trái  phiếu  chính  phủ,  trái phiếu  chính  quyền  địa  phương,  trái  phiếu  doanh  nghiệp  (bao  gồm  trái  phiếu  ngân  hàng  thương mại), chứng chỉ tiền gửi và các chứng khoán nợ có giá trị khác. Đương  nhiên các trái phiếu này chiếm lĩnh vai trò chủ yếu trên thị trường chứng khoán  Việt Nam. Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn được xem là nhỏ về qui mô  và còn chưa thực sự chuẩn hóa. Đây là một thị trường đang phát triển, thu hút  sự quan tâm của các nhà đầu tư và các tổ chức tài chính nước ngoài.  Vào cuối năm 2006, có khoảng 375  loại  trái phiếu chính phủ và trái phiếu  doanh nghiệp niêm yết trên thị  trường chứng khoán, với tổng mệnh giá là 5 tỷ  USD. Các  loại  trái  phiếu  chính  phủ chiếm  tỷ lệ  chủ yếu  của  toàn  thị trường.  Các số liệu của Trung tâm giao dịch chứng khoán cho thấy nghiệp vụ này tạo  ra  khoảng 78%  giá  trị  của  toàn  thị  trường  trong  khi  tổng  giá  trị  vốn  hóa  cổ  phiếu chỉ tạo ra khoảng 19% giá trị.  Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của trái  phiếu chính phủ với tư cách là một nguồn vốn đầu tư.  Trong 3 loại trái phiếu đã được phát hành và  đang giao dịch tại Việt Nam,  bao gồm trái phiếu chính phủ  và tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính quyền địa  phương  và trái  phiếu  doanh  nghiệp  thì khối  lượng  trái  phiếu  chính  phủ chiếm ưu thế trên thị trường với 81% thị phần, trong khi đó trái phiếu địa  phương là 10%, và trái phiếu doanh nghiệp là 9%. (1) (1) Tính đến cuối quý  III/ 2006, Vụ Ngân hàng và Tài Chính, Bộ Tài Chính  Khối  lượng  trái  phiếu  phát  hành  được  minh  họa ờ  hình  sau  đây:  Biểu  đồ 3.1: Giá trị trái phiếu phát hành giai đoạn 2001 – 2007 ( tỷ VND)  3.2.2.1  Phát triển thị trường giao dịch các giấy tờ có giá:  3.2.2.1.1 Trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc  Tín phiếu kho bạc ở Việt Nam là các chứng khoán nợ ngắn hạn với kỳ hạn  182.273 hoặc 364 ngày trong khi trái phiếu chính phủ là 7, 10 hay 15 năm. Có  gần  400  loại  tín phiếu kho bạc  và  trái  phiếu  chính  phủ  khác nhau hiện đang  được  giao  dịch  trên  thị  trường. Khoảng 60.000  tỷ  đồng  trái  phiếu  chính  phủ  được Kho Bạc Nhà Nước Và Ngân Hàng Phát Triển phát hành hằng năm thông  qua các kênh bảo lãnh và đấu giá.  Hiện nay trái phiếu chính phủ chủ yếu được phát hành thông qua bảo lãnh, hay đấu thầu thông qua các trung tâm giao dịch  chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán nhà nước.  3.2.2.1.2 Trái phiếu chính quyền địa phương  Trái  phiếu  chính  quyền địa  phương  được  chính  quyền  địa  phương  phát  hành  dưới  sự cho  phép  của  chính  phủ.  Hiện  nay  chỉ có Hà Nội,  Thành  phố  Hồ Chí Minh và Đồng Nai phát hành  trái phiếu  chính quyền địa phương  (trái  phiếu đô  thị) để huy động vốn. Các  tỉnh  thành được phép đến 30% tổng nhu  cầu chi tiêu và phải được chính phủ cho phép phát hành. Số trái phiếu này được  phát hành thông qua các kênh đấu giá, bảo lãnh và đại lý phát hành. Tuy nhiên,  tính thanh khoản của loại trái phiếu này rất thấp.  3.2.2.1.3 Trái phiếu doanh nghiệp  Các doanh nghiệp phát hành bao gồm các doanh nghiệp nhà nước đang tiến  hành cổ phần hóa, hay các tổng công ty, tập đoàn kinh tế lớn. Số trái phiếu này  được phát hành  thông qua kênh đấu giá, bảo lãnh và môi giới.  tuy nhiên  tính  thanh khoản của loại trái phiếu này cũng không cao.  3.2.2.1.4 Chứng chỉ tiền gửi và các chứng khoán nợ  Chứng  chỉ tiền  gửi được  xem  là các  chứng  khoán  nợ có giá trị và thu  hút  bảo hiểm  tiền  gửi. Chứng  chỉ tiền  gửi  thường  có  thời hạn một năm hoặc  lớn  hơn. Việc giới hạn số ngày giao dịch là 90 ngày cho các chứng từ có giá được  áp dụng cho hoạt động thị  trường mở  trong đó Ngân hàng nhà nước chỉ mua  đứt bán đoạn các chứng từ có giá trị mà không áp 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfĐề Tài- Bảo toàn và phát triển vốn tự có tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan