Lỗi logic trong một số bản án nhìn từ góc độ các quy luật logic hình thức cơ bản của tư duy

Tài liệu Lỗi logic trong một số bản án nhìn từ góc độ các quy luật logic hình thức cơ bản của tư duy: 106 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật LỖI LOGIC TRONG MỘT SỐ BẢN ÁN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CÁC QUY LUẬT LOGIC HÌNH THỨC CƠ BẢN CỦA TƯ DUY Bùi Xuân Thanh* TÓM TẮT Trật tự pháp luật là điều kiện cần thiết cho đời sống sinh hoạt bình thường của xã hội, cho sự giải quyết hiệu quả những nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Trật tự pháp luật được hình thành khi các chủ thể thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật vì việc thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật sẽ làm cho những quan hệ xã hội ổn định, kỷ cương xã hội nghiêm minh. Để đảm bảo được điều này, đòi hỏi các cơ quan làm công tác bảo vệ pháp luật nói chung và tòa án nói riêng phải phản ứng nhanh chóng và hiệu quả đối với các vi phạm pháp luật, làm sáng tỏ và xử lý các vụ vi phạm ấy đúng đắn và kịp thời. Tuy nhiên, muốn thực hiện được điều đó, các cán bộ làm công tác bảo vệ pháp luật không chỉ phải có lòng nhiệt tình, mà còn phải có tư duy khoa học, năng động, sáng tạo. Một trong những cơ sở, động lực nội tại làm tiền đề cho sự phát tri...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 517 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lỗi logic trong một số bản án nhìn từ góc độ các quy luật logic hình thức cơ bản của tư duy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
106 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật LỖI LOGIC TRONG MỘT SỐ BẢN ÁN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ CÁC QUY LUẬT LOGIC HÌNH THỨC CƠ BẢN CỦA TƯ DUY Bùi Xuân Thanh* TÓM TẮT Trật tự pháp luật là điều kiện cần thiết cho đời sống sinh hoạt bình thường của xã hội, cho sự giải quyết hiệu quả những nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Trật tự pháp luật được hình thành khi các chủ thể thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật vì việc thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật sẽ làm cho những quan hệ xã hội ổn định, kỷ cương xã hội nghiêm minh. Để đảm bảo được điều này, đòi hỏi các cơ quan làm công tác bảo vệ pháp luật nói chung và tòa án nói riêng phải phản ứng nhanh chóng và hiệu quả đối với các vi phạm pháp luật, làm sáng tỏ và xử lý các vụ vi phạm ấy đúng đắn và kịp thời. Tuy nhiên, muốn thực hiện được điều đó, các cán bộ làm công tác bảo vệ pháp luật không chỉ phải có lòng nhiệt tình, mà còn phải có tư duy khoa học, năng động, sáng tạo. Một trong những cơ sở, động lực nội tại làm tiền đề cho sự phát triển và hoàn thiện của tư duy, góp phần rèn luyện tính khoa học, năng động, sáng tạo của tư duy là khi người ta nhận thấy những điểm yếu, điểm hạn chế trong tư duy của mình. Chính vì lý do đó, việc tìm hiểu những lỗi logic thường gặp trong một số bản án từ góc độ các quy luật logic hình thức cơ bản của tư duy là góp phần tạo nên cơ sở, động lực hoàn thiện năng lực tư duy nói chung và tư duy của một số cán bộ làm công tác bảo vệ pháp luật nói riêng. Từ khóa: quy luật, logic, tư duy, bản án LOGICAL ERRORS IN SOME JUDGEMENTS FROM THE VIEW OF BASIC FORMAL LOGIC LAWS OF BRAINSTORM ABSTRACT Laws’ order is not only necessary for the life of society but also the effective solutions due to the tasks of developing society. This order is formed when people strictly carry out the law because strict implementation will remain social relations stable and social discipline. In order to ensure this, the law enforcement agencies in a broad scale and the courts in a smaller scale must respond quickly and effectively to legal violations, clarify and handle those action in the right ways and timely. However, achieving that demands the officers who work in the laws agencies must not only have enthusiasm, but also have a scientific, dynamic and creative mindset. One of the foundations and internal motivations impulsing the development and perfection of thinking, contributing to improving the science of thinking, dynamism and creativity of brainstorm is the perception of weaknesses, limitations in your thinking. For that reason, the understanding of common logical errors in some judgments from the perspective of basic formal logic laws is to contribute to the foundation and motivation of perfecting the capacity of thinking in general and thinking of some officials in charge of laws agencies in particular. Keywords: laws, logic, thinking, judgment * Tiến sĩ, giảng viên, Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Kinh tế. TP. Hồ Chí Minh 107 1. KHÁI QUÁT CÁC QUY LUẬT LOGIC CỦA TƯ DUY Quy luật logic của tư duy là những quy luật chi phối tư duy và các yếu tố cấu thành nó với tư cách là những tri thức về giới hiện thực được xét ở góc độ tính chân thực hay giả dối của sự phản ánh. Mặc dù chỉ chi phối tư duy nhưng các quy luật logic của tư duy có cơ sở khách quan là những quan hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực. Do đó, muốn phản ánh đúng đắn thế giới hiện thực, tư duy của con người không thể không tuân thủ các quy luật này. Nhìn từ góc độ phương pháp tư duy, có thể phân chia các quy luật logic của tư duy thành hai loại: quy luật logic biện chứng và quy luật logic hình thức của tư duy. Mặc dù đều chi phối tư duy logic, nhưng điểm khác biệt của hai loại quy luật logic này ở chỗ: Quy luật logic biện chứng của tư duy là các quy luật cấu thành phương pháp tư duy biện chứng – tức phương pháp nhận thức về sự vật, hiện tượng trong quá trình sinh thành biến đổi và phát triển; còn quy luật logic hình thức của tư duy là các quy luật cấu thành phương pháp tư duy hình thức – tức phương pháp nhận thức về đối tượng bằng cách dừng lại sự tồn tại của đối tượng ở một phẩm chất xác định, tạm thời không tính tới sự biến đổi, sự chuyển hóa về chất của đối tượng ấy. Như vậy, nếu việc nắm vững và tuân thủ các quy luật logic biện chứng của tư duy là điều kiện cần thiết để con người rèn luyện phương pháp tư duy biện chứng, nhằm nhận ra được sự đồng nhất của cái khác biệt, nghĩa là nhận ra mối liên hệ phổ biến tự nhiên vốn có của các sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của chúng; thì việc nắm vững và tuân thủ các quy luật logic hình thức của tư duy lại là điều kiện cần thiết để con người rèn luyện phương pháp tư duy hình thức, nhằm nhận ra sự đồng nhất trừu tượng, nghĩa là sự đồng nhất của đối tượng với chính bản thân nó ở phẩm chất được xét. Quy luật logic hình thức tác động trong tư duy logic của con người gồm có các quy luật logic hình thức cơ bản và các quy luật logic hình thức không cơ bản. Logic học hình thức chỉ ra bốn quy luật logic hình thức cơ bản của tư duy là: Quy luật đồng nhất, quy luật cấm mâu thuẫn, quy luật bài trung và quy luật lý do đầy đủ. Các quy luật này được gọi là các quy luật logic hình thức cơ bản của tư duy vì chúng tác động tới mọi yếu tố cấu thành tư duy, không phân biệt nội dung phản ánh và kết cấu logic của các yếu tố ấy như thế nào. Trong tư duy của con người, các quy luật này không tác động một cách riêng rẽ, mà tác động trong một khối thống nhất. Chúng hỗ trợ, bổ sung cho nhau để tạo tính khoa học cho tư duy hình thức trong việc phản ánh hiện thực nói chung và phản ánh đối tượng xác định nói riêng. Tính khoa học đó được biểu hiện ở tính xác định, tính nhất quán và tính có thể chứng minh của tư duy; là những tính chất không thể thiếu của một tư duy khoa học. Nói cách khác, tính thống nhất của sự tác động các quy luật logic hình thức cơ bản trong tư duy thể hiện ở chỗ: Nếu tư duy vi phạm các quy luật đồng nhất, quy luật cấm mâu thuẫn, quy luật bài trung và quy luật lý do đầy đủ thì bản thân tư duy không thể có tính xác định, tính nhất quán và tính có thể chứng minh được. Khi đó tư duy sẽ không phản ánh chân thực đối tượng ở phẩm chất được xét để đạt tới chân lý. Trong các quy luật logic hình thức cơ bản của tư duy, quy luật đồng nhất phản ánh quan hệ đồng nhất trừu tượng của các sự vật và hiện tượng thuộc giới hiện thực – nghĩa là sự đồng nhất của đối tượng với chính bản thân nó, khi nó được xem xét ở phẩm chất xác định. Quy luật này phát biểu: Một ý nghĩ, một tư tưởng đã được định hình trong tư duy để phản ánh về đối tượng ở phẩm chất xác định thì đồng nhất với chính nó ( tư tưởng ấy) về mặt giá trị logic. Có thể mô hình hóa quy luật đồng nhất bằng công thức: a ≡ a (đọc là: tư tưởng a đồng nhất với chính nó về mặt giá trị logic). Hoặc có thể diễn đạt quy luật Lỗi logic trong một số bản án ... 108 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật này bằng công thức: a  a (đọc là: nếu tư tưởng a chân thực thì nó luôn là chân thực). Theo quy luật đồng nhất, tư duy phải tuân thủ các yêu cầu: Một là, không được đánh tráo đối tượng của tư tưởng. Điều đó có nghĩa là một tư tưởng, một ý nghĩ đã định hình trong tư duy để phản ánh đối tượng ở phẩm chất được xét nào đó, trong một điều kiện, một quan hệ xác định thì nó phải phản ánh đối tượng ở phẩm chất ấy chứ không được chuyển sang phản ánh phẩm chất khác, hay chuyển sang phản ánh đối tượng khác. Hai là, không được đánh tráo ngôn ngữ diễn đạt tư tưởng. Nghĩa là ngôn ngữ diễn đạt tư tưởng phải chính xác. Khi đã định hình được ý nghĩ phản ánh về đối tượng thì phải chọn từ, chọn câu diễn đạt chính xác ý nghĩ ấy. Nếu chọn từ, chọn câu diễn đạt sai lệch ý nghĩ thì tư duy đã vi phạm yêu cầu hai của quy luật đồng nhất và phản ánh sai lầm đối tượng. Ba là, ý nghĩ, tư duy tái tạo phải đồng nhất với ý nghĩ với tư duy ban đầu, tư duy nguyên mẫu. Điều này có nghĩa là khi nào con người nhắc lại sai ý nghĩ đã định hình của mình, hoặc hiểu sai ý của người khác là khi ấy tư duy con người không tuân thủ quy luật đồng nhất, dẫn đến thay đổi đối tượng tư tưởng. Như vậy, quy luật đồng nhất bảo đảm cho tư duy có được tính xác định, làm cho tư duy rõ ràng, mạch lạc. Khi tư duy con người vi phạm các yêu cầu trên đây của quy luật đồng nhất nó sẽ rơi vào tình trạng không chính xác, không rõ ràng, lủng củng và sa vào sai lầm trong việc phản ánh đối tượng. Quy Luật cấm mâu thuẫn phản ánh sự khác biệt của đối tượng với các sự vật và hiện tượng khác khi nó được xét ở phẩm chất xác định. Quy luật này phát biểu: Một ý nghĩ, một tư tưởng đã được định hình trong tư duy để phản ánh đối tượng ở phẩm chất xác định, thì không thể đồng thời mang hai giá trị logic trái ngược nhau, hoặc: hai tư tưởng trái ngược nhau không thể cùng chân thực. Hai tư tưởng trái ngược nhau này có thể là hai tư tưởng có quan hệ đối chọi, khác nhau về chất, và về mặt giá trị logic chúng không cùng chân thực nhưng có thể cùng giả dối, hoặc có thể là hai tư tưởng khác nhau cả về chất lẫn về lượng, về mặt giá trị logic chúng không cùng chân thực và cũng không cùng giả dối. Có thể diễn đạt quy luật cấm mâu thuẫn bằng công thức: 7(a ^ 7a) ( đọc là: không thể có chuyện hai tư tưởng“a” và tư tưởng “ 7a” mâu thuẫn nhau cùng phản ánh về một đối tượng ở một phẩm chất xác định lại cùng chân thực). Nội dung của quy luật cấm mâu thuẫn được thể hiện thành hai yêu cầu cụ thể: Thứ nhất, không được dung chứa mâu thuẫn logic trực tiếp trong tư duy khi phản ánh về đối tượng ở phẩm chất xác định - nghĩa là, về cùng một đối tượng ở một phẩm chất được xét, thì không thể đồng thời vừa khẳng định điều gì đó, rồi lại phủ định ngay chính điều vừa mới khẳng định. Thứ hai, không được dung chứa mâu thuẫn logic gián tiếp trong tư duy, thể hiện dưới hai dạng: dạng một, không được khẳng định cho đối tượng một điều gì rồi lại phủ định chính những hệ quả tất yếu được rút ra từ điều vừa khẳng định trên; dạng hai, không được đồng thời khẳng định cho đối tượng ở phẩm chất xác định hai điều trong hiện thực là loại trừ nhau. Quy luật cấm mâu thuẫn bảo đảm cho tư duy có tính liên tục, nhất quán. Khi vi phạm các yêu cầu trên đây của quy luật cấm mâu thuẫn, tư duy sẽ sa vào mâu thuẫn logic, dẫn đến tình trạng bất nhất, lủng củng, sai lầm trong việc phản ánh đối tượng. Trong các quy luật logic hình thức cơ bản của tư duy, quy luật bài trung đòi hỏi tư duy phải nhất quán trong việc phản ánh đối tượng ở phẩm chất xác định. Quy luật này phát biểu: Một ý nghĩ, một tư tưởng đã định hình trong tư duy phản ánh đối tượng ở phẩm chất được xét thì phải mang giá trị logic xác định, hoặc chân thực, hoặc giả dối chứ không có khả năng thứ ba”. Hoặc: hai tư tưởng mâu thuẫn nhau thì không thể cùng chân thực và cùng giả dối. Có thể biểu diễn quy luật bài trung bằng công thức: 109 7 ( a v7a) ( đọc là: hoặc tư tưởng “a” hoặc tư tưởng mâu thuẫn với nó là “ 7a” chân thực, chứ không có khả năng thứ ba). Nội dung trên đây của quy luật bài trung được thể hiện thành hai yêu cầu: Trước hết, phải định hình được nội dung các danh từ logic chứa trong các tư tưởng mâu thuẫn nhau; tiếp theo, phải ghi nhận là chân thực một trong hai tư tưởng mâu thuẫn nhau cùng phản ánh về đối tượng ở phẩm chất được xét. Như vậy, quy luật bài trung không chỉ bảo đảm cho tư duy có tính liên tục, nhất quán, phi mâu thuẫn, mà còn chỉ cho con người hướng tìm kiếm chân lý. Theo quy luật này, khi chúng ta giải quyết một vấn đề nào đó sẽ có hai lời giải mâu thuẫn nhau, nhưng chỉ có một lời giải đúng. Nếu không tuân thủ quy luật này, tư duy sẽ rơi vào tình trạng chung chung, mơ hồ, không rõ ràng trong việc giải quyết vấn đề; nghĩa là rơi vào tình trạng ba phải, không có lập trường, chính kiến. Tuy nhiên, tư duy logic không chỉ là tư duy có tính xác định, tính liên tục nhất quán, phi mâu thuẫn, mà còn phải có tính chứng minh được. Để có phẩm chất này, tư duy phải tuân thủ quy luật lý do đầy đủ. Quy luật này phản ánh mối liên hệ của đối tượng với các sự vật, hiện tượng khác trong sự tồn tại ở phẩm chất xác định của nó. Quy luật lý do đầy đủ phát biểu: Một tư tưởng, một ý nghĩ đã định hình trong tư duy phản ánh về đối tượng ở phẩm chất xác định thì chỉ được công nhận là chân thực ( hay giả dối) khi có đầy đủ căn cứ, đầy đủ lý do để chứng minh cho tính chân thực ( hay giả dối) của nó. Quy luật lý do đầy đủ do Leibniz người Đức phát biểu vào cuối thế kỷ XVIII. Theo đó, tư duy của con người muốn đạt đến chân lý, không chỉ phải tuân thủ các quy luật đồng nhất, quy luật cấm mâu thuẫn và quy luật bài trung, mà còn phải tuân thủ quy luật lý do đầy đủ. Nội dung của quy luật lý do đầy đủ thể hiện ở hai yêu cầu: Một là, phải xác định được giá trị logic cho tư tưởng“ a” khi nó được định hình trong tư duy, nghĩa là phải ghi nhận tư tưởng “a” là chân thực hay giả dối. Hai là, phải tìm được đầy đủ căn cứ làm chỗ dựa cho giá trị logic (tính chân thực hay giả dối) của tư tưởng “a”. Khi vi phạm các yêu cầu này, tư duy sẽ rơi vào tình trạng thiếu thuyết phục, nghĩa là mắc lỗi lý do không đầy đủ và sa vào sai lầm trong việc phản ánh đối tượng. 2. NHÌN LỖI LOGIC TRONG MỘT SỐ BẢN ÁN TỪ GÓC ĐỘ CÁC QUY LUẬT LOGIC HÌNH THỨC CƠ BẢN CỦA TƯ DUY Trật tự pháp luật là điều kiện cần thiết cho đời sống sinh hoạt bình thường của xã hội, cho sự giải quyết hiệu quả những nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Trật tự pháp luật được hình thành khi các chủ thể thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đáp ứng những nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật làm cho những quan hệ xã hội ổn định, kỷ cương xã hội nghiêm minh, quan hệ sản xuất được củng cố tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường chỉ phát triển năng động và hiệu quả khi được đặt trong những điều kiện là sự điều chỉnh pháp luật đúng đắn của nhà nước và pháp luật được thực hiện nghiêm minh. Để đảm bảo được những điều kiện này đòi hỏi các cơ quan làm công tác bảo vệ pháp luật nói chung và Tòa án nói riêng phải phản ứng nhanh chóng và hiệu quả đối với các vi phạm pháp luật, phát hiện, làm sáng tỏ và xử lý các vụ vi phạm ấy đúng đắn và kịp thời. Công tác bảo vệ pháp luật bao gồm từ khâu điều tra đến khâu truy tố và khâu xét xử. khâu điều tra là nhiệm vụ của các cán bộ điều tra. Khâu truy tố thuộc quyền của Viện kiểm sát và khâu xét xử là công việc của Tòa án các cấp. Tuy chức năng và nhiệm vụ của từng khâu có khác nhau song đều nhằm mục đích xử lý chính xác các vụ vi phạm pháp luật, bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của công dân và bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lỗi logic trong một số bản án ... 110 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Thực tiễn công việc xét xử đòi hỏi ở những người làm công tác tòa án phải có một tư duy năng động, sáng tạo, có trình độ và năng lực phân tích, nắm bắt nhanh và xứ lý chính xác những hành vi vi phạm pháp luật. Để đáp ứng được điều đó, tư duy của những người làm công tác tòa án phải có tính xác định, tính liên tục nhất quán, phi mâu thuẫn, và tính có thể chứng minh được. Điều đó cũng có nghĩa, nhìn từ góc độ của logic học hình thức, tư duy các cán bộ làm công tác tòa án phải phải tuân theo đầy đủ các yêu cầu của các quy luật logic hình thức và các quy tắc logic cho tư duy. Khi tư duy không tuân theo đầy đủ các yêu cầu của các quy luật logic và các quy tắc logic cho tư duy thì tính khoa học của tư duy không được bảo đảm – đó là tư duy mắc lỗi logic. Mỗi hành vi cấu thành tội phạm của những người vi phạm pháp luật đều có tính chất và mức độ phạm tội nhất định được quy định trong từng điều luật cụ thể. Cán bộ tòa án phải làm rõ các hành vi cấu thành tội phạm đó, phải xác định được tính chất, mức độ phạm tội, trên cơ sở căn cứ vào quy định trong các điều luật của bộ luật mà định tội danh và mức hình phạt áp dụng cho bị cáo. Nếu không làm được điều đó một cách chính xác thì mặc nhiên việc định tội danh và quyết định mức hình phạt sẽ sai lầm. Trong thực tế có nhiều bản án xác định không đúng các dấu hiệu phạm tội, đánh giá không chính xác tính chất và mức độ các hành vi phạm tội (với các án hình sự) hoặc xác định không đúng đắn tình trạng các sự kiện, các quan hệ con người (trong các án dân sự). Khi đó yêu cầu một của quy luật đồng nhất đã bị vi phạm và bản án đã bị mắc lỗi logic hình thức. Cũng có nhiều trường hợp các bản án đã đánh giá đúng đắn tính chất và mức độ của các hành vi phạm tội, song khi định tội danh và quy định mức hình phạt cho bị cáo vẫn sai. Khi đó có thể do cán bộ xét xử không tái tạo được đúng nội dung tư tưởng đã định hình trong các điều luật được viện dẫn, tức là đã hiểu không đúng nội dung của những khái niệm chứa trong các điều luật này. Đây chính là biểu hiện của sự tái tạo không đúng tư duy ban đầu, tư duy nguyên mẫu, và như thế bản án đã vi phạm yêu cầu ba của quy luật đồng nhất, mắc lỗi logic hình thức. Thực tế cho thấy, có nhiều bản án được công nhận về tính đúng đắn trong các quyết định của hội đồng xét xử, nhưng do việc dùng ngôn ngữ, lời nói diễn đạt không chuẩn xác mà các bản án này thiếu tính thuyết phục. Khi ấy bản án cũng mắc lỗi logic hình thức, vi phạm quy luật đồng nhất, ở yêu cầu hai. Như vậy, từ góc độ logic học hình thức, khi có sự xuyên tạc phẩm chất các hành vi cấu thành tội phạm, đánh giá không đúng tính chất các quan hệ của sự việc dân sự, hay viện dẫn không đúng các văn bản pháp luật hoặc dùng ngôn ngữ, lời nói diễn đạt không đúng ý đã định hình trong một số bản án chính là biểu hiện của sự vi phạm quy luật đồng nhất và đã chứa lỗi logic hình thức trong công tác toà án. Trong một số bản án mắc nhiều sai sót về mặt pháp lý thì người ta cũng nhận thấy sự dung chứa mâu thuẫn logic trực tiếp hay sự dung chứa mâu thuẫn logic gián tiếp nhìn từ góc độ logic. Với cùng một bản án, việc giải quyết từng tình tiết có liên quan mật thiết với nhau. Nếu không có cái nhìn bao quát, cán bộ xét xử có thể tuyên những điều phủ định, loại trừ lẫn nhau trong thực tế. Hơn nữa, từ bất kỳ một điều khẳng định nào của cán bộ xét xử người ta đều có thể suy ra được một điều nào khác với tư cách là hệ quả tất yếu của điều đã khẳng định ấy. Nếu không tính đến mối liên hệ ràng buộc này, cán bộ xét xử có thể khẳng định một điều sau những điều khẳng định trước, mà chính những điều khẳng định sau này lại phủ định ngay hệ quả được suy ra một cách tất yếu từ những điều khẳng định trước đó. Trong những trường hợp như vậy bản án đã mắc lỗi logic hình thức, vi phạm các yêu cầu của quy luật cấm mâu thuẫn. Tính nhất quán trong cùng một bản án là điều kiện hết sức cần thiết để bản án có tính 111 chặt chẽ, phát huy hiệu lực pháp luật, cưỡng chế người thi hành án. Điều này chỉ thực hiện được khi những người xét xử bản án đó có tư duy khoa học, phi mâu thuẫn. Mặt khác với cùng một tính chất của một sự việc ( dân sự) có thể có nhiều quan điểm nhìn nhận đánh giá khác nhau, song chỉ có một quan điểm duy nhất về các tính chất của hành vi hay bản chất của sự việc ấy phù hợp với các quy định hiện hành của luật pháp. Người ta không thể dung nạp con đường thứ ba ghi nhận về tính chất, mức độ của hành vi cấu thành tội phạm hay bản chất của sự việc. Trong mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội cũng như trong pháp luật, không thể công nhận một tư tưởng vừa sai lầm vừa đúng đắn khi phản ánh đối tượng ở phẩm chất xác định. Tư tưởng theo con đường thứ ba này không thể đánh giá đúng đắn nhất quán đối tượng ở phẩm chất được xét ấy. Trong công tác tòa án, tính chất phạm tội của mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được quy định về mặt pháp lý trong các văn bản pháp luật. Người ta không thể lập luận rằng, với hành vi ấy đứng về mặt “ này” thì vi phạm pháp luật còn đứng về mặt “kia” thì không vi phạm pháp luật, vì như thế các cơ quan bảo vệ pháp luật sẽ không phát huy được chức năng và thẩm quyền của mình. Khi tư duy không ghi nhận là chân thực một trong hai tư tưởng mâu thuẫn nhau cùng phản ánh về tính chất của một hành vi phạm tội hay bản chất của một sự việc dân sự nào đó, thì tư duy sẽ không định hình được tính chất của hành vi hay bản chất của sự việc này. Trong trường hợp đó, cán bộ tòa án đã mắc lỗi logic hình thức, vi phạm yêu cầu của quy luật bài trung. Mặt khác, trong khi giải quyết các vụ án, cán bộ tòa án lấy các văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý. Vì vậy điều kiện cần thiết để giải quyết đúng đắn các vụ án là cán bộ tòa án phải nắm được, phải định hình được nội dung các khái niệm chứa trong các văn bản pháp luật. Thực tế cho thấy, vì một nguyên nhân nào đó – vì trình độ, năng lực tư duy hạn chế, hay vì mục đích khác mà một số cán bộ đã vô tình hay cố ý không định hình đúng nội dung các văn bản pháp luật được viện dẫn. Từ đó mà dẫn đến tình trạng làm sai những quy định của pháp luật. Mặt khác, có thể có một số cán bộ xét xử không định hình được cả những khái niệm chứa trong tư tưởng của chính mình dẫn tới hậu quả là những sai lầm xảy ra trong xét xử. Trong các trường hợp ấy, tư duy của họ cũng đã mắc lỗi logic hình thức, vi phạm yêu cầu của quy luật bài trung. Chúng ta nhận thấy, bất kỳ một ý nghĩ, một tư tưởng nào đều phải dựa trên những cơ sở nhất định để đảm bảo cho giá trị logic của ý nghĩ, của tư tưởng ấy. Tư duy bao giờ cũng là tư duy về một cái gì đó xác định. Vì vậy đối tượng của tư duy là cơ sở cho nội dung của tư duy này. Về mặt thực tế, người ta căn cứ vào sự phù hợp giữa ý nghĩ, tư tưởng với đối tượng ở phẩm chất được xét mà đánh giá ý nghĩ, tư tưởng ấy là sai lầm hay đúng đắn. Khi ý nghĩ, tư tưởng phản ánh xuyên tạc đối tượng thì tư tưởng đó là tư tưởng sai lầm. Trong công tác tòa án, cơ sở thực tế làm chỗ dựa cho ý nghĩ, tư tưởng luận tội của cán bộ tòa án là phẩm chất của những hành vi vi phạm pháp luật của bị can trong các án hình sự hay phẩm chất xác định của một sự việc được đề cập trong các án dân sự. Còn cơ sở pháp lý chính là những văn bản pháp luật được áp dụng trong xét xử. Như vậy, khi phản ánh sai tính chất hành vi của bị can hay phẩm chất của sự việc thì việc viện dẫn điều luật áp dụng cho tính chất, phẩm chất này sẽ sai. Khi đó các ý nghĩ, tư tưởng ấy không có cơ sở thực tế và cơ sở pháp lý làm chỗ dựa cho bản thân chúng. Trong thực tế, có nhiều bản án xét trong tổng thể thì việc định tội danh và quyết định mức hình phạt cho bị cáo trong các án hình sự, hay giải quyết đúng các tranh chấp ở các sự việc khác trong án dân sự là đúng đắn, song người ta lại không đưa ra được đầy đủ cơ sở thực tế cũng như cơ sở pháp lý để khẳng định cho những quyết định đúng đắn đó của mình. Trong các Lỗi logic trong một số bản án ... 112 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật trường hợp như vậy thì bản án có biểu hiện của sự vi phạm quy luật lý do đầy đủ, mắc lỗi logic hình thức. Xét cho đến cùng khi tư duy vi phạm một trong bốn quy luật của logic hình thức thì cũng vi phạm những quy luật còn lại, tức khi tư duy mắc lỗi logic hình thức, không có tính xác định thì cũng không có tính nhất quán và tính có thể chứng minh được. 3. KẾT LUẬN Trong từng bản án cụ thể sẽ có những lỗi logic đặc trưng nổi lên khác nhau. Điều đó cho thấy tính nhiều vẻ của các kiểu loại lỗi logic mà một số bản án mắc phải. Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn nhận từng lỗi logic riêng biệt trong các bản án cụ thể mà không tính đến mối liên quan giữa các lỗi logic đó với các yếu tố, các quy luật và các quy tắc còn lại cho tư duy thì chưa hoàn toàn đúng. Khi một bản án mắc lỗi logic do vi phạm một quy luật logic hình thức nào đó thì xét cho cùng nó cũng vi phạm các quy luật khác và khi ấy các quy tắc logic trong lập luận của bản án đó cũng không được thực hiện. Khi tìm hiểu một số bản án đã bị kháng cáo hay kháng nghị lên tòa án cấp trên và sau đó đã được xét xử lại ở cấp phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm để chỉ ra lỗi logic hình thức thường gặp, có thể nhận thấy có những sai lầm bắt nguồn từ khâu điều tra, hay khâu truy tố. Thực tế cho thấy, những sai lầm, những lỗi logic chứa trong một số bản án không chỉ biểu hiện trực tiếp của một trình độ, một năng lực tư duy còn hạn chế, mà cũng thật đáng tiếc khi một số sai lầm còn là biểu hiện của những hiện tượng tiêu cực. Chính vì thế, trong các biện pháp cần có để khắc phục tình trạng lỗi logic trong một số bản án không chỉ là cần phải nâng cao trình độ tư duy logic của một số cán bộ làm công tác tòa án; mà còn phải khắc phục triệt để những hiện tượng tiêu cực còn tồn tại trong các cơ quan bảo vệ pháp luật. Đây là công việc của các cơ quan chức năng có thẩm quyền và việc khắc phục chúng là điều kiện cần thiết để các cơ quan làm công tác bảo vệ pháp luật nói chung và Tòa án nói riêng thực hiện được các chức năng và thẩm quyền của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi văn Mưa – Bùi Xuân Thanh. Giáo trình Lôgic học. Trường Đại học Kinh tế TP. HCM. 2010. 2. Bùi Thanh Quất. Lôgic học sơ cấp. Đại học Tổng hợp – Hà Nội – 1974 3. Bùi Thanh Quất và Nguyễn Tuấn Chi. Lôgic học hình thức. ( Giáo trình dùng cho sinh viên luật khoa Luật). Đại học Tổng hợp – Hà Nội – 1995. 4. Vương Tất Đạt. Lôgic học. ĐH Sư phạm Hà Nội I – 1992 5. Trường Đại học Luật Hà Nội. Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam. NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, 2018. 6. Trường Đại học Luật Hà Nội. Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần chung. NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, 2018. 7. Trường Đại học Luật Hà Nội. Giáo trình luật dân sự Việt Nam – Tập 1. NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, 2018. 8. Trường Đại học Luật Hà Nội. Giáo trình luật lao động Việt Nam. NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, 2018. 9. Bộ luật Hình sự ( Bộ luật Hình sự số 100/2015/ QH13 đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 này 20-6-2017) - Bộ luật Tố tụng hình sự - Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự - Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam (có hiệu lực thi hành từ 01/ 01/ 2018). NXB. Hồng Đức, 2017. 10. Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ( có hiệu lực thi hành từ 01/ 01/ 2017). NXB. Lao Động, 2016.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf11_6724_2159512.pdf
Tài liệu liên quan