Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 154
LOẠN TRƯƠNG LỰC CỔ: ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ ĐIỀU TRỊ CỦA 50 
TRƯỜNG HỢP 
Trần Ngọc Tài* 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Loạn trương lực cổ là tình trạng co cơ không chủ ý gây co rút hoặc xoắn vặn cổ, tạo tư thế đầu bất 
thường. Điều trị tiêm botulinum toxin chủ yếu dựa vào kiểu biểu hiện lâm sàng của loạn trương lực cổ. 
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và điều trị thuốc uống ở bệnh nhân loạn trương lực cổ tại 
bệnh viện Đại học y dược TP Hồ Chí Minh. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu cắt ngang mô tả. Tất cả các bệnh nhân được 
thu thập các dữ liệu về dân số học, lâm sàng, nguyên nhân, tiền sử bản thân và gia đình, điều trị thuốc uống và 
năng suất lao động. Các số liệu được thống kê dựa theo phần mềm SPSS phiên bản 20. 
Kết quả: Có 50 bệnh nhân loạn trương lực cổ với tỉ lệ nữ: nam là 1,1: 1. Tuổi trung bình là 45,7. Tuổi khởi 
phát bệnh thường gặp nhất là từ 30 – 60 tuổi. Thời gian mắc bệnh trung bình là 4,26 ± 5,6 năm. Tiền sử gia đình 
bị rối loạn vận động là 10% trường hợp. 72% trường hợp là loạn trương lực cổ đơn thuần, 28% trường hợp là 
loạn trương lực cổ phối hợp với loạn trương lực nơi khác như vùng đầu mặt (16%), co thắt mi mắt (2%), tay 
(4%), toàn thể (4%), phát âm (2%). Loạn trương lực cổ đơn giản là 8 trường hợp (16%) và phức tạp là 42 trường 
hợp (84%), trong đó thể xoay ưu thế là 82%, ngữa 12% và nghiêng 6%. 96% trường hợp có phì đại cơ vùng cổ. 
Mẹo cảm giác gặp ở 66% bệnh nhân. Chỉ xác định 4% trường hợp loạn trương lực cổ có nguyên nhân. 31% 
trường hợp đáp ứng với thuốc uống với hiệu quả đáp ứng trung bình 28%. 52% bệnh nhân mất việc làm. 
Kết luận: Loạn trương lực cổ có biểu hiện lâm sàng đa dạng, ảnh hưởng nặng đến năng suất lao động của 
người bệnh và kém đáp ứng với thuốc uống. 
Từ khóa: loạn trương lực cổ, đặc điểm lâm sàng, điều trị nội khoa 
ABSTRACT 
CERVICAL DYSTONIA: CLINICAL FEATURES AND TREATMENT OF 50 CASES 
Tran Ngoc Tai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 21 - No 2 - 2017: 154 - 160 
Background: Cervical dystonia is characterized by involuntary contractions of cervical musculature and 
abnormal movements and postures of the head. Botulinum toxin injection is chiefly based on clinical patterns of 
cervical dystonia. 
Objectives: To describe the clinical characteristics and oral therapies of the patients with cervical dystonia 
treated at Ho Chi Minh city University Medical Center. 
Subjects and Methods: This was a cross – sectional, descriptive study. All participants were collected the 
demographic, historical, clinical examination, etiologic, therapeutically and working burden data. The data were 
analyzed with SPSS.20 software. 
Results: There were 50 cervical dystonia patients included with male: female ratio as 1: 1.1. The common age 
of onset was between 30 and 60. The time from the onset to botulinum toxin injection was 4.26 ± 5.6 years. 72% 
of cases were focal cervical dystonia and 28% of cases were associated with extra cervical dystonia such as 
craniofacial dystonia (16%), hand dystonia (4%), generalized dystonia (4%), blepharospasm (2%), and spasmodic 
* Bệnh viện Đại học Y dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Trần Ngọc Tài ĐT: 0913190606 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 155
dysphonia (2%). Simple cervical dystonia occupied 8 cases (16%) and complex was 42 cases (84%), including 
predominant rotational torticollis (82%), retrocollis (12%) and laterocollis (6%). 96% of cases had cervical 
muscular hypertrophy. Sensory trick was been seen in 66% of cases. There were only 4% of cases identified the 
cause. 31% of cases responded to oral medications with average response rate 28%. 52% of the patients had 
stopped working due to cervical dystonia. 
Conclusions: Cervical dystonia showed diverse clinical characteristics, significant working burden and poor 
response to oral medications. 
Keywords: cervical dystonia, clinical characteristics, medical treatment 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Loạn trương lực là một thể rối loạn vận động 
được đặc trưng bởi sự co cơ dai dẳng hoặc từng 
đợt tạo ra những cử động và/ hoặc tư thế bất 
thường, lặp đi lặp lại. Cử động loạn trương lực 
tạo ra kiểu dáng đặc trưng, xoắn vặn hoặc run. 
Loạn trương lực thường khởi phát hoặc nặng lên 
bởi những vận động hữu ý và kết hợp với hoạt 
hoá cơ quá mức(8). Loạn trương lực cổ là thể loạn 
trương lực khu trú khởi phát ở người lớn thường 
gặp nhất với đặc điểm là tình trạng co cơ không 
chủ ý gây co rút hoặc xoắn vặn cổ, tạo tư thế đầu 
bất thường(23). Tỉ lệ hiện mắc loạn trương lực cổ 
tương đối thấp, ước tính khoảng 16,4/100000 
dân(2). Cho đến nay, chẩn đoán loạn trương lực 
nói chung và loạn trương lực cổ nói riêng vẫn 
chủ yếu dựa vào lâm sàng và chưa có một tiêu 
chuẩn chẩn đoán thống nhất nào. Các phương 
tiện cận lâm sàng chỉ nhằm mục đích loại trừ các 
chẩn đoán khác có biểu hiện lâm sàng tương tự 
cũng như hỗ trợ cho việc xác định các nguyên 
nhân gây ra loạn trương lực. 
Phân loại loạn trương lực có nhiều thay 
đổi theo từng thời kỳ do sự hiểu biết của 
chúng ta về lâm sàng và nguyên nhân của 
bệnh ngày càng tăng. Tuy nhiên, vẫn có sự 
thống nhất rằng các phân loại được đề nghị 
trước đây dựa vào tuổi và sự phân bố theo 
vùng cơ thể là hữu dụng trong thực hành lâm 
sàng(2). Hiện nay, botulinum toxin được xem là 
lựa chọn hàng đầu trong điều trị loạn trương 
lực cổ trong các hướng dẫn của Mỹ cũng như 
của Châu Âu(1,22), còn điều trị thuốc uống cho 
hiệu quả kém(9,11). Tuy nhiên, việc tiêm 
botulinum toxin vẫn chủ yếu dựa vào các kiểu 
biểu hiện lâm sàng của loạn trương lực cổ. 
Do đó, để giúp ích cho việc điều trị 
botulinum toxin đạt hiệu quả cao, trong nghiên 
cứu này, chúng tôi mô tả đặc điểm lâm sàng và 
điều trị thuốc của bệnh nhân loạn trương lực cổ 
trước khi được điều trị tiêm botulinum toxin tại 
bệnh viện Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu được thực hiện tại bệnh viện Đại 
học y dược TP Hồ Chí Minh từ tháng 1/2012 đến 
tháng 6/2016. Đây là nghiên cứu cắt ngang nhằm 
mô tả đặc tính lâm sàng và điều trị thuốc uống 
của các bệnh nhân loạn trương lực cổ đơn thuần 
hoặc ưu thế có tham gia điều trị abobotulinum 
toxin. Chẩn đoán loạn trương lực cổ được xác 
định bởi ít nhất 2 bác sĩ chuyên khoa thần kinh 
của bệnh viện Đại học y dược TP Hồ Chí Minh 
có kinh nghiệm trong việc chẩn đoán và điều trị 
thể bệnh này. Tất cả các bệnh nhân được thu 
thập các dữ liệu về dân số học, lâm sàng, nguyên 
nhân, tiền sử bản thân và gia đình, điều trị thuốc 
uống và năng suất lao động. Bệnh nhân được 
xác định là loạn trương lực khu trú cổ đơn thuần 
khi chỉ có loạn trương lực cổ là triệu chứng duy 
nhất. Bệnh nhân được xác định là loạn trương 
lực đơn thuần ưu thế cổ khi chỉ có triệu chứng 
loạn trương lực nhưng phân bố ở nhiều nơi bao 
gồm loạn trương lực đoạn, loạn trương lực nhiều 
ổ, loạn trương lực nửa thân, loạn trương lực toàn 
thể, trong đó loạn trương lực cổ là ưu thế. Loạn 
trương lực cổ nguyên phát là loạn trương lực cổ 
không tìm thấy nguyên nhân. Loạn trương lực 
cổ thứ phát là loạn trương lực cổ có nguyên 
nhân(2). Loạn trương lực cổ có liên quan với chấn 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 156
thương là những bệnh nhân loạn trương lực cổ 
xuất hiện trong vòng 1 năm sau chấn thương(10). 
Loạn trương lực cổ đơn giản chỉ biểu hiện loạn 
trương lực cổ xoay, loạn trương lực cổ nghiêng, 
loạn trương lực cổ gập, hoặc loạn trương lực cổ 
ngữa; và loạn trương lực cổ phức tạp là phối hợp 
nhiều thể loạn trương lực cổ. Bệnh nhân được 
đánh giá độ nặng của loạn trương lực theo thang 
điểm TWSTRS (The Toronto Western Spasmodic 
Torticollis Rating Scale)(6). Các số liệu được thống 
kê dựa theo phần mềm SPSS phiên bản 20. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: Đặc điểm dân số học và lâm sàng loạn trương lực cổ. 
Đặc điểm 
Tổng 
n=50 (%) 
Nữ 
n=26 (%) 
Nam 
n=24 (%) 
Giá trị p 
Khoảng tin 
cậy 95% 
Tuổi 45,7 ± 13,56 44,5 ± 13,9 47,0 ± 13,3 0,520 -5,2 – 10,3 
Giới (nam/nữ) 24/26 24 26 
Chiều cao (cm) 159,12 ± 6,2 155,6 ± 4,6 163,0 ± 5,6 < 0,001 4,5 – 10,2 
Cân nặng (Kg) 56,24 ± 9,05 52,6 ± 8,1 60,2 ± 8,6 0,002 2,8 – 12,3 
BMI 22,12 ± 2,78 21,7 ± 2,8 22,6 ± 2,7 0,219 -0,6 – 2,6 
Chu vi vòng cổ (cm) 36,98 ± 2,5 35,8 ± 2,2 38,3 ± 2,2 <0,001 1,2 – 3,7 
Tuổi khởi phát 43,52 ± 21,71 39,4 ± 14,8 43,7 ± 15,1 0,319 -4,2 – 12,8 
Thời gian mắc bệnh (năm) 4,26 ± 5,6 4,9 ± 5 3,3 ± 6,1 0,253 -5,1 – 1,4 
Độ nặng TWSTRS (điểm) 22,4 ± 3,45 22,9 ± 3,2 21,9 ± 3,7 0,306 -2,9 – 1,0 
Thời gian thuyên giảm buổi sáng sớm (phút) 33,8 ± 53,9 26,3 ± 48,2 41,9 ± 49,5 0,314 -15,1 – 46,2 
Tiền sử gia đình có rối loạn vận động 5 (10%) 4 (15,4%) 1 (4,2%) 0,187 
Mẹo cảm giác 33 (66%) 14 (53,8%) 19 (79,2%) 0,059 
Bất thường 
tư thế loạn 
trương lực 
cổ 
- Xoay cổ 46 (92%) 25 (96,2%) 21 (87,5%) 0,260 
- Gập cổ 21 (42%) 11 (42,3%) 10 (41,7%) 0,963 
- Ngữa cổ 17 (34%) 8 (30,8%) 9 (37,5%) 0,616 
- Nghiêng 27 (54%) 16 (61,5%) 11 (45,8%) 0,266 
- Đơn giản: 8 (16%) 2 (7,7%) 6 (25%) 0,095 
 + Xoay 4 (8%) 1 (3,8%) 3 (12,5%) 
 + Ngữa 3 (6%) 0 3 (12,5%) 
 + Nghiêng 1 (2%) 1 (3,8%) 0 
- Phức tạp: 42 (84%) 24 (92,3%) 18 (75%) 0,095 
 + Ưu thế xoay 37 (74%) 21 (80,8%) 16 (66,7%) 
 + Ưu thế nghiêng 2 (4%) 0 2 (8,3%) 
 + Ưu thế ngữa 3 (6%) 3 (11,5%) 0 
Kiểu co cơ 
ưu thế 
- Co cơ dai dẳng (tonic) 64%) 17 (65,4%) 15 (62,5%) 
- Co cơ từng đợt (phasic) 14 (28%) 5 (19,2%) 9 (37,5%) 
- Kiểu run (tremulous) 4 (8%) 4 (15,4%) 0 
Phì đại cơ 48 (96%) 24 (92,3%) 24 (100%) 0,166 
 - Cơ ức đòn chủm 39 (78%) 19 (73%) 20 (83,3%) 
 - Cơ gối đầu 44 (88%) 21 (80,7%) 23 (95,8%) 
 - Cơ thang 14 (28%) (23%) 8 (33,3%) 
 - Cơ nâng vai 8 (16%) (23%) 2 (8,4) 
 - Cơ bậc thang 2 (4%) 2 (7,6%) 0 
Loạn trương lực: - Khu trú ở cổ 36 (72%) 19 (73,1%) 17 (70,8%) 0,860 
 - Nơi khác 14 (28%) 7 (26,9%) 7 (29,2%) 0,860 
 - Nguyên nhân 2 (4%) 1 (3,8%) 1 (4,2%) 0,375 
Biến chứng thoái hóa cột sống cổ chèn ép rễ, tủy 10 (20%) 4 (15,4%) 6 (25%) 0,(313 
Mất việc làm 26 (52%) 14 (57,6%) 12 (50%) 0,786 
Điều trị thuốc uống 42 (84%) 25 (96%) 17 (71%) 0,015 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 157
Biểu đồ 1: Phân bố tuổi khởi phát loạn trương lực. 
Đặc điểm dân số học 
Trong thời gian nghiên cứu 4,5 năm, có 50 
bệnh nhân loạn trương lực cổ tham gia điều trị 
abobotulinum toxin với tỉ lệ nữ: nam là 1,1: 1. 
Tuổi trung bình là 45,7 và dao động từ 32,4 đến 
59,2 (khoảng tin cậy 95%). Tuổi trung bình ở nữ 
là 44,5 và ở nam là 47. Tuổi khởi phát bệnh 
thường gặp nhất là từ 30 – 60 tuổi. Phân bố tuổi 
khởi phát bệnh được trình bày trong biểu đồ 1. 
Tiền sử gia đình bị rối loạn vận động được ghi 
nhận 10% trường hợp, bao gồm run, loạn trương 
lực, bệnh Parkinson. 
Đặc điểm lâm sàng 
Đa số bệnh nhân có biểu hiện loạn trương 
lực cổ đơn thuần, chỉ 28% trường hợp phối 
hợp với loạn trương lực nơi khác bao gồm 
loạn trương lực vùng đầu mặt (16%), tay (4%), 
toàn thể (4%), co thắt mi mắt (2%), phát âm 
(2%). Mẹo cảm giác gặp ở 66% bệnh nhân loạn 
trương lực cổ. Các vị trí mẹo cảm giác gồm 
cằm (18%), chẩm (24%), gò má (6%), góc hàm 
(2%), đính (2%), hoặc phối hợp hai hoặc nhiều 
vị trí trên (16%). Các đặc điểm lâm sàng được 
tóm tắt trong bảng 2. 
Điều trị nội khoa 
Loạn trương lực cổ ảnh hưởng nặng đến các 
hoạt động chức năng của bệnh nhân như mất 
khả năng lái xe (66%), mất việc làm (52%), ảnh 
hưởng giao tiếp (48%). Có 42 bệnh nhân (84%) 
điều trị thuốc uống trước khi tiêm abobotulinum 
toxin. Các thuốc thường sử dụng là 
trihexyphenidyl (62%), baclofen (66%), levodopa 
(6%), clonazepam (16%), và các thuốc khác như 
propranolol, topiramate, clozapin, diazepam, 
kháng viêm, đông y (18%). Có 13/42 (31%) 
bệnh nhân được ghi nhận là có đáp ứng với 
thuốc uống với tỉ lệ đáp ứng trung bình trong 
nhóm có đáp ứng là 28% (dao động từ 10 – 70%). 
Thời gian hiệu quả với thuốc uống thường ngắn 
1 – 3 tháng. 
BÀN LUẬN 
Loạn trương lực cổ là thể loạn trương lực 
khu trú thường gặp nhất(20). Bệnh thường khởi 
phát ở tuổi trung niên với khoảng 70 – 90% các 
trường hợp khởi phát ở tuổi 40 – 60(4, 12). 
Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy tuổi 
khởi phát trung bình là 43 tuổi và 70% trường 
hợp có tuổi khởi phát là 30 – 60 tuổi. Ở tuổi 
khởi phát này, loạn trương lực vẫn có thể lan 
đến các bộ phận khác của cơ thể. Chúng tôi 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 158
ghi nhận có 28% bệnh nhân loạn trương lực cổ 
có kèm loạn trương lực nơi khác như co thắt 
mi mắt, loạn trương lực vùng đầu mặt, loạn 
trương lực phát âm, loạn trương lực bàn tay, 
loạn trương lực toàn thể. Tỉ lệ này gần tương 
tự nghiên cứu của LeDoux và cộng sự 
(31,5%)(14) nhưng thấp hơn so với nghiên cứu 
của Martino và cộng sự (42,34%)(16) và nghiên 
cứu của Jankovic và cộng sự (48%)(12). Tuy 
nhiên, hai nghiên cứu sau phân loại loạn 
trương lực nơi khác ra thành từng vùng riêng 
biệt như mắt, mặt, trục thân, tay, chân... cho 
nên tỉ lệ gộp chung có thể cao hơn trong khi 
nghiên cứu chúng tôi phân chia theo kiểu loạn 
trương lực đoạn (đầu mặt), loạn trương lực 
toàn thể. Loạn trương lực cổ vẫn có thể khởi 
phát ở người trẻ. Chúng tôi ghi nhận 11 bệnh 
nhân (22%) khởi phát loạn trương lực cổ ưu 
thế trước 30 tuổi, tuy nhiên khởi phát loạn 
trương lực ở người trẻ có khuynh hướng lan 
đến các vùng khác của cơ thể hơn là loạn 
trương lực cổ khởi phát trễ (45,5% trường 
hợp). Khởi phát bệnh ở người trẻ thường có 
liên quan với tiền sử gia đình mắc bệnh loạn 
trương lực(13) tuy nhiên nghiên cứu của chúng 
tôi có cỡ mẫu nhỏ nên không ghi nhận được 
điều này. 
Trước đây, thuật ngữ vẹo cổ (torticollis) ý nói 
lên tình trạng xoay cổ mà hướng xoay là hướng 
xoay cằm. Tuy nhiên, ngoài xoay cổ còn có các tư 
thế cổ bất thường khác như gập cổ (anterocollis), 
ngữa cổ (retrocollis), nghiêng cổ (laterocollis) và 
tư thế cổ phức tạp (phối hợp các thể khác). Trong 
đó, nghiên cứu của chúng tôi và nhiều nghiên 
cứu khác đều cho thấy tư thế cổ phức tạp là 
thường gặp nhất(12). Do đó, thuật ngữ loạn 
trương lực cổ được xem là thích hợp hơn trong 
thể bệnh này. Cũng như trong nhiều nghiên cứu 
trước đây, loạn trương lực cổ thường gặp nhất là 
loạn trương lực cổ xoay, có thể dưới dạng tư thế 
xoay đơn thuần hoặc phối hợp với các tư thế 
khác(4,12). Chúng tôi ghi nhận lên đến 92% bệnh 
nhân có biểu hiện loạn trương lực cổ xoay, trong 
khi nghiên cứu của Chan và cộng sự ghi nhận là 
97%(4) và của Jankovic và cộng sự là 82%(12). Tuy 
nhiên, loạn trương lực cổ thường phối hợp nhiều 
tư thế, còn gọi là loạn trương lực cổ phức tạp. 
Nghiên cứu của Comella và cộng sự(5) cho thấy 
68% bệnh nhân loạn trương lực cổ phức tạp 
trong khi loạn trương lực cổ xoay đơn thuần là 
25,6%. Tuy nhiên trong nghiên cứu chúng tôi, 
loạn trương lực cổ phức tạp chiếm tỉ lệ cao hơn 
và loạn trương lực cổ đơn thuần chiếm tỉ lệ thấp 
hơn. Điều này có lẽ liên quan đến cách đánh giá 
tư thế loạn trương lực. Trong nghiên cứu chúng 
tôi, bệnh nhân ở bất kỳ độ gập nào cũng được 
xem là tư thế bất thường. 
Mẹo cảm giác là một trong những triệu 
chứng đặc trưng của loạn trương lực cổ giúp 
người bệnh giảm đi một phần triệu chứng khó 
chịu do loạn trương lực cổ gây ra. Mẹo cảm giác 
được thực hiện bằng cách sờ nhẹ vào vùng mặt, 
đầu, cổ(23). Đáp ứng lâm sàng đối với mẹo cảm 
giác thay đổi tùy từng người bệnh, từ không cải 
thiện đến cải thiện hoàn toàn, đáp ứng với một 
vị trí hoặc nhiều vị trí khác nhau, điều này được 
ghi nhận qua nhiều nghiên cứu(19,21) cũng như 
nghiên cứu của chúng tôi. 
Bệnh rễ tủy cổ biểu hiện lâm sàng là một 
trong những biến chứng thường gặp của loạn 
trương lực cổ. Có đến 31% trường hợp loạn 
trương lực cổ có biểu hiện đau rễ cổ trong 
nghiên cứu của Jankovic và cộng sự(12). Nghiên 
cứu của chúng tôi cho tỉ lệ thấp hơn. Bất thường 
vận động vùng cổ trong loạn trương lực cổ là 
một trong những yếu tố góp phần gây tổn 
thương rễ cổ. 
Khác với loạn trương lực toàn thể, loạn 
trương lực cổ có tỉ lệ đáp ứng với các thuốc uống 
thấp hơn nhiều. Nghiên cứu của Green và cộng 
sự(9) cho thấy ở bệnh nhân loạn trương lực cổ, tỉ 
lệ đáp ứng với thuốc kháng cholinergic là 39%, 
với clonazepam là 21%, với baclofen là 11%. 
Nghiên cứu chúng tôi không đánh giá từng 
thuốc điều trị riêng biệt, tuy nhiên kết quả cho 
thấy tỉ lệ đáp ứng chủ quan đối với thuốc uống 
cũng không cao và thời gian hiệu quả thường 
ngắn. Trong số các thuốc uống điều trị loạn 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Thần kinh 159
trương lực cổ, kháng cholinergic được xem là có 
hiệu quả nhất. Tuy nhiên, với sự ra đời của 
botulinum toxin, thuốc kháng cholinergic ngày 
càng đóng vai trò thứ yếu(11). Nghiên cứu so sánh 
giữa abobotulinum toxin và trihexyphenidyl cho 
thấy abobotulinum toxin có hiệu quả chủ quan 
và khách quan nhiều hơn trihexyphenidyl ở 
những bệnh nhân loạn trương lực cổ(3,7). 
Loạn trương lực cổ ảnh hưởng đáng kể đến 
năng suất lao động của người bệnh và gia tăng 
đáng kể tình trạng mất việc làm. Nghiên cứu của 
Muller và cộng sự(18) cho thấy chỉ 49% bệnh nhân 
loạn trương lực cổ còn làm việc, và nghiên cứu 
của Martikainen và cộng sự(15) cũng cho thấy chỉ 
55% bệnh nhân loạn trương lực cổ có việc làm. 
Các tỉ lệ này tương tự nghiên cứu của chúng tôi. 
Điều trị botulinum toxin giúp cải thiện tỉ lệ thất 
nghiệp ở bệnh nhân loạn trương lực cổ hơn sử 
dụng thuốc uống(17,22). 
Nghiên cứu chúng tôi có một số hạn chế. 
Nghiên cứu này chỉ bao gồm những bệnh nhân 
loạn trương lực cổ chọn lọc cho điều trị 
abobotulinum toxin mà không bao hàm hết toàn 
bộ những bệnh nhân loạn trương lực cổ đến 
khám và điều trị tại bệnh viện Đại học y dược TP 
Hồ Chí Minh, trong đó những bệnh nhân loạn 
trương lực cổ được điều trị abobotulinum toxin 
thường ở mức độ trung bình đến nặng. Ngoài ra, 
những bệnh nhân loạn trương lực toàn thể ưu 
thế vùng cổ có nguyên nhân thường không được 
điều trị botulinum toxin. 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu chúng tôi cho thấy loạn trương 
lực cổ có biểu hiện lâm sàng đa dạng và ảnh 
hưởng đáng kể đến năng suất lao động của 
người bệnh. Điều này nhấn mạnh đến tầm quan 
trọng của việc nhận biết kiểu hình đa dạng và 
phức tạp của các thể loạn trương lực cổ giúp lựa 
chọn bệnh nhân thích hợp cho điều trị tiêm 
botulinum toxin. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Albanese A, Asmus F, et al (2011). EFNS guidelines on 
diagnosis and treatment of primary dystonias. Eur J Neurol,18 
(1): 5-18. 
2. Albanese A, Bhatia K, et al (2013). Phenomenology and 
classification of dystonia: a consensus update. Mov Disord, 28 
(7): 863-873. 
3. Brans JWM, Lindeboom R, et al (1996). Botulinurn toxin versus 
trihexyphenidyl in cervical dystonia: A 
prospective,randomized, double-blind controlled trial. 
Neurology, 46: 1066-1072. 
4. Chan J, Brin MF, Fahn S (1991). Idiopathic cervical dystonia: 
clinical characteristics. Mov Disord, 6 (2): 119-126. 
5. Comella C, Truong D, Espay A, Snyder D, Marchese D, Trosch 
R (2016). AbobotulinumtoxinA Injection Patterns in Patients 
with Cervical Dystonia from the ANCHOR-CD Registry Study 
(P1.028). Neurology, 86 (16 Supplement). 
6. Comella CL, Stebbins GT, Goetz CG, Chmura TA, Bressman 
SB, Lang AE (1997). Teaching tape for the motor section of the 
Toronto Western Spasmodic Torticollis Scale. Mov Disord, 12 
(4): 570-575. 
7. Costa J, Espírito-Santo C, Borges A, Ferreira JJ, Coelho M, 
Sampaio C (2005). Botulinum toxin type A versus 
anticholinergics for cervical dystonia. Cochrane Database Syst 
Rev, 25 (1): CD004312. 
8. Frucht SJ (2013).The definition of dystonia: current concepts 
and controversies. Mov Disord, 28(7): 884-888. 
9. Greene P, Shale H, Fahn S (1988). Analysis of open-label trials 
in torsion dystonia using high dosages of anticholinergics and 
other drugs. Movement Disorders, 3 (1): 46-60. 
10. Jankovic J (2009). Peripherally induced movement disorders. 
Neurol Clin, 27(3): 821-832, vii. 
11. Jankovic J (2013). Medical treatment of dystonia. Mov Disord, 28 
(7): 1001-1012. 
12. Jankovic J, Leder S, Warner D, Schwartz K (1991). Cervical 
dystonia: clinical findings and associated movement disorders. 
Neurology, 41 (7): 1088-1091. 
13. Koukouni V, Martino D, Arabia G, Quinn NP, Bhatia KP 
(2007). The entity of young onset primary cervical dystonia. 
Mov Disord, 22(6): 843-847. 
14. LeDoux MS, Vemula SR, et al (2016). Clinical and genetic 
features of cervical dystonia in a large multicenter cohort. 
Neurol Genet, 2 (3); e69. 
15. Martikainen KK, Luukkaala TH, Marttila RJ (2010). Working 
capacity and cervical dystonia. Parkinsonism Relat Disord, 16(3): 
215-217. 
16. Martino D, Berardelli A, et al (2012). Age at onset and 
symptom spread in primary adult-onset blepharospasm and 
cervical dystonia". Mov Disord, 27 (11): 1447-1450. 
17. Molho ES, Agarwal N, Regan K, Higgins DS, Factor SA (2009). 
Effect of cervical dystonia on employment: A retrospective 
analysis of the ability of treatment to restore premorbid 
employment status". Mov Disord, 24 (9): 1384-1387. 
18. Müller J, Kemmler G, et al (2002). The impact of blepharospasm 
and cervical dystonia on health-related quality of life and 
depression. Journal of Neurology, 249 (7): 842-846. 
19. Müller J, Wissel J, Masuhr F, Ebersbach G, Wenning KG, 
Poewe W (2001). Clinical characteristics of the geste antagoniste 
in cervical dystonia. Journal of Neurology, 248 (6): 478-482. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Chuyên Đề Nội Khoa 160
20. Nutt JG, Muenter MD, Aronson A, Kurland LT, Melton LJ 
(1988). Epidemiology of focal and generalized dystonia in 
Rochester, Minnesota. Movement Disorders, 3 (3): 188-194. 
21. Patel N, Hanfelt J, Marsh L, Jankovic J, members of the 
Dystonia C (2014). Alleviating manoeuvres (sensory tricks) in 
cervical dystonia. J Neurol Neurosurg Psychiatry, 85 (8): 882-884. 
22. Simpson DM, Blitzer A, et al (2008). Assessment: Botulinum 
neurotoxin for the treatment of movement disorders (an 
evidence-based review): report of the Therapeutics and 
Technology Assessment Subcommittee of the American 
Academy of Neurology Neurology, 70 (19): 1699-1706. 
23. Stacy M (2008). Epidemiology, clinical presentation, and 
diagnosis of cervical dystonia. Neurologic Clinics, 26: 23-42. 
Ngày nhận bài báo: 18/11/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 17/12/2016 
Ngày bài báo được đăng: 01/03/2017