Liên kết với các vùng và địa phương trong phát triển Kinh tế - Xã hội

Tài liệu Liên kết với các vùng và địa phương trong phát triển Kinh tế - Xã hội: * Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư VẤN ĐỀ LIÊN KẾT VÙNG VÀ CÁC ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Nhiều năm trở lại đây, phát triển vùng và liên kết vùng để phát triển luôn là một trong những chủ đề thu hút sự quan tâm của không chỉ các nhà nghiên cứu về phương diện học thuật, mà còn là nhu cầu thực tế trong công tác quản lý của các cấp, các ngành; trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; và thậm chí trong cuộc sống thường nhật của người dân. Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về sự cần thiết, vai trò, cách thức, nội dung của liên kết vùng vì sự phát triển. Các nghiên cứu này được nghiên cứu phục vụ các mục tiêu cụ thể khác nhau với cách tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Bài viết này xuất phát từ tình hình thực tế và tập trung trình bày về một số vấn đề liên quan đến phát triển vùng và liên kết vùng/địa phương để phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội trong giai đoạn sắp tới. 1. Khái niệm vùng, liên kết ...

pdf42 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 275 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Liên kết với các vùng và địa phương trong phát triển Kinh tế - Xã hội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
* Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư VẤN ĐỀ LIÊN KẾT VÙNG VÀ CÁC ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Nhiều năm trở lại đây, phát triển vùng và liên kết vùng để phát triển luôn là một trong những chủ đề thu hút sự quan tâm của không chỉ các nhà nghiên cứu về phương diện học thuật, mà còn là nhu cầu thực tế trong công tác quản lý của các cấp, các ngành; trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; và thậm chí trong cuộc sống thường nhật của người dân. Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về sự cần thiết, vai trò, cách thức, nội dung của liên kết vùng vì sự phát triển. Các nghiên cứu này được nghiên cứu phục vụ các mục tiêu cụ thể khác nhau với cách tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Bài viết này xuất phát từ tình hình thực tế và tập trung trình bày về một số vấn đề liên quan đến phát triển vùng và liên kết vùng/địa phương để phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội trong giai đoạn sắp tới. 1. Khái niệm vùng, liên kết vùng a) Vùng/lãnh thổ Trong chính sách phát triển kinh tế, vùng/lãnh thổ là một trong những khái niệm gây nhiều tranh cãi, nhất là khi liên quan đến một lĩnh vực cụ thể nào đó. Lý do chủ yếu của tình hình này là các lĩnh vực khác nhau đều có những cách tiếp cận, những tiêu chí đôi khi khác nhau khi đánh giá các mặt mạnh, mặt hạn chế để hoạch định phương cách phát triển. Vì vậy, vùng - lãnh thổ để phát triển công nghiệp hay nông nghiệp, thủy sản hay cây lương thực, kết cấu hạ tầng hay du lịch... có thể được nhìn nhận không giống nhau trên mỗi không gian địa lý nhất định. Hơn nữa, trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, ranh giới “vùng” của sự phát triển càng trở nên lỏng lẻo với các phạm vi không gian rộng, hẹp rất khác nhau. Ngay trong phạm vi quốc gia, sự việc cũng trở nên phức tạp hơn khi các vùng, lãnh thổ được xem xét ở khía cạnh không gian kinh tế lại không phải bao giờ cũng trùng với ranh giới hành chính; trong khi việc quản lý sự phát triển lại do những cơ quan hành chính chịu trách nhiệm. Vì vậy, thông thường, đối với công tác quản lý phát triển, khái niệm vùng, lãnh thổ kinh tế luôn gắn với các đơn vị hành chính và mang tính quy ước. Ở Việt Nam, trong các văn bản chính thức hiện hành, có các loại vùng như sau: - Vùng kinh tế - xã hội: Là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, gồm một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có các hoạt động kinh tế - xã hội tương đối độc lập, thực hiện sự phân công lao động xã hội của cả nước. Đây PGS,TS. Bùi Tất Thắng* LIÊN KẾT VỚI CÁC VÙNG VÀ ĐỊA PHƯƠNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 59Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ là loại vùng phục vụ việc hoạch định chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo lãnh thổ cũng như để quản lý các quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên mỗi vùng của đất nước. (Nghị định số 92/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07 tháng 9 năm 2006 Về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội; Điều 3. Khoản 6). Theo cách phân chia này, hiện nay, ở Việt Nam có 6 vùng, gồm: Vùng núi và Trung du Bắc Bộ, Vùng Đồng bằng Sông Hồng, vùng Duyên Hải miền Trung, Vùng Đông Nam Bộ và vùng Đồng bằng sông Cửu Long. - Các lãnh thổ đặc biệt, bao gồm: Vùng kinh tế trọng điểm; khu kinh tế, khu kinh tế quốc phòng, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ của cả nước; hành lang kinh tế, vành đai kinh tế. (Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội). + Vùng kinh tế trọng điểm: Là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, hội tụ các điều kiện và yếu tố phát triển thuận lợi, có tiềm lực kinh tế lớn, giữ vai trò động lực, đầu tàu thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước. (Nghị định số 92/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07 tháng 9 năm 2006 Về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội; Điều 3. Khoản 7). Hiện nay, ở Việt Nam có 4 vùng kinh tế trọng điểm, gồm: Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, và Vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long. + Khu kinh tế, khu kinh tế quốc phòng, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ: Tính đến nay (8/2015), cả nước đã xây dựng và có quyết định thành lập 295 khu công nghiệp và khu chế xuất với tổng diện tích đất tự nhiên hơn 84 nghìn ha, trong đó có 212 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động; 6 khu kinh tế cửa khẩu; 15 khu kinh tế ven biển. Các KCN được phân bổ ở hầu khắp các tỉnh, thành phố trên cả nước, tập trung chủ yếu ở 3 vùng kinh tế trọng điểm. Trong đó, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tập trung nhiều KCN nhất với gần 50% tổng số KCN trên cả nước; vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc chiếm khoảng 20% tổng số KCN trên cả nước; và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung chiếm xấp xỉ 10% tổng số KCN trên cả nước. Cả nước hiện có 15 khu kinh tế ven biển đã được thành lập gồm: 2 khu ở vùng Đồng bằng sông Hồng; 10 khu ở vùng Duyên hải miền Trung và 3 khu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, với tổng diện tích mặt đất và mặt nước là hơn 662.000 ha. Các khu công nghệ gồm: Khu Công nghệ cao Hoà Lạc (Hà Nội), Khu công nghệ cao Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh) và Khu công nghệ cao Đà Nẵng (Thành phố Đà Nẵng). + Hành lang kinh tế, vành đai kinh tế: Các hành lang kinh tế hiện đang xây dựng và hoạt động gồm: Hành lang Kinh tế Đông - Tây (East- West Economic Corridor - EWEC) là một sáng kiến được nêu ra vào năm 1998 tại Hội nghị Bộ trưởng Tiểu vùng Sông Mekong Mở rộng lần thứ tám tổ chức tại Manila (Philippines) nhằm thúc đẩy phát triển và hội nhập kinh tế giữa bốn nước Lào, Myanma, Thái Lan và Việt Nam. Hành lang này chính thức thông tuyến vào ngày 20 tháng 12 năm 2006. Hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và hành lang kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh (cùng với vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ - gọi tắt là hai hành lang, một vành đai) được hình thành trong khuôn khổ hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung Quốc. Bên cạnh đó, sách báo kinh tế còn nói tới một số hành lang kinh khác như hành lang đường 18, đường 51, v.v.... 60 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ + Ngoài ra, còn các các loại hình vùng đặc biệt nhưng “lỏng” hơn như vùng núi; vùng đồng bằng; vùng trung du; vùng biển, ven biển và hải đảo; vùng biên giới; vùng sâu vùng xa; vùng khó khăn; vùng đô thị; vùng nông thôn; vùng Thủ đô Hà Nội, vùng Thành phố Hồ Chí Minh, Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước còn hình thành Ban chỉ đạo của 3 vùng mới: Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. - Vùng/lãnh thổ theo cấp quản lý hành chính: Lãnh thổ cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) và lãnh thổ cấp huyện (huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh) và cấp xã/phường/thị trấn. Trong hệ thống các vùng kể trên, chỉ có các vùng/lãnh thổ theo cấp quản lý hành chính (tỉnh/thành phố, huyện/ thị xã và xã/phường/thị trấn là có cấp quản lý theo chính quyền; các khu kinh tế, khu công nghiệp là có ban quản lý; các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ có Ban chỉ đạo; và các vùng kinh tế trọng điểm có Ban điều phối. Các vùng khác không xác định các cơ quan quản lý rõ ràng. b) Liên kết vùng/địa phương Mỗi một vùng/địa phương (bất kể quy mô và hình thức như thế nào) đều có một số đặc điểm chung, nổi trội so với các vùng/địa phương khác. Sự khác biệt giữa các vùng/địa phương tự nó cũng hàm nghĩa là mỗi vùng/địa phương đều có những thế mạnh (và thế yếu) đặc thù, tạo ra những lợi thế tuyệt đối và tương đối nhất định trong sự phân công lao động xã hội. Liên kết vùng/địa phương không chỉ bù đắp những khoảng trống, thiếu hụt nguồn lực giữa các vùng/địa phương, mà còn gia tăng tính lợi ích nhờ hiệu quả kinh tế theo quy mô. Vì thế, một cách tự nhiên, để phát triển sản xuất, đặc biệt là trong kinh tế thị trường, các vùng/địa phương tất yếu có nhu cầu liên kết (cả nội vùng lẫn liên vùng). Do việc quản lý vùng/địa phương có các chủ thể nhất định, nên việc liên kết vùng/địa phương có thể được thúc đẩy hay kìm hãm bởi các chính sách rất cụ thể. Bởi vậy, những nghiên cứu về liên kết vùng/địa phương còn chỉ ra những điều kiện của liên kết vùng/địa phương một cách hiệu quả, bền vững; trong đó phải kể đến: - Sự tương đồng về thể chế và sự đồng thuận của các nhóm xã hội cùng chia sẻ lợi ích chung, trong đó có lợi ích phát triển riêng của mỗi vùng/địa phương. - Sự đồng bộ về khuôn khổ thể chế, sự nhất quán về cơ chế chính sách và sự thông thoáng trong cung cách quản trị của các vùng/địa phương, nhất là về các mặt: (i) sự công khai, minh bạch trong các chính sách, thông tin và hoạt động của bộ máy công quyền; (ii) đảm bảo các quyền về tài sản (cả hữu hình và vô hình); và (iii) đảm bảo duy trì chế độ hợp đồng. - Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ và hiện đại. 2. Hiện trạng liên kết vùng/địa phương ở Việt Nam Trong bối cảnh chuyển sang kinh tế thị trường, nền kinh tế Việt Nam cũng có đầy đủ các kiểu liên kết vùng- lãnh thổ, bao gồm: - Các hình thức liên kết tự nhiên của quá trình phát triển, trong đó nổi bật nhất là kiểu liên kết mang tính lan tỏa, lôi kéo giữa trung tâm và ngoại vi, đô thị và nông thôn. Dạng liên kết này diễn ra một cách tự nhiên, khách quan trong quá trình phát triển, trước hết là từ các trung tâm, các đô thị với các ngành kinh tế đặc thù là công nghiệp chế biến và các ngành dịch vụ. Chủ thể chính của loại hình liên kết này là các doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp và các gia đình, cá nhân. Đây là loại liên kết giữa các chủ thể đóng trên địa bàn của các vùng khác nhau với nhau (liên kết theo chiều ngang) và mang nặng tính thị trường, gồm các giao dịch mua bán, các loại hợp đồng, cổ phần công ty - Liên kết theo quan hệ phân cấp chính quyền giữa Trung ương và địa phương (liên kết dọc, giữa cơ quan quản lý vùng lớn với vùng nhỏ), nên mang nặng tính mệnh lệnh hành chính (bắt buộc) và chủ thể chính là các cấp quản lý theo thứ bậc trên - dưới. Loại liên kết này chủ yếu bao gồm các lĩnh vực liên kết trong xử lý các vấn đề mang tính liên ngành: Xây dựng quy hoạch phát triển ngành và vùng ở từng địa phương; xây dựng và thực thi chính sách thu hút và phân bổ đầu tư; xây dựng và phát triển các sản phẩm chủ yếu; xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng vùng, như đường sá, cảng biển, sân bay; cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc; bệnh viện, trường học, trung tâm nghiên cứu; xây dựng các khu, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao; vùng sản xuất nông nghiệp; trung tâm thương mại, du lịch và dịch vụ; phát triển nguồn nhân lực và đào tạo; xây dựng và thực thi các chính sách xóa đói giảm nghèo; các chính sách liên quan đến di cư và di chuyển lao động và nhà ở; giải quyết các vấn đề xã hội; bảo vệ, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí khậu, phòng trách và khắc phục các thảm họa thiên tai; v.v. 61Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ - Liên kết giữa các vùng/địa phương với nhau, chủ yếu do các cơ quan quản lý cấp địa phương với nhau (liên kết theo chiều ngang) và mang tính hành chính tự nguyện. Loại hình liên kết này mới được quan tâm nhiều hơn trong những năm gần đây. Về lý thuyết, các lĩnh vực cần thiết phải phối hợp hành động cũng giống như trong liên kết dọc giữa các cơ quan quản lý theo phân cấp (trung ương - địa phương) nêu trên, chỉ khác là cách thức tiến hành thì diễn ra theo chiều ngang (giữa các địa phương với nhau) và chủ yếu mang tính tự nguyện. Vì nhiều lý do về thể chế, cho tới nay, các liên kết vùng theo chiều dọc (Trung ương và địa phương) vẫn là loại liên kết chủ yếu, thậm chí trong một số trường hợp còn lấn át các loại liên kết ngang. Tính vùng trong quan hệ liên kết dọc chưa được tính đến một cách thỏa đáng. Bằng chứng rõ ràng là việc chạy đua quyết liệt trong việc xây dựng những dự án các loại trên địa bàn các tỉnh mà từ lâu, cả trên các phương tiện thông tin đại chúng lẫn các diễn đàn chính thức, chúng được xem như những “phong trào”, những “hội chứng” về nhà máy rượu bia, xi măng, thủy điện, cảng biển, sân bay, khai thác khoáng sản, khu đô thị, v.v...; tạo thành nhiều “nền kinh tế” trong một nền kinh tế quốc gia. Xu hướng này gây ra một số vấn đề nổi cộm trong nền kinh tế hiện nay. Một là, tình trạng thiếu thống nhất về những thông tin kinh tế cơ bản, khiến cho việc tìm hiểu môi trường kinh doanh trở nên khó khăn, thậm chí gia tăng chi phí tìm hiểu và gia nhập thị trường. Đây là vấn đề tồn đọng từ lâu và vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng, khiến cho sức cạnh tranh của môi trường kinh doanh chậm được được cải thiện. Hai là, cuộc chạy đua xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng (bến cảng, sân bay), khu đô thị, khu công nghiệp và một số loại sản phẩm với cơ cấu kinh tế na ná như nhau giữa các tỉnh, khiến cho trong một số lĩnh vực, không sử dụng hết công suất, xuất hiện tình trạng dư cung, dẫn đến lãng phí nguồn lực. Ba là, xuất hiện tình trạng tranh chấp tài nguyên (tranh giành) và xử lý ô nhiễm môi trường (đùn đẩy). Không hiếm ví dụ những cơ sở sản xuất hoặc khu công nghiệp ở tỉnh này gây ô nhiễm môi trường, làm thiệt hại kinh tế (và sức khỏe con người) cho chính họ và cho những tỉnh khác (nhất là ô nhiễm nguồn nước), nhưng chưa có cơ chế xử lý thỏa đáng. Bốn là, gần đây xuất hiện hiện tượng các tỉnh thành gia tăng hoạt động xúc tiến đầu tư một cách riêng rẽ, tuy thể hiện được tinh thần năng động, tích cực; nhưng ở góc độ của các nhà đầu tư thì lại thấy một đối tác thiếu tính tổ chức và thống nhất về đường hướng, chính sách và thông tin. Hậu quả là đôi khi lợi bất cập hại. Năm là, sự phối hợp giữa các địa phương còn mang tính hình thức, thiếu cơ chế liên kết và thực hiện các cam kết phối hợp một cách hiệu quả. Các thỏa thuận hợp tác, liên kết giữa các địa phương nhiều khi còn chưa có sự phối hợp thực chất, chưa xuất phát từ yêu cầu thực tế khách quan. Nội dung liên kết còn chung chung, chưa rõ ưu tiên, chưa tạo ra lợi ích thiết thực, động lực cho tất cả các bên tham gia liên kết, chưa lôi kéo được khu vực doanh nghiệp tham gia liên kết mà chủ yếu là các cấp chính quyền địa phương. Khi xây dựng quy hoạch, việc đóng góp ý kiến của các địa phương khác trong vùng vẫn còn mang tính hình thức, chưa xác định rõ nội dung, cách thức liên kết, phối hợp trong phát triển. Các cơ chế phối hợp hiện nay chủ yếu mang tính tự nguyện, không có sự ràng buộc trách nhiệm, chế tài chặt chẽ. Thực tế, đã có một số địa phương mặc dù đã có những cam kết nhưng vì lợi ích cục bộ của mình đã không tham gia tích cực vào việc liên kết vùng (thí dụ trong kết nối các tuyến giao thông, xây dựng các khu xử lý chất thải nguy hại...). Thực ra, các quy định mang tính pháp lý về liên kết, phối hợp cả chiều dọc lẫn chiều ngang trên một số lĩnh vực quản lý vĩ mô đã được nhà nước ban hành. Hầu như trong các văn bản pháp lý, phần nói về giải pháp và/hoặc tổ chức thực hiện, đều có đề cập đến vấn đề phối hợp giữa các ngành, các địa phương. Đặc biệt, riêng trong lĩnh vực liên kết, phối hợp vùng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 159/2007/QĐ-TTg về Quy chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương đối với các vùng kinh tế trọng điểm. Theo Quyết định này, các Bộ, tỉnh/thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm sẽ phải tham gia, phối hợp trong quá trình xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm; quy hoạch tổng thể phát triển KTXH của các địa phương trong vùng; quy hoạch phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, quy hoạch ngành, quy hoạch sản phẩm chủ yếu; huy động vốn đầu tư phát triển và đầu tư phát triển; phát triển đào tạo và sử dụng lao động; rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành thực hiện cơ chế, chính sách tài chính, đầu tư; thiết lập hệ 62 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ thống thông tin và cung cấp thông tin vùngViệc phối hợp tốt các vấn đề này sẽ tránh được sự chồng chéo, trùng lắp trong phát triển giữa các địa phương trong vùng. Ngoài ra, Ban chỉ đạo các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương đã tổ chức nghiên cứu và tiến hành trên thực tế các hoạt động liên kết vùng. Trong khuôn khổ các vùng đô thị như vùng Thủ đô Hà Nội, vùng Thành phố Hồ Chí Minh, cũng có Ban Chỉ đạo quy hoạch và đầu tư xây dựng vùng, thực hiện công tác hoạt động điều phối, liên kết vùng có nhiều sáng kiến liên kết, hợp tác của các địa phương. Những mặt tồn tại, hạn chế nêu trên do các nguyên nhân chủ yếu: - Chức năng, nhiệm vụ của các địa phương không tạo động lực cho sự liên kết vùng - Các địa phương vì nhiệm vụ về tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu ngân sách... nên cạnh tranh với nhau trong thu hút đầu tư, xây dựng các khu, cụm công nghiệp... Nhiều địa phương vẫn muốn duy trì cơ cấu sản xuất toàn diện và khép kín. Chính sách của các địa phương vẫn còn nặng tính phong trào. - Tổ chức, hoạt động của các Ban Chỉ đạo chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên kết, điều phối phát triển vùng Chức năng, nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ hiện nay chưa tạo điều kiện thuận lợi cho công tác liên kết vùng để phát triển kinh tế - xã hội. Chưa xác định cụ thể nội dung, phương pháp phối hợp giữa Ban với các địa phương trên địa bàn và với các Bộ, ngành. Hiệu lực của công tác điều phối tại các vùng KTTĐ chưa cao, do Ban Chỉ đạo, Văn phòng điều phối hoạt động phi hành chính. Các tổ chức điều phối không nắm nguồn lực, không có quyền quyết định đầu tư phát triển, chỉ có trách nhiệm tư vấn, do đó tiếng nói của tổ chức điều phối còn hạn chế. Tổ điều phối các Bộ, ngành và các địa phương tham gia còn hình thức (do không có cán bộ chuyên trách, nhưng chủ yếu nhận thức chưa đúng mức). Các cán bộ tham gia tổ điều phối đều kiêm nhiệm nên thời gian tham gia ít, trách nhiệm hạn hẹp. - Nội dung lập, phê duyệt và quản lý các quy hoạch còn bất cập Trong nội dung của quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm đã yêu cầu luận chứng các phương án phát triển và khuyến nghị phương án phân bố sản xuất trên các vùng và các tỉnh, tuy nhiên trong một số quyết định phê duyệt quy hoạch không chỉ rõ phương án phân bố sản xuất trên các tỉnh, là địa bàn có cơ quan hành chính nhà nước quản lý. Phương pháp luận về quy hoạch, quản lý quy hoạch phát triển sản phẩm trong điều kiện kinh tế thị trường chưa rõ. Quy hoạch vùng chưa chỉ rõ các nhiệm vụ của các địa phương dựa trên lợi thế của mình. Công tác tổ chức lập, thẩm định các quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch cấp vùng/tỉnh và cơ chế quản lý quy hoạch, phối hợp chỉ đạo thực hiện quy hoạch, việc điều hành tháo gỡ vướng mắc trong quá trình triển khai quy hoạch... còn nhiều bất cập, cần được nghiên cứu, có giải pháp khắc phục. (Kỳ sau: Liên kết vùng/địa phương trong phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Hà Nội) Tài liệu tham khảo 1) Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội. 2) Báo cáo đánh giá nhu cầu đào tạo lồng ghép phát triển bền vững và biến đổi khí hậu trong công tác lập kế hoạch của Dự án “Tăng cường năng lực lồng ghép phát triển bền vững và biến đổi khí hậu trong công tác lập kế hoạch”. 3) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng và địa phương; quy hoạch phát triển một số ngành, lĩnh vực, sản phẩm. 4) TS. Nguyễn Văn Huân Viện Kinh tế Việt Nam: Liên kết vùng từ lý luận đến thực tiễn 5) TS. Hồ Kỳ Minh và Ths. Lê Minh Duy Nhất (Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - xã hội Đà Nẵng): Liên kết vùng từ lý luận đến thực tiễn 63Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ *Viện Kinh tế Xây dựng, Bộ Xây dựng QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG KHU ĐÔ THỊ MỚI - MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA Trên thực tế việc quản lý đầu tư xây dựng khu đô thị mới (KĐTM) thời gian qua còn lỏng lẻo, vì vậy rất cần hoàn thiện các quy định cho phù hợp, tránh tình trạng một số địa phương quá chú trọng đến thu hút đầu tư mà không để ý đến quy trình cấp phép dẫn đến nhiều dự án nhà ở trong KĐTM không lập theo quy định, gây ra khó khăn cho người dân trong việc chứng nhận quyền sở hữu nhà và các quyền cư trú hợp pháp khác. Hay việc quản lý trong quá trình đầu tư xây dựng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng để các chủ đầu tư chỉ tập trung vào việc tăng diện tích kinh doanh mà không quan tâm đến xây dựng hạ tầng kỹ thuật và xã hội, làm ảnh hưởng tới quyền lợi của các hộ dân trong KĐTM. Việc phân cấp quản lý đầu tư xây dựng Đối với việc phân cấp quản lý đầu tư xây dựng dự án KĐTM, theo quy định hiện hành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định đầu tư, cấp giấy phép đầu tư và quản lý thực hiện các dự án đầu tư xây dựng KĐTM trong phạm vi địa giới hành chính của tỉnh. Thủ tướng chỉ phê duyệt chủ trương đầu tư và cho phép đầu tư đối với các dự án KĐTM có diện tích từ 200ha trở lên. Dự án KĐTM có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện theo quyết định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, một số địa phương chưa thực hiện đúng các quy định về cho phép đầu tư dự án KĐTM, không kiểm tra kỹ các điều kiện của dự án, các chủ đầu tư cố tình lách luật để việc phê duyệt giao cho địa phương, các địa phương thì dễ dãi nhằm thu hút đầu tư. Cơ chế quản lý sử dụng đất của dự án còn lỏng lẻo cùng với đó việc quản lý thực hiện theo quy hoạch xây dựng còn kém hiệu quả, hiện tượng lấn chiếm, xây dựng, trồng trọt trái phép đã gây khó khó khăn cho công tác giao đất, giải phóng mặt bằng (GPMB) khiến việc triển khai thực hiện dự án tiến triển chậm và chi phí đền bù GPMB tăng vọt gây lãng phí đất đai và bức xúc đối với xã hội. Mặt khác, việc phân cấp quản lý các dự án KĐTM cũng phát sinh những vấn đề cần được xem xét, điều chỉnh, để khắc phục tình trạng khống chế các dự án KĐTM quy mô nhỏ hơn 200ha để địa phương được tự quyết định, không phải xin phép Thủ tướng Chính phủ, dẫn đến thực tế thiếu sự quản lý, kiểm soát của Chính phủ đối với quá trình chuẩn bị và triển khai thực hiện dự án KĐTM. Thủ tục đầu tư xây dựng nhà ở trong KĐTM theo quy định của pháp luật về nhà ở nói chung và Nghị định 02/2006/NĐ-CP nói riêng còn có sự khác nhau. Theo pháp 64 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ Ths. Nguyễn Hồng Phú* QUẢN LÝ ĐẦU TƯ, KHAI THÁC DỰ ÁN KHU ĐÔ THỊ MỚI ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP luật về nhà ở, trước khi đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án (không phân biệt quy mô diện tích đất) thì chủ đầu tư phải lập dự án nhà ở để trình UBND cấp tỉnh hoặc UBND cấp huyện hoặc trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (đối với dự án sử dụng vốn ngân sách) hoặc trình UBND cấp huyện, UBND cấp tỉnh hoặc trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (đối với dự án sử dụng vốn ngoài ngân sách). Nhưng theo Quy chế KĐTM ban hành kèm theo Nghị định 02/2006/NĐ-CP thì chủ đầu tư dự án KĐTM (không phân biệt nguồn vốn đầu tư) chỉ cần lập dự án KĐTM (trong đó có cả nhà ở) để trình UBND cấp tỉnh cho phép đầu tư mà không phải lập thêm dự án nhà ở theo pháp luật về nhà ở, trong trường hợp dự án KĐTM có quy mô sử dụng đất từ 200ha trở lên thì phải trình Thủ tướng Chính phủ chấp thuận. Thực tế cho thấy, có nhiều trường hợp chủ đầu tư cấp I thực hiện đầu tư xây dựng các khu nhà ở hoặc công trình nhà ở cao tầng trong KĐTM để bán cho người dân nhưng do không lập dự án nhà ở riêng biệt nên đã dẫn đến hiện tượng là có địa phương không cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở cho người mua nhà vì không có dự án nhà ở được lập theo quy định của pháp luật về nhà ở. Quản lý xây dựng và chất lượng xây dựng công trình Việc quản lý xây dựng và chất lượng xây dựng công trình được thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng. Việc quản lý đầu tư xây dựng đối với từng dự án KĐTM được thực hiện riêng theo điều lệ quản lý thực hiện dự án KĐTM đó. Trong đó, chủ đầu tư cấp I là đầu mối, có quyền hạn và trách nhiệm quản lý việc xây dựng, chất lượng xây dựng và trật tự xây dựng toàn bộ các công trình thuộc dự án KĐTM. Tại rất nhiều dự án KĐTM, hệ thống các công trình hạ tầng trong các KĐTM (bao gồm cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội) không được đầu tư đồng bộ, không kết nối được với hạ tầng khu vực xung quanh. Việc xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội vừa chậm, vừa thiếu, nhiều dự án KĐTM đã bán nhà ở cho người dân vào sinh sống song các công trình hạ tầng thiết yếu và các dịch vụ đô thị vẫn chưa có. Phổ biến tình trạng quy hoạch ban đầu thì có đầy đủ các công trình hạ tầng nhưng sau đó điều chỉnh quy hoạch và không có các công trình hạ tầng nữa để chuyển đất làm công trình khác. Thực tế cho thấy nhiều chủ đầu tư chỉ ưu tiên thực hiện các công trình nhà ở để kinh doanh, quy hoạch chi tiết bị điều chỉnh nhiều lần với mục đích tăng diện tích kinh doanh, giảm diện tích công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội, không phù hợp với quy chuẩn quy hoạch về chỉ tiêu các công trình hạ tầng xã hội. Nhiều dự án KĐTM thiếu các hạng mục công trình như trường mầm non, phòng sinh hoạt tổ dân phố, nhà văn hóa khu dân cư, phòng sinh hoạt thể dục thể thao, chỗ để ô tô, xe máy, Cấp phép đầu tư, quản lý thực hiện đầu tư Thủ tục cấp phép đầu tư còn chưa rõ ràng dẫn đến tính trạng cấp phép đầu tư cho nhiều doanh nghiệp không đủ năng lực dẫn đến tình trạng lãng phí nguồn lực xã hội. Chủ đầu tư tìm cách điều chỉnh quy hoạch xây dựng chi tiết của dự án đã được phê duyệt khi giao đất, cho thuê đất như tăng hệ số sử dụng đất, mật độ xây dựng, điều chỉnh chức năng sử dụng đất, thay đổi vị trí các hạng mục công trình, để tăng lợi nhuận. Một số địa phương chưa thực hiện đúng các quy định về cho phép đầu tư dự án khu đô thị mới Theo khảo sát ở một số khu đô thị tại địa bàn Hà Nội đã phát hiện rất nhiều bất cập, đặc biệt là những “lỗ hổng” trong quản lý từ công tác quy hoạch đến phát triển xây dựng. Tại hầu hết các dự án đều có sự điều chỉnh về chức năng sử dụng, quy hoạch chi tiết so với quy hoạch ban đầu, có dự án còn bị điều chỉnh tăng diện tích xây dựng nhà ở dẫn đến kiến trúc bị phá vỡ; một số khác thì chuyển mục đích sử dụng từ đất trồng cây xanh sang xây dựng công trình thương mại, câu lạc bộ, nhà hàng... khiến cảnh quan môi trường khu đô thị bị thu hẹp. Có thể dễ dàng nhận thấy, nguyên nhân chính đều xuất phát từ mục đích tăng diện tích nhà ở, khu kinh doanh, dịch vụ, thương mại của chủ đầu tư nhằm có thêm lợi nhuận. Việc điều chỉnh này đã tạo ra nhiều hệ luỵ, bất hợp lý trong xây dựng khiến mục đích sử dụng của các công trình trong đồ án không đảm bảo và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân; phá vỡ cảnh quan kiến trúc của khu đô thị, khu nhà ở và kéo theo tiến độ của các công trình xây dựng bị gián đoạn. 65Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ Các địa phương phần lớn phát triển khu đô thị theo quy hoạch và phong trào của những chủ đầu tư có tiền, có tiềm lực chứ chưa chú trọng vào việc phát triển các dự án có kế hoạch và có định hướng cho địa phương. Vì vậy, nhiều địa phương có hiện tượng vừa thừa, vừa thiếu hàng hoá bất động sản. Người dân phần lớn có nhu cầu ở phân khúc bất động sản giá rẻ, mà các nhà đầu tư lại muốn kinh doanh ở lĩnh vực bất động sản hạng sang, bất động sản du lịch để tìm kiếm lợi nhuận cao. Như vậy bài toán hiệu quả xã hội mà địa phương phải giải trong việc cấp phép đầu tư các dự án là chưa đúng hướng. Vì vậy, việc cấp thiết để địa phương có thể chủ động trong xây dựng nguồn cung phù hợp cho địa phương mình chính là việc xây dựng một kế hoạch quy hoạch đầu tư xây dựng với định hướng rõ ràng phù hợp với địa bàn và nhu cầu thực tế của địa phương. Việc cấp phép phải thiên về hướng đánh giá cao tính hiệu quả về mặt xã hội của địa phương. Mạnh dạn không cấp phép đầu tư đối với các dự án không phù hợp đặc thù, nhu cầu của địa phương. Theo quy định của Nghị định số 02/2006/NĐ-CP thì một trong những điều kiện của chủ đầu tư là phải có đăng ký kinh doanh, do vậy tuyệt đại đa số chủ đầu tư các dự án KĐTM đều là doanh nghiệp. Thực tế cho thấy một số địa phương chưa thực hiện đúng các quy định về cho phép đầu tư dự án KĐTM. Không kiểm tra kỹ các điều kiện của chủ đầu tư, còn dễ dãi nhằm thu hút đầu tư. Nhiều trường hợp một doanh nghiệp được giao nhiều dự án cùng một lúc nên không có đủ khả năng thực hiện. Nhiều chủ đầu tư không có đủ điều kiện, nhất là điều kiện về kinh nghiệm và tài chính để thực hiện dự án dẫn đến dự án không được triển khai hoặc chậm được triển khai, thậm chí có trường hợp bán trao tay để hưởng chênh lệch dẫn đến tình trạng dự án treo, gây lãng phí đất đai và bức xúc đối với xã hội. Tại Điều 16 Quy chế KĐTM đã quy định rõ tổ chức thực hiện KĐTM trên cơ sở đảm bảo yêu cầu cơ bản về nguyên tắc một đầu mối quản lý mặt bằng. Theo đó, Chủ đầu tư cấp 1 là đầu mối tổ chức thực hiện quản lý mặt bằng xây dựng đối với dự án KĐTM, Chủ đầu tư cấp 2 là đầu mối tổ chức thực hiện quản lý mặt bằng đối với dự án được tham gia. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn nhiều dự án KĐTM tổ chức thực hiện đầu tư xây dựng chưa tốt để xảy ra tình trạng công trình xây dựng chưa xong mà một số hạng mục đầu tư hạ tầng đã hư hỏng như KĐTM Trung Văn .. hay việc xây dựng công trình xây dựng xong nhưng hạ tầng chưa đấu nối được như KĐTM Vân Canh, hay làm xong hạ tầng nhưng chậm triển khai các hạng mục công trình gây lãng phí như KĐTM Sài Đồng, Đối với dự án KĐTM, khu nhà ở đã được cấp có thẩm quyền (UBND cấp tỉnh) phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng và giao cho một đơn vị xây dựng đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật (chủ đầu tư cấp 1), việc đầu tư xây dựng, khai thác các công trình kiến trúc trên các ô đất thuộc khu đô thị, khu nhà ở được UBND cấp tỉnh giao cho các đơn vị khác triển khai (không do chủ đầu tư cấp 1 chuyển nhượng) dẫn đến việc khó xác định các dự án đầu tư trên các ô đất nêu trên có được coi là dự án thứ phát trong KĐTM, dự án nhà ở hay không. Tình trạng chia lô bán nền, đầu cơ đất, không hình thành đô thị còn phổ biến. Trong thực tế có nhiều dự án KĐTM chủ đầu tư cấp I không đầu tư xây dựng hạ tầng mà thực chất là chia lô bán nền, lợi nhuận từ đất không được đưa vào đầu tư xây dựng hạ tầng, các chủ đầu tư thứ phát đầu cơ đất, chờ lên giá để bán kiếm lời, dẫn đến diện tích đất của dự án không được phủ kín theo tiến độ, không hình thành nên khu đô thị. Trong vấn đề thuế, nên khuyến khích các giao dịch chính thức công khai, hạn chế thấp nhất các giao dịch “ngầm” 66 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ Việc hoàn thành, khai thác, chuyển giao các dự án KĐTM Việc hoàn thành, khai thác và chuyển giao của dự án KĐTM chủ yếu quy định những nội dung của việc chuyển giao, từ chuyển giao không bồi hoàn các hạ tầng công trình được quy định tại quyết định đầu tư, giấy phép đầu tư và việc chuyển giao công trình tự nguyện do chủ đầu tư đề nghị. Trong giai đoạn chưa chuyển giao hoặc không chuyển giao, chủ đầu tư hoàn toàn chịu trách nhiệm vận hành các công trình hạ tầng phục vụ hoạt động chung của toàn dự án. Quy chế KĐTM cũng quy định cụ thể việc kinh doanh của chủ đầu tư trong dự án KĐTM, bao gồm: việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cho thuê đất, cho thuê công trình, chuyển nhượng công trình, kinh doanh dịch vụ hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ quản lý chung cư, dịch vụ sau kinh doanh. Tuy nhiên vấn đề sở hữu chung – sở hữu riêng trong KĐTM chưa được quy định cụ thể dẫn đến gần đây rất nhiều cư dân ở các KĐTM, chủ yếu ở Hà Nội kiện tụng kéo dài đòi được sử dụng miễn phí bãi đỗ xe, vì cho rằng khi mua căn hộ, chủ đầu tư đã phân bổ vào giá thành chi phí đầu tư hạ tầng kỹ thuật, diện tích công cộng, diện tích dùng chung... Các cơ quan chức năng đang lúng túng không có căn cứ giải quyết do hợp đồng mua bán không thỏa thuận cụ thể về vấn đề này, còn doanh nghiệp lấy lý do “bí mật kinh doanh” không chịu cung cấp cơ cấu giá. Cần phải đưa ra quy định thống nhất về cơ cấu giá thành căn hộ gồm những gì. Suất đầu tư hạ tầng và diện tích dùng chung có được phân bổ vào giá thành căn hộ bán cho người sử dụng không? Nếu không cộng thì giá căn hộ như thế nào, nếu đã phân bổ thì các diện tích ấy phải được tính vào diện tích dùng chung của các cư dân đã mua nhà. Nghị định số 02/2006/NĐ-CP chưa quy định cụ thể vấn đề này nên còn gây tranh cãi, khiếu kiện trong thực tế. Nghị định số 02/2006/NĐ-CP không có quy định cụ thể về vấn đề sở hữu chung- sở hữu riêng trong KĐTM mà chỉ có quy định về việc hoàn thành, chuyển giao, khai thác và sử dụng công trình trong KĐTM. Theo đó, các công trình sau khi xây dựng xong phải bàn giao đưa vào sử dụng. Đối với phần sở hữu riêng của chủ đầu tư thì chủ đầu tư có trách nhiệm tổ chức quản lý, vận hành; đối với phần công trình xây dựng để bán thì chủ đầu tư phải làm thủ tục cấp quyền sở hữu cho người mua. Việc xác định phần sở hữu chung - sở hữu riêng trong dự án KĐTM chỉ căn cứ vào mục đích đầu tư được nêu trong dự án do chủ đầu tư đề xuất và được chính quyền địa phương chấp thuận. Vì vậy, quy định về vấn đề này trong các dự án KĐTM tại mỗi địa phương không có sự thống nhất. Do Nghị định số 02/2006/NĐ-CP chưa có quy định phần diện tích nào thuộc sở hữu chung và phần diện tích nào thuộc sở hữu riêng trong dự án KĐTM nên việc quản lý, vận hành cả dự án KĐTM chưa đạt yêu cầu đề ra. Những khuyến khích và ưu đãi trong đầu tư KĐTM được quy định dựa trên cơ sở đặc thù của từng loại dự án KĐTM. Các cơ quan quản lý Nhà nước và chính quyền địa phương trong việc tạo điều kiện hình thành đầu vào cho dự án, các khuyến khích, điều kiện ưu đãi... cho dự án KĐTM. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VỀ VIỆC ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NHÀ Ở KHU ĐÔ THỊ MỚI Đối với việc công nhận chủ đầu tư các dự án phát triển nhà ở thương mại, theo quy định của Luật Nhà ở 2014, các nhà đầu tư có quyền sử dụng đất ở hợp pháp thì mới được xem xét công nhận là chủ đầu tư dự án. Trong khi đó, Luật Đất đai không quy định phải là đất ở; hơn nữa, trên thực tế, các nhà đầu tư nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án nhà ở thương mại thì phổ biến, rất ít nhà đầu tư có quyền sử dụng đất ở. Sau khi được công nhận, chủ đầu tư, mới có cơ sở tiến hành thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định. Do đó, kiến nghị cho phép công nhận chủ đầu tư đối với trường hợp nhà đầu tư có quyền sử dụng đất hợp pháp (chưa phải là đất ở) phù hợp với quy hoạch được duyệt là đất ở, kế hoạch sử dụng đất để phát triển đô thị, không yêu cầu bắt buộc phải có quyền sử dụng đất ở mới được công nhận là chủ đầu tư. Trong vấn đề thuế, nên khuyến khích các giao dịch chính thức công khai, hạn chế thấp nhất các giao dịch “ngầm” (không theo quy định của pháp luật hoặc không thể hiện giá trị thực của bất động sản) chiếm một tỷ trọng đáng kể trên thị trường. Nhà nước xem xét thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, chuyển dịch bất động sản và các loại phí, lệ phí cần nghiên cứu điều chỉnh ở mức thuế suất hợp lý theo nguyên tắc ở mức thấp và giảm lệ phí trước bạ nhằm khuyến khích người dân đăng ký sở hữu (sử dụng) nhà đất. Về đất, việc thu tiền sử dụng đất một lần khi giao đất tạo áp lực vốn cho nhà đầu tư, hạn chế việc tăng cung bất động sản cho thị trường đồng thời tạo áp lực tăng giá bất động sản. Nhà nước nên cho phép thu tiền sử dụng đất nhiều lần theo tiến độ thực hiện dự án. 67Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ Thời gian qua, xây dựng và phát triển đô thị luôn là những vấn đề được quan tâm hàng đầu ở Việt Nam. Nhiều nguồn lực đã được đầu tư nhằm nâng cấp cơ sở hạ tầng, quy hoạch xây dựng, điều chỉnh dân số, hướng tới mục tiêu quản lý và phát triển đô thị bền vững - mục tiêu chung của cả Việt Nam và cộng đồng quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát triển đô thị đối với công chức lãnh đạo, chuyên môn đô thị trên địa bàn, đáp ứng yêu cầu của TP. Hà Nội, trong hai ngày 21 và 22/8/2017, Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị - AMC đã phối hợp với Sở Nội vụ Hà Nội và Tổ chức định cư con người Liên Hợp quốc - UN Habitat tổ chức khóa đào tạo “Quản lý xây dựng và phát triển đô thị bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế - Kinh nghiệm từ Hàn Quốc”. Tham dự Lễ khai giảng khóa đào tạo có ông Phạm Văn Bộ - Phó Giám đốc Học viện; ông Nguyễn Quang - Giám đốc UN-Habitat Việt Nam, bà Nguyễn Thị Bích Hoa - Phó Trưởng phòng Đào tạo, Sở Nội vụ Hà Nội cùng 37 học viên Khóa học là cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn – nghiệp vụ các Sở Xây dựng, Giao thông vận tải, Tài nguyên môi trường, Công thương, vv..., các Phòng Quản lý Đô thị cấp Huyện trên địa bàn TP. Hà Nội. Mục tiêu của Khóa học là nhằm cung cấp những kiến thức và kinh nghiệm của Hàn Quốc về quản lý xây dựng và phát triển đô thị theo hướng bền vững, góp phần nâng cao sức cạnh tranh đô thị của Việt Nam nói chung và của TP. Hà Nội nói riêng trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Tại Khóa học này, trên cơ sở những kinh nghiệm tiên tiến của Hàn Quốc, với phương pháp giảng dạy tích cực, hiện đại, lấy người học làm trung tâm, phát huy tối đa tính chủ động của từng học viên, khuyến khích phát hiện vấn đề và đề xuất giải pháp xử lý,... học viên Khóa học được những giáo sư nổi tiếng, giàu kinh nghiệm của các Đại học Hàn Quốc danh tiếng (Đại học Hongik, Đại học Anyang) trao đổi, thảo luận, hướng dẫn các tình huống về xây dựng và phát triển đô thị theo hướng đô thị thông minh qua các chuyên đề: Xây dựng đô thị thông minh; Liên kết đô thị - nông thôn. Với nội dung phong phú, thiết thực, bổ ích,... Khóa học đã góp phần nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát triển xây dựng đô thị cho từng học viên nói riêng, cho ngành Xây dựng và các đô thị Việt Nam nói chung. Kết thúc khóa học, học viên được cấp Giấy chứng nhận hoàn thành chương trình đào tạo “Quản lý xây dựng và phát triển đô thị bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế- Kinh nghiệm Hàn Quốc”. KHÓA ĐÀO TẠO QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ 68 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ TIN ĐÀO TẠO TIN ĐÀO TẠO Ngày 15/8/2017, Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị đã tiếp tục phối hợp với Sở Xây dựng, Sở Nội vụ và Trường Trung cấp Xây dựng TP. Hồ Chí Minh tổ chức khóa Bồi dưỡng kiến thức pháp luật về xây dựng cho đại biểu Hội đồng nhân dân các phường thuộc nhiều quận trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh. Tham dự Lễ Khai giảng khóa học có ông Đỗ Phi Hùng - Nguyên Phó Giám đốc Sở Xây dựng thành phố, ông Nguyễn Thanh Dũng - Phó Hiệu trưởng Trường Trung cấp Xây dựng cùng lãnh đạo, đại diện một số phòng ban và đông đủ học viên tham gia khóa học. Khóa học được tổ chức từ ngày 15/8/2017 đến ngày 29/8/2017 vào các ngày thứ ba và thứ năm hàng tuần. Nội dung của khóa học bao gồm 06 chuyên đề: Chuyên đề 1: Tổng quan về công tác giám sát trong lĩnh vực xây dựng; Chuyên đề 2: Giám sát việc tuân thủ pháp luật về trật tự xây dựng ở địa phương; Chuyên đề 3: Giám sát việc tuân thủ pháp luật về đầu tư xây dựng tại địa phương; Chuyên đề 4: Vai trò của hội đồng nhân dân các cấp trong quản lý ngân sách nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng; Chuyên đề 5: Giám sát việc tuân thủ pháp luật về quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng; Chuyên đề 6: Giám sát việc thực hiện giải quyết khiếu nại tố cáo; phòng, chống tham nhũng liên quan đến lĩnh vực xây dựng tại địa phương. Tham gia khóa học, học viên sẽ được hướng dẫn, trao đổi, thảo luận và thực hành các bài tập tình huống sát với thực tế của địa phương, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, đóng góp cho sự nghiệp phát triển của đơn vị, đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC PHÁP LUẬT VỀ XÂY DỰNG CHO 162 ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP TẠI TP. HỒ CHÍ MINH Sau những năm đổi mới cho đến nay, thị trường, nhà chung cư ở nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và về chất. Tuy nhiên cùng với sự phát triển nhanh chóng về số lượng, quản lý vận hành nhà chung cư cũng đã nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập, như tranh chấp giữa chủ đầu tư và các hộ dân về diện tích sử dụng về dịch vụ, kỹ thuật quản lý vận hành của tòa nhà Nhằm mục tiêu xây dựng hệ thống quản lý vận hành, đáp ứng dịch vụ kỹ thuật tốt nhất, quản lý quản trị tốt, hạn chế rủi ro xảy ra hay kỹ năng bán rủi ro cho tòa nhà chung BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ QUẢN LÝ VẬN HÀNH NHÀ CHUNG CƯ TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 69Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ cư đang hoạt động. Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị phối hợp với Công ty Quản lý nhà chung cư thành phố Đà Nẵng tổ chức khóa học “Bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý vận hành nhà chung cư” tại Đà Nẵng. Tham dự Lễ Khai giảng khóa học có các ông Trần Quang Triết và ông Lê Doãn Lâm - Giám đốc và Phó Giám đốc Công ty, ông Lê Đình Phương - Trưởng phòng Tổ chức kế hoạch, ông Nguyễn Tiến Dân - Phó Giám đốc Phân viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị miền Trung cùng đông đủ học viên là cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn – nghiệp vụ của các đơn vị trực thuộc Công ty. Khóa học diễn ra trong 04 ngày từ 08/8/2017 đến 11/8/2017, học viên được truyền đạt những nội dung về: Quản lý vận hành thang máy, thang cuốn trong nhà chung cư; quản lý vệ sinh, môi trường, cảnh quan của nhà chung cư và xử lý nước thải; nghiệp vụ quản lý việc sử dụng nhà chung cư; kiến thức cơ bản của pháp luật về quản lý và sử dụng nhà chung cư; quản lý vận hành, bảo hành, bảo trì hệ thống thiết bị phòng cháy và chữa cháy; quản lý, vận hành, bảo trì nhà và hệ thống cấp điện, cấp và thoát nước; kiến thức về pháp luật nhà ở, Luật Đất đai, dân sự và dân dụng liên quan tới nhà chung cư; quản lý rủi ro, quản lý an ninh và ứng phó với thiên tai tại nhà chung cư. Kết thúc khóa học, học viên có thể điều hành, vận hành tốt, xử lý các tính huống rủi ro, những vấn đề đang vướng mắc tại các tòa nhà chung cư và được cấp chứng chỉ hoàn thành Khóa bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý vận hành nhà chung cư. Nhằm bồi dưỡng nâng cao năng lực về quản lý xây dựng và cấp phép xây dựng cho các cán bộ làm công tác liên quan, ngày 08/8/2017, Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị phối hợp với Sở Xây dựng Lạng Sơn tổ chức khóa Bồi dưỡng một số nội dung về quản lý xây dựng và cấp phép xây dựng tại Lạng Sơn. Khóa học diễn ra trong 02 ngày (08/8/2017 - 09/8/2017), giảng viên tham gia giảng dạy là người có trình độ chuyên môn sâu và nhiều năm kinh nghiệm nghiên cứu về quản lý xây dựng và cấp phép xây dựng, đã nhiệt tình truyền đạt nội dung khóa học và dành nhiều thời gian để chia sẻ, trao đổi, giải đáp mọi thắc mắc về các nội dung như: Quản lý quy hoạch đô thị; cấp phép xây dựng; quản lý trật tự xây dựng trên địa bàn xã, phường; tiếp nhận thông tin vụ việc và giải quyết khiếu nại, tố cáo về trật tự xây dựng trên địa bàn xã phường. Với phương pháp giảng dạy tích cực cùng nhiều bài tập tình huống cụ thể học viên dễ dàng tiếp thu nội dung khóa học, giúp trang bị cho bản thân những kiến thức cơ bản, cần thiết góp phần nâng cao các kỹ năng tổ chức và thực hiện công tác quản lý xây dựng và cấp phép xây dựng tại các xã, phường, thị trấn để từ đó thực hiện công việc được giao bảo đảm chất lượng và tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, góp phần phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm trật tự xây dựng theo thẩm quyền. BỒI DƯỠNG VỀ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ CẤP PHÉP XÂY DỰNG TẠI LẠNG SƠN Theo định hướng phát triển đô thị trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đến năm 2020, tỷ lệ dân số đô thị đạt 22-23%; toàn tỉnh có 21 đô thị, trong đó 1 đô thị loại II, 4 đô thị loại IV và 16 đô thị loại V. Đến năm 2030, tỷ lệ dân số đô thị đạt 40-45%; toàn tỉnh có 25 đô thị, trong đó 1 đô thị loại I, 2 đô thị loại III, 4 đô thị loại IV và 18 đô thị loại V. Nhằm mục tiêu nâng cao nhận thức, năng lực quản lý, điều hành cho đội ngũ công chức lãnh đạo và chuyên môn đô thị các cấp, đáp ứng yêu cầu quản lý xây dựng và phát triển đô thị trong bối cảnh tốc độ tăng trưởng đô thị hóa ngày càng nhanh trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, sáng ngày 08/8/2017, Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị phối hợp với Sở Nội vụ Bắc Giang tổ chức khai giảng khóa “Bồi dưỡng quản lý xây dựng và phát triển đô thị - Chương trình 7 theo Đề án 1961” tại Bắc Giang. NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ TẠI TỈNH BẮC GIANG 70 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ TIN ĐÀO TẠO TIN ĐÀO TẠO Tham dự Lễ Khai giảng có ông Nguyễn Anh Dũng – Phó Giám đốc Học viện, ông Nguyễn Văn Dương – Phó Trưởng phòng Công chức viên chức, Sở Nội vụ Bắc Giang cùng 67 học viên là Giám đốc, Phó Giám đốc ban quản lý dự án, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng, chuyên viên các phòng Quản lý đô thị, Kinh tế hạ tầng... thuộc diện quy hoạch cán bộ nguồn của tỉnh Bắc Giang. Khóa học diễn ra trong 04 ngày từ 08/8/2017- 11/8/2017, học viên được nghe giảng các nội dung về: Quản lý quy hoạch đô thị, Đô thị hóa và định hướng phát triển đô thị quốc gia, Quản lý không gian kiến trúc cảnh quan và bảo tồn di sản đô thị, Quản lý Hạ tầng kỹ thuật - môi trường đô thị, Quản lý dự án đầu tư xây dựng, Quản lý trật tự xây dựng đô thị, Quản lý đất đai nhà ở và thị trường BĐS. Ngoài ra, các học viên còn được tham quan thực tế, trao đổi, thảo luận và làm bài tập tình huống cụ thể về công tác quản lý xây dựng và phát triển đô thị. Khóa học đưa ra nhiều bài tập tình huống, đề cập đến những vướng mắc điển hình các địa phương thường gặp, đồng thời giảng viên cũng dành nhiều thời gian để các học viên đặt câu hỏi, thảo luận theo nhóm. Kết thúc Khóa học, căn cứ vào quá trình học tập và kết quả bài kiểm tra, học viên đạt yêu cầu của khóa học sẽ được cấp Giấy chứng nhận hoàn thành chương trình “Bồi dưỡng quản lý xây dựng và phát triển đô thị - Chương trình 7 theo Đề án 1961”. Quan trọng hơn, Khóa học giúp học viên trang bị thêm các kiến thức về lĩnh vực xây dựng và quản lý quy hoạch đô thị, qua đó nâng cao hiệu quả công tác tham mưu quản lý xây dựng, quản lý quy hoạch đô thị trên địa bàn công tác, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Sáng ngày 07/8/2017, Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị phối hợp với Trường Cao đẳng Điện lực TP. Hồ Chí Minh tổ chức khóa “Bồi dưỡng chỉ huy trưởng công trường xây dựng” cho 59 học viên là Giám đốc, Phó Giám đốc, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng, cán bộ kỹ thuật thuộc các Công ty Điện lực Bạc Liêu, Bến Tre, Bình Thuận, Ninh Thuận, Tây Ninh, Trà Vinh, Thủy điện Thác Mơ. Tham gia khóa học, học viên được nghe giảng những kiến thức về: Cơ sở pháp lý của nhà thầu trong thi công công trình xây dựng; lựa chọn nhà thầu xây dựng trong hoạt động xây dựng; quyền và nghĩa vụ của nhà thầu trong việc tổ chức thực hiện hợp đồng thi công xây dựng công trình; tổ chức công trường xây dựng; quản lý an toàn lao động; quản lý chất lượng công trình xây dựng; quản lý tiến độ xây dựng công trình; quản lý chi phí xây dựng công trình; Luật lao động và hợp đồng lao động. Trong quá trình học tập, học viên có 01 bài kiểm tra, đây là một trong những điều kiện để Hội đồng xét tốt nghiệp của Học viện cấp cho học viên Chứng nhận hoàn thành khoá Bồi dưỡng chỉ huy trưởng công trường xây dựng theo quy định của pháp luật. BỒI DƯỠNG CHỈ HUY TRƯỞNG CÔNG TRƯỜNG XÂY DỰNG TẠI TP. HỒ CHÍ MINH 71Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH XÂY DỰNG 29 DỰ ÁN NHÀ Ở XÃ HỘI CHỦ ĐẦU TƯ CÓ VI PHẠM VỀ PHÒNG CHÁY CHỮA CHÁY CHƯA KHẮC PHỤC SẼ KHÔNG ĐƯỢC CẤP, GIAO ĐẤT “Từ 1/7/2017 không giới thiệu địa điểm cấp đất, giao đất, cho thuê đất đối với các đơn vị đang là chủ đầu tư 79 công trình nhà chung cư cao tầng vi phạm quy định về PCCC trong đầu tư xây dựng hiện nay chưa được khắc phục”. Đây là một trong những nội dung quan trọng trong Thông báo số 152/TB-VP truyền đạt kết luận của Phó Chủ tịch Thường trực UBND Hà Nội Nguyễn Văn Sửu tại cuộc họp về công tác phòng cháy chữa cháy (PCCC) đối với nhà chung cư cao tầng vi phạm quy định về PCCC trong lĩnh vực đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố. Sở Xây dựng được giao hướng dẫn cơ quan chuyên môn, UBND quận, huyện, thị xã thực hiện nghiêm túc việc cấp phép và nghiệm thu các dự án, công trình xây dựng theo quy định. Không cấp giấy phép xây dựng khi công trình chưa được cơ quan Cảnh sát Phòng cháy và Chữa cháy cấp giấy chứng nhận thẩm duyệt thiết kế về PCCC; không nghiệm thu và cấp văn bản cho phép công trình được đưa vào hoạt động khi chưa được cấp văn bản nghiệm thu về PCCC Ngoài ra, Cảnh sát Phòng cháy và Chữa cháy thành phố tiếp tục phối hợp các sở, ngành chức năng thành phố, UBND quận, huyện, thị xã tổ chức kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các yêu cầu về PCCC, những cam kết thực hiện của chủ đầu tư để tổ chức nghiệm thu công trình UBND TP sẽ phấn đấu xây dựng khoảng 20.000 căn nhà ở xã hội; 35.000 chỗ ở tập trung cho công nhân, người lao động tại các khu công nghiệp và 10.000 chỗ ở tập trung cho sinh viên. Đây là kế hoạch phát triển và quản lý nhà ở xã hội trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2016 – 2020. Cụ thể, trong giai đoạn 2017 – 2020, Thành phố sẽ tập trung đầu tư xây dựng 37 dự án nhà ở xã hội với tổng diện tích đất là 134,89 ha, quy mô khoảng 43.624 căn hộ. Trong đó phấn đấu hoàn thành và đưa vào sử dụng 29 dự án với tổng diện tích đất là 46,69 ha, quy mô 19.436 căn hộ. Cũng trong giai đoạn 2017 - 2020, Thành phố dự kiến hoàn thành 8 dự án nhà lưu trú công nhân với tổng diện tích đất là 18,60 ha, quy mô 4.962 phòng, đáp ứng cho 31.180 chỗ ở tập trung cho công nhân. Về ký túc xá sinh viên, trong năm 2017, Thành phố sẽ khởi công xây dựng 1 dự án với tổng diện tích sàn xây dựng khoảng 4.000m2, đáp ứng khoảng 250 chỗ ở tập chung cho sinh viên Từ năm 2018 - 2020, tiếp tục mời gọi các doanh nghiệp tham gia đầu tư để đáp ứng thêm 3.250 chỗ ở còn lại cho sinh viên. 72 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ TIN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ NHẬT BẢN GIÚP HÀ NỘI GIẢM THIỂU THIỆT HẠI DO ÚNG NGẬP Sáng 9/8, Sở Xây dựng Hà Nội cùng với Cục Sáng tạo Môi trường TP Yokohama (Nhật Bản), Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tổ chức Lễ ký kết thực hiện dự án “Nâng cao năng lực quản lý các công trình thoát nước cho TP Hà Nội” giai đoạn 2. Tại buổi lễ, Phó Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội Võ Nguyên Phong cho biết, trong những năm qua, được sự giúp đỡ của Chính phủ Nhật Bản, hệ thống hạ tầng giao thông, hạ tầng kỹ thuật TP Hà Nội đã có nhiều công trình được hoàn thành, phát huy giá trị. Trong đó có những dự án quan trọng như: dự án thoát nước Hà Nội giai đoạn 1, giai đoạn 2; hệ thống thoát nước Hà Nội thuộc lưu vực sông Tô Lịch đã được cải tạo, nâng cấp cơ bản đáp ứng việc tiêu thoát nước cho khu vực trung tâm Hà Nội; dự án nhà máy xử lý nước thải Yên Xá cùng hệ thống thu gom đang được triển khai xây dựng. Đồng thời TP cũng tập trung kêu gọi các nguồn lực để thực hiện dự án Thoát nước lưu vực sông Nhuệ, Tây Nam quận Hà Đông, các nhà máy xử lý nước thải Phú Đô, Hồ Tây theo hình thức PPP Bên cạnh việc đầu tư xây dựng phát triển hệ thống hạ tầng công trình thoát nước, xử lý nước thải thì vấn đề quản lý duy trì, vận hành phát huy hiệu quả của hệ thống cũng được TP Hà Nội xác định là nhiệm vụ rất cần thiết. Do vậy, sau khi kết thúc giai đoạn 1 của dự án “Nâng cao năng lực quản lý các công trình thoát nước cho TP Hà Nội” vào cuối năm 2016 Cục sáng tạo môi trường TP Yokohama và Sở Xây dựng Hà Nội đã xác định cần tiếp tục xây dựng, nâng cao vai trò, mối quan hệ giữa quản lý Nhà nước và doanh nghiệp trong xử lý, quản lý duy trì hệ thống thoát nước của Hà Nội. Giai đoạn 2 của dự án được lựa chọn tiếp tục thực hiện nhằm hướng tới mục tiêu bền vững hơn là giải quyết triệt để hiện tượng úng ngập cho TP, cải tiến phương pháp xử lý bùn và tái sử dụng bùn thành nguồn năng lượng tái tạo Giám đốc Cục Sáng tạo Môi trường TP Yokohama Nomura Norihiko thông tin, dự án “Nâng cao năng lực quản lý các công trình thoát nước cho TP Hà Nội” giai đoạn 2 dự kiến được thực hiện từ tháng 9/2017 – 8/2020 với kinh phí thực hiện khoảng 60 triệu Yên do tổ chức JICA hỗ trợ. Nội dung hoạt động của dự án bao gồm: Việc vận hành và bảo dưỡng phải được thực hiện đúng quy trình tại nhà máy xử lý nước thải thí điểm; Lập kế hoạch xử lý bùn với mục đích xử lý bùn hình thành từ các công trình thoát nước; Các hoạt động nhằm giảm thiểu thiệt hại do úng ngập sẽ được tiến hành tại khu vực thí điểm; Tổ chức hội thảo với sự hợp tác từ các công ty thành viên của Hiệp hội doanh nghiệp ngành nước Yokohama đưa vào hoạt động theo quy định Cùng với đó, chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành chức năng, UBND quận, huyện, thị xã và đơn vị liên quan tiến hành kiểm tra việc khắc phục các vi phạm về phòng cháy chữa cháy (15 ngày/lần), lập biên bản; nêu rõ việc thực hiện những cam kết của chủ đầu tư hoàn thành đến đâu; ra thông báo tạm đình chỉ, đình chỉ khi cần thiết. Sau khi xử phạt, nếu chủ đầu tư không khắc phục, đề xuất chính quyền địa phương tổ chức cưỡng chế Lựa chọn, đề xuất từ 2 - 3 công trình vi phạm điển hình, báo cáo UBND thành phố chỉ đạo sở, ngành và đơn vị liên quan phối hợp kiểm tra và xử lý điểm theo quy định của pháp luật Tiếp tục tuyên truyền công khai cho nhân dân được biết về những công trình vi phạm quy định PCCC; khuyến cáo người dân không mua nhà tại các công trình không đảm bảo về PCCC; kiến nghị các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần có biện pháp không cho phép các chủ đầu tư bán nhà tại các công trình vi phạm về PCCC. 73Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ TIN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ HỘI THẢO GIỮA KỲ DỰ ÁN HỖ TRỢ KỸ THUẬT QUY HOẠCH ĐÔ THỊ XANH TẠI VIỆT NAM Ngày 17/8/2017, tại Hà Nội, Bộ Xây dựng phối hợp với Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) tại Việt Nam tổ chức hội thảo giữa kỳ Dự án hỗ trợ kỹ thuật quy hoạch đô thị xanh tại Việt Nam. Dự hội thảo có Thứ trưởng Bộ Xây dựng Phan Thị Mỹ Linh, Giám đốc Quốc gia KOICA tại Việt Nam Kim Jin Oh, lãnh đạo một số Sở Xây dựng và các chuyên gia trong lĩnh vực phát triển đô thị của Hàn Quốc và Việt Nam. Theo tài liệu hội thảo, Dự án Hỗ trợ kỹ thuật quy hoạch đô thị xanh tại Việt Nam (viết tắt là Dự án) do Chính phủ Hàn Quốc tài trợ được triển khai thực hiện theo Quyết định số 984/QĐ-TTg ngày 01/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án Quy hoạch đô thị xanh tại Việt Nam và Biên bản thỏa thuận đã ký kết giữa Bộ Xây dựng và KOICA. Hội thảo giữa kỳ Dự án hỗ trợ kỹ thuật quy hoạch đô thị xanh tại Việt Nam là dịp để các chuyên gia của Dự án báo cáo kết quả nghiên cứu thời gian qua, đồng thời xác định phương hướng triển khai trong giai đoạn tiếp theo. Đến nay, Dự án đã hoàn thiện bước đầu các nghiên cứu của 4 nhiệm vụ gồm: Xây dựng bộ chỉ tiêu đô thị xanh; thiết lập hệ thống GDSS; lập phương án quy hoạch thí điểm tại khu đô thị Yên Bình, tỉnh Thái Nguyên và thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang; xây dựng khung pháp lý về quy hoạch đô thị xanh. Bên cạnh đó, Dự án cũng đã tổ chức 2 đoàn tham quan khảo sát và học tập kinh nghiệm tại Hàn Quốc về quy hoạch và phát triển đô thị xanh và tổ chức Hội nghị tham vấn các chuyên gia vào ngày 20/6/2017 tại Thái Nguyên. Ông Kim Jin Oh - Giám đốc Quốc gia KOICA tại Việt Nam đánh giá: Việt Nam đang trong quá trình tăng trưởng nhanh chóng, dẫn đến áp lực ngày càng lớn đối với hạ tầng xã hội cũng như các vấn đề về ô nhiễm môi trường đô thị. Xuất phát từ thực tế đó, năm 2016, Chính phủ Hàn Quốc đã hỗ trợ không hoàn lại cho Việt Nam 6,5 triệu USD để nghiên cứu xây dựng Bộ chỉ số đô thị, trong đó có: Chỉ tiêu quy hoạch đô thị xanh; phát triển phần mềm hệ thống; đề xuất nhóm điều chỉnh quy hoạch đô thị xanh tại thành phố Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang), khu đô thị Yên Bình (tỉnh Thái Nguyên). Chính phủ Hàn Quốc, đặc biệt là KOICA tại Việt Nam sẽ tiếp tục hỗ trợ, hợp tác tích cực với Bộ Xây dựng để hoàn thành Dự án, nhằm đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển hiện đại, gắn liền với bảo vệ môi trường, sử dụng tài nguyên bền vững, hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính và có đủ khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu... Đến nay, các chuyên gia của Dự án đã cơ bản hoàn thành Bộ chỉ tiêu đô thị xanh và đang tiến hành tổng hợp ý kiến góp ý của các chuyên gia, các nhà quản lý để nhanh chóng hoàn thiện Bộ chỉ tiêu này. Thứ trưởng Phan Thị Mỹ Linh cho biết, các ý kiến trao đổi, thảo luận của các đại biểu tại hội thảo sẽ góp phần quan trọng để Bộ Xây dựng, KOICA tiếp tục chỉ đạo các chuyên gia của hai bên hoàn thiện kết quả nghiên cứu, đảm bảo có tính thực tiễn cao, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam và sẽ được áp dụng rộng rãi trong tương lai, hướng tới bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quy hoạch đô thị ở Việt Nam. 74 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ TIN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ PHÁT HIỆN HAI SIÊU TRÁI ĐẤT CÓ KHẢ NĂNG CHỨA SỰ SỐNG Các nhà khoa học tại Đại học Hertfordshire, Anh, phát hiện 4 hành tinh bay quanh Tau Ceti, ngôi sao giống Mặt Trời nằm gần Trái Đất nhất, cách chúng ta 12 năm ánh sáng, theo Sky News. Trong số những hành tinh mới này có hai “siêu Trái Đất” nằm ở vùng sinh sống được xung quanh ngôi sao, không quá nóng cũng không quá lạnh. Do đó, nước lỏng có thể tồn tại trên bề mặt của chúng. Kết quả nghiên cứu được công bố trên thư viện trực tuyến của Đại học Cornel, Mỹ, hôm 7/8. Nhóm nghiên cứu thực hiện khám phá của mình nhờ hiệu ứng rung lắc của ngôi sao Tau Ceti do quá trình tương tác hấp dẫn của nó với các hành tinh bay xung quanh. “Phát hiện của chúng tôi về sự rung lắc nhẹ của ngôi sao là cột mốc quan trọng trong việc tìm kiếm các hành tinh giống với Trái Đất”, Fabo Feng, thành viên chính của nhóm nghiên cứu, cho biết. Ngôi sao Tau Ceti có kích thước, độ sáng tương tự Mặt Trời và có nhiều hành tinh bay xung quanh. Các nhà khoa học hy vọng, hình ảnh trực tiếp của hai siêu Trái Đất nằm phía bên ngoài trong số 4 hành tinh mới phát hiện sẽ cho thấy chúng là hành tinh đá và sinh sống được. Nhưng nhóm nghiên cứu thừa nhận rằng, một đĩa lớn chứa vô số mảnh thiên thạch bay xung quanh ngôi sao có thể bắn phá các hành tinh bằng sao chổi và tiểu hành tinh, làm giảm khả năng sinh sống trên chúng. “Chúng tôi đang dần học cách nhận biết sự khác biệt giữa hiện tượng rung lắc của ngôi sao gây ra bởi các hành tinh và do hoạt động bề mặt của nó. Điều này cho phép chúng tôi xác định sự tồn tại của hai hành tinh nằm phía bên ngoài, có thể sinh sống được, trong hệ thống sao Tau Ceti”, Mikko Tuomi, thành viên của nhóm nghiên cứu, cho biết. Theo VnExpress.net Ngôi sao Tau Ceti và các hành tinh của nó khi so sánh với hệ Mặt Trời SẢN LƯỢNG THAN TOÀN CẦU GIẢM 6.2% - SỰ SỤT GIẢM LỚN NHẤT TRONG LỊCH SỬ Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump có thể tin rằng than là năng lượng tương lai, nhưng các số liệu mới được công bố bởi Tập đoàn năng lượng toàn cầu BP, sản lượng than toàn cầu đã giảm với con số đáng kinh ngạc là 6.2% so với năm ngoái - mức giảm lớn nhất hàng năm. Ngoài ra, sự tiêu thụ cũng giảm trong năm thứ hai liên tiếp xuống còn 1,7%. Với kết quả này, không có gì ngạc nhiên khi nói rằng các nguồn năng lượng tái tạo là phát triển nhanh nhất, tăng trưởng 12%. Bob Dudley, Tổng Giám đốc Tập đoàn BP, cho biết: “Thị trường năng lượng toàn cầu đang trong quá trình dịch chuyển. Về mặt dài hạn nhu cầu về năng lượng sạch, giảm phát thải carbon đang tăng cao. Mặc dù có sự phản đối của các nhà lãnh đạo đối với đầu tư năng lượng tái tạo, rõ ràng là tương lai sẽ xanh hơn và người tiêu dùng sẽ tiếp tục đầu tư vào các nguồn năng lượng có lợi cho môi trường, động vật hoang dã và các thế hệ tương lai. 75Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ TIN QUỐC TẾ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CÓ THỂ LÀM THAY ĐỔI MÔI TRƯỜNG TRONG 100 NĂM NHƯ THẾ NÀO Giám đốc Viện Nghiên cứu Vũ trụ Goddard của NASA Gavin Schmidt đã phát biểu với trang Business Insider rằng chúng ta không thể ngăn chặn sự nóng lên toàn cầu. Vì nó đang trong quá trình chuyển động ngay cả khi ta hạn chế lượng khí thải carbon vào ngày mai. Nhưng chúng ta có thể làm chậm quá trình biến đổi khí hậu để có thể thích nghi tốt hơn với thế giới đang thay đổi của chúng ta. Chúng ta sẽ thấy nhiệt độ diễn ra bất thường nhiều hơn. Mùa hè ở Greenland có thể hoàn toàn không có băng vào năm 2050. Mùa hè nhiệt đới có thể có thêm 50% những ngày nắng nóng vào năm 2050. Các nhà khoa học dự báo nguồn nước sẽ bị ảnh hưởng, hạn hán trầm trọng sẽ xảy ra thường xuyên hơn. Mực nước biển dâng cũng có thể thay đổi cuộc sống trên bờ biển của nhiều quốc gia, và sự sụp đổ bất ngờ của các núi băng có thể gây lên sự thay đổi mực nước biển. Các đại dương có thể tăng từ hai đến ba feet vào năm 2100. Trong khi đó, đại dương sẽ ấm dần lên khi chúng bị hấp thụ carbon dioxide và dẫn đến hiện tượng axit hóa làm đe doạ các rặng san hô ngầm – gần như tất cả các rặng san hô nhiệt đới đều có thể bị tổn hại. Một nửa trong số các rặng san hô nhiệt đới vẫn đang bị đe dọa trong kịch bản trường hợp tốt nhất. Schmidt cho biết Trái Đất năm 2100 có thể là “ấm hơn một chút hoặc có thể ấm hơn rất nhiều so với ngày hôm nay”. Giờ đây chúng ta có cơ hội để kiềm chế khí thải và làm chậm sự biến đổi khí hậu bằng các giải pháp như năng lượng tái tạo hoặc công nghệ thu hồi carbon. Chúng ta chỉ cần hành động Theo Business Insider ANH CẤM CÁC LOẠI ĐỘNG CƠ DIESEL VÀ XĂNG DẦU MỚI VÀO NĂM 2040 Nước Anh vừa công bố kế hoạch cấm bán dầu diesel mới và xe chạy bằng xăng vào năm 2040. Kế hoạch này cũng tương tự như ở Pháp. Chính phủ sẽ đầu tư 1 tỷ bảng cho việc quảng bá xe ô tô có lượng khí thải thấp và 100 triệu bảng dành cho việc tăng phí cơ sở hạ tầng dành cho xe điện. Chính phủ sẽ đầu tư quỹ cho cơ sở hạ tầng của xe buýt thân thiện môi trường, xe đạp, người đi bộ, và xe taxi phát thải thấp. 76 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ TIN QUỐC TẾ Nitrogent oxide đang gây ra ô nhiễm không khí ở Anh. Đầu năm nay, chỉ trong 5 ngày thành phố London đã phá vỡ giới hạn ô nhiễm không khí hàng năm của mình - và Cơ quan môi trường toàn cầu Greenpeace cho biết động cơ diesel là nguyên nhân gây ô nhiễm không khí lớn nhất trong thành phố. Hiện tại, nước này đang cam kết cấm bán những chiếc ô tô gây ô nhiễm như là một phần của kế hoạch làm sạch không khí của họ. Thậm chí những chiếc xe hybrid tiết kiệm năng lượng cũng không ngoại lệ. Chính phủ đã cố gắng để tránh các khoản thuế đối với ô tô gây ô nhiễm, mặc dù họ đã được khuyến khích đưa ra các khoản phí cho xe hơi vào các khu vực không khí sạch. Họ muốn các loại thuế là phương án cuối cùng, và một người phát ngôn chính phủ đã chỉ ra một chương trình khoảng 3.9 tỷ đô la để làm sạch không khí bẩn ở gần các tuyến đường trong đó sẽ cung cấp ngân sách để thúc đẩy các nỗ lực của địa phương, ví dụ như trang bị thêm phương tiện giao thông công cộng, lập trình lại đèn tín hiệu giao thông và thay đổi các tính năng đường như tốc độ quạt và vòng xoay. THỤY SỸ MỞ CỬA CÂY CẦU ĐI BỘ DÀI NHẤT THẾ GIỚI TRÊN DÃY NÚI ALPINE Cây cầu treo dành cho người đi bộ dài nhất thế giới đã được hoàn thành ở Thụy Sỹ, cầu có độ dài gần 500m, độ cao 91m trên khe núi Alpine. Cầu treo Charles Kuonen là một phần của tuyến đường mòn Europaweg kéo dài 2 ngày kết nối các thị trấn Grächen và Zermatt. Cây cầu đi bộ đặc biệt này không dành cho những người sợ độ cao. Cây cầu mới này được xây dựng để thay thế một cây cầu cũ lâu năm bị phá hủy bởi đá rơi. Cây cầu được đặt tên theo nhà tâm lý học Charon Kuonen – nhà tài trợ chính của dự án. CNN cho biết cây cầu được làm bằng vật liệu thép nhưng chỉ rộng 60cm nên khách tham quan phải đi hàng một khi di chuyển trên cầu. Trên bề mặt cầu đi bộ có những rãnh hở nên khách bộ hành có thể nhìn xuống dưới và ngắm khe núi Grabengufer trên đường đi. Cây cầu được mở cửa vào cuối tháng 7 vừa qua và là nơi đặc biệt dành cho những người đi bộ không sợ độ cao. Mặc dù, đi trên cầu đi bộ cao nhất thế giới có thể là thử thách đối với rất nhiều người nhưng cảnh quan tuyệt đẹp của những ngọn núi hùng vĩ như Weisshorn, Matterhorn và Bernese Alps sẽ là một trải nghiệm lí thú cho tất cả mọi người. Cầu đi bộ còn giúp tiết kiệm thời gian nhiều hơn vì nếu phải di chuyển qua thung lũng phải mất 3-4 giờ, trong khi đó bạn chỉ mất 10 phút trên cầu đi bộ. Theo Inhabitat TRUNG QUỐC TẠO VŨ TRỤ ẢO LỚN NHẤT THẾ GIỚI BẰNG SIÊU MÁY TÍNH Các nhà khoa học Trung Quốc tạo ra vũ trụ ảo lớn nhất trên Sunway TaihuLight, máy tính có tốc độ tính toán nhanh nhất thế giới tại Trung tâm Siêu máy tính Quốc gia, South China Morning Post cuối tháng 7 đưa tin. Quốc gia này hy vọng ba năm nữa sẽ dẫn đầu trong việc công bố những phát hiện mới về quá trình hình thành vũ trụ. Sự phát triển thế hệ tiếp theo của siêu máy tính cho phép các nhà nghiên cứu kết hợp với phương tiện công nghệ tiên tiến, chẳng hạn như kính thiên văn vô tuyến lớn nhất thế giới, để mở khóa bí mật vũ trụ. Gao Liang, trưởng nhóm nghiên cứu vũ trụ tại Đài quan sát Thiên văn Quốc gia, Trung Quốc, nói rằng họ mô phỏng sự ra đời và mở rộng của vũ trụ bằng cách sử dụng 10 nghìn tỷ hạt kỹ thuật số. Quy mô dự án này lớn gấp 5 lần so với kỷ lục trước đó của Đại học Zurich, Thụy Sĩ, thực hiện vào cuối tháng trước. Các nhà khoa học mô phỏng vũ trụ bằng 77Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ TIN QUỐC TẾ cách chia nhỏ nó thành vô số hạt nhỏ. Chúng tương tác với nhau bằng các lực vật lý như lực hấp dẫn. Càng nhiều hạt được đưa vào, nhóm nghiên cứu càng tính toán chính xác sự hình thành và tiến hóa của vũ trụ. Quá trình này có thể làm sáng tỏ nhiều vấn đề như bản chất và sự lan truyền của năng lượng tối. Trong khi các nhà khoa học châu Âu có thể duy trì vũ trụ giả lập trong 80 giờ, nhóm nghiên cứu tại Trung Quốc chỉ mô phỏng vũ trụ trong hơn 1 giờ. “Có rất nhiều phép tính được thực hiện cùng lúc, chắc hẳn siêu máy tính cũng rất mệt”, Gao nói. Gao cho biết, siêu máy tính Sunway TaihuLight sử dụng tất cả 10 triệu lõi CPU, mỗi lõi chạy nhiều câu lệnh khác nhau để tăng tốc độ tính toán. Kết quả mô phỏng vũ trụ được đăng tải trên Science and Technology Daily, tờ báo chính thức của Bộ Khoa học và Công nghệ Trung Quốc, hôm 26/7. “Đây chỉ là một bài tập khởi động. Chúng tôi vẫn còn một chặng đường dài phía trước để đạt được mục đích của mình”, Gao nói. Theo Vnexpress.net PHÍA NAM NƯỚC ÚC CHUẨN BỊ XÂY DỰNG NHÀ MÁY NHIỆT ĐIỆN MẶT TRỜI ĐƠN TẦNG LỚN NHẤT THẾ GIỚI Nam Úc đang lại một lần nữa gây tiếng vang lớn vào tháng trước khi Chính phủ nước này đã ký hợp đồng với hãng Tesla để xây dựng nhà máy lưu trữ pin lithium-ion lớn nhất thế giới. Nay, Chính phủ nước này lại công bố kế hoạch xây dựng nhà máy nhiệt điện mặt trời lớn nhất thế giới bên ngoài thành phố Port Augusta có tên là dự án năng lượng mặt trời Aurora 150 megawatt. Nhà máy này có trị giá 650 triệu đô la Úc (512 triệu USD) sẽ bắt đầu được khởi công vào năm 2018 và dự định được hoàn thành vào năm 2020 - cung cấp 100% nhu cầu về năng lượng của Chính phủ. Dự án sẽ đem lại hơn 700 việc làm cho người dân ở địa phương. Hợp đồng 20 năm để xây dựng và quản lý nhà máy Aurora đã được trao cho Công ty SolarReserve có trụ sở tại California. Nhà máy năng lượng mặt trời Aurora lần đầu tiên sử dụng công nghệ muối nóng chảy để lưu trữ năng lượng làm nhiệt - cho phép hoạt động cả ngày và đêm. Thượng nghị sĩ Úc Nick Xenophon cho biết: “Điều này sẽ tạo ra sự khác biệt trong thị trường năng lượng Nam Úc. “Nó sẽ đảm bảo lưới điện, điện cơ bản hơn điện năng không liên tục.” Theo Inhabitat 78 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ TIN QUỐC TẾ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH KẾT CẤU THEO TUẦN TỰ THI CÔNG Phân tích kết cấu theo cách truyền thống thực hiện trên hệ kết cấu được mô phỏng hoàn chỉnh (kết cấu trong giai đoạn khai thác sử dụng). Quá trình phân tích được thực hiện khi tải trọng tác dụng lên hệ kết cấu hoàn chỉnh Hình 1: Sơ đồ tính khi phân tích cả hệ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH KẾT CẤU BÊ TÔNG CỐT THÉP NHÀ CAO TẦNG THEO TUẦN TỰ THI CÔNG Tóm tắt: Phương pháp phân tích kết cấu theo giai đoạn thi công hạn chế được các sai sót của việc phân tích cả hệ kết cấu hoàn chỉnh. Bài báo này xem xét các thông số dùng cho phương pháp phân tích và đánh giá tính hiệu quả của phương pháp phân tích kết cấu theo giai đoạn thi công cho nhà cao tầng bê tông cốt thép. Từ khóa: Phân tích, thi công, dọc trục, kết cấu, bê tông, cốt thép, nhà cao tầng. Summary: The method of analyzing structure to the construction phases can minimize the shortcomings of the method of analyzing the complete structure system. This article reviews the parameters used for the analysis and evaluate the effectiveness of the structural analysis method to the construction phases for the reinforced concrete buildings. Key words: Analyze, construction, vertical axis, structure, concrete, reinforced, high-rise buildings Khác biệt phương pháp trên, phân tích từng tầng theo tuần tự thi công (Hình 2) thực hiện theo các bước sau: Hình 2: Phân tích tĩnh phi tuyến theo tuần tự thi công ở mỗi tầng Nội lực, biến dạng do co ngót, từ biến, trọng lượng kết cấu và ứng xử phi tuyến đối với tầng 1 được tính toán => Lập sơ đồ tầng 2 phía trên tầng 1 => Tải trọng ấn định trên tầng 2 => Các ứng xử của sơ đồ mới được tính toán => Tiếp tục quá trình cho các tầng trên, kết quả phân tích có xét đến tuần tự thi công. Phương pháp phân tích theo tuần tự thi công đã được tích hợp trong các phần mềm phân tích kết cấu, với tên gọi Stage construction (SAP), Sequential construction analysis (ETABS), được dịch là “phân tích theo giai đoạn thi công”. Thuật ngữ “giai đoạn thi công” có thể gây hiểu sai theo nghĩa đây là TS.Vũ Hoàng Hiệp* Nhận ngày 02/8/2017, chỉnh sửa ngày 27/8/2017, chấp nhận đăng ngày 30/8/2017. 79Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG * Trưởng khoa Xây dựng, Trường ĐH Kiến trúc Hà Nội công tác thiết kế kết cấu ở giai đoạn thi công. Về bản chất, từ lúc xây dựng, các cấu kiện đã bị tác động và có những ứng xử, đã được điều chỉnh bằng biện pháp thi công, gây ảnh hưởng đến sự làm việc của kết cấu khi đã hoàn chỉnh ở “giai đoạn sử dụng”. Như thế, kết cấu khi khai thác, sử dụng mới được xem xét toàn diện. Trong Hình 2, quá trình gán thêm các tầng phía trên, biến dạng dọc trục chênh lệch giữa các cột tầng dưới (gọi là hiện tượng shortening) đã được đổ bù bê tông, để đảm bảo dầm sàn tầng trên bằng phẳng cùng cao độ. Điều này đã mô phỏng đúng thực tế quá trình thi công kết cấu bê tông cốt thép toàn khối. Để minh họa bản chất của phương pháp, kết cấu khung 15 tầng, 2 nhịp điển hình được khảo sát theo 2 cách phân tích. Chiều cao tầng 3,4m. Nhịp dầm 6m. Cột biên có kích thước tiết diện 50x50cm, cột giữa tiết diện 50x120cm, dầm tiết diện 30x60cm. Vật liệu bê tông cấp độ bền B30. Kết quả chênh lệch chuyển vị đứng cột biên và giữa phân bổ rất khác biệt như Hình 3: a) Phân tích trên kết cấu hoàn chỉnh b) Phân tích theo tuần tự thi công Hình 3: So sánh chênh lệch cao độ cột biên và cột giữa theo 2 cách phân tích HIỆN TƯỢNG BIẾN DẠNG DỌC TRỤC CÁC CẤU KIỆN THẲNG ĐỨNG CHÊNH LỆCH TRONG NHÀ CAO TẦNG Trong hệ kết cấu bê tông cốt thép (BTCT), do tác động kết hợp của biến dạng co ngót, từ biến và ứng suất nén gây nên biến dạng dọc trục trong các cột, vách, lõi. Ở các nhà cao tầng, các cột bao quanh thường có khuynh hướng co ngắn nhiều hơn so với vách và lõi bên trong (hiện tượng shortening), dẫn đến sự chênh lệch đáng kể về biến dạng dọc trục, gây nên sự phân phối lại nội lực rất bất lợi, như Hình 4: Hình 4: Mô tả hệ quả của hiệu ứng shortening [2] Lực dọc trong các cột, vách sẽ được phân phối lại. Mô men trong các dầm tập trung rất lớn tại đầu liên kết với cấu kiện đứng ít bị co ngắn hơn, mô men đầu dầm còn lại thậm chí còn đổi dấu. Điều này dẫn đến phải bố trí cốt thép tập trung, không phân đều, thi công khó khăn và quan trọng hơn, liệu kết quả nội lực đó có phản ánh đúng thực tế hay không. Trong thực tế thi công, tải trọng bản thân của kết cấu và khối xây đã được chất từng bước theo thời gian. Việc thi công tuần tự các tầng đã triệt tiêu một phần chênh lệch chuyển vị cộng dồn do đổ bê tông đã bù cột, hiệu chỉnh cao độ thống nhất tại mỗi sàn. Vì vậy, hệ quả của shortening không lớn như trong tính toán hệ kết cấu hoàn chỉnh. Việc tính toán hệ kết cấu không xét đến sự triệt tiêu của hiệu ứng shortening theo giai đoạn thi công dẫn đến một sự sai lệch về kết quả [2]. Kết quả so sánh chuyển vị đứng của cột biên và cột giữa trên Hình 3 cho thấy, việc phân tích kết cấu theo tuần tự thi công đã thay đổi trị số cũng như phân bố độ chênh lệch chuyển vị của cấu kiện đứng, rõ nhất là tại tầng mái. Đã có nhiều nghiên cứu nêu rõ các nguyên nhân gây biến dạng dọc trục cột BTCT là: Biến dạng co ngót, từ biến của bê tông, tác động nhiệt, các tải trọng thi công, tải rung động, biến dạng đàn hồi do lực dọc cột [1] [3][4][6]. Những kết luận biến dạng dọc trục khác biệt giữa các cột và vách trong cùng một công trình dẫn đến phân bố nội lực rất không đồng đều trong kết cấu toàn nhà, bỏ qua sự co ngắn khác nhau của cột, vách có thể dẫn đến sự cố trong kết cấu và các bộ phận phi kết cấu của tòa nhà đã được đưa ra [3][4][8]. Đặc biệt là đưa ra các đánh giá về sự cần thiết và hiệu quả của phương pháp phân tích kết cấu theo tuần tự thi công (giai đoạn thi công) trong các công trình cao tầng [2][3][6][9]. Tuy nhiên, ngoại trừ một số công trình siêu cao tầng, công trình cầu nhịp lớn, việc sử dụng phương pháp phân tích kết cấu theo tuần tự thi công không phổ biến trong thực tế thiết kế công trình cao tầng ở Việt Nam, dù số lượng các công trình cao 30 đến 45 tầng không hiếm. Lý do có thể xuất phát từ tâm lý ngại thay đổi của người thiết kế, do số lượng các 80 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG phương án tải khá lớn, một số thông số đầu vào cho phân tích chưa thực sự dễ dàng nắm bắt để lựa chọn. Các nội dung sau của bài báo sẽ đề cập, phân tích và đề xuất về các thông số sử dụng cho phương pháp phân tích này, so sánh các kết quả nội lực giữa phương pháp phân tích theo tuần tự thi công và chỉ phân tích trên cả hệ kết cấu hoàn chỉnh. Đối tượng nghiên cứu là kết cấu BTCT toàn khối trong nhà cao tầng. LỰA CHỌN CÁC THÔNG SỐ DÙNG CHO PHÂN TÍCH KẾT CẤU Tải trọng đưa vào phân tích Theo bản chất phương pháp phân tích kết cấu trình bày ở mục 2, không phải tất cả các loại tải trọng và tác động vào công trình đều được đưa vào phương pháp phân tích theo tuần tự thi công. Các tải trọng tạm thời như hoạt tải sử dụng, gió, động đất gán tác dụng lên hệ kết cấu đã hoàn chỉnh, phân tích theo các phương pháp truyền thống. Thành phần tĩnh tải có ảnh hưởng trực tiếp đến biến dạng co ngắn các cấu kiện thẳng đứng trong quá trình xây dựng, mới đưa vào phân tích theo phương pháp tuần tự thi công. Cụ thể chỉ có phần trọng lượng bản thân kết cấu (dầm, sàn, cột, vách, lõi) và những phần hoàn thiện song song với thi công kết cấu (xây tường chèn), được phân tích theo tuần tự thi công, còn các tĩnh tải hoàn thiện khi kết cấu thi công xong được phân tích trên hệ đã hoàn chỉnh. Các số liệu phân loại tĩnh tải được thực hiện trên 2 dạng công trình cao tầng điển hình cho thấy: Với công trình văn phòng, tổng trọng lượng bản thân kết cấu chiếm 75÷80% tĩnh tải, phần hoàn thiện chiếm 20÷25% tĩnh tải toàn công trình; Với công trình chung cư, tổng trọng lượng bản thân kết cấu chiếm 55÷60% tĩnh tải, phần hoàn thiện chiếm 40÷45% tĩnh tải toàn công trình. Tiến độ thi công Thông số này trong phương pháp phân tích theo tuần tự thi công là số ngày thi công kết cấu chịu lực BTCT của 1 tầng. Với các số liệu tiến độ trung bình 7÷10 ngày/tầng, thay đổi thông số trong khoảng này không làm chuyển vị chênh lệch giữa các cột - vách nhiều, chỉ 5÷7%. Hệ số co ngót Các hệ số co ngót Bsc và hệ số loại xi măng s xét ảnh hưởng biến dạng co ngót của bê tông trong phương pháp phân tích theo tuần tự thi công bằng phần mềm ETABS 2015. Theo tiêu chuẩn TCVN 5439-2004 về phân loại xi măng và đối chiếu tiêu chuẩn CEB-FIP 1990, các loại xi măng sử dụng phổ biến ở Việt Nam hiện nay thuộc loại tốc độ đóng rắn trung bình, có thể lấy thông số Bsc=5 và s=0,25. Mô hình từ biến ETABS 2015 dùng 2 mô hình từ biến dùng trong phân tích là tích phân đầy đủ (Full integration) và chuỗi Dirichlet ( Dirichlet series). Chuỗi Dirichlet được kiến nghị áp dụng thích hợp khi tính toán các kết cấu kích thước lớn, còn mô hình tích phân đầy đủ được khuyên dùng cho các công trình có kết cấu vừa và nhỏ. Thông số mô đun đàn hồi của bê tông Phương pháp phân tích kết cấu theo tuần tự thi công thực hiện quá trình phân tích ngay từ thời điểm xây dựng, do vậy trị số mô đun đàn hồi của bê tông cũng được xác định tại thời điểm này, không phải trị số giả định lúc khai thác, sử dụng. Quan hệ mô đun đàn hồi Quan hệ mô đun đàn hồi tại tuổi t ngày với mô đun đàn hồi tại 28 ngày Eci theo CEB-FIP 1990: (1) trong đó: : hệ số phụ thuộc thời gian, (2) s: hệ số phụ thuộc loại xi măng, khai báo theo mục 3.3 nêu trên. t: đơn vị ngày MỘT SỐ KẾT QUẢ PHÂN TÍCH KẾT CẤU BTCT NHÀ CAO TẦNG THEO TUẦN TỰ THI CÔNG Mô hình kết cấu 1 Khảo sát kết cấu khung trục 2 của công trình 16 tầng, mặt bằng như Hình 5: Hình 5: Mặt bằng kết cấu công trình 16 tầng Tiến hành 2 phương pháp phân tích kết cấu chịu tác dụng tĩnh tải: Phân tích trên cả hệ kết cấu hoàn chỉnh (PTHC) và theo tuần tự thi công (PTTTTC). Tiết diện cột được chọn theo 2 cách: Chọn tiết diện sát tính toán sơ bộ nội lực 81Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG (Acột.tt) và chọn nhóm tiết diện cột như nhau cho dễ thi công (Acột.tc). Kết quả thu được mô men tiết diện ở cuối dầm tầng mái như Bảng 1: Bảng 1: Mô men đầu dầm do tĩnh tải công trình 16 tầng Kết quả trên cho thấy, tuy công trình có số tầng không lớn, nhưng nếu ứng suất nén trong các cột chênh lệch nhiều (do chọn tiết diện cột không sát nội lực) thì ảnh hưởng của shortening đáng kể và cần thiết phải phân tích kết cấu theo phương pháp tuần tự thi công. Mô hình kết cấu 2 Khảo sát kết cấu trục 2 của công trình 25 tầng có mặt bằng như Hình 6: Hình 6: Mặt bằng kết cấu công trình 25 tầng So sánh kết quả mômen trong dầm do tĩnh tải theo 2 phương pháp phân tích: Phân tích trên cả hệ kết cấu hoàn chỉnh (PTHC) và kết hợp 2 phương pháp (PTKH). Khi kết hợp 2 phương pháp phân tích, phần tĩnh tải do trọng lượng bản thân kết cấu theo tuần tự thi công, phần tĩnh tải hoàn thiện phân tích trên hệ đã hoàn chỉnh. Cuối cùng là so sánh kết quả tổ hợp mômen trong dầm do tĩnh tải và các hoạt tải, gió, động đất: Phân tích trên cả hệ kết cấu hoàn chỉnh (PTHC) và kết hợp 2 phương pháp (PTKH). So sánh trình bày trong Bảng 2: Bảng 2: Mômen đầu dầm do tĩnh tải và tổ hợp nội lực Kết quả cho thấy, kết cấu khung - lõi luôn có chênh lệch chuyển vị đứng giữa cột và lõi lớn, ảnh hưởng shortening rõ nét, thậm chí có những vùng kết quả mômen đầu dầm còn đổi cả dấu nếu phân tích kết cấu theo 2 phương pháp. Tuy nhiên không nên nhìn nhận độc lập chỉ phân tích với tải trọng tĩnh, về tổng thể kết quả tổ hợp cuối cùng, nội lực của hệ kết cấu sẽ chênh lệch ít hơn khi áp dụng phương pháp phân tích theo tuần tự thi công vào thiết kế. Ảnh hưởng chênh co ngắn các cấu kiện thẳng đứng của kết cấu nhà cao tầng BTCT là đáng kể tới nội lực và biến dạng của cả hệ. Việc áp dụng phương pháp phân tích kết cấu theo tuần tự thi công sẽ hạn chế được các sai lệch kết quả nội lực so với phân tích cả hệ kết cấu hoàn chỉnh. Các thông số phục vụ phân tích kết cấu theo tuần tự thi công đã được chỉ rõ cho áp dụng thực tế. Để giảm ảnh hưởng của hiện tượng chênh lệch biến dạng dọc trục, cần lựa chọn tiết diện các cấu kiện phù hợp nhất với nội lực thu được từ tính toán sơ bộ. Tài liệu tham khảo [1]. Cao Duy Khôi, Đánh giá hiệu ứng co ngắn cột qua kết quả đo đạc tại một số công trình nhà siêu cao tầng bê tông cốt thép, Hội nghị khoa học Vật liệu, Kết cấu & Công nghệ Xây dựng MSC-2012, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, trang 274-282. 2012. [2]. Hồ Việt Hùng, Shortening - Nguyên nhân, mâu thuẫn và phương pháp hạn chế sai sót, Ketcaushoft Group. Hà Nội. 2001. [3]. The Concrete Society, Axial shortening of columns, Concrete Society Technical Report, New York. 2008 [4]. Mallick P.K., Axial deformation of column in tall structures, E-Conference on Design and Construction of Tall Buildings, Structural Engineering Forum of India. 2012. [5]. Mark Fintel, S.K. Ghosh, Hal Iyengar, Column Shortening in tall strucutures - Prediction and Compensation , Technical Report, New York. 2012. [6]. Mola F., Pellegrini L.M., Effects of column shortening in tall R.C. buildings, 35th Conference on Our World in Concrete & Structures, Singapore. 2010. [7]. Nilson A.H., D.Darwin, C.W.Dolan, Design of concrete structures, Mc Graw Hill, New York. 2010. [8]. Praveen HN Moragaspitiya, Interactive axial shortening of columns and walls in high rise buildings, Doctoral papers presented in April, 2011, Queensland University of Technology. 2011. [9]. Vafai A. Ghabdian M, Estekanchi H.E, Desai C.S. (), Calculation of creep and shrinkage in tall Concrete buildings using nonlinear staged Construction analysis, Asian Journal of Civil Engineering (Building and Housing), Vol.10, No.4. 2009. Lựa chọn tiết diện cột Acột.tt Acột.tc Chênh lệch (%) 7,55 33,24 Vị trí tiết diện cuối cuối Mômen dầm theo phương pháp phân tích (kNm) PTHC -217,39 -144,12 PTTTTC -200,97 -192,03 Dầm B1 B1 Tầng 16 16 Tải trọng Tĩnh tải Tổ hợp Chênh lệch (%) 28,57 21,16 Vị trí tiết diện cuối cuối Mômen dầm theo phương pháp phân tích (kNm) PTHC -474,11 -661,46 PTKH -338,62 -521,52 Dầm B4 B4 Tầng 25 25 82 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG * ĐH Kiến Trúc Hà Nội TS. Nghiêm Vân Khanh* NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT PHƯƠNG ÁN PHÂN LOẠI TẠI NGUỒN VÀ CẢI THIỆN HOẠT ĐỘNG THU HỒI TÁI CHẾ CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT ĐẾN NĂM 2030 (Khảo sát tại tỉnh Quảng Ninh) 83Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG Tại Quảng Ninh, chất thải rắn được quản lý theo cách tiếp cận “Quản lý tổng hợp chất thải rắn”, ưu tiên theo thứ tự: Phòng ngừa, giảm thiểu, tái sử dụng, thu hồi vật liệu, thu hồi năng lượng trước khi đến bước xử lý cuối là chôn lấp hợp vệ sinh. Đến năm 2030, để giảm bớt khối lượng chất thải rắn phải chôn lấp nhằm kéo dài tuổi thọ của khu xử lý, tăng cường tỷ lệ tái chế Tóm tắt: Việc phân loại chất thải rắn tại nguồn là một việc làm có ý nghĩa rất lớn, mục đích cơ bản là tách chất thải hữu cơ, tách thành phần nguy hại, phần còn lại đưa đi chôn lấp. Chất thải hữu cơ có thành phần chủ yếu là các chất dễ phân hủy và là những chất có độ ẩm cao, tạo lượng nước rác lớn cùng với mùi hôi gây ô nhiễm môi trường, chúng có thể xử lý làm phân bón hoặc đốt thu hồi năng lượng, nên không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn giải quyết nhiều vấn đề về môi trường. Bài báo đề xuất các nguyên tắc, lộ trình phân loại chất thải rắn sinh hoạt đô thị và phương án cải thiện hoạt động thu hồi, tái chế chất thải rắn sinh hoạt nhằm giúp cho tỉnh Quảng Ninh có thể đạt được các mục tiêu theo quy hoạch quản lý chất thải rắn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 của tỉnh đã đặt ra. Từ khóa: Chất thải rắn sinh hoạt, phân loại tại nguồn, thu hồi, tái chế. Summary: The classification of solid waste at the source is of great significance. Its fundamental aims are to separate organic waste, hazardous elements, the rest is dumped. Organic waste has a major component of biodegradable substances and is a high humidity substance that produces large quantities of garbage water and bad odors polluting the environment, which can be treated to be fertilizers or can be heated to collect energy. This is not only economically meaningful but also solves environmental problems. The article proposes principles, routes to classify urban domestic solid waste and solutions to improve the activities of collecting, recycling domestic waste so as to help Quang Ninh province to achieve its aims of planning the solid waste management up to the year 2030, vision 2050. Key words: Domestic solid waste, classify at source, collect, recycle Nhận ngày 10/7/2017, chỉnh sửa ngày 20/7/2017, chấp nhận đăng ngày 27/7/2017 và sản xuất phân hữu cơ, đốt thu hồi năng lượng, chất thải rắn sinh hoạt cần được thực hiện phân loại tại nguồn theo 2 giai đoạn, giai đoạn 1 từ 2017 đến 2020 và giai đoạn 2 từ 2020 đến 2030. Đây là một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý chất thải rắn. Dưới đây là các nguyên tắc, lộ trình cần xây dựng kế hoạch để tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn người dân về phân loại chất thải rắn ngay tại nguồn phát sinh cũng như các phương án cần xem xét để cải thiện tốt hơn hiệu quả của hoạt động thu hồi, tái chế chất thải rắn trên địa bàn tỉnh. NGUYÊN TẮC PHÂN LOẠI TẠI NGUỒN Chất thải rắn sinh hoạt cần được phân loại tại nguồn thành 3 loại sau: - Chất thải hữu cơ: Các loại rau, củ quả, trái cây, thức ăn thừa... đựng bằng túi nylon màu xanh, thể tích túi trên 10 lít (chứa từ 3,5 - 4kg). Các loại chất thải này sẽ được chuyển tới nhà máy chế biến phân hữu cơ. - Chất thải có thể tái chế: Giấy, nhựa, kim loại, thuỷ tinh... sử dụng túi nylon màu tối. Sau khi qua phân tách cụ thể tại điểm trung chuyển, chất thải tái chế từng loại sẽ được tiếp tục chuyển tới các cơ sở tái chế. - Chất thải khác: Không còn khả năng tái chế, tái sử dụng bao gồm cao su, xỉ than, đất đá, sành sứ vỡ. Để lưu giữ chất thải này sẽ vận động nhân dân dùng chính các túi nylon phế thải hoặc các đồ chứa có sẵn trong dân. Những thành phần này sẽ được xử lý bằng biện pháp chôn lấp hợp vệ sinh. Việc phân loại tại nguồn được thực hiện thông qua các thiết bị thu gom phân loại tại nguồn với sự phối hợp chặt chẽ của cộng đồng dân cư, các doanh nghiệp và đơn vị thu gom chất thải rắn. Phương thức thu gom chung đối với chất thải rắn đô thị áp dụng như sau: Chất thải rắn sinh hoạt từ hộ gia đình: Trong mỗi gia đình có hai thùng đựng rác, một loại đựng rác thải hữu cơ (hoa, rau, quả, thức ăn thừa, bã chè, cà phê, lá cây, cây thân cỏ) và một loại đựng rác thải vô cơ (xương, cành cây, vỏ sò, hến, sành sứ, vải, than tổ ong, mẩu thuốc lá, tã bỉm). Thùng đựng rác phải có nắp đậy kín, đảm bảo vệ sinh mỹ quan. Mỗi gia đình có thế sử dụng túi lót bên trong thùng đựng rác, là loại túi đựng rác không thu hồi (túi được làm bằng giấy hoặc bằng chất dẻo), kích thước màu sắc của túi được tiêu chuẩn hóa để tránh sử dụng túi vào mục đích khác, túi màu xanh đựng chất thải hữu cơ, túi màu vàng đựng chất thải vô cơ. Hệ thống lưu chứa, thu gom chung cho các khu dân cư được quy hoạch ở những nơi thuận tiện trên toàn bộ khu vực có dịch vụ thu gom, các loại thùng lưu chứa rác thải có bánh xe được đặt cố định tại các vị trí quy hoạch. Tại vị trí cố định thu gom rác sẽ được đặt hai thùng rác màu sắc khác nhau, thùng rác màu xanh đựng rác thải hữu cơ, thùng rác màu vàng đựng rác thải vô cơ. Do các thùng này được đặt tại các vị trí cố định nên các hộ gia đình có thể đổ rác thải vào bất kỳ thời gian nào trong ngày. Chất thải rắn sinh hoạt của các cơ quan, trường học, cơ sở dịch vụ: Tuỳ theo tính chất các cơ quan, trường học, cơ sở dịch vụ và khối lượng rác tích luỹ hàng ngày mà chọn thời gian thu gom và thùng chứa thích hợp. Đối với nhà hàng, khách sạn lớn, khối lượng rác nhiều có thể đặt cả xe đẩy để đổ rác trực tiếp vào đó, sau 1 ngày rác đầy sẽ đổi xe. Chất thải rắn sinh hoạt của các khu vực công cộng như chợ, đường phố, công viên, các khu vui chơi giải trí: Rác thường chiếm một tỷ trọng khá lớn và gặp nhiều khó khăn. Tuỳ vị trí và khối lượng cụ thể của từng khu vực mà đặt các thùng đựng rác có nắp dung tích 60l, 120l, 200l dọc theo các đường phố, với đường phố trung tâm các thùng đặt cách nhau 100 - 200m, các đường khác các thùng đặt cách nhau 300 - 400m. Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn người dân về phân loại chất thải rắn ngay tại nguồn phát sinh Tuỳ vị trí và khối lượng cụ thể của từng khu vực mà đặt các thùng đựng rác có nắp dọc theo các đường phố 84 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG 85Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG XÁC ĐỊNH LỘ TRÌNH PHÂN LOẠI TẠI NGUỒN Việc xác định lộ trình thực hiện việc phân loại chất thải rắn tại nguồn đối với từng đô thị phụ thuộc vào các yếu tố: - Tình hình phát triển kinh tế- xã hội của đô thị - Tốc độ đô thị hoá - Năng lực xử lý chất thải rắn Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh chưa thực hiện phân loại tại nguồn. Để đạt được các mục tiêu theo quy hoạch quản lý chất thải rắn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050 đặt ra thì đến năm 2020, tỉnh Quảng Ninh sẽ phải thực hiện tuyên truyền giáo dục trong cộng đồng dân cư và các trường học, công sở. Triển khai thí điểm phân loại rác tại 1 hoặc một số phường của thành phố Uông Bí theo mô hình 3R, triển khai thí điểm tại một số trường học, cơ quan để dần hình thành ý thức trong cộng đồng sau đó nhân rộng ra các địa phương khác. Các đô thị còn lại sẽ thực hiện sau năm 2020 [2]. Bảng 1 thể hiện lộ trình phân loại chất thải rắn tương ứng với các giai đoạn phát triển của các đô thị được đề xuất theo mô hình tại hình 1. Kết hợp với mục tiêu và mức độ ưu tiên về công tác phân loại chất thải rắn tại nguồn đối với từng đô thị theo quy hoạch bảo vệ môi trường [1] được thể hiện ở bảng 2. Hình 1. Sơ đồ tổng quát về mô hình quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại các đô thị trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh [2] Bảng 1. Đề xuất lộ trình thực hiện phân loại chất thải rắn tại nguồn Bảng 2. Mục tiêu và mức độ ưu tiên về công tác phân loại chất thải rắn tại nguồn đối với từng đô thị vào năm 2020 và 2030 TT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Nguồn phát sinh chất thải rắn Nhà ở, hộ gia đình Trường học, cơ quan, công sở Nhà hàng, khách sạn, quán ăn Khu di tích lịch sử văn hóa, khu vui chơi giải trí Bệnh viện, cơ sở y tế (chỉ tính chất thải rắn thông thường) Chợ Trung tâm thương mại, siêu thị Các cơ sở dịch vụ, buôn bán Các cơ sở sản xuất công nghiệp (chỉ tính riêng phần chất thải rắn sinh hoạt) Đường phố Lộ trình phân loại tại nguồn Từ 2017- 2020 2 nhóm (1 và 2) 2 nhóm (1 và 2) 2 nhóm (1 và 2) 2 nhóm (1 và 2) 2 nhóm (1 và 2) 2 nhóm (1 và 2) 2 nhóm (1 và 2) 2 nhóm (1 và 2) 2 nhóm (1 và 2) 2 nhóm (1 và 2) Sau 2020 3 nhóm (1, 2A, 2B) 3 nhóm (1, 2A, 2B) 3 nhóm (1, 2A, 2B) 3 nhóm (1, 2A, 2B) 3 nhóm (1, 2A, 2B) 2 nhóm (1 và 2) 3 nhóm (1, 2A, 2B) 3 nhóm (1, 2A, 2B) 3 nhóm (1, 2A, 2B) 2 nhóm (1 và 2) Khu vực TP Hạ Long TP Móng Cái TP Cẩm Phả TP Uông Bí Huyện Bình Liêu Huyện Tiên Yên Huyện Đầm Hà Huyện Hải Hà Huyện Ba Chẽ Huyện Vân Đồn Huyện Hoành Bồ Huyện Đông Triều T.X Quảng Yên Huyện Cô Tô Ghi chú Dự án ưu tiên Dự án ưu tiên Dự án ưu tiên Dự án ưu tiên Dự án ưu tiên Dự án ưu tiên Dự án ưu tiên BCL ◎ - ◎ - - - - ◎ - ◎ ◎ - ◎ ◎ 3R ◎ ◎ ◎ ◎ ◎ ◎ ◎ ◎ ◎ ◎ ◎ ◎ ◎ ◎ 2020 BCL - ◎ - ◎ ◎ ◎ ◎ - ◎ - - ◎ - - 3R - - - - - - - - - - - - - - 2030 Ghi chú: ◎: Hoàn thành dự án; “BCL” bao gồm cả hệ thống xử lý nước rác và thiết bị bãi rác PHƯƠNG ÁN CẢI THIỆN HOẠT ĐỘNG THU HỒI – TÁI CHẾ CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT Vai trò của ngành tái chế không chính thống, tự phát các phế liệu thu hồi hiện còn bị hạn chế bởi thực tế là hiện có rất ít hộ dân thực hiện phân loại chất thải rắn thải tại nguồn. Khi hoạt động phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn được thực hiện, tỷ lệ các phế liệu có thể tái chế sẽ được tách ra từ dòng thải dao động từ 12 – 18% trọng lượng của chất thải. Các thành phần khác ít có giá trị kinh tế thì không thu hồi để tái chế. Duy trì hoạt động thu hồi các vật liệu tái chế từ chất thải rắn sinh hoạt theo phương thức hoạt động không chính thống tập trung chủ yếu tại các đô thị Hạ Long, Cẩm Phả, Móng Cái, Hoành Bồ, Đông Triều, Quảng Yên. Xu hướng sau năm 2020, hoạt động này sẽ cần được Ủy ban nhân dân của các đô thị tổ chức lại với sự phát triển hoạt động phân loại tại nguồn trên toàn bộ các đô thị thuộc tỉnh. Hai cách tiếp cận cơ bản để cải thiện công tác thu hồi phế liệu từ chất thải tại các đô thị trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh bao gồm: - Cải thiện vận hành của ngành thu hồi, tái chế không chính thống/quy mô nhỏ với trọng tâm lâu dài trong việc lồng ghép cùng với hoạt động của thu gom, xử lý - Phần lớn các hoạt động thu hồi và tái chế phế liệu từ chất thải được thực hiện bởi khối tư nhân. Các trợ giúp tài chính và kỹ thuật nhằm mục đích cải thiện điều kiện làm việc. - Mở rộng năng lực hiện có của các công ty môi trường đô thị/công ty quản lý công trình đô thị bao gồm cả hoạt động thu hồi tái chế. Như vậy, các hoạt động thu hồi và tái chế chất thải của khối tư nhân sẽ được trao cho khối doanh nghiệp công ích, mở rộng các chức năng của hệ thống quản lý chất thải rắn do công ty môi trường đô thị/công ty quản lý công trình đô thị đảm nhiệm. Việc so sánh hai phương án cải thiện thu hồi phế liệu từ chất thải rắn được thể hiện ở bảng 3. Phương án 1: Cải thiện vận hành của ngành thu hồi, tái chế không chính thống/ quy mô nhỏ Phương án 2: Mở rộng năng lực hiện có của các công ty môi trường đô thị/công ty quản lý công trình đô thị bao gồm cả hoạt động thu hồi tái chế Ưu điểm Nhược điểm Những liên can tài chính Ưu điểm Nhược điểm Những liên can tài chính Sử dụng được nguồn lực hiện có của ngành thu hồi tái chế đang hoạt động trên địa bàn các đô thị của tỉnh Quảng Ninh và đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu khối lượng rác thải tại các bãi chôn lấp. Triển vọng mang lại hiệu quả cao hơn vì có ít trở lực hơn so với khối doanh nghiệp công ích. Dịch vụ còn nằm ngoài tầm kiểm soát trực tiếp của các công ty môi trường đô thị/công ty quản lý công trình đô thị, dịch vụ do khối này cung cấp hiện được vận hành theo cách thức hỗn tạp và không chính thống. Rủi ro về tài chính của dịch vụ được loại trừ hoàn toàn. Có sự dung hòa khá lớn cho thành phố khi khối tư nhân có trách nhiệm làm tăng thêm vốn đầu tư cần thiết để vận hành dịch vụ. Sẽ có đòi hỏi về quỹ dành cho giáo dục cộng đồng. Dịch vụ nằm trong tầm kiểm soát trực tiếp của các công ty môi trường đô thị/công ty quản lý công trình đô thị. Các yếu tố ảnh hưởng bên ngoài được giảm thiểu). Có sự liên quan với các Sở ban ngành khác của thành phố. Các chiến dịch giảm thiểu /tái chế chất thải được thuận lợi hơn so với phương án khác. Dịch vụ sẽ gây ra hậu quả làm mất kế sinh nhai của những người nhặt rác. Điều này gây ra những liên can nghiêm trọng về tài chính và những bất lợi về tài chính và xã hội cho những người trong cộng đồng. Cần thiết phải có sự bao cấp của UBND Tỉnh để thu hồi chi phí. Phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn là yếu tố quyết định, nhằm đảm bảo hiệu quả cho các khâu thu gom, vận chuyển, trung chuyển, thu hồi, tái chế và xử lý đạt được tối ưu nhất. Hiện nay, tại tỉnh Quảng Ninh việc phân loại chất thải rắn tại nguồn chưa được thực hiện. Vì vậy, để tạo được sự thành công ngay từ đầu, tỉnh cần xây dựng được lộ trình và lựa chọn phương án thực hiện công tác phân loại chất thải rắn tại nguồn theo quy hoạch, gắn với đặc thù cụ thể tại mỗi đô thị trong địa bàn tỉnh. Tài liệu tham khảo 1. Quy hoạch môi trường tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. 2. Quy hoạch quản lý chất thải rắn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. 86 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG Thành phố Melbourne của bang Victoria - Australia đã phá kỷ lục với danh hiệu “Thành phố đáng sống nhất thế giới” tới năm thứ 6 liên tục trong bảng xếp hạng những thành phố đáng sống nhất trên toàn cầu do Economist Intelligence Unit bình chọn. Melbourne có không khí trong lành, an ninh tốt, nhiều công viên, công trình cổ được bảo tồn bên cạnh những tòa nhà hiện đại; Nền văn hóa đa dạng, phong phú nhưng có sự thống nhất; Người dân thân thiện, thú vị; Các công trình nghệ thuật khắp nơi; Phương tiện đi lại độc đáo và thuận lợi; Những con hẻm sôi động với nhiều nơi để nghỉ ngơi vào cuối tuần Đặc biệt là chiến lược dài hạn về quy hoạch và phát triển đô thị bền vững đã góp phần giúp cho thành phố được đánh giá cao nhất thế giới về giá trị cuộc sống ở đây. Các nhà quy hoạch và kiến trúc sư thành phố Melbourne đã có kế hoạch mở rộng thành phố để kịp thời đáp ứng được số dân đang tăng lên nhanh chóng cũng như bắt kịp xu hướng và sự thay đổi cách sống của người dân. Một số dự án lớn như mở rộng trung tâm thương mại của nội đô và xây dựng quận thương mại trung tâm (CBD) của toàn vùng đô thị Melbourne. Thành phố này còn đóng vai trò là trung tâm tài chính lớn của nước Úc và khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Thành phố nổi tiếng với nhiều hẻm và khu mua sắm có tiếng, những tòa nhà kiến trúc thời Victoria đến đương đại cũng như nhiều công viên cây xanh rộng lớn. Năm trong số sáu tòa nhà cao nhất nước Úc cũng đang tọa lại tại thành phố này. Trong những năm gần đây, khu vực này đã nổi lên thành một thiên đường cho nghệ thuật đường phố. THÀNH PHỐ MELBOURNE VỚI CÔNG TÁC QUY HOẠCH VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ Thành Phố Melbourne là thành phố trung tâm về phát triển kinh tế và là đô thị hiện đại của Bang Victoria – nước Úc. Thành phố này đã có nhiều chiến lược trong công tác quy hoạch và đổi mới nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp và du khách. Chiến lược quy hoạch thành phố bắt đầu từ việc ban hành các văn bản pháp luật quy định những chính sách, điều khoản về sử dụng, phát triển và bảo vệ đất đai. Những quy định về quy hoạch phát triển thành phố đề cập đến một phạm vi rộng lớn về các mặt như: Giới hạn về độ cao của tòa nhà, đảm bảo việc sử dụng đất có trật tự và bền vững. Mỗi thành phố của Bang Victoria đều có một Chương trình quy hoạch riêng để quản lý việc sử dụng, phát triển và bảo vệ đất ở địa phương mình dựa trên nhu cầu về sử dụng đất ở thời điểm hiện tại và tương lai. Một số dự án quy hoạch và xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng của thành phố Melbourne được điều hành bởi chính quyền bang Victoria và Chính phủ, một số cơ quan quản lý quốc gia và doanh nghiệp tư nhân. Thành Phố Melbourne là thành phần chủ chốt của các dự án và đóng vai trò đại diện cho người dân của thành phố. Vào tháng 5 năm 2014, Chính quyền Bang Victoria đã công bố Chiến lược Melbourne, một chiến lược quy hoạch đô thị để hướng sự phát triển của thành phố đến năm 2026. Chiến lược

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftap_chi_xay_dung_do_thi_so_55_phan_2_7826_2164770.pdf
Tài liệu liên quan