Lạm phát và chính sách tiền tệ

Tài liệu Lạm phát và chính sách tiền tệ: PGS.TS. TRẦN HOÀNG NGÂN & THS. VÕ THỊ TUYẾT ANH 1. Bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ta từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng với tỷ lệ cao trên 7% trong hơn 20 năm qua (trong 5 năm 2003-2007 GDP tăng bình quân trên 8%/năm). Đời sống nhân dân được tăng lên, thu nhập GDP bình quân đầu người từ 402 USD năm 2000 tăng lên 836 USD năm 2007, số hộ nghèo giảm dần, đời sống nông dân cải thiện rõ rệt, nhiều công trình kinh tế xã hội được hoàn thành, hội nhập sâu rộng với các nước trên thế giới (tổng kim ngạch xuất nhập khẩu VN năm 2007 chiếm 156% GDP), gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO,.. VN được các nước trên thế giới đánh giá tốt và khen ngợi,. Hiện nay nước ta đang đứng trước khó khăn thực sự, chỉ số giá cả tiêu dùng tăng nhanh năm 2007 là 12.63% và 3 tháng đầu năm 2008 tăng trên 9%, đặc biệt là cán cân thương mại năm 2007 thâm hụt lớn, nhập khẩu 62,7 tỷ USD tăng +39.6% so với năm 2006, xuất khẩu 48.6 tỷ USD tăng 2...

doc44 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1213 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Lạm phát và chính sách tiền tệ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PGS.TS. TRẦN HOÀNG NGÂN & THS. VÕ THỊ TUYẾT ANH 1. Bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ta từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế nước ta liên tục tăng trưởng với tỷ lệ cao trên 7% trong hơn 20 năm qua (trong 5 năm 2003-2007 GDP tăng bình quân trên 8%/năm). Đời sống nhân dân được tăng lên, thu nhập GDP bình quân đầu người từ 402 USD năm 2000 tăng lên 836 USD năm 2007, số hộ nghèo giảm dần, đời sống nông dân cải thiện rõ rệt, nhiều công trình kinh tế xã hội được hoàn thành, hội nhập sâu rộng với các nước trên thế giới (tổng kim ngạch xuất nhập khẩu VN năm 2007 chiếm 156% GDP), gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO,.. VN được các nước trên thế giới đánh giá tốt và khen ngợi,. Hiện nay nước ta đang đứng trước khó khăn thực sự, chỉ số giá cả tiêu dùng tăng nhanh năm 2007 là 12.63% và 3 tháng đầu năm 2008 tăng trên 9%, đặc biệt là cán cân thương mại năm 2007 thâm hụt lớn, nhập khẩu 62,7 tỷ USD tăng +39.6% so với năm 2006, xuất khẩu 48.6 tỷ USD tăng 21,9%, nhập siêu 14,1 tỷ USD (năm 2006 nhập siêu 5 tỷ USD), nhập siêu chiếm tỷ lệ rất đáng lo ngại 19,8%GDP (lưu ý việc nhập siêu tăng nhanh có yếu tố giá cả thế giới (xăng dầu, sắt thép, sợi bông, chất dẻo..) tăng cao do đồng USD yếu), cán cân vãng lai thâm hụt ở tỷ lệ cao trên 6% GDP ở mức đáng lo ngại… Kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn suy giảm mạnh 4,9% năm 2007, dự báo xuống 4% năm 2008, thương mại quốc tế giảm mạnh so với năm 2006. Nền kinh tế Mỹ (chiếm ¼ GDP toàn thế giới) đang suy giảm chuyển qua suy thoái, ảnh hưởng đến giá cả nguyên vật liệu, lương thực thực phẩm trên thế giới gia tăng đột biến, lạm phát xảy ra ở nhiều nước, thị trường tài chính thế giới thiệt hại khoảng 3500 tỷ USD.Vì vậy bài toán kiềm chế lạm phát ở nước ta hiện nay là bài toán phức tạp và vô cùng khó khăn, vừa kiềm chế lạm phát, vừa đảm bảo tăng trưởng. Do đó, khi triển khai giải pháp kiềm chế lạm phát, cần có sự đồng thuận và chia sẻ của các cấp, của mọi người, của người đi vay và người cho vay, giữa ngân hàng và doanh nghiệp, giữa Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại, giữa người gởi tiền và ngân hàng huy động vốn, giữa tổ chức xuất khẩu với tổ chức nhập khẩu, giữa cái riêng và cái chung…Phải sử dụng cả giải pháp “Tây Y và Đông y”, giải pháp ngắn hạn ( tỷ giá, lãi suất, hạn mức, thắt lưng buộc bụng, trợ giá, trợ cấp …) và dài hạn (kiểm soát tín dụng, chi tiêu công, nâng cao năng lực sản xuất trong nước, tăng năng suất lao động…). Đặc biệt cần bình tỉnh đối phó vì chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm chống lạm phát thành công, trong những năm 1986-1988 lạm phát trên 300%/năm, năm 1991 lạm phát là 61.5%, năm 1994 lạm phát là 12.7%…. năm 2007 lạm phát bùng nổ trở lại trên thế giới và VN ! Hình 1: Chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI) Nguồn: IMF, International Financial Statistics Trong hình 1 cho thấy, từ năm 2004 đến 2007, lạm phát ở VN đã cao hơn các nước láng giềng ngoại trừ Indonesia, một quốc gia đang đối mặt với những vấn đề kinh tế, chính trị nghiêm trọng, năm 2004 CPI là 9.5%, 2005 là 8.4%, năm 2006 là 6.6%. Hiện nay, VN là nước có tỷ lệ lạm phát cao nhất trong các nước Đông á. Chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI) cho đến tháng 12/2007 đã là 12.63%(tháng 11/2007 là 9,45%) và chỉ trong 3 tháng đầu năm 2008 chỉ số CPI tại nước ta đã lên tới 9.19%. Nguyên nhân tại sao? Giải pháp thế nào để vừa kiềm chế lạm phát vừa đảm bảo tăng trưởng? 2. Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam Trước hết ta xem xét, về mặt lý thuyết lạm phát có thể do các nhóm nguyên nhân: Lạm phát do chính sách: thường xảy ra do những biện pháp tiền tệ mở rộng, phản ánh thâm hụt thu chi ngân sách lớn và việc tài trợ thâm hụt bằng tiền tệ, thường là cội rễ của lạm phát cao. Một ví dụ kinh điển đó là những trận siêu lạm phát ở áo và Đức những năm 20 do mở rộng tiền tệ thái quá. Lạm phát do chi phí đẩy: xảy ra do tăng chi phí và có thể phát triển ngay cả khi thất nghiệp và việc sử dụng nguồn lực còn thấp. Vì tiền lương ( tiền công ) thường là chi phí sản xuất quan trọng nhất, sự gia tăng tiền lương không phù hợp với tăng trưởng năng suất có thể khơi mào cho quá trình lạm phát. Nhưng lạm phát do chi phí đẩy có thể không dai dẳng nếu chính sách tiền tệ tác động vào, trong trường hợp đó, tiền lương tăng dẫn tới thất nghiệp cao hơn thay vì lạm phát cao hơn. Lạm phát do cầu kéo: xảy ra do tổng cầu vượt trội đẩy mức giá chung lên cao. Sự thúc đẩy của cầu có thể xuất phát từ những cú sốc bên trong hay bên ngoài nhưng thường hình thành từ những chính sách thu chi ngân sách hay tiền tệ mở rộng. Lạm phát trơ ì (lạm phát quán tính): có xu hướng dai dẳng ở cùng tỷ lệ cho đến khi những sự kiện kinh tế gây ra nó thay đổi. Nếu lạm phát cứ đều đặn, tỷ lệ lạm phát thịnh hành có thể được dự đoán và do đó được đưa vào các hợp đồng tiền lương và tài chính, điều này lại tiếp tục duy trì nó. Tỷ lệ lạm phát quán tính đôi khi ngụ ý lạm phát cơ bản hay cốt lõi. Thông thường những cú sốc đối với nền kinh tế từ phía cung hay cầu làm cho tỷ lệ lạm phát thực tế di chuyển lên trên hay xuống dưới tỷ lệ lạm phát cơ bản. Các cú sốc chính về phía cầu bao gồm sự tăng nhanh của tổng cầu do dự đoán thu nhập sẽ tăng. Lạm phát do chính sách, lạm phát do cầu kéo được nhận thấy ở nhiều nền kinh tế đang chuyển đổi, là kết quả của những chính sách thu chi ngân sách hạn chế không đầy đủ và việc tài trợ bằng tiền cho thâm hụt ngân sách. Thông thường, những cú sốc bên ngoài như những cú sốc xuất phát từ tăng giá năng lượng hay thu hẹp thương mại với các bạn hàng truyền thống có xu hướng bổ sung cho áp lực lạm phát. Tại VN, các nguyên nhân phát sinh lạm phát trên đều xuất hiện ở VN với những trọng số khác nhau ở những thời kỳ khác nhau. Năm 2007, là năm mà các nguyên nhân đã tích tụ bấy lâu nay gặp cơn lốc lạm phát thế giới nên bùng nổ lớn. Chúng tôi tạm chia làm hai nhóm nguyên nhân: bên trong và bên ngoài để dễ xem xét khi đưa ra quyết định ngắn hạn và dài hạn. a. Nguyên nhân bên ngoài: Cũng như những quốc gia châu á khác, do đồng USD suy yếu trong những năm gần đây đã tạo ra những cú sốc về tăng giá xăng dầu, giá vàng, giá lương thực thực phẩm… từ đó tác động xấu đến giá cả ở VN. Giá cả thị trường thế giới liên tục tăng cao, xăng dầu tăng (giá dầu thô từ 60 USD/thùng đầu năm 2007 tăng lên trên 100 USD/thùng cuối năm 2007), sắt thép tăng 30%, phân bón tăng 20%, lúa mì tăng 60%, sợi, bông, chất dẻo, … Đồng thời những mặt hàng nước ta xuất khẩu (gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, điều…) cũng xuất với giá tăng rất cao, đặc biệt là giá lương thực phẩm tăng trên 30%, nên giá thu mua cũng tăng, từ đó làm ảnh hưởng lớn đến giá cả chung trong nước, vả lại khi tính chỉ số CPI thì trọng số lương thực thực phẩm ở ta chiếm tỷ lệ cao (42,85%), nhà ở vật liệu xây dựng chiếm 10%, giá xăng dầu trong năm 2007 tăng nhanh, giá vàng thế giới v trong nước tăng rất cao, ảnh hưởng gián tiếp là tác động tâm lý đến các loại giá khác, nên CPI tăng mạnh. Tổng kim ngạch nhập khẩu của nước ta hiện nay trên 88% so với GDP (Nhập khẩu khoảng 62.7 tỷ USD/ 71.2 tỷ USD) vì nền kinh tế nước ta phụ thuộc rất lớn vào nguyên nhiên vật liệu thế giới. Các nước lớn tỷ lệ này rất thấp như châu Âu khoảng 25-30%, Mỹ 14,54%, Trung Quốc 26,69%…Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2007 là 111,3 tỷ USD chiếm 156% GDP. Vì vậy khi đồng USD mạnh (năm 1991, năm 1997-1998) ta gặp khó khăn (vì nhập siêu), USD yếu như hiện nay ta cũng khó khăn! Tại sao những nước khác ít bị ảnh hưởng? Các nước đã quen với sự tăng giảm của USD, họ hội nhập trước chúng ta nên đã có nhiều kinh nghiệm và cũng đã khủng hoảng nhiều trận đòn rồi (1997-1888). Trong năm 2007, để tự về các nước chủ động điều chỉnh tỷ giá linh hoạt theo hướng giảm giá USD (kể từ tháng 9/2007) và nâng giá bản tệ nhằm tránh ảnh hưởng lạm phát thế giới, như Thái Lan giảm giá USD 4%, Singapore giảm giá USD 10.45%, Trung Quốc giảm giá USD 8.57%, Thụy sĩ giảm giá USD 16%, Philippine giảm giá USD 14%, Malaysia giảm giá USD 7.25%…(xem biểu đồ 5-11). Trong khi năm 2007, VN chủ động ổn định tỷ giá để khuyến khích xuất khẩu (tổ chức xuất khẩu lãi cao) hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng…! (năm 2007, USD tăng giá 0.1% so với VND, trong 3 tháng đầu năm 2008, USD có điều chỉnh giảm khoảng 0.6%so với VND). Vì vậy, việc điều chỉnh tỷ giá theo hướng giảm giá USD là sự điều chỉnh theo tín hiệu thị trường quốc tế, chứ không phải là ta muốn tăng giá VND, vì không có chính phủ nào muốn tăng giá đồng bản tệ. Đơn vị xuất khẩu phải hiểu rằng đó là sự điều chỉnh và phải chia sẻ với khó khăn của nhiều người về căn bệnh lạm phát, điều quan trọng mà đơn vị xuất khẩu kêu to là ngân hàng không mua USD, nên không có VND để thu mua, mua chậm giá càng cao. Hiện nay NHNN đã mua hết nhưng đơn vị không bán nữa vì USD có dấu hiệu tăng giá trong tương lai. Theo tôi, nếu NHNN VN chủ động điều chỉnh tỷ giá linh hoạt theo hướng giảm giá USD từ tháng 9/2007 như nhiều nước, thì việc kiềm chế lạm phát sẽ đở tốn kém. Vì trước sự suy giảm kinh tế và hệ thống ngân hàng- tài chính Mỹ đang gặp khó khăn về tín dụng địa ốc, ngày 18/09/2007 FOMC (The Federal Open Market Committee) Uy ban thị trường mở của FED chính thức quyết định khởi đầu đợt hạ lãi suất của quỹ liên bang (federal funds rate) từ 5.25% xuống 4.75% và đến ngày 18/03/2008 là 2.25%, để tạo thanh khoản cho thị trường tín dụng của các ngân hàng tại Mỹ, hỗ trợ thị trường chứng khoán, ngăn chặn suy thoái, FED đã bơm vài trăm tỷ USD thông qua nghiệp vụ thị trường mở…Ngày 29,30 tháng 4 FED sẽ có cuộc họp quan trọng tiếp theo để xem xét việc có cắt giảm lãi suất hay không? b. Nguyên nhân bên trong: - Chính sách tài khóa không hiệu quả là nguyên nhân rất quan trọng của căn bệnh lạm phát ở nước ta. Để hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế, Chính phủ đã có những kế hoạch chi tiêu nâng cấp cơ sở hạ tầng của đất nước và liên tục bội chi ngân sách trong nhiều năm trn 5% GDP (năm 2007 bội chi khoảng trên 56.000 tỷ đồng). Đầu tư cho tăng trưởng kinh tế là điều cần thiết, nhưng đầu tư kém hiệu quả, đầu tư dàn trải, gây lãng phí lớn trong thời gian dài là nguy hiểm cho nền kinh tế nước nhà ( đọc báo cáo kiểm toán nhà nước trong nhiều năm chúng ta thấy rất đau lòng về những con số lãng phí và thất thoát hàng ngàn tỷ đồng), trong khi đồng lương của nhân dân lao động, những người công chức nhà nước thì quá thấp so với thời giá, 30-40 năm làm việc trong cơ quan hành chính, giáo dục, y tế… nhiều người không thể mơ nổi một căn nhà. Công tác xây dựng, thẩm định, phê duyệt dự án, tổng dự án và thiết kế kỹ thuật quá chậm trễ, thủ tục rườm rà và phức tạp (ai cũng biết, ai cũng nói, nhưng ai sẽ chịu trách nhiệm vấn đề này? Bộ nào cũng hứa!). Việc chi tiêu thì không hiệu quả, tình trạng tham nhũng thì gia tăng đã hưởng đến niềm tin của công chúng vào cơ chế và bộ my điều hành của chúng ta. Đảng và Nhà nước ta đã thấy và đang điều chỉnh, như thành lập cơ quan chống tham nhũng, nhưng cần quyết liệt hơn. Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội ở VN trong vài năm gần đây bình quân hàng năm trên 40% GDP và hệ số ICOR là 4,7 (có nghĩa là VN hiện cần 4,7 đơn vị đầu tư để tạo ra một đơn vị tăng trưởng), hệ số ny là rất cao so với các nước khác trong khu vực. Tổng cầu tăng, nhưng tổng cung tăng hạn chế nên giá phải tăng. - Trong năm 2007, và đầu năm 2008 Nhà nước chủ động thực hiện lộ trình điều chỉnh theo giá thị trường đối với một số loại hàng hóa, vật tư cơ bản như: điện, xăng dầu, than,… làm ảnh hưởng đến việc tăng giá các hàng hóa khác. - Chính sách tiền tệ năm 2007 cũng có những vấn đề cần xem xét, cung tiền (tổng phương tiện thanh toán) tăng nhanh năm 2005 là 23.4%, năm 2006 là 33.6%, năm 2007 là 53.8%, tổng cộng 3 năm cung tiền M2 tăng 134.2%, trong khi 3 năm GDP chỉ tăng 25.09%. Chênh lệch giữa cung tiền tăng trong 3 năm qua (134.5%) với tăng trưởng kinh tế GDP (25.09%) là rất lớn, chắc chắn sẽ đè nặng lên giá cả trong nước, và cuối năm 2007, đầu năm 2008 nó bộc phát mạnh là do có sự cộng hưởng bởi lạm phát quốc tế (USD yếu) và thiên tai. Nếu dựa vào học thuyết “Định lượng tiền tệ- The quantity theory of money” của Irving Fisher, ta có thể thấy rõ hơn quan hệ của nhân tố: cung tiền (M), tốc độ vòng quay tiền tệ (V), giá cả (P), tổng sản phẩm quốc nội thực-GDP thực (Y), trong phương trình: MV= PY. Vì vậy, nếu V, P không thay đổi thì P (giá cả) sẽ tăng nhanh khi cung tiền M tăng nhanh, hoặc Y (GDP thực) có tăng nhưng tốc độ tăng chậm hơn cung tiền, thì giá cả cũng tăng cao. Vì vậy, giải pháp kiểm soát cung tiền, giảm tổng cầu luôn luôn là liều thuốc chống lạm phát trước tiên được các nước sử dụng, nhưng với mức độ liều lượng khác nhau. Tổng dư nợ cho vay của toàn hệ thống ngân hàng tăng cao, năm 2006 là +29.7%, năm 2007 tăng dư nợ cao nhất trong nhiều năm qua 43.7%, một số NHTM tăng trên 70%. Các NHTM trong thời gian qua đã cung cấp được một lượng vốn lớn cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế để phát triển sản xuất kinh doanh, cho vay tiêu dùng cao, góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, cùng với sự tăng trưởng nóng của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản, các NHTM cũng sẵn lòng cho vay đối với những nhà đầu cơ trong lĩnh vực này. Nguồn vốn huy động ngắn hạn của ngân hàng được đổ vào thị trường vốn dài hạn nhiều rủi ro, nếu bong bóng bất động sản có vấn đề thì rủi ro tín dung là rất lớn (Mỹ đang đau đầu vì tín dụng bất động sản hiện nay). Điều cần lưu ý, một trong những nguyên nhân dư nợ tín dụng tăng cao trong năm 2007 là do các ngân hàng thương mại tăng vốn điều lệ lên nhanh + 56% (tăng 33.737 tỷ đồng), cuối năm 2006 tổng vốn điều lệ của tổ chức tín dụng là 60.419 tỷ đồng, cuối năm 2007 là 94.156 tỷ đồng, thành lập mới nhiều ngân hàng (cần xem xét lại điều kiện thành lập), làm tăng khả năng cho vay và áp lực trả lãi cổ đông, áp lực tăng giá cổ phiếu trên thị trường do năm 2006 giá cổ phiếu đã tăng chóng mặt, nên bây giờ mới “té”! - Trong những năm qua, với những thành tựu phát triển kinh tế nổi bật cùng với chính sách thông thoáng, cởi mở, VN trở thành một điểm đến lý tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài. Lượng vốn của các nhà đầu tư nước ngoài vào VN liên tục ở mức cao thông qua kênh đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp,…. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong năm 2007 dự kiến khoảng 10 tỷ USD, đến cuối năm lên trên 20 tỷ USD (đã giải ngân 8 tỷ USD), đầu tư gián tiếp (khoảng 5 tỷ USD), ODA cũng tăng nhanh (4.45 tỷ USD năm 2006, năm 2007 là 5.42 tỷ USD, giải ngân 2 tỷ USD). Kiều hối tăng cao (kiều hối của trên 3 triệu người ở 94 quốc gia gửi về nước năm 2007 đạt 6 tỷ USD); Việt kiều về nước ăn Tết đông hơn tăng khoảng 30% , khách du lịch nước ngoài cũng tăng 17% so với cùng kỳ năm 2007 (ngoại tệ mang vào khoảng 3 tỷ USD). Lượng tiền Ngân hàng Nhà nước tung vào để mua ngoại tệ (tăng tổng cầu) cũng rất lớn (khoảng 160.000 tỷ đồng) với tỷ giá khoảng 16.000 VND/USD để giữ giá USD không làm ảnh hưởng nhiều đến xuất khẩu (khoảng 10 tỷ USD đã được NHNNVN mua vào trong năm 2007). Điều rất tiếc, nếu chúng ta chủ động nâng giá VND và giảm giá USD theo quy luật cung cầu (cung tăng thì giá có khuynh hướng giảm, cầu tăng thì giá có khuynh hướng tăng) thì tình hình sẽ bớt căng thẳng như hiện nay. Nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài họ luôn vì mục tiêu lợi nhuận, nên khi có cơ hội thì họ sẳn sàng nhảy vào bán USD giá cao, mua trái phiếu, gởi ngân hàng lãi suất cao và sau đó bán trái phiếu lấy VND mua USD giá hạ… Năm 1997, khi USD mạnh, nhưng các nước Đông Nam á để tỷ giá cố định, nên đã bị đầu cơ tiền tệ lợi dụng và tàn phá kinh tế. Đồng USD mạnh hay yếu (như hiện nay) đều có cơ hội cho nhà đầu cơ tiền tệ chuyên nghiệp. - Thiên tai, mưa bão, lũ lụt, những đợt rét đậm, rét hại ở các tỉnh phía Bắc gây thiệt hại năng nề: con người, tài sản, đất trồng, lương thực thực phẩm và dịch bệnh (SARS, cúm gia cầm) ảnh hưởng đến giá cả thực phẩm…ảnh hưởng đến giảm tổng cung. - Chi phí sản xuất hàng hóa dịch vụ chưa hợp lý, sức cạnh tranh các sản phẩm trong nước không cao, hiệu quả kinh tế thấp. - Thu nhập của dân cư tăng (tăng tiền lương tối thiểu từ năm 2005, 2006, 2007). Việc tăng lương một phần gia tăng tổng cầu, mặt khác tạo tâm lý làm tăng giá các hàng hóa tiêu dùng khác. Điều chỉnh tiền lương cho người lao động là cần thiết trong giai đoạn lạm phát cao, nhưng cần điều chỉnh tiền lương vào những thời điểm ít nhạy cảm (giữa năm). - Một trong những nguyên nhân cũng góp phần vào mức lạm phát gia tăng tại VN hiện nay là yếu tố tâm lý của người dân (cần kiểm soát thông tin). Đặc biệt là yếu tố đầu cơ, găm hàng, làm giá rất “kinh nghiệm” (vì ta đã nhiều lần bị lạm phát) của các đơn vị cung cấp hàng hóa dịch vụ, các đại lý bán lẻ tại VN. 2. Giải pháp của chúng ta hiện nay - Điều chỉnh mục tiêu kinh tế xã hội nước ta trong ngắn hạn và dài hạn. Xác định việc kiềm chế lạm phát là mục tiêu hàng đầu và cần có lộ trình, chặng sốt (3-6 tháng) và giảm sốt trong 2 đến 3 năm. Năm 2008, Chỉ số CPI ở mức 15-16 %, tăng trưởng GDP ở mức 7-8%. - Cần có quan điểm thống nhất và đồng thuận trong điều hành. Thủ tướng Chính phủ là người chỉ huy bộ máy kiềm chế lạm phát, Thống đốc NHNN và Bộ trưởng Bộ tài chính là thường trực, Bộ trưởng các Bộ và các cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố là ủy viên. Tất cả các chính sách phải theo đúng mục tiêu trên. - Làm tốt công tác tuyên truyền chủ trương của Đảng và Nhà nước, xác định kiềm chế lạm phát là mục tiêu hàng đầu, kiềm chế lạm phát là vì cái chung, vì đại bộ phận nhân dân lao động và vì sự phát triển bền vững và lâu dài của kinh tế xã hội nước ta. Do đó, phải có sự chia sẻ của mọi người, phải chịu đựng khó khăn trước mắt và Chính phủ là người cần tiết kiệm đầu tiên, ngân sách nhà nước sẽ dành những khoản chi nhất định cho việc kiềm chế lạm phát. Vì vậy, cần phải chọn giải pháp ít tốn kém nhất, đừng lo ngại chính sách điều hành sẽ ảnh hưởng đến bộ phận này, bộ phận khác, bám mục tiêu đã thống nhất là kiểm soát lạm phát là ưu tiên hàng đầu, cắt sốt trước tiên rồi mới điều trị tiếp, để sốt cao liên tục là vô cùng nguy hiểm. - Sử dụng tổng hợp các biện pháp ngắn hạn mang tính cấp bách (chặng sốt) và dài hạn (giảm sốt và đi đến hết sốt) - Tập trung giải quyết tốt các chủ trương chính sách của Chính Phủ đã ban hành và kịp thời tổng kết theo định kỳ để điều chỉnh giải pháp và liều lượng. + Giải pháp ngắn hạn: thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng dự trữ bắt buộc, giảm số nhân tiền tệ, tăng lãi suất chiết khấu- tái chiết khấu, tái cấp vốn, giảm cung tiền , kiểm soát dư nợ tín dụng, giảm giá USD theo tín hiệu thị trường quốc tế để hạn chế một phần tác động của lạm phát quốc tế (nhiều nước đã làm từ tháng 9/2007), cắt giảm và kiểm soát chi tiêu công một cach hiệu quả, chính phủ phải thắt lưng buộc bụng, cắt giảm chi tiêu thường xuyên, giảm chi phí đi lại, kiểm soát dòng vốn quốc tế, kiểm soát nợ ngắn hạn, trợ cấp những hộ nghèo khó khăn, trợ cấp hộ chăn nuôi, đảm bảo an ninh lương thực, kiểm soát nhập khẩu bằng nhiều giải pháp sắc với sự phối hợp với hệ thống NHTM với cơ quan thuế và Bộ Công thương, giảm thuế nhập khẩu các mặt hàng chiến lược và những mặt hàng thực phẩm trong nước đang thiếu, tăng thuế tiêu thụ đặc biệt các mặt hàng chưa cần thiết (kiểm soát tín dụng thương mại quốc tế, mua hàng trả chậm), Chính phủ ban hành những Sắc lệnh mang tính cấp bách trong giai đoạn khó khăn (không tăng giá điện, giá than, giá xăng dầu, dịch vụ giao thông đi lại…cho đến khi tình hình được kiểm soát), chống đến cùng các nhóm đầu cơ găm hàng làm giá, buôn lậu (tội phá hoại kinh tế). Trong điều hành kinh tế vĩ mô, Chính phủ cần lưu ý đến bộ ba không thể có (Trinity Impossible): tỷ giá ổn định, tự do di chuyển vốn, chính sách tiền tệ độc lập. + Giải pháp dài hạn, là việc làm thường xuyên (như tập thể dục mỗi ngày): kiểm soát chi tiêu công một cách hiệu quả, cải cách thủ tục hành chính, chống tham nhũng thường xuyên và tích cực, chính sách tiền tệ theo hướng hỗ trợ vốn cho tăng trưởng trên cơ sở kiểm soát tín dụng lành mạnh, điều hành tỷ giá linh hoạt theo hướng mở rộng biên độ và theo tín hiệu thị trường, tiến tới hạn chế tối đa tình trạng đô la hóa tại VN, sử dụng có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ theo tín hiệu thị trường trong nước và quốc tế (dự trữ bắt buộc, công cụ tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở..), kiểm soát nhập siêu, đầu tư cho các lĩnh vực sản xuất có chất lượng hàng thay thế hàng nhập khẩu: nhà máy lọc dầu, xi măng, phôi thép, phân bón, chất dẻo, thức ăn gia súc, vải, giấy,.. (đầu tư dài hạn và có chính sách hỗ trợ đặc biệt để đẩy nhanh tiến độ), hỗ trợ xuất khẩu thông qua nhiều giải pháp đồng bộ chứ không phải duy nhất như chính sách tỷ giá (chất lượng sản phẩm, mẫu mã, chủng loại hàng, hạ giá thành xuất khẩu, tài trợ tín dụng, hỗ trợ xúc tiến thương mại, chiến lược marketing quốc tế, chất lượng chế biến, uy tín đơn vị xuất khẩu..), cải tiến kỹ thuật tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, đảm bảo an ninh lương thực, khuyến khích và hỗ trợ tích cực cho việc phát triển nông nghiệp- nông thôn, phòng trừ dịch họa và thiên tai, tăng cường công tác dự báo để có chính sách kịp thời, tăng dự trữ ngoại hối quốc gia… Tóm lại, kiềm chế lạm phát không phải là bài toán không có lời giải, vấn đề là cần chấp nhận những thiệt hại nhất định cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, cho ngân sách nước nhà. Vì vậy, cần có đồng thuận và chia sẻ của Chính phủ, doanh nghiệp và nhân dân. Cần đặt nước ta trong nền kinh tế thế giới để có cái nhìn tổng hợp và bình tỉnh hơn. Các Bộ, các ban ngành từ trung ương đến địa phường cần làm hết sức mình, bằng những kế hoạch cụ thể để triển khai các chỉ đạo mà Thủ tướng Chính phủ đã ban hành. Những kết quả tốt đẹp sẽ đến với kinh tế VN nếu chúng ta đoàn kết và có quyết tâm cao theo một đường lối thống nhất của Đảng và Nhà nước ta. LẠM PHÁT: NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Viện sĩ TRƯƠNG CÔNG PHÚ Uỷ viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn kinh tế, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Lạm phát cũng như các hiện tượng và phạm trù khác của quan hệ hàng hoá - tiền tệ có đặc trưng chung về bản chất trong các phương thức sản xuất khác nhau và do điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau trong từng phương thức sản xuất mà nó có đặc thù riêng. Bản chất kinh tế chung của lạm phát được biểu hiện cụ thể trong các hình thái kinh tế - xã hội, còn quan hệ hàng hoá - tiền tệ và thông qua mối quan hệ với hệ thống quan hệ sản xuất có những đặc trưng kinh tế - xã hội trong từng hình thái. Nhưng lạm phát tồn tại không nhất thiết là thành tố bắt buộc của quan hệ hàng hoá - tiền tệ, mà nó chỉ xuất hiện ở những nơi vi phạm các điều kiện bình thường của tái sản xuất, mất cân đối, khủng hoảng, thất nghiệp. Đương nhiên, lạm phát là một phạm trù kinh tế không hoàn toàn xấu. Nhiều nước, trong đó có nước ta, xem lạm phát như là một biện pháp phát triển kinh tế. Nhờ lạm phát mà tăng “cầu” để kích thích tăng “cung”. Nhưng lạm phát vượt giới hạn nhất định (vượt mức tăng thu nhập quốc dân) sẽ kiềm hãm phát triển kinh tế - xã hội. Hàng năm, ở nước ta, Quốc hội phê duyệt dự toán Ngân sách Nhà nước thường cho mức bội chi ngân sách nhà nước khoảng 5%, thấp hơn mức tăng trưởng kinh tế (GDP) Lạm phát trong những năm 70, 80 Lạm phát của nước ta trong những năm 70, 80 rất nghiêm trọng và nguy hiểm: Giá cả hàng hoá tăng với tốc độ phi mã. Chỉ số giá bán lẻ năm 1985 tăng 13,97 lần so với năm 1980; năm 1987 tăng 124,42 lần so với năm 1985 và năm 1988 tăng 181,48 lần so với năm 1985. Trên cơ sở việc nghiên cứu cho thấy, các đặc điểm liên quan đến các nguyên nhân của lạm phát như sau: Một là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế mà thành phần kinh tế nhà nước chiếm tỉ trọng rất lớn: vốn cố định trong những năm 80 chiếm 85 - 87%, cán bộ kỹ sư - kỹ thuật chiếm 95%. Trong tay thành phần kinh tế nhà nước có nguồn tài nguyên to lớn, nhưng sử dụng kém hiệu quả. Đại bộ phận các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Doanh nghiệp nhà nước nhận các khoản trợ cấp từ ngân sách nhà nước gấp 3 lần các khoản doanh nghiệp nhà nước nộp cho ngân sách nhà nước. Các khoản trợ cấp này cao hơn số bội chi ngân sách nhà nước. Đây là một trong những nguyên nhân sâu xa và cơ bản dẫn đến lạm phát. Hai là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế chủ yếu là hiện vật. Trong thời gian đầu Nhà nước chỉ xem sản phẩm tiêu dùng là hàng hoá. Do vậy, quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị coi nhẹ và nguyên tắc hạch toán kinh doanh không được thực hiện đầy đủ. Tư liệu sản xuất, sức lao động, kết quả hoạt động khoa học - kỹ thuật, dịch vụ,... không được coi là hàng hoá và do đó Nhà nước cấm mua bán chúng trên thị trường. Nhưng thực chất chúng là hàng hoá nên tham gia vào lưu thông hàng hoá, không phải ở thị trường có tổ chức, mà ở “chợ đen”, nơi mà Nhà nước khó kiểm soát và điều chỉnh quá trình lưu thông của chúng. Kết quả là sức lao động, tư liệu sản xuất đã sử dụng rất lãng phí (50%). Đây là một trong những nguyên nhân trực tiếp gây ra lạm phát. Ba là, lạm phát xuất hiện trong nền kinh tế mà độc quyền Nhà nước và cơ chế tập trung bao cấp, quan liêu mệnh lệnh thống trị, Nhà nước không chỉ nắm trong tay độc quyền lãnh đạo chính trị, quản lý và kiểm soát nền kinh tế nói chung (độc quyền này là cần thiết) mà còn độc quyền sản xuất, kinh doanh trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân. V.I.Lênin đã xác định, một trong những đặc trưng kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc là tập trung sản xuất và tư bản đến trình độ phát triển cao dẫn đến độc quyền và nó có vai trò nhất định trong đời sống kinh tế. Độc quyền kinh tế; một mặt, thúc đẩy phát triển chủ nghĩa tư bản đương thời; mặt khác, nó kiềm hãm phát minh, sáng kiến, cạnh tranh. Sự phát triển của lực lượng sản xuất của nước ta trong những năm 70, 80 chưa đạt đến trình độ độc quyền kinh tế. Trong điều kiện đó, độc quyền nhà nước là độc quyền phi kinh tế vì nó không dựa trên cơ sở kinh tế. Hậu quả tiêu cực của độc quyền phi kinh tế còn tồi tệ hơn độc quyền kinh tế. Trong thời gian dài tồn tại cơ chế tập trung bao cấp, quan liêu mệnh lệnh đã khuyến khích cấp dưới chờ cấp trên phân phối vật tư, lao động và tiền vốn, thiếu tính toán hiệu quả kinh tế. Tình hình trên làm cho hoạt động của nền kinh tế kém hiệu quả, dẫn đến lạm phát. Bốn là, lạm phát xuất hiện ở một nước, mà nền kinh tế phụ thuộc khá nhiều vào nước ngoài. Thu về xuất khẩu không đủ trang trải cho chi phí nhập khẩu. Tỉ trọng của xuất khẩu so với nhập khẩu các năm 1976 - 1980 là 23%, các năm 1981 - 1986 là 32% và năm 1989 là 61%. Để bù đắp chi phí nhập khẩu phải vay nợ nước ngoài. Tỉ trọng vay nợ nước ngoài so với chi bằng ngoại tệ vào các năm 1981 - 1985 là 52%, năm 1986 là 65% và năm 1989 là 39%. Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều dựa vào vay nợ, viện trợ của nước ngoài, thiếu nó thì doanh nghiệp nhà nước không thể hoạt động bình thường. Sự viện trợ của nước ngoài giảm dần dẫn đến bội chi ngân sách nhà nước tăng dần và tạo điều kiện cho lạm phát phi mã. Trong thời kỳ này, nền kinh tế nước ta đã áp dụng hệ thống các nhóm giải pháp đồng bộ để chống lạm phát. Một số trong các nhóm giải pháp đó là: Thứ nhất, giảm thành phần kinh tế nhà nước đến mức Nhà nước có thể lãnh đạo, quản lý, điều tiết, kiểm soát nền kinh tế và phát triển các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh dưới các hình thức khác nhau. Có ý kiến cho rằng, càng mở rộng thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa thì càng tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội. Vì thế, đến năm 1985 thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm 95%. Đương nhiên, thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa không phải là mục đích của chủ nghĩa xã hội mà là một trong những công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa của nước ta trong thời kỳ đó có khuynh hướng phát triển mâu thuẫn với mục đích của chủ nghĩa xã hội, vì nhiều doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã làm ăn thua lỗ, đời sống của nhân dân khó khăn. Thứ hai, nâng cao lãi suất tín dụng đến mức bằng hoặc cao hơn tốc độ lạm phát. Tốc độ lạm phát hàng tháng của các năm 1986 - 1987 là 6,1 - 26,5%, trong khi đó lãi suất tín dụng ngắn hạn bình quân tháng là 2,0 - 5,6%, dài hạn là 0,9 - 1,5%. Chính sách lãi suất này đã hạ thấp chức năng của tiền tệ là phương tiện tích lũy. Theo tính toán thì 1 đồng năm 1987 bằng 0,2 xu năm 1976. Lãi suất tín dụng không đủ bù đắp sự giảm giá trị của đồng tiền. Điều này thúc đẩy doanh nghiệp và dân cư tích lũy vật tư hàng hoá và vàng làm cho vật tư hàng hoá và vàng tăng giá. Năm 1987 so với năm 1976 giá vật tư hàng hoá bán lẻ tăng 62.305%, vàng tăng 129.870%. Đầu năm 1988 áp dụng chính sách lãi suất mới đem lại kết quả khả quan: Vốn huy động trong các năm 1988 - 1989 bình quân năm là 1.000 tỉ đồng, chiếm 50% tất cả các nguồn vốn của ngân hàng; dự trữ vật tư hàng hoá giảm 95%; vấn đề thiếu tiền mặt đã được giải quyết dần. Thứ ba, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở sử dụng có hiệu quả nội lực. Đồng thời, để huy động ngoại lực, ngày 29-12-1987 Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài. Để Luật Đầu tư nước ngoài đi vào cuộc sống, Nhà nước ta đã giải quyết nhiều vấn đề: xây dựng mới, bổ sung, sửa đổi các văn bản pháp quy cho phù hợp với Luật Đầu tư nước ngoài và thông lệ quốc tế; rà soát và xây dựng các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội; đào tạo và đào tạo lại cán bộ, nhất là cán bộ làm kinh tế đối ngoại,... Việc thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện cho nước ta không chỉ huy động được số vốn lớn theo nguyên tắc vốn trong nước là chủ yếu, vốn nước ngoài là quan trọng, mà còn tiếp thu được kỹ thuật, công nghệ sản xuất, kinh doanh và quản lý tiên tiến. Nhờ đó, đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và quản lý nhằm chống lạm phát. Lạm phát của nước ta hiện nay Năm 2007 tốc độ tăng GDP đạt mức cao nhất trong 10 năm qua. Nhưng do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, từ quý IV năm 2007 đến nay một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế nước ta đã có những biểu hiện xấu: 1. Chỉ số giá tiêu dùng trong quý IV năm 2007 tăng gần 5%, trong đó tháng 12-2007 tăng lên mức cao nhất là 2,91%. Chỉ số giá tiêu dùng 3 tháng đầu năm 2008, so với tháng 12-2007 tăng 9,19%. 2. Năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 21,9%, nhưng tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 39% và nhập siêu lên tới 29%, chủ yếu vào quý IV năm 2007. Quý I năm 2008 nhập siêu tiếp tục tăng cao tới 56,5%. 3. Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán quý I năm 2007 là 11,13%, quý I năm 2008 chỉ đạt được 5,48%. Trong khi đó tốc độ tăng tổng dư nợ tín dụng năm 2007 là 6,41%, quý I năm 2008 lên đến 10,8%. Điều này chứng tỏ nguồn vốn cho vay đang thiếu hụt. 4. Thị trường chứng khoán hoạt động không ổn định. Chỉ số giá chứng khoán Việt Nam - Index đã xuống mức thấp nhất và hiện nay đã giảm hơn 50%, so với mức cao nhất đã đạt được năm 2006. 5. Đầu tư xây dựng cơ bản gặp khó khăn do giá đầu vào tăng làm tăng chi phí sản xuất và giảm hiệu quả đầu tư đối với đầu tư toàn xã hội, nhất là bằng vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước. 6. Đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn, nhất là các vùng bị bão lũ và rét đậm, rét hại cuối năm 2007 và đầu năm 2008. Giá cả tăng làm giảm thu nhập thực tế của người lao động, trong đó những người nghèo, những người làm công ăn lương và nông dân không có sản xuất hàng hoá hoặc tỉ suất hàng hoá thấp bị ảnh hưởng nhiều nhất. Nguyên nhân khách quan của tình hình trên là: 1. Những tác động của giá dầu thô, giá nhập khẩu xăng dầu, vật tư chủ yếu cho sản xuất, kinh doanh trong quý I năm 2008 tăng từ 30 - 50% so với cùng kỳ năm trước, đã tác động trực tiếp lên chi phí sản xuất, kinh doanh và làm tăng giá đầu ra. Mặt khác, do cung cầu lương thực của nhiều vùng trên thế giới mất cân đối, làm cho giá lương thực, thực phẩm tăng, kéo mặt bằng giá trong nước lên cao. 2. Sự suy thoái của kinh tế Mỹ, tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế lớn khác trong năm 2007 như EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ đều giảm sút so với năm 2006. Tình hình lạm phát trên phạm vi toàn cầu có dấu hiệu tăng lên ngay từ quý IV năm 2007 và tiếp tục gia tăng trong quý I năm 2008. Chỉ số lạm phát ở Trung Quốc năm 2007 là 4,7%, tháng 2-2008 so với cùng kỳ năm trước tăng 8,7%. Hầu hết các nước đang phát triển, các nước trong khu vực ASEAN đều bị tác động. Đối với nước ta, với kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tương đương 170% GDP và nguồn vốn của nước ngoài chiếm 35% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, thì sự suy giảm kinh tế thế giới ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế trong nước. 3. Bão lụt, rét đậm, rét hại và các bệnh dịch cây trồng, gia súc, gia cầm, một số dịch bệnh ở người đã gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống của nhân dân. 4. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta chủ yếu dựa vào đầu tư vốn và lao động; năng suất, chất lượng đóng góp vào tăng trưởng còn thấp. Đây là sự yếu kém nội tại của nền kinh tế. Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là, sự bất cập và yếu kém của hệ thống quản lý Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, lúng túng trong điều hành các vấn đề kinh tế vĩ mô. Điều này thể hiện như sau: 1. Trong các năm trước, nhất là năm 2007 tốc độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng lên rất cao, đưa tiền vào lưu thông rất lớn. Mãi đến quý I năm 2008 mới thực hiện nhiều biện pháp để thu hút tiền về như tăng dự trữ tối thiểu phát hành trái phiếu Ngân hàng Nhà nước, kiểm soát hạn mức tín dụng cho kinh doanh chứng khoán, bất động sản,... Do việc gia tăng tiền tệ của các năm trước quá lớn, nên những biện pháp vừa qua mới có những tác dụng bước đầu, vừa tích cực là đã thu hút được một ít tiền về, vừa hạn chế là một số ngân hàng thương mại thiếu vốn để cho vay, nhất là đối với các hợp đồng tín dụng đã ký trước đó. 2. Ngân sách nhà nước thất thu do gian lận thương mại, trốn lậu thuế, tham nhũng,... Chi ngân sách nhà nước vẫn còn lãng phí và kém hiệu quả, đặc biệt chi cho xây dựng cơ bản và chi thường xuyên. 3. Quản lý đất đai, đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, chứng khoán và bất động sản còn nhiều hạn chế. Trong thời gian ngắn, cho phép thành lập nhiều công ty chứng khoán đã tạo ra những yếu tố tiềm tàng, gây rủi ro cho hệ thống tài chính và nền kinh tế. Việc giám sát các tập đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước chưa chặt chẽ, làm giảm hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực của Nhà nước, gây tình trạng độc quyền đẩy giá lên cao. 4. Việc điều chỉnh tăng giá xăng dầu và vật tư chủ yếu khác theo giá thị trường do tác động của giá cả thế giới là cần thiết, nhưng chưa có lộ trình thích hợp và điều chỉnh linh hoạt nên cũng có tác dụng đẩy giá lên cao. Như vậy, nguyên nhân lạm phát của nước ta hiện nay vừa do khách quan, vừa do chủ quan, vừa do quản lý vĩ mô, vừa do hoạt động của nền kinh tế. Tình hình trên đã ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển sản xuất và đời sống của các tầng lớp nhân dân, đe dọa đến phát triển bền vững của đất nước. Chính phủ đã xác định rõ trách nhiệm và đề ra 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát. Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã kêu gọi các cấp, các ngành, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các doanh nghiệp, đồng bào và chiến sĩ cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài hãy đồng tâm hiệp lực cùng với Đảng, Nhà nước thực hiện có hiệu quả các chủ trương, giải pháp kiềm chế lạm phát. Các nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ rất đồng bộ và đầy đủ. Tuy nhiên, để các nhóm giải pháp này đi vào cuộc sống cần phải cụ thể hoá bằng chương trình hành động kiềm chế lạm phát. Khi xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình hành động kiềm chế lạm phát cần lưu ý mấy vấn đề chủ yếu: 1. Trong chương trình hành động của Chính phủ, các bộ, các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp cần xác định rõ từng giải pháp cụ thể, bộ phận chủ trì, bộ phận phối hợp, người chỉ đạo thực hiện giải pháp, thời gian bắt đầu thực hiện, thời gian thu được kết quả bước đầu: định tính và định lượng (nếu có thể). 2. Việc xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình hành động phải bảo đảm: tập trung được trí tuệ của cán bộ, công nhân, viên chức, phát huy dân chủ, nghiên cứu sâu, thảo luận kỹ để tìm cách làm hiệu quả nhất; tạo ra sự nhất trí cao trong cơ quan, đơn vị để tổ chức thực hiện tốt nhất; tránh tình trạng chung chung, nhất là cấp dưới không cụ thể hoá được các giải pháp của cấp trên và dẫn đến chỗ không rõ việc cụ thể gì phải làm, ai làm, ai phối hợp, ai chỉ đạo, bằng cách gì, bao giờ bắt đầu, bao giờ kết thúc. 3. Sau khi có chương trình hành động thì cần công khai chương trình này trong cơ quan, đơn vị để cán bộ, công nhân, viên chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Việc xây dựng chương trình hành động theo trình tự trên sẽ tạo điều kiện cho Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận tham gia kiềm chế lạm phát từ khâu xây dựng chương trình hành động đến khâu tổ chức thực hiện chương trình hành động, thực hiện tốt chức năng phản biện xã hội, giám sát xã hội trong suốt quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình hành động. Cũng theo cách làm này sẽ tạo ra sự nhất trí cao, phát huy truyền thống đoàn kết, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, khắc phục khó khăn, thử thách, phát triển sản xuất, kinh doanh, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chăm lo đời sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị bảo đảm cho đất nước phát triển bền vững nhằm thực hiện tốt nhất lời kêu gọi của Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về vận động toàn dân tham gia kiềm chế lạm phát. _______________ Nguyên nhân tiền tệ của lạm phát 03:02-20/09/2007 Qua theo dõi diễn biến kinh tế và một số động thái chính sách của Việt Nam trong những năm gần đây, có đối chiếu trên những khía cạnh tương tự với một số nước trong khu vực, chúng tôi đi đến nhận định rằng tình trạng lạm phát hiện nay ở Việt Nam là hậu quả tổng hợp của một số hiện tượng kinh tế đặc thù đi liền với sự kết hợp thiếu đồng bộ giữa một số chính sách vĩ mô trong thời gian qua. Từ những tháng giữa năm nay, khi mức tăng giá chung trở thành một mối quan tâm rộng rãi của xã hội, đã có nhiều cuộc thảo luận sôi nổi xung quanh vấn đề lạm phát, chẳng hạn như nguyên nhân chủ yếu của lạm phát, tác động của lạm phát và chính sách chống lạm phát. Vào cuối tháng 8/2007, một chuyên gia cao cấp có uy tín của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thừa nhận nguyên nhân chủ yếu của lạm phát là do tăng cung tiền(1). Điều này có lẽ không gây ngạc nhiên trong giới quan sát, nhưng dường như nó giúp những cuộc thảo luận bớt lan man hơn. Trong bài viết này, chúng tôi mong muốn thảo luận thêm đôi chút về nguyên nhân tiền tệ của tình trạng lạm phát hiện nay. Nội dung chủ yếu trong lập luận của chúng tôi là tình hình lạm phát hiện nay là hậu quả tổng hợp của một số hiện tượng kinh tế đặc thù đi liền với sự kết hợp thiếu đồng bộ giữa một số chính sách vĩ mô trong thời gian qua. Hiện tượng kinh tế đặc thù được lưu ý ở đây là sự tăng trưởng mạnh mẽ của kiều hối (bao gồm một phần rất lớn và ngày càng tăng tiền gửi của người đi xuất khẩu lao động), kết hợp với sự tăng trưởng của dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam. Một sự kết hợp nữa là trong năm 2006, quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và sự phát triển của thị trường chứng khoán đã đạt những bước phát triển lớn, khiến Việt Nam trở thành một địa điểm hấp dẫn và dòng vốn đầu tư gián tiếp chảy mạnh vào nước ta. Theo ước lượng không chính thức, có khoảng hơn 5 tỷ USD kiều hối đã được gửi về, và khoảng 1 đến 2 tỷ USD vốn đầu tư gián tiếp đã được chuyển vào trong nước trong năm 2006 và những tháng đầu năm 2007. Các chính sách kết hợp không đồng bộ, theo chúng tôi, bao gồm hai chính sách lớn sau: (1) chính sách tăng trưởng cung tiền và tín dụng theo đà của các năm trước, (2) chính sách neo tỷ giá ổn định theo đồng USD thông qua can thiệp của NHNN trên thị trường ngoại hối. Ảnh hưởng của sự gia tăng ồ ạt dòng ngoại hối dưới chế độ tỷ giá (tương đối) cố định Một đặc điểm vĩ mô quan trọng bậc nhất của Việt Nam gần đây có lẽ là sự gia tăng nhanh chóng của dòng tiền gửi về từ nước ngoài, trong đó một phần rất lớn từ người đi lao động (tạm gọi tất cả các khoản tiền gửi kiểu này là kiều hối). Xét trên phương diện quy mô to lớn tương đối của dòng kiều hối, thì Việt Nam chỉ đứng sau Philippines là nước trong khu vực đã có truyền thống xuất khẩu lao động từ lâu, và có những đặc điểm kinh tế khá tương đồng. Philippines hàng năm nhận một lượng kiều hối nhiều hơn Việt Nam rất nhiều kể cả tương đối (so với GDP) lẫn tuyệt đối (vì GDP của Philippines lớn hơn của Việt Nam khoảng 1.5 lần). Tuy nhiên, xét trên mối tương quan với GDP, thâm hụt thương mại của Philippines khá trầm trọng, cộng với các khoản trả lãi vay nước ngoài tương đối lớn, nên có thể nói dòng kiều hối chủ yếu được dùng để tài trợ cho khoản thâm hụt này trong tài khoản vãng lai. Kết quả là bất chấp lượng kiều hối khổng lồ chuyển về mỗi năm, cán cân vãng lai chỉ thặng dư khoảng từ 2% đến dưới 3% GDP.   Trong khi đó, ở Việt Nam, tuy tỷ trọng kiều hối không lớn như ở Philippines, nhưng thâm hụt thương mại, mặc dù đang trở nên rất đáng lưu ý, vẫn chưa trầm trọng như ở nước này, nên cán cân vãng lai được cải thiện đáng kể trong những năm gần đây, và kể từ năm 2005 có khuynh hướng thặng dư (nhưng còn ở mức thấp hơn nhiều so với Philippines). Tuy nhiên, một đặc điểm của Việt Nam mà Philippines không có là cán cân tư bản gần đây luôn thặng dư rất đáng kể, đã dẫn tới khả năng dư thừa ngoại hối thậm chí lớn hơn ở Philippines. Để giữ tỷ giá neo tương đối ổn định vào đồng USD, cơ quan tiền tệ Việt Nam đã liên tục mua lượng ngoại hối thặng dư trên thị trường. Kết quả là dự trữ ngoại tệ mỗi năm đã tăng lên rất mạnh, chẳng hạn như năm 2005 tăng thêm 4% GDP, còn năm 2006 gần 5% GDP. Như vậy, có thể nói một đặc điểm quan trọng của Việt Nam gần đây là sự tăng trưởng nhanh chóng của cả hai dòng tiền từ bên ngoài là kiều hối và đầu tư nước ngoài.  Kết quả là, để giữ cho đồng Việt Nam không lên giá quá nhanh, cơ quan tiền tệ Việt Nam (theo các tuyên bố trên báo chí) đã mua vào trong sáu tháng đầu năm 2007 khoảng hơn 7 tỷ USD (14% GDP). Chính sách này đã làm tăng mạnh lượng tiền Việt được đưa vào lưu thông. Điều này đuợc coi là nguyên nhân hàng đầu gây nên tình trạng lạm phát hiện nay. (Về nguyên nhân gây phản ứng chính sách, xem thêm Hình 1)   Tầm quan trọng của chính sách tiền tệ đồng bộ Tuy nhiên, một câu hỏi lập tức được đặt ra là: Vì sao, ở một số nền kinh tế khác, cụ thể là Trung Quốc, cơ quan tiền tệ cũng phải đối mặt với lượng thặng dự ngoại tệ hằng năm rất lớn (chủ yếu từ thặng dư thương mại), trong khi vẫn giữ vững quyết tâm can thiệp để neo đồng nội tệ ổn định vào USD, lại không xuất hiện tình trạng lạm phát cao như ở Việt Nam? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải xem xét chính sách tiền tệ gần đây của Trung Quốc và đối chiếu nó với tình hình Việt Nam. Mức tăng CPI ở Trung Quốc trong những năm vừa qua ở mức rất “lý tưởng,” chỉ từ 0,7% (2001) đến 3,9% (2004) và năm 2006 chỉ là 1,5% - trong khi tăng trưởng kinh tế vẫn hầu như ở mức hai con số. Cần lưu ý ngay rằng, nước này cũng phải đối mặt với các vấn đề liên quan đến “chi phí đẩy,” như là giá cả các mặt hàng thiết yếu và năng lượng trên thế giới tăng không khác gì, thậm chí có thể lớn hơn, so với Việt Nam. Việc đối chiếu chính sách tiền tệ gần đây cùng xem xét những hậu quả tương ứng của nó ở Trung Quốc và Việt Nam sẽ đem lại một minh hoạ thú vị, cho thấy vì sao lạm phát (dai dẳng) luôn là một hiện tượng tiền tệ. Điều có ý nghĩa quan trọng bậc nhất có lẽ nằm trong tốc độ tăng trưởng tiền tệ và tín dụng. Theo các báo cáo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Trung Quốc đã rất thận trọng trong tăng trưởng tín dụng và tiền tệ, chỉ vào khoảng 15% mỗi năm, kể từ 2004. Trước đó, sự tăng trưởng này cũng chỉ ở dưới mức 20%. Trong khi đó, tăng trưởng tiền tệ của Việt Nam vốn đã ở mức cao (trên 20%) từ năm 2001, lại có xu hướng tăng ngày càng tăng nhanh hơn, đạt mức 30% trong hai năm 2004 và 2005. Thêm vào đó, tín dụng còn được mở rộng nhanh và vững chắc hơn rất nhiều: tăng trưởng hơn 20% vào năm 2001, rồi liên tục được gia tốc, lên đến đỉnh cao năm 2004 ở mức 40%, và năm 2005 vẫn ở mức 30%. Thực tiễn cho thấy một kết quả thú vị là, mặc dù cả hai nước đều có tăng trưởng rất mạnh trong dự trữ ngoại hối, nhưng Trung Quốc vẫn duy trì một mức lạm phát nhẹ, trong khi Việt Nam luôn phải gánh chịu lạm phát cao (trên 8%) liên tiếp kể từ năm 2004. Thêm vào đó, tăng trưởng ở Trung Quốc vẫn được giữ ở mức cao (hơn Việt Nam), thặng dư thương mại lớn (dự trữ ngoại hối đã tăng ngoạn mục từ mức 16.5% năm 2001 lên 36.6% GDP vào năm 2005), và giá trị đồng nội tệ ổn định (tỷ giá danh nghĩa chỉ giảm khoảng 2.5% trong giai đoạn 2001-2005). Như vậy, có cơ sở để nhận định rằng Việt Nam đã thực hiện chính sách can thiệp tăng dự trữ ngoại tệ nhưng không đồng thời thắt chặt tiền tệ, nên đã dẫn tới lạm phát cao. Trong khi đó, Trung Quốc đã thực hiện thắt chặt tiền tệ rất có chủ ý để kết hợp hài hoà với chính sách giữ ổn định đồng Nhân dân tệ, và đã thành công trong việc kiềm chế lạm phát. Trường hợp Trung Quốc cho thấy bài học đáng giá rằng kiểm soát tăng trưởng tiền tệ và tín dụng vẫn là phương tiện căn bản, quan trọng và hữu hiệu hàng đầu giúp kiểm soát lạm phát. Một bài học nữa có thể được rút ra, là sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách vĩ mô có ý nghĩa quan trọng. Cụ thể trong trường hợp này, khi cơ quan tiền tệ đã xác định có kế hoạch mua vào một lượng ngoại tệ lớn, thì nó cũng đồng thời phải dự trù một kế hoạch thắt chặt cung tiền một cách hài hoà từ trước đó. Một số gợi ý chính sách Tóm lại, có thể hình dung "con đường lạm phát" những năm qua như sau: - Một hiện tượng kinh tế đặc thù trong những năm gần đây của Việt Nam là sự tăng trưởng mạnh của các dòng tiền từ nước ngoài (bên cạnh những dòng tiền truyền thống như dòng vốn đầu tư trực tiếp và tiền của Việt kiều, còn có tiền gửi về của người Việt lao động ở nước ngoài và vốn đầu tư gián tiếp). - Để giữ đồng tiền Việt ổn định (nhằm giữ lợi thế cho xuất khẩu), cơ quan tiền tệ Việt Nam đã phải mua vào ngoại tệ với lượng ngày càng lớn. Do đó, hằng năm một lượng lớn tiền đã được đẩy vào lưu thông. Lượng tiền này có thể lên tới 15% GDP hoặc hơn. - Một chính sách nên được tiến hành đồng bộ với chính sách trên là thắt chặt hợp lý tăng trưởng tiền tệ và tín dụng. Nhưng trong thời gian vừa qua, nó đã không được thực hiện. - Kết quả là lạm phát đã trở thành một hiện tượng kinh niên (ở mức cao, trên 8%) kể từ năm 2004. Trên cơ sở những luận điểm như vậy, chúng tôi khuyến nghị những giải pháp như sau: 1. Lạm phát hiện nay ở nước ta nên được xem xét nghiêm túc và thẳng thắn là có căn nguyên từ chính sách tiền tệ. Trên cơ sở đó, các chính sách chống lạm phát nên mang tính tiền tệ. Điều ấy đồng nghĩa với việc nên hạn chế sử dụng chính sách tài khóa (như giảm thuế một số mặt hàng được quan sát thấy là tăng nhanh nhất), hay chính sách hành chính (đốc thúc doanh nghiệp, kêu gọi sự hỗ trợ của người dân). Chúng tôi cho rằng các biện pháp tài khoá và hành chính đều mang tính thoả hiệp, tạm thời và có khuynh hướng che đậy bản chất thực sự của lạm phát. Đi kèm với nó là chi phí cao, hiệu quả thấp. 2. Các biện pháp tiền tệ mang tính gốc rễ là giảm tốc độ tăng tiền và tín dụng. Các biện pháp như tăng dự trữ bắt buộc hay phát hành trái phiếu chỉ nên coi là tức thời và cục bộ mà thôi. Ví dụ, chính sách tăng dự trữ bắt buộc khiến khối ngân hàng gánh nhiều chi phí hơn các khu vực khác trong công cuộc chống lạm phát. Ngược lại, việc cắt giảm tín dụng và cung tiền trên toàn nền kinh tế, áp dụng cho toàn bộ các thành phần kinh tế, sẽ san sẻ chi phí chống lạm phát một cách bình đẳng hơn. 3. Bên cạnh cam kết chống lạm phát đã được thể hiện rõ ràng của chính phủ, cần công khai các biện pháp cụ thể để thể hiện cam kết là đáng tin cậy, đồng thời ràng buộc chính phủ vào cam kết đó. Điều này sẽ giúp người dân hình thành kỳ vọng về mức lạm phát thấp trong tương lai (nếu họ biết và tin các chính sách là đúng đắn và cứng rắn), dẫn đến khả năng thành công dễ dàng hơn của chính sách chống lạm phát. (Một chính sách chỉ có hiệu lực khi người ta tin là nó có hiệu lực). 4. Không nên duy trì quan điểm cho rằng lạm phát thấp hơn mức tăng trưởng GDP là tốt, mà có lẽ chỉ nên coi đây như một kinh nghiệm để phấn đấu khi lạm phát đã thành một sự đã rồi. Hiện nay chưa tìm thấy căn cứ khoa học cho luận điểm nêu trên, do đó, chúng ta không nên tự ràng buộc mục tiêu lạm phát vào một giới hạn khá dễ dãi (khoảng 8%), để rồi lại bị cuốn vào nỗi lo con rồng sẽ giật đứt dây xích như hiện nay. (Xin cảm ơn TS Vũ Quang Việt, nhóm Vietnam Economic Society về những góp ý và thảo luận hữu ích cho bài báo này). -------- Lạm phát hiện nay - nguyên nhân và giải pháp (Số 17/2007) PGS.TS Ngô Hướng Trong mấy tháng qua, giá cả các mặt hàng tiêu dùng đang tăng lên khá nhanh (7 tháng đầu năm chỉ số giá tiêu dùng tăng 6,19%) làm các nhà quản lý vĩ mô lo ngại, người tiêu dùng có thu nhập cố định gặp nhiều khó khăn, người gửi tiền tiết kiệm lo âu vì thấy tài sản mình bị hao hụt dần đi theo tỉ lệ lạm phát. Tất nhiên là mọi người đều lo lắng và muốn tìm ra giải pháp để chống lại lạm phát. Nhưng để chống lại lạm phát, điều trước tiên là phải xem xét lạm phát hiện nay do nguyên nhân gì? Nhìn bề ngoài, ta thấy lạm phát hiện nay chịu ảnh hưởng không nhỏ từ sự tăng giá của các hàng hoá nhập khẩu, như xăng dầu, sắt thép, thuốc tây,... Những mặt hàng sản xuất trong nước sử dụng nhiều nguyên liệu nhập khẩu sẽ bị tác động do chi phí sản xuất tăng. Nguyên nhân được mọi người nhìn nhận khá thống nhất là dịch bệnh gia súc làm ảnh hưởng đến đàn gà, lợn của cả nước. Thiên tai, lũ lụt cũng là một nguyên nhân được nhắc đến như là những tác nhân chính gây ra lạm phát. Nguyên nhân về tiền tệ được xem như nguyên nhân của mọi nguyên nhân? Vì không có sức mua thì làm sao bán được hàng hoá giá cao? Tôi cho rằng các nhận định trên không có gì là sai, song những nguyên nhân nói trên theo tôi chưa phải là những nguyên nhân quyết định gây ra lạm phát hiện nay. Chúng tôi cho rằng nguyên nhân quyết định của lạm phát hiện nay là sự phân phối lại thu nhập quốc dân. Sự phân phối lại thu nhập quốc dân đó mang tính quy luật trong nền kinh tế thị trường. Sự phân phối lại thu nhập quốc dân đó do đâu mà có? Điều đó được lý giải như sau. Trong thời gian qua, nền kinh tế nước ta đã có một bước phát triển có thể nói là thần kỳ. Nền kinh tế phát triển tất nhiên dẫn đến thu nhập quốc dân tăng lên. Tuy nhiên, phân phối thu nhập trong nền kinh tế đến tay các thành viên xã hội rất không đồng đều. Những người có cơ hội thuận lợi đã thu được một khoản thu nhập khổng lồ , như những người kinh doanh chứng khoán, kinh doanh nhà đất, các công ty kinh doanh trong các ngành thuận lợi như ngân hàng, đầu tư tài chính,... xuất nhập khẩu, một số ngành sản xuất cũng phát triển nhanh như nuôi thuỷ sản, cao su, cà phê,... Nhiều ngành kinh doanh sản xuất phát triển, tất nhiên thu nhập cá nhân và thu nhập của toàn nền kinh tế tăng lên đã tạo ra một áp lực tiêu dùng mạnh mẽ. Điều này đòi hỏi sự phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp khác nhau trong xã hội để tạo ra sự cân đối mới. Trong đó, người có thu thập cao sẵn sàng tiêu dùng những hàng hoá thiết yếu như lương thực, thực phẩm, quần áo với giá cao hơn. Và những người sản xuất lương thực, thực phẩm,... họ cũng biết rằng mình phải đòi ở người thu nhập cao phải trả cho sản phẩm của mình với giá cao hơn. Nếu điều đó không xẩy ra hoặc xẩy ra chậm nó sẽ tác động đến chuyển dịch cơ cấu sản xuất của nền kinh tế. Ví dụ như, người nông dân sẵn sàn chuyển đất trồng lúa sang nuôi cá tra, vì giá lúa không tăng và giá cá tra thì đang tăng. Việc chuyển dịch cơ cấu như vậy sẽ làm cho sản lượng lúa giảm đi và giá lúa sẽ tăng lên. Giá lúa tăng tất yếu giá gạo sẽ tăng. Không thể giá chứng khoán thì cứ tăng lên đến chóng mặt, giá nhà đất tăng lên đến trời xanh,... mà giá lương thực thực phẩm thì không tăng. Nếu điều đó xẩy ra thì ai sẽ sản xuất lương thực, thực phẩm? Cơ hội tăng thu nhập trong nền kinh tế thị trường cho mỗi người là tương đương nhau. Nhưng người nắm được cơ hội đó thì không giống nhau. Vì vậy, người ta phải phân phối lại thu nhập để cùng tồn tại. Không có một tầng lớp nào lại tự sống một cách cách sung túc mà không có sự phục vụ của các tầng lớp khác. Vì vậy, sự tăng giá gạo, tăng giá thịt, cá, rau,... là hợp đạo lý, là quy luật tồn tại của xã hội. Bên cạnh sự phát triển kinh tế, tầng lớp giàu có của xã hội tăng lên cũng khá nhanh chóng. Chỉ cần nhìn vào tốc độ xây dựng nhà ở của các đô thị hiện nay là có thể thấy được sự giàu lên nhanh chóng của một tầng lớp người trong nền kinh tế hiện nay. Sự giàu có đó đã làm phát sinh nhu cầu được phục vụ cao hơn :Ví dụ, thay vì mua thực phẩm ở chợ, người ta mua thực phẩm ở các siêu thị, mặc dù thực phẩm ở siêu thị có giá cao hơn nhiều so với giá cả ở các chợ. Ngày nay, không ít người thích mua sắm ở siêu thị vì ở đó, họ được phục vụ chu đáo. Hàng hoá được thu mua để đưa vào siêu thị được chọn lựa kĩ càng hơn và tất nhiên được thu mua với giá cao hơn. Điều này đã kích giá bán các loại nông sản, thuỷ sản, các loại hàng hoá có khả năng chen chân vào các siêu thị, nhất là các loại hàng hoá cơ bản của nền kinh tế như lương thực, thực phẩm. Sự gia tăng xuất khẩu cũng có một tác động rất lớn đến sự tăng giá cả trong nước. Những hàng hoá được xuất khẩu phải là những hàng hoá có giá trong nước rẻ hơn giá trên thị trường thế giới. Khi cầu hàng hoá xuất tăng, tất yếu sẽ làm cho giá cả của mặt hàng đó trong nước cũng tăng theo. Nếu người trong nước không chấp nhận mua với giá cao như giá mua để xuất khẩu thì họ sẽ không thể tiêu dùng được hàng hoá đó. Ví dụ, như nhà thu mua xuất khẩu sẵn sàng mua cá tra với giá 15.000đ/kg thì người tiêu dùng trong nước cũng phải tiêu thụ theo giá đó. Vì vậy, khi tốc độ xuất khẩu của nền kinh tế tăng nhanh thì giá cả trong nước tăng nhanh không có gì là lạ. Một nguyên nhân khác làm cho giá cả tăng đó là ngành du lịch phát triển mạnh. Có thể nói trong vài năm trở lại đây, người Việt Nam đã bắt đầu có thói quen du lịch. Mà đã đi du lịch thì có thể sẵn sàng chấp nhận tiêu dùng với giá cao hơn bình thường 5-10% là không có gì kỳ lạ. Hơn nữa, khách du lịch nước ngoài đến nước ta ngày càng đông và họ rất thích các loại thực phẩm tươi sống như thuỷ sản ở nước ta. Rõ ràng, điều đó làm cho giá cả tiêu dùng trong nước tăng lên là điều không có gì lạ. Nạn tham nhũng, cửa quyền trong xã hội cũng có tác động mạnh mẽ đến sự gia tăng chi phí xã hội và qua đó làm gia tăng giá cả một cách đột biến như hiện nay. Nhu cầu xã hội về lương thực thực phẩm tăng như vậy thì không có lý do gì người nông dân lại không tăng giá bán của lương thực thực phẩm lên, để nâng cao mức sống của giai cấp nông dân lên. Chẳng lẽ người nông dân cứ vẫn nghèo mãi từ đời này sang đời khác, trong lúc các tầng lớp xã hội khác thì đang giàu lên nhanh chóng? Do đó, chúng tôi thấy lạm phát hiện nay là phù hợp quy luật phân phối lại thu nhập quốc dân. Vậy những người không có điều kiện để nâng cao thu nhập thì làm sao? Ví dụ như công chức, công nhân,...? Và như vậy, có cần phải chống lạm phát không? Quan điểm của chúng tôi là không nên quá lo lắng về sự gia tăng giá cả hiện nay, mà cần bình tĩnh nhận định các nguyên nhân cơ bản của lạm phát hiện nay để có biện pháp thích hợp và hiệu quả. Trước hết và rất quan trọng đó là phải cải cách và thực hiện các quy trình hành chính minh bạch làm cho các thủ tục hành chính được vận hành đơn giản, ít tốn kém thời gian và tiền của của các cơ quan nhà nước, cũng như của nhân dân. Tuy nhiên, để việc cải cách và thực hiện các quy trình hành chính minh bạch và hiệu quả, nhất thiết phải cải cách cơ chế tài chính nhà nước hiện nay. Trong cải cách cơ chế tài chính thì cải cách tiền lương là quan trọng bậc nhất và sau đó là cải cách việc phê duyệt, thanh tra, quyết toán chi tiêu của các cơ quan hành chính sự nghiệp. Không làm tốt các điều trên nhất định sẽ tiềm ẩn tham nhũng và tiềm ẩn lạm phát. Đối với các nguyên nhân khách quan như giá cả hàng hoá nhập khẩu tăng do giá thị trường thế giới tăng, giá tăng do nhu cầu tiêu dùng tăng cả về lượng và chất, giá tăng do xuất khẩu tăng,... thì phải sử dụng các giải pháp có tính bền vững, như: Phải trợ cấp bù giá vào lương, vào thu nhập cho những người có thu nhập không tăng. Chúng tôi cho rằng Nhà nước cần phải kiên quyết trong việc thực hiện thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và sử dụng khoản thu này để bù đắp cho những người bị thiệt hại do lạm phát. Ví dụ, như cần phải thu thuế thu nhập của những người mua bán chứng khoán, mua bán nhà đất, những người kinh doanh trong các ngành có lợi tức cao để tăng lương, tăng thu nhập cho các tầng lớp dân cư có thu nhập cố định. Đối với những mặt hàng thiết yếu của nền kinh tế, không nên đánh thuế cao, chỉ giữ thuế suất ở một mức thấp khoảng 5% trở xuống để tạo nguồn thu cho ngân sách. Việc giảm thuế phải gắn với đáp ứng cầu, nếu không sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu cơ thu lợi nhuận siêu ngạch, mà người tiêu dùng thì vẫn phải chịu mức giá cao, Nhà nước thì thất thu thuế. Đối với những ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu có nhu cầu cao, cần có chính sách khuyến khích tăng cung, nhằm giảm giá thu mua trong nước. Cần có một chính sách tiền tệ bám chặt nhu cầu phát triển sản xuất của nền kinh tế, trong đó không khuyến khích sự tăng giá của các sản phẩm tài chính như cổ phiếu. Nhà nước cần phải có những khuyến cáo nhất định để cho giá chứng khoán không thoát ly lợi tức thực quá xa, gây ra phong trào đầu cơ vào thị trường thứ cấp quá lớn, trong lúc đó, thị trường sơ cấp thì không tăng, hoặc tăng chậm. Nhất thiết phải gắn giá trị chứng khoán với giá trị của doanh nghiệp một cách hợp lý và bền vững, không để xẩy ra sự đổ vỡ của thị trường chứng khoán. Ngày 25/09/2007 Kiềm chế lạm phát: Ngày nay nhớ chuyện trước đây n Hồ Vũ Gần đây ở đâu người ta cũng nói đến giá cả gia tăng, lạm phát ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng đáng kể tới sản xuất và cuộc sống của mọi người. >>Lạm phát: Tiền tệ có là nguyên nhân duy nhất? Đây không phải là lần đầu nước ta lâm vào lạm phát; nó đã xẩy ra vào đầu những năm 50 trong vùng tự do và vào những năm 80 thế kỷ trước. So sánh lạm phát và cách chữa trị ngày nay với những gì đã xảy ra khoảng 20 năm trước đây có thể gợi mở nhiều điều bổ ích. Về mức độ mà nói thì lạm phát hai thời kỳ khác nhau một trời một vực: năm 1986 chỉ số giá tiêu dùng tăng tới 874,7%, còn năm 2007 chỉ tăng 12,63%. Tuy mức độ có khác nhau song lạm phát ở thời nào và nước nào cũng đều bắt nguồn từ sự mất cân đối trên 4 mặt chủ yếu: sản xuất và tiêu dùng, hàng và tiền, thu và chi ngân sách, xuất và nhập khẩu. Qua sự tranh luận sôi nổi, mò mẫm gian nan, biện pháp đa dạng, nạn lạm phát phi mã đã từng bước được kiềm chế nhờ lấy lại được sự cân bằng tương đối ở cả 4 mặt trên và tới năm 1993 đã giảm xuống còn một con số (8,5%). Xử lý đồng bộ các cân đối vĩ mô của nền kinh tế Thứ nhất, quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng. Một trong những đề tài gây tranh cãi gay gắt nhất lúc đó là có duy trì hay không chế độ phân phối theo định lượng, có thực thi chính sách một giá hay vẫn duy trì cơ chế hai giá? Cuối cùng đã xoá bỏ chế độ tem phiếu và chuyển sang cơ chế một giá đi đôi với việc bù giá vào lương cho những người làm công ăn lương. Kết quả là đã tiết chế được tiêu dùng, rõ nhất là về lương thực, thực phẩm vì trước đó ai cũng tận dụng hết phần mình được phân phối để bán ra chợ đen phần không dùng hết lấy chênh lệch; sau khi xoá bỏ tem phiếu, chuyển sang mua bán theo giá thị trường thì người ta chỉ mua theo nhu cầu thực tế, còn người sản xuất phấn khởi sản xuất vì không còn bị thu mua như cướp nữa. Đi đôi với những biện pháp tiết chế tiêu dùng là những quyết sách khuyến khích sản xuất như "khoán 10", "khoán 100" trong nông nghiệp, "kế hoạch ba" trong công nghiệp, xoá bỏ tình trạng "ngăn sông cấm chợ" trong phân phối lưu thông. Nhờ những biện pháp trên, tình trạng mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng đã được khắc phục về cơ bản. Ngày nay, không còn tình trạng mất cân đối nghiêm trọng và toàn diện giữa sản xuất và tiêu dùng như hai thập kỷ trước đây, chỉ còn xẩy ra hiện tượng mất cân đối cục bộ về mặt hàng này hay mặt hàng khác và vào những thời điểm nhất định do dịch bệnh, thiên tai hay biến động giá cả trên thế giới...; các công cụ áp dụng trước đây như bỏ tem phiếu, chuyển sang một giá, khoán sản phẩm... không còn. Tuy nhiên, vẫn cần tìm ra những biện pháp thích hợp để tiết chế tiêu dùng vì vừa qua tiêu dùng tăng quá nhanh và quá cao; năm 2007 tổng mức bán lẻ tăng tới 23,3%, tức là cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP đến gần 3 lần và gần gấp đôi mức tăng của những năm trước, hai tháng đầu năm nay con số đó còn cao hơn nữa. Mặt khác cũng nên ra sức tháo gỡ mọi vướng mắc đối với sản xuất cho dù cơ chế ngày nay đã thông thoáng hơn trước nhiều. Thứ hai, quan hệ giữa hàng và tiền. Đương nhiên, để kiềm chế lạm phát thì các biện pháp tiền tệ vẫn đóng vai trò cốt tử. Trong cuộc chiến chống lạm phát vào giữa những năm 80 thế kỷ trước, giá-lương-tiền trở thành tâm điểm nóng bỏng nhất; do xử lý không phù hợp đã đưa tới những sự đổ vỡ tai hại. Cuối cùng, cũng đã hành động theo đúng quy luật bằng cách chấm dứt việc in tiền tung vào lưu thông quá nhiều, tăng lãi suất tiền gửi cao hơn chỉ số lạm phát để hút tiền về, gia tăng vòng quay của đồng tiền, nhờ vậy đã góp phần lấy lại được sự cân bằng tương đối giữa tiền với hàng. Xem ra những biện pháp gần đây của Ngân hàng Nhà nước cũng đã đi theo hướng này. Chỉ có điều hoàn cảnh ngày nay đã khác trước. Nếu như những năm 80 thế kỷ trước chỉ có Ngân hàng Nhà nước, thậm chí chưa có ngân hàng thương mại theo đúng nghĩa của nó nên tương đối dễ điều hành. Ngày nay, đã xuất hiện mấy chục ngân hàng lớn nhỏ trong và ngoài quốc doanh, thậm chí cả ngân hàng nước ngoài; trong quá trình hoàn thiện thể chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta lại dành ưu tiên cao cho việc phát triển và hoàn thiện hệ thống ngân hàng, do đó các biện pháp tài chính-tiền tệ được sử dụng để kiểm soát lạm phát lại phải tính đến cả yêu cầu này. Sự khác biệt thứ hai là hai thập kỷ trước nước ta còn bị bao vây cấm vận và ta cũng chưa hề nghĩ đến việc mở cửa lĩnh vực ngân hàng, dòng vốn bên ngoài hầu như chưa vào Việt Nam; ngày nay, dòng vốn ấy đang đổ vào qua cả 4 kênh: đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, viện trợ phát triển và kiều hối, do đó những biện pháp tiền tệ cần được xử lý sao cho có thể tận dụng được những nguồn vốn này để phát triển và gia tăng dự trữ ngoại tệ. Đó là chưa kể ta lại phải kiềm chế lạm phát trong bối cảnh nền kinh tế nước ta bị "đô la hoá" khá cao, đồng đô la Mỹ đang mất giá và lạm phát đang là hiện tượng toàn cầu; điều đó đòi hỏi việc sử dụng các công cụ tiền tệ để kiềm chế lạm phát phải làm sao hạn chế được tác động xấu của những hiện tượng này. Sự khác biệt thứ ba là ngày nay nền kinh tế nước ta có nhiều thành phần, trong đó hàng nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động với hiệu quả khá cao, đóng góp cho sự tăng trưởng, đồng thời đã xuất hiện thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản; mọi động thái về tài chính- tiền tệ đều cần tính đến tác động tới các thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các thị trường khác. Thứ ba, quan hệ giữa thu và chi ngân sách. Hai thập kỷ trước sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách nghiêm trọng hơn nhiều, năm 1986 thu chỉ bảo đảm 75% chi, trong đó phần chi bù lỗ cho sản xuất rất cao, do đó một trong những biện pháp chống lạm phát lúc bấy giờ là thu hẹp mạnh mẽ khoản bao cấp này, kể cả bao cấp qua giá. Ngày nay, thâm hụt ngân sách không còn cao như trước, cũng không còn tình trạng bao cấp tràn lan, nhưng điều đó không có nghĩa là không còn dư địa để cải thiện cán cân ngân sách, nhất là thực hành tiết kiệm, cắt giảm hoặc giãn tiến độ các khoản đầu tư từ ngân sách Nhà nước nhưng chưa hoặc không đem lại hiệu quả, những công trình và những hoạt động mang tính phô trương, lãng phí. Thứ tư, quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Tình trạng nhập siêu cũng là một tác nhân góp phần gây lạm phát. Năm 1986 xuất được có 800 triệu USD nhưng nhập tới 2,2 tỷ, do đó một trong những biện pháp kiềm chế lạm phát lúc đó là giảm nhập siêu bằng hai loại công cụ chủ yếu: xoá bỏ cơ chế hai tỷ giá, chuyển sang cơ chế một tỷ giá theo quy luật cung cầu trên thị trường đi đôi với việc xoá bỏ chế độ độc quyền ngoại thương của Bộ Ngoại thương, cho phép các bộ, ngành và các địa phương kinh doanh xuất-nhập khẩu, thả lỏng việc nhập hàng phi mậu dịch. Kết quả là năm 1992 nước ta đã xuất siêu (đây là năm duy nhất trong hơn 20 năm qua nước ta xuất siêu!). Tiếc rằng, trong những năm qua nước ta nhập siêu ngày càng lớn. Đành rằng trong hoàn cảnh hiện nay chúng ta buộc phải chấp nhận tình trạng này ở mức độ nhất định vì nhiều loại thiết bị, nguyên-nhiên-vật liệu chúng ta chưa sản xuất được hoặc sản xuất không đủ để bảo đảm sản xuất và tiêu dùng nhưng không thể xem nhẹ tình trạng nhập siêu. Để khắc phục phần nào tình trạng nhập siêu thì kinh nghiệm cho thấy cần có chính sách tỷ giá thoả đáng đi đôi với cơ chế chính sách khuyến khích sản xuất trong nước và tiết chế tiêu dùng. Tóm lại, qua việc ôn cũ có thể rút tỉa ra không ít bài học bổ ích, trong đó có bài học xử lý đồng bộ cả 4 cân đối vĩ mô theo hướng trước hết đè vế tiêu dùng, phát hành tiền, chi ngân sách và nhập khẩu xuống là điều tương đối dễ làm hơn; đồng thời cũng phải có cơ chế chính sách đẩy mạnh sản xuất, nguồn hàng, thu ngân sách và xuất khẩu lên mặc dầu những việc này có phần khó hơn và lâu hơn. Đương nhiên phải tính rằng, hoàn cảnh nước ta ngày nay đã khác hẳn 20 năm trước chí ít là trên ba mặt: ta đã chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu-bao cấp sang thể chế thị trường, trong đó từ lâu đã thực hiện cơ chế 1 giá theo quy luật cung cầu (ngoại trừ một vài mặt hàng); đã phát triển kinh tế nhiều thành phần và đã hội nhập đầy đủ với kinh tế thế giới. Ngày nay, mối quan hệ kinh tế phức tạp hơn nhiều, những công cụ cũ không còn nữa vì vậy nẩy sinh một nghịch lý là kiềm chế lạm phát khó hơn trước nhiều. Tạo sự đồng thuận về 6 giải pháp lớn Để kiềm chế lạm phát thành công, bên cạnh những việc làm cụ thể rất cần sự đồng thuận trên một loạt mối quan hệ sau: Một là, mối quan hệ giữa kiềm chế lạm phát và đẩy mạnh phát triển. Nước nào cũng vậy, khi phát sinh lạm phát đều phải tìm cách kiềm chế vì nếu không nó sẽ triệt tiêu thành quả phát triển, ảnh hưởng tới cuộc sống của mọi người dân. Ở nước ta số đông dân chúng còn thu nhập thấp nên việc kiềm chế lạm phát không chỉ là nhiệm vụ kinh tế mà còn là nhiệm vụ chính trị-xã hội. Mặt khác yêu cầu phát triển nhanh vẫn là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài để nâng cao đời sống nhân dân, vì vậy nghệ thuật điều hành là ở chỗ tìm ra mối tương quan thoả đáng giữa hai yêu cầu kiềm chế lạm phát và phát triển. Cuối những năm 80, đầu những năm 90 thế kỷ trước nước ta đã thành công trong việc tạo ra tỷ lệ nghịch giữa tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng: chỉ số lạm phát đi xuống đi đôi với chỉ số tăng trưởng đi lên: nếu năm 1986 tỷ lệ lạm phát là 587,2% và GDP chỉ tăng 2,8% thì dần dần tới năm 1993 tỷ lệ lạm phát chỉ còn 8,5% nhưng GDP đã tăng 8,1%. Vì sao làm được như vậy là điều đáng được nghiên cứu. Hai là, mối quan hệ giữa tính cấp bách của yêu cầu kiềm chế lạm phát và cách xử lý bình tĩnh với cái nhìn thực tế, khách quan. Việc kiềm chế lạm phát không đơn giản chút nào, nhất là trong lúc trình độ phát triển và tiềm lực của nước ta có hạn, nhiều nhân tố khách quan nằm ngoài khả năng kiểm soát của nước ta nên không dễ gì đạt được mong muốn trong một sớm một chiều, các biện pháp chỉ có thể đem lại hiệu quả với độ trễ nhất định. Để xử lý lạm phát vào 20 năm trước, chúng ta đã từng phải chật vật hàng chục năm trời (đương nhiên lúc đó kinh nghiệm, tiềm năng của chúng ta hạn hẹp hơn nhiều). Liên quan đến khía cạnh thời điểm cần nhấn mạnh rằng, công tác dự báo và kịp thời đối phó khi lạm phát manh nha cũng như thời điểm đưa ra quyết định này hay quyết định khác có ý nghĩa rất quan trọng. Ba là, mối quan hệ giữa lợi ích của từng nhóm dân cư với lợi ích của toàn dân, giữa lợi ích cục bộ và lợi ích toàn cục. Các biện pháp kiềm chế lạm phát khó có thể làm cho mọi người đều hài lòng mà có thể đụng chạm tới lợi ích của nhóm người này hay nhóm người khác, nhưng lợi ích của toàn xã hội, của toàn bộ nền kinh tế vẫn cần là ưu tiên hàng đầu. Bốn là, mối quan hệ giữa những việc trước mắt và lâu dài. Trong khi thực thi những biện pháp trước mắt để kiềm chế lạm phát cần chú trọng tới cả những biện pháp mang tính lâu dài, ví dụ muốn giảm nhập siêu, nâng cao hiệu quả kinh tế thì lâu nay đã nói nhiều về việc phát triển công nghiệp phụ trợ nhưng xem ra cho tới nay vẫn chưa có chuyển biến mang tính đột phá. Năm là, mối quan hệ giữa các biện pháp riêng lẻ với kế hoạch tổng thể mang tính đồng bộ. Phải chăng tính đồng bộ thể hiện ở việc xử lý đồng thời cả 4 cân đối nói trên với trọng tâm là những biện pháp triệt tiêu nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát được thực hiện theo lộ trình thích hợp, có tính đến tác động liên hoàn nhiều chiều của các giải pháp? Sáu là, mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước và công chúng, kể cả các doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề và các cơ quan truyền thông. Lạm phát là hiện tượng xã hội liên quan tới mọi tầng lớp nhân dân, mọi ngành, do đó cần tranh thủ sự đồng thuận tương đối của dư luận xã hội, thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại giữa các cơ quan hữu quan và công chúng để chí ít có sự thông hiểu chung; ngược lại các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề, các cơ quan truyền thông cũng cần lấy lợi ích toàn cục làm trọng, tránh gây hoang mang trong dư luận, tạo sức ép đối với Nhà nước vì lợi ích riêng. Đâu là nguyên nhân của lạm phát hiện nay? (28/12/2007)     10 tháng đầu năm 2007 chỉ số lạm phát ở nước ta tăng: 8,12% so với cuối năm 2006 và tăng 7,71% so với cùng kỳ năm trước. Tuy lạm phát một chữ số, nhưng cường độ lớn, cao nhất trong 11 năm qua và vượt cả năm 2006 (6,6%). Chính phủ và một số Bộ, ngành đã có những biện pháp kiềm chế lạm phát như: Bộ Tài chính giảm thuế nhập khẩu hoặc gia hạn nộp thuế nhập khẩu một số mặt hàng phục vụ sản xuất nông nghiệp, kiểm tra giá thành một số sản phẩm công nghiệp và giá bán một số hàng nhập khẩu được giảm thuế; Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam tăng gấp đôi tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc, hạn chế dư nợ cho vay của các ngân hàng thương mại (NHTM) nhận tài sản thế chấp là cổ phiếu niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Tp Hồ Chí Minh hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội; Bộ Y tế kiểm tra giá thuốc; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khuyến cáo, từ nay đến cuối năm, các doanh nghiệp không nên ký hợp đồng xuất khẩu gạo…     Nguyên nhân lạm phát trong 10 tháng đầu năm 2007 tập trung vào mấy lý do khách quan và chủ quan khiến nhiều người dễ chấp nhận:     Nguyên nhân khách quan: Mỹ thực hiện chính sách USD yếu, khiến tăng giá hàng hoá nhập khẩu tính theo USD, trong đó chủ yếu là giá dầu mỏ, nguyên liệu dùng cho sản xuất, đây là “lạm phát chi phí đẩy”…; giá vàng tăng liên tục nhiều năm qua; thiên tai, dịch bệnh đối với vật nuôi, cây trồng xẩy ra thường xuyên; ngoại tệ mạnh chảy vào nước ta nhiều, gồm: vốn FDI, FLL (vốn đầu tư gián tiếp), ODA, kiều hối… ngày một tăng, đây là “nhập khẩu lạm phát”.     Nguyên nhân chủ quan: trong 10 năm qua, Chính phủ 3 lần tăng lương cho công chức, viên chức; tăng trợ cấp cho những người: hưu trí, mất sức dài hạn, các đối tượng chính sách hưởng trợ cấp xã hội, trong lúc hằng năm, ngân sách Nhà nước được phép bội chi bằng 5% GDP. Năm 2007, Chính phủ tăng giá xăng dầu, than, điện theo hướng ngang bằng với giá thế giới, dẫn đến tăng giá của những mặt hàng khác. Tổng phương tiện thanh toán (tiền mặt trong lưu thông cộng (+) với tổng tiền gửi tại các tổ chức tín dụng) tăng liên tục, năm sau tăng hơn năm trước liền kề với tốc độ 2 chữ số. Nếu lấy tổng phương tiện thanh toán năm 2001 là 100%, thì cuối năm 2006 là 316%.     Một số nhà quản lý,  khoa học nêu lên một số nguyên nhân khác:     TS Nguyễn Đại Lai, Phó Vụ trưởng Vụ Chiến lược ngân hàng NHNN Việt Nam, đưa ra nguyên nhân: NHNN Việt Nam điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ chủ quan. Tỷ giá VND/USD theo hướng VND yếu so với USD, trong lúc USD yếu so với các loại tiền mạnh khác (Tạp chí Kinh tế &Dự báo tháng 8-2007). Ý kiến này được nhiều nhà kinh tế cho là một nguyên nhân quan trọng, vì Thống đốc NHNN Việt Nam qua các thời kỳ, từ khi đổi mới ngành Ngân hàng đến nay điều hành tỷ giá VND/USD đều theo hướng VND luôn luôn yếu so với USD, kéo dài trong 22 năm qua (1985-2007). Năm 1985, tỷ giá tiền tệ ở nước ta: 15 VND/1USD, nay 16.165 VND/1USD. Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương (NHTW) của một số nước xung quanh chúng ta, điều hành chính sách tiền tệ theo hướng nội tệ tăng giá so với USD như: Trung Quốc, Thái Lan… TS Phan Minh Ngọc lại có quan điểm khác, cho rằng tỷ lệ lạm phát của Việt Nam cao hơn tỷ lệ lạm phát của Mỹ, cho nên VND phải giảm giá so với USD (Tạp chí Ngân hàng số 17/2007).     Ông Nguyễn Đại Lai đề xuất “NHNN Việt Nam phải bán ngay một phần USD đã mua vào này cho các NHTM để họ bán cho các doanh nghiệp nhập khẩu để đưa hàng hoá (từ nước ngoài) vào, nhằm trung hoà lượng VND đang có trong lưu thông” (cột 1, trang 13, Tạp chí Ngân hàng số 17/2007). Có nhiều ý kiến trái chiều nhau về vấn đề này, nhưng ở đây điều cần nói là: thứ nhất, đầu năm 2007, cung USD khá dồi dào nhưng NHNN Việt Nam đưa ra tỷ giá VND/USD trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thấp hơn tỷ giá VND/USD ở thị trường tự do, theo hướng VND mất giá so với USD; thứ hai, NHNN Việt Nam lấy nguồn vốn nội tệ nào để mua USD; thứ ba, NHNN Việt Nam sử dụng số USD đó như thế nào.     Theo PGS.TS Ngô Hướng: “Chúng tôi cho rằng nguyên nhân quyết định của lạm phát hiện nay là sự phân phối lại thu nhập quốc dân” (Tạp chí Ngân hàng số17/2007). Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, đây là một ý kiến mới và độc đáo, cần có thời gian kiểm chứng.     Ông Minh Tâm có bài viết với nhan đề: “Có phải tăng đầu tư là nguyên nhân của lạm phát? ”. Theo ông Minh Tâm “Tăng vốn đầu tư sẽ dẫn đến tăng lạm phát chỉ có thể xẩy ra trong trường hợp các dự án đầu tư không đạt được hiệu quả mong muốn  mà trong quá trình thẩm định các dự án đầu tư đã đặt ra”. (Tạp chí Ngân hàng số 17/2007). Theo các nhà kinh tế, muốn tăng 1% GDP, thì phải tăng 3% vốn đầu tư. Tăng vốn đầu tư hôm nay, ít nhất  vài năm sau, vốn đầu tư mới tạo ra hàng hoá, để cân đối lượng nội tệ đầu tư trước đó; trong khoảng thời gian ấy gây lạm phát là đúng. Theo quan điểm của ông Trần Đào thì: “Mặc dù chính sách tiền tệ gần đây được thắt chặt (tăng gấp đôi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn chế tỷ lệ cho vay chứng khoán)… nhưng yếu tố tiền tệ trong lưu thông tăng do tốc độ tăng dư nợ tín dụng cao, lãi suất huy động có xu hướng giảm… cũng sẽ tác động làm tăng giá cả” (Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 8/2007, trang 18, cột 3).     Theo các chuyên gia kinh tế, nhiệm vụ ổn định sức mua của tiền tệ là trách nhiệm của NHNN Việt Nam, vì NHNN Việt Nam mới có quyền điều hành các công cụ chính sách tiền tệ. Nhưng, NHNN Việt Nam điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ chưa đáp ứng tốt yêu cầu đặt ra. Thể hiện như sau:     Thứ nhất, chậm trễ trong điều hành tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc.     Từ năm 2004 đến tháng 6-2007, Thống đốc NHNN Việt Nam mới tăng tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc. Hệ quả là trong 5 năm qua (2002-2006), tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng năm sau tăng so với năm trước liên kề với tốc độ 2 chữ số. Do đó, tổng phương tiện thanh toán tăng đồng biến so với tăng tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng. Cụ thể, theo báo cáo thường niên của NHNN Việt Nam, năm 2002: tăng 17,7%; năm 2003: tăng 24,94%; năm 2004: tăng 30,39%; năm 2005: tăng 23,34%; năm 2006: tăng 33,59%. Nếu tính theo phương pháp cộng dồn, số liệu thực hiện năm trước là cơ số của năm sau; thì tổng phương tiện thanh toán cuối năm 2006 gấp 3,16 lần tổng phương tiện thanh toán cuối năm 2001. Một số nước phát triển, cứ 10 năm sau tổng phương tiện thanh toán mới tăng gấp đôi.     Thứ hai, lãi suất cơ bản do NHNN Việt Nam công bố hằng tháng không có hiệu lực và duy trì 24 tháng liên tục, tính đến tháng 11-2007.     Ở Mỹ, lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay qua đêm giữa các NHTM với nhau. Ngược lại, ở Việt Nam lãi suất cơ bản do NHNN công bố, dựa trên lãi suất cho khách hàng tốt nhất vay của một vài NHTM. “Lãi suất cơ bản của Thống đốc NHNN Việt Nam đã vô hiệu?”, là nhan đề của một bài báo đăng trên Thời báo kinh tế Việt Nam số 179 năm 2006. Thống đốc NHNN Việt Nam còn ban hành Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30-5-2002 về việc cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng bằng VNĐ của tổ chức tín dụng với khách hàng và duy trì đến nay (?). Luật NHNN Việt Nam không có Điều, Khoản nào đề cập đến ngôn từ “Lãi suất thoả thuận”. Gần đây, một số NHTM hạ lãi suất huy động vốn như NHTM cổ phần nhà Hà Nội, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển; ngược lại, NHTM cổ phần Phương Nam hạ lãi suất cho vay từ 0,05%/tháng đến 0,2%/tháng; những hành vi đó không đúng với biện pháp chống lạm phát.     Thứ ba, NHNN Việt Nam điều hành tỷ giá VND/USD thiếu mềm dẻo.     Trong nhiều năm nay, Cục Dự trữ liên bang Mỹ thực hiện chính sách USD yếu. NHNN Việt Nam điều hành tỷ giá tiền tệ theo hướng VND yếu so với USD. VND bị hai cái “yếu” chồng lên nhau - tức là USD yếu so với các loại tiền mạnh trên thế giới; VND yếu so với USD. Năm 2007, NHNN Việt Nam điều hành tỷ giá VND/USD theo hướng VND mất giá so với USD từ 1% đến 2%/năm. Bởi vậy, đầu năm 2007, USD tràn vào nước ta, với khối lượng giá trị lớn. Nhưng NHNN Việt Nam đưa tỷ giá VND/USD trên thi trường ngoại tệ liên ngân hàng theo hướng VND yếu so với USD. Một số NHTM dựa vào tỷ giá tiền tệ ấy bán USD cho NHNN Việt Nam, một số báo như Báo Lao động đã viết tin nói rằng một số NHTM thừa USD, nhưng thực tế trạng thái ngoại tệ của NHTM ấy không phải là “trạng thái ngoại tệ trường”.     Thứ tư, hoạt động “nghiệp vụ thị trường mở” không đạt yêu cầu khi lạm phát gia tăng. Sáu tháng đầu năm 2007, NHNN Việt Nam phát hành tín phiếu NHNN hơn 200.000 tỷ đồng, bên mua là NHTM. Đến cuối tháng 6-2007, số dư tài khoản bán tín phiếu NHNN chỉ có 80,948 tỷ đồng, không bằng số tiền NHNN mua 7 tỷ USD (112.000 tỷ đồng); kỳ hạn ngắn, có kỳ hạn chỉ có 7 ngày.     Thứ năm, Luật NHNN Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm 2003 có một số điều không đúng với nguyên lý quản lý tiền tệ.  Nếu không sửa kịp thời, lạm phát sẽ tiềm ẩn và dẫn đến Chính phủ “mặc cả” với Quốc hội, từ tỷ lệ lạm phát là một con số cố định, thay bằng tỷ lệ lạm phát năm thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng GDP như năm 2007.     Theo các chuyên gia kinh tế, tìm nguyên nhân lạm phát một chữ số, cường độ lớn sấp sỉ 2 chữ số không phải dễ. Nguyên nhân lạm phát do NHTW tăng tổng phương tiện thanh toán được nhiều người đồng thuận, Nhưng tăng tổng phương tiện thanh toán bằng con đường nào, thì nhiều người khó nhận biết.     Trong bài viết của TS. Phan Minh Ngọc tại Tạp chí Ngân hàng số 17/2007 có đoạn viết: “Thiết tưởng rằng không có gì quá khó để có thể bắt bệnh và kê đơn cho căn bệnh này ở Việt Nam nếu chỉ cần nắm vững một số kiến thức kinh tế vĩ mô căn bản”. Nhưng, chính trong bài viết của mình, TS. Phan Minh Ngọc không đưa ra nguyên nhân của lạm phát hiện nay.     Những năm cuối thập kỷ 80, thế kỷ XX, nước ta lạm phát phi mã. Viện Tiền tệ - Tín dụng của NHNN Việt Nam kêu gọi cán bộ trong ngoài ngành viết bài và tham gia hội thảo chống lạm phát. Cả nước, 83 tác gia tham gia viết bài, trong đó có 1 người ngoài ngành ngân hàng. Viện Tiền tệ - Tín dụng in 50 bài (sách lưu hành nội bộ). Nhưng, 50 bài ấy, ngoài việc chỉ ra sai lầm về “giá-lương tiền” không có bài nào nêu được nguyên nhân của lạm phát phi mã cuối thập kỷ 80, thế kỷ XX mà nguyên chính thuộc về nghiệp vụ thanh toán vốn, trong thanh toán không dùng tiền mặt giữa NHNN Việt Nam với hai NHTM nhà nước mới thành lập.     Hiện nay, nếu không tìm ra nguyên nhân lạm phát một chữ số, cường độ lớn thì những bài viết về lạm phát chỉ thông qua hiện tượng mà mỗi người viết có nhận định riêng, đượm màu lý thuyết, sách vở, thậm chí đưa ra nguyên nhân lạm phát không có cơ sở kinh tế, dẫn đến mọi cố gắng của chúng ta chống lạm phát không đạt hiệu quả như mong muốn. Cuối cùng, tăng trưởng kinh tế của nước ta sẽ khó bền vững trong tương lai. Thanh Vân Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 11/2007 Quản lý bội chi ngân sách theo trường phái nào? (18/04/2006)     Trước Keynes, các nhà kinh tế đều thống nhất với nhau là trong thời bình nên giữ cho ngân sách thăng bằng. Nhưng khi học thuyết Keynes ra đời với cuốn “Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” năm 1936, tất cả các nước tư bản đều ứng dụng học thuyết Keynes lấy lạm phát để chống khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp. Bội chi ngân sách được coi là có hiệu quả nhất trong quản lý ngân sách. Kết quả vĩ đại mà chưa một nhà kinh tế nào đạt được là khủng hoảng kinh tế chu kỳ của chủ nghĩa tư bản đã chấm dứt từ khi học thuyết Keynes ra đời, biến cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 -1933 thành cuộc khủng hoảng cuối cùng.     Số phận người tài thường hẩm hưu, năm 1948 cuốn Kinh tế học của Paul A. Samuelson và W.D. Nordhaus ra đời và đã hạ bệ Keynes vào thập niên 1970. Người ta gọi cuộc hạ bệ này là cái chết thứ hai của Keynes. Và thành tựu chấm dứt khủng hoảng kinh tế thế giới đã bị rơi vào quên lãng, biểu hiện của sự vô ơn chua xót trong tình trạng không ai chịu ai trong kinh tế học. Trong khoa học tự nhiên không có chuyện Einstein hạ bệ Newton vì Einstein đã nói: “có được thuyết tương đối là nhờ tôi đã được đứng trên vai người khổng lồ Newton”. Nhưng trong kinh tế học lại có chuyện hạ bệ nhau như vậy, nên kinh tế học được mọi người đánh giá là kém xa tính chính xác khoa học so với khoa học tự nhiên. Các nước lại xoay sang ứng dụng thuyết lạm phát giá cả của Samuelson và khống chế khá ngặt mức bội chi ngân sách; không còn dùng bội chi ngân sách để chống suy thoái và thất nghiệp.     Để trả lời câu hỏi quản lý ngân sách theo trường phái nào, chúng ta hãy dùng phương pháp kiểm chứng trong thực tế để xem xét những luận điểm của hai trường phái trên.     Học thuyết Keynes đã được kiểm chứng bằng việc chấm dứt khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 1933. Phân tích tính khoa học của học thuyết này ta thấy trước Keynes khủng hoảng sản xuất thừa chu kỳ của chủ nghĩa tư bản được các nhà tư sản giải quyết bằng cách đổ hàng thừa ế xuống sông xuống biển để tránh phá giá, điều mà họ cho rằng nguy hiểm cho sự sống còn của họ. Keynes đã phát hiện lại vai trò kỳ diệu của tiền tệ và ca ngợi tiền giấy là lý tưởng vì có thể phát hành ra bao nhiêu cũng được, trong khi ông gọi chế độ bản vị vàng là tàn tích man rợ (a relious barbarous) vì nó luôn đẻ ra thiểu phát và thiểu phát lớn thường xẩy ra trước khi nổ ra khủng hoảng kinh tế (trong cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933, thiểu phát lên tới -30%).     Quả thật, lạm phát do chính phủ chủ động tạo ra khi khủng hoảng sản xuất thừa sẽ làm cho khối tiền tệ lưu thông tăng lên cân bằng với khối hàng hoá tăng do sản xuất thừa. Từ đó tạo sức mua mới tiêu thụ hoàn toàn số hàng sản xuất thừa. Như vậy học thuyết Keynes đã vận dụng đúng quy luật lưu thông tiền tệ MV = PQ. Sản xuất thừa làm giá trị hàng hoá và dịch vụ đưa ra lưu thông (PQ) tăng lên, việc dùng lạm phát tiền giấy tăng khối tiền tệ thực tế lưu thông (M) sẽ cân bằng khối tiền với khối hàng hoá sản xuất thừa, không làm sản xuất giảm sút như khi đổ hàng xuống sông xuống biển. Thực tế lịch sử ở các nước ứng dụng học thuyết Keynes là chấm dứt được suy thoái chu kỳ. Nhờ lạm phát trong nước và lạm phát đô la giấy mà các nước châu Âu có được vốn đầy đủ để có thể khôi phục lại kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh thế giới thứ hai chỉ trong vòng 5 năm. Có thể kiểm chứng qua việc Mỹ ứng dụng học thuyết Keynes để tạo được cuộc hưng thịnh kinh tế nổi bật 1942-1947 với tỷ lệ lạm phát là 14% và mức tăng trưởng hai con số. Thời kỳ này tổng thống Roosevelt đã dùng ngân sách để lập công trường xây dựng lớn, kể cả công trường quét tuyết thu dung cả lao động phổ thông, để chống thất nghiệp và suy thoái có hiệu quả.     Mác cũng đã phê phán luật lưu thông tiền tệ của nước Anh (Currency Principe) buộc các ngân hàng phát hành không được phát hành giấy bạc ngân hàng quá mức dự trữ vàng của ngân hàng đó. Như thời kỳ mức dự trữ vàng bắt buộc theo luật là 40% của số giấy bạc ngân hàng đưa ra lưu thông, ngân hàng phát hành Anh quốc nếu có mức trữ kim 4 triệu bảng Anh, chỉ được phát hành tối đa 10 triệu bảng giấy bạc ngân hàng. Khi dự trữ vàng giảm xuống còn 3 triệu phải thu hồi bớt 2,5 triệu bảng giấy bạc ngân hàng, làm khối tiền thực sự lưu thông (Ms) giảm xuống. Mác đã chứng minh việc này gây ra thiểu phát vì khối tiền cần cho lưu thông (Md - money demand) không giảm tương ứng với số trữ kim bị giảm sút; Ms giảm sẽ gây ra thiểu phát làm cho lưu thông hàng hoá và dịch vụ ngưng trệ.     Như vậy có thể kết luận qua kiểm chứng lịch sử ở tất cả các nước đã ứng dụng học thuyết Keynes và qua vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ, là phát hành tiền cho ngân sách đã có tác dụng chống khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp. Bội chi ngân sách tăng theo mức lạm phát phù hợp với khối hàng hoá sản xuất thừa, không hề ảnh hưởng xấu đến kinh tế, ngược lại, kinh tế còn tăng trưởng nhanh. Hễ có lạm phát tiền tệ là không có suy thoái.     Trường phái lạm phát giá cả mà Samuelson là tác giả nổi tiếng nhất, lại coi lạm phát là kẻ thù số một của kinh tế và đã hạ bệ Keynes bằng cách đưa ra hiện tượng lạm - suy (stagflation ghép từ stagnation và inflation). Samuelson coi như đã chứng minh thời kỳ dùng lạm phát để chống khủng hoảng kinh tế và suy thoái đã chấm dứt khi lạm - suy xuất hiện vì không còn chuyện hễ có lạm phát là không có suy thoái như Keynes đã viết.     Đọc kỹ cuốn Kinh tế học của Samuelson, ta mới thấy không phải là như vậy:     Trước hết, Samuelson đã “chứng minh” lạm phát là kẻ thù số một của kinh tế khi viết: “Nếu lạm phát tăng 20 hay 30% một tháng thì các cửa hàng thay giá niêm yết thường xuyên đến mức những trong giá tương đối không còn nhận ra được nữa”. Ông đã nhầm lẫn lạm phát phi mã (tăng 20 hay 30% một tháng) với lạm phát vừa phải hiện nay trên thế giới, loại lạm phát không thể là kẻ thù số một của kinh tế. Chỉ có lạm phát phi mã là hoàn toàn có hại vì giá tăng nhanh hơn tiền (như trong lạm phát phi mã 1985-1988 ở nước ta, giá cả tăng gấp 4,4 lần mức tăng của tiền ngay trong năm 1986). Như vậy cái lợi duy nhất là cung cấp tiền cho ngân sách chi tiêu (như trong thời chiến), cũng không còn nữa vì tiền phát ra không đủ cho nhu cầu chi tiêu tăng vọt theo mức tăng quá nhanh của giá cả.     Còn trong lạm phát vừa phải cái lợi lớn gấp nhiều lần cái hại, như ở nước ta cái lợi tạo vốn cho phát triển kinh tế gấp 6 lần cái hại do tăng giá trong bảng số sau: Bảng 1. So sánh lợi hại của lạm phát  vừa phải thời kỳ 1993-1997 Việt Nam 1993 1994 1995 1996 1997 Tiền: tỷ đồng 24.883 33.083 42.34624 55.30419 71.12119 % so năm trước (a) 31.45% 32.95% 28% 31% 28.60% Chỉ số giá (b) 5.20% 14.40% 3.60% 4.50% 3.60% Số lần Lợi hơn hại (a/b) 6,05 2,29 7,78 6,80 7,94 GDP: ngàn tỷ VNĐ, giá 1994 164043 178534 195567 213833 231264 GDP: % so với năm trước 8.08% 8.83% 9.54% 9.34% 8.15%     Khi định nghĩa: “Lạm phát biểu thị một sự tăng lên trong mức giá cả chung” Samuelson đã nhầm lẫn hai cú sốc dầu lửa năm 1973-1982 ở Mỹ là lạm phát. Với quan điểm cứ giá cả chung tăng lên là lạm phát, Samuelson đã cho rằng có cả lạm phát vàng. Samuelson đã dùng dãy số về giá cả chung của nước Anh từ năm 1270 tới nay để lập ra biểu đồ: “Lạm phát giá cả đi liền với lịch sử lâu đời của chủ nghĩa tư bản”; thế là nước Anh có lạm phát vàng khi tiêu tiền vàng và lạm phát tiền tệ khi tiêu tiền giấy.      Tổng thống và Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ, theo Samuelson, đã dùng thắt chặt tiền tệ và nâng lãi suất lên mức kỷ lục 20%/năm trong cú sốc dầu lửa thứ hai, nên đã gặt hái kết quả đáng buồn là 25 ngàn doanh nghiệp Mỹ phá sản, 10 triệu người thất nghiệp (10% lực lượng lao động).     Điều không khoa học là Samuelson suy luận ra loại lạm phát giá cả nhưng lại không nghiên cứu để tìm ra phương thuốc đặc trị cho nó, mà lại dùng các giải pháp kiểm soát lạm phát tiền tệ để chữa trị. Không ai, kể cả Samuelson, chứng minh được rằng nâng lãi suất lại giảm được giá dầu lửa tăng khoảng 4 lần do OPEC cấm vận dầu lửa trong cuộc chiến tranh dầu lửa năm 1973 và do chiến tranh Iran - Iraq gây ra cho Mỹ. Trái lại thắt chặt tiền tệ đã khống chế tổng dư nợ khiến các ngân hàng phải từ chối cho vay các doanh nghiệp số vốn lớn cần cho việc thanh toán chi phí xăng dầu nên các doanh nghiệp Mỹ phá sản là tất nhiên. Samuelson còn gọi 2 cơn sốc dầu lửa này là lạm phát chi phí đẩy, một loại lạm phát kỳ lạ chỉ tăng chi phí của các doanh nghiệp chứ không tăng giá bán sản phẩm như trong lạm phát tiền tệ. Sau này nhận ra sai lầm, Samuelson đã thay đổi quan điểm về loại lạm phát chi phí đẩy.     Thứ hai, Samuelson đã gọi hai cuộc suy thoái này là lạm - suy để hạ bệ Keynes. Nhưng thực tế đây chỉ là loại lạm phát giá cả được suy luận ra do nhầm lẫn cho rằng cứ tăng giá là lạm phát. Như vậy chỉ có lạm phát giá cả mới đi song song với suy thoái (chính xác hơn đã gây ra suy thoái do dùng lẫn thuốc chữa lạm phát tiền tệ để chữa lạm phát giá cả). Trong y học mà lại dùng thuốc chữa ho lao để trị sốt thương hàn với lập luận sốt nào chả là sốt  thì ai cũng thấy ngay là phản khoa học, nguy hiểm chết  người. Nhưng trong kinh tế học lại ít người nhận ra, có lẽ do bị loá mắt bởi giải Nobel kinh tế đã trao tặng cho Samuelson. Trong 100 điều đúng như công lao đưa toán học vào kinh tế học, đã mang lại giải Nobel kinh tế cho giáo sư Samuelson, vài sai lầm là chuyện bình thường. Vả lại Samuelson không phải là nhà kinh tế tiền tệ nên đúng về các mặt khác, lại sai về tiền tệ là điều dễ hiểu. Vấn đề là cần có tư duy độc lập, luôn luôn có sự hoài nghi khoa học để hỏi rằng liệu lạm phát giá cả có đúng với những hiện tượng lạm phát đã xẩy ra trong thực tế không? là có thể nhận ra ngay đó là sai lầm.     Trước những trường phái kinh tế đối lập nhau, có nhận định khác nhau về bội chi ngân sách, phân tích được trường phái nào đúng, trường phái nào sai, chúng ta có thể khẳng định việc phát hiện lại vai trò kỳ diệu của tiền tệ của Keynes là khoa học và đã được kiểm nghiệm bằng việc chấm dứt khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 1933.     Chúng ta cũng có thể tự kiểm nghiệm tiếp khi đặt ra vấn đề bội chi ngân sách có lợi, có hại cụ thể như thế nào? Cái lợi là có nhiều tiền để chi cho những nhu cầu phát triển của kinh tế như xây dựng cơ sở hạ tầng, xoá đói giảm nghèo, cải cách thực sự tiền lương v.v… Còn cái hại, nếu chúng ta bình tĩnh phân tích rõ chỉ là cái hại có thể làm lạm phát nặng thêm. Nếu chúng ta nhận thức vững chắc về quy luật lưu thông tiền tệ sẽ biết chắc rằng, lạm phát chỉ xẩy ra khi khối tiền thực tế lưu thông (Ms: Money supply) vượt xa khối tiền cần cho lưu thông (Md: Money demand) chứ không phải do bội chi ngân sách. Còn nếu chúng ta dùng lạm phát vừa phải (trên dưới 10%), nghĩa là Ms > Md đúng mức độ, chúng ta sẽ dùng lạm phát để kích cầu có hiệu quả như hầu hết các nước đã làm từ năm 1936 tới thập kỷ 1970 và như chính nước ta đã làm có kết quả từ năm 1993 tới 1997 với GDP tăng từ 8,08%  tới 9,54% (theo bảng 1 trên đây).     Quan niệm coi bội chi ngân sách sẽ gây lạm phát là một định kiến nẩy sinh từ cuộc lạm phát phi mã 1985-1988 hiện nay đã làm thui chột những thành tích có thể cao hơn gấp bội trong lĩnh vực tài chính.     Nếu chúng ta chịu khó nhận ra là giá thành hàng hoá đã giảm nhanh chóng nhờ sự tiến bộ như vũ bão của khoa học kỹ thuật làm giá bán hàng hoá giảm mạnh như chiếc xe đạp Thống nhất đời xưa giá tới gần 5 chỉ vàng thì nay chỉ với chưa đầy một chỉ đã có thể mua được một chiếc nhẹ hơn, tốt hơn nhiều, điện thoại di động từ đầu năm giá 7 đến 12 triệu nay chỉ còn 4 đến 8 triệu v.v…, chúng ta sẽ hiểu rõ tại sao tiền tăng tới 6 lần giá mới tăng 1 lần như ở bảng 1. Như thế, năm 1993 số tiền phát hành thêm tới 31,5% chỉ tương đương với  595 triệu USD năm 2003 đã tương đương với 4,5 tỷ USD. Lợi ích tạo vốn cho tăng trưởng kinh tế nói chung và cho ngân sách lớn biết chừng nào. Chả lẽ không đổi mới tư duy để tận dụng mặt có lợi của bội chi ngân sách?  Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY PGS., TS. Lê Quốc Lý Tình hình lạm phát năm 2007 (12,63%) và bốn tháng đầu năm 2008 (11,6%) ở nước ta đã và đang đặt ra đòi hỏi làm thế nào để kiểm soát được lạm phát, đưa tỷ lệ lạm phát xuống thấp ở mức có thể chấp nhận được. Nguyên nhân gây ra lạm phát thì có nhiều, nhưng trong bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung vào phân tích mối quan hệ giữa bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) với lạm phát ở nước ta hiện nay, nhằm tìm ra một lời giải nhỏ trong lời giải tổng thể cho kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. 1. Khái niệm và bản chất của lạm phát Trước khi đi vào phân tích mối quan hệ giữa bội chi NSNN với tình hình lạm phát ở nước ta, chúng tôi muốn tóm lược lại khái niệm và bản chất của lạm phát để tiện luận giải trong phần sau. Lạm phát là một quá trình giá tăng liên tục, tức là mức giá chung tăng lên hoặc là quá trình đồng tiền liên tục giảm giá. Nguyên nhân gây ra lạm phát có nhiều, bao gồm: - Lạm phát là do sự mất cân đối về cơ cấu kinh tế, mâu thuẫn về phân phối gây ra tăng giá. Cơ chế lan truyền đã tạo nên căng thẳng thêm các mâu thuẫn đó và dẫn đến lạm phát tăng lên. Lạm phát là tất yếu của nền kinh tế khi muốn tăng trưởng cao, nhưng lại tồn tại nhiều khiếm khuyết, hạn chế và yếu kém. Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế xuất hiện khi có quan hệ không bình thường trong các cân đối lớn của nền kinh tế như công nghiệp - nông nghiệp, công nghiệp nặng - công nghiệp nhẹ, sản xuất - dịch vụ, xuất khẩu - nhập khẩu, tích luỹ- tiêu dùng. Những thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế - xã hội do tăng trưởng kinh tế thường dẫn đến giá tăng lên khi cơ cấu thị trường chưa được hoàn chỉnh, các nguồn vật lực có giới hạn, các quan hệ không được đặt trong một sự cân đối hợp lý, năng lực sản xuất không được khai thác hết, trạng thái vừa thừa vừa thiếu xuất hiện. - Lạm phát là do tiền tệ, giá tăng lên ít nhiều là do tăng cung tiền tệ quá mức cầu của nền kinh tế. Với quan điểm này, lạm phát xuất hiện khi có một khối lượng tiền bơm vào lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông của thị trường. Điều này, được biểu hiện ở chỗ đồng tiền nội địa mất giá. - Lạm phát do cầu kéo hay là do sự mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu hàng hoá và dịch vụ. Khi tổng cầu hàng hoá và dịch vụ có khả năng thanh toán lớn hơn tổng cung hàng hoá và dịch vụ, đã đẩy giá tăng lên để thiết lập một sự cân bằng mới trên thị trường, trong đó tổng cung bằng tổng cầu. Lạm phát phụ thuộc vào độ co dãn của giá cung hàng hoá và dịch vụ. Cung hàng hoá và dịch vụ có thể tăng nhanh do tăng giá một chút nếu độ co dãn của giá là lớn. Một mặt, nếu các cơ sở sản xuất đang hoạt động thấp hơn công suất hiện có và còn nhiều công suất sản xuất chưa được sử dụng, cung hàng hoá sẽ tăng nhờ tác động tăng cầu hàng hóa và có thể không gây ra lạm phát. - Lạm phát (chi phí đẩy) xảy ra khi có tác động của các yếu tố bên ngoài tác động vào không gắn với tình hình tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Như chúng ta đều biết, ở hầu hết các nước đang phát triển thường phải nhập một lượng lớn nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất trong nước, nếu giá của những loại nguyên vật liệu này trên thị trường thế giới tăng lên làm cho chi phí sản xuất các sản phẩm sẽ tăng lên và để tồn tại, buộc các nhà sản xuất phải đưa giá bán trên thị trường trong nước tăng lên theo. Như vậy, với nguyên nhân gây ra lạm phát nêu trên, bội chi NSNN nằm trong yếu tố cơ cấu và tiền tệ, đôi lúc cả trong yếu tố cầu kéo. Thực tế, một công cụ chính sách trọng tâm trong việc thay đổi mức tổng cầu và cán cân ngoại thương là việc giảm thâm hụt ngân sách. Chính sách ngân sách hạn chế giống như là giảm mức giá với bất kỳ giá nào trong một cuộc suy thoái kinh tế trầm trọng. Có hai dạng tác động của chính sách tài chính lên tổng cầu là tác động trực tiếp do thay đổi chi tiêu chính phủ và tác động gián tiếp do thay đổi cán cân tài chính trong chi tiêu khu vực tư nhân và/hoặc hàng nhập khẩu sẽ bị thay đổi do tác động trực tiếp do giảm chi tiêu khu vực công cộng thông qua việc thay đổi loại hàng hoá thương mại và phi thương mại. Hơn nữa, ở các nước đang phát triển, chi tiêu khu vực tư nhân liên quan mật thiết đến chi tiêu khu vực công cộng và thường xuyên có sự bổ sung hỗ trợ mạnh mẽ trong sự hình thành vốn tư nhân và vốn nhà nước. Do vậy, chúng ta có thể tập trung chú ý vào chi tiêu công cộng. Tổng cầu sẽ giảm, nếu giảm chi tiêu công cộng. Kết quả là: một mặt, mức giá sẽ giảm; mặt khác, sản phẩm sẽ tăng lên. 2. Bội chi NSNN với lạm phát Giai đoạn trước năm 1986, tình hình tài chính nước ta trong tình trạng yếu kém, thu không đủ chi thường xuyên, thâm hụt NSNN cao quá mức, chi tiêu Chính phủ chủ yếu nhờ vào sự viện trợ của nước ngoài là chính. Đến giai đoạn từ năm 1986-1990, trước tình hình khó khăn về kinh tế và chính trị, Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đã cắt giảm dần viện trợ của họ cho nước ta. Trước tình hình khó khăn đó, Đảng ta tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có định hướng XHCN. Với những bước đi chập chững ban đầu, chính sách tài chính đã có đổi mới một bước. Tuy nhiên, thu NSNN càng không đủ chi và bù đắp thâm hụt NSNN không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành. Chính yếu kém về NSNN nêu trên, là một yếu tố quan trọng gây nên lạm phát trong thập kỉ 80 của thế kỉ XX. Chi NSNN đã tăng cao tới mức bùng nổ ở trong những năm 1985-1988, đã gây ra thâm hụt NSNN trầm trọng vì không có sự tăng lên tương ứng về số thu. Giai đoạn từ năm 1986 - 1990, khi mà tỷ lệ tích luỹ nội bộ nền kinh tế rất thấp (có thể nói là không đáng kể), làm không đủ ăn thì tỷ lệ chi đầu tư phát triển như ở đồ thị 1 là quá lớn và nguồn bù đắp cho thâm hụt NSNN lại chủ yếu do tiền phát hành thì lạm phát cao là điều khó tránh khỏi. Đồ thị 1: Tổng bội chi NSNN và tiền phát hành để bù đắp bội chi NSNN (1985 - 1990) Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trong thời gian 5 năm 1986 - 1990, 59,7% mức thâm hụt này được hệ thống Ngân hàng thanh toán bằng cách phát hành tiền. Năm 1984, phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách là 0,4 tỷ đồng, năm 1985: 9,3 tỷ đồng, năm 1986: 22,9 tỷ đồng, năm 1987: 89,1 tỷ đồng, năm 1988: 450 tỷ đồng, năm 1989: 1655 tỷ đồng và năm 1990 là 1200 tỷ đồng. Số còn lại được bù đắp bằng các khoản vay nợ và viện trợ của nước ngoài (so với bội chi, khoản vay và viện trợ năm 1984 là 71,3%, năm 1985 là 40,8%, năm 1986: 38,4%, năm 1987: 32,1%, năm 1988: 32,6%, năm 1989: 24,9%, năm 1990 là 46,7%) và một số nhỏ do các khoản thu từ bán công trái trong nước. Mặc dù có nhiều cố gắng đáng kể trong năm 1989, nhưng tình trạng thiếu hụt NSNN vẫn trầm trọng. Tổng chi đã tăng gấp đôi so với năm 1988, một phần do lạm phát chuyển từ năm 1988 sang và đã làm tăng giá đáng kể một số mặt hàng và dịch vụ thiết yếu do Nhà nước cung cấp. Tất cả những phân tích ở trên cho thấy, có nhiều nguyên nhân gây ra lạm phát cao trong giai đoạn từ năm 1986-1990, trong đó có việc bù đắp thâm hụt NSNN bằng sự phát hành tiền như ở đồ thị 1. Bước vào giai đoạn từ năm 1991-1995, tình hình đất nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, sản xuất và lưu thông hàng hoá đã có động lực mới, tình trạng thiếu lương thực đã được giải quyết căn bản, lạm phát siêu mã đã được đẩy lùi, nhưng lạm phát cao vẫn còn. Cơ cấu chi NSNN đã dần dần thay đổi theo hướng tích cực. Nguồn thu trong nước đã đủ cho chi thường xuyên, tình trạng đi vay hoặc dựa vào phát hành cho chi thường xuyên đã chấm dứt. Trong giai đoạn này, chi đúng đối tượng, có hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội được đặt ra. Nhờ những giải pháp trên, số thâm hụt NSNN đã giảm dần qua từng năm và được bù đắp bằng vay của dân và vay nước ngoài. Trong giai đoạn từ năm 1991-1995, tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP chỉ ở mức 1,4% đến 4,17% (1991: 1,4%, 1992:1,5%, 1993: 3,9%, 1994: 2,2% và năm 1995 là 4,17%). Như vậy, có thể thấy bội chi NSNN trong những năm 1991-1995 là rất thấp, thể hiện chính sách thắt chặt chi tiêu của Chính phủ trong thời kỳ này và đây cũng là yếu tố rất quan trọng góp phần kiềm chế lạm phát. Giai đoạn từ năm 1996-2000, tình hình thu chi NSNN đã có nhiều chuyển biến tích cực, thu không những đủ chi thường xuyên mà còn cho đầu tư phát triển, thâm hụt NSNN được khống chế ở mức thấp. Tuy nhiên, giai đoạn từ năm 1996-2000, do tác động của kh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLam phat & chinh sach tien te.doc
Tài liệu liên quan