Kiểu nhân vật chấn thương trong tiểu thuyết của Haruki Murakami - Đặng Phương Thảo

Tài liệu Kiểu nhân vật chấn thương trong tiểu thuyết của Haruki Murakami - Đặng Phương Thảo: 63 HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0028 Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 4, pp. 63-73 This paper is available online at KIỂU NHÂN VẬT CHẤN THƯƠNG TRONG TIỂU THUYẾT CỦA HARUKI MURAKAMI Đặng Phương Thảo Trường Trung học phổ thông Hồng Bàng, Hải Phòng Tóm tắt. Hình tượng nhân vật bị chấn thương chiếm vai trò quan trọng trong thế giới nghệ thuật của Murakami. Những con người cô độc trong một thế giới bất toàn, bơ vơ kiếm tìm giá trị bản thể, một số tuyệt vọng tìm đến cái chết để giải thoát nhưng nhiều người vẫn luôn nỗ lực tìm mọi cách để vượt lên. Qua ba cuốn tiểu thuyết tiêu biểu: Rừng Na Uy, Biên niên kí chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển, kiểu nhân vật chấn thương của Murakami đã thể hiện mang đến những cảm thức của thời đại mới: Sự hoang mang của con người trước những biến đổi kinh hoàng của thời đại công nghệ 4.0. Nhưng vượt lên tất cả, họ vẫn gom nhặt từng chút mảnh vỡ tâm hồn, xây dựng thành điểm tựa tinh thần để tiếp tục ...

pdf11 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 503 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiểu nhân vật chấn thương trong tiểu thuyết của Haruki Murakami - Đặng Phương Thảo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
63 HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0028 Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 4, pp. 63-73 This paper is available online at KIỂU NHÂN VẬT CHẤN THƯƠNG TRONG TIỂU THUYẾT CỦA HARUKI MURAKAMI Đặng Phương Thảo Trường Trung học phổ thông Hồng Bàng, Hải Phòng Tóm tắt. Hình tượng nhân vật bị chấn thương chiếm vai trò quan trọng trong thế giới nghệ thuật của Murakami. Những con người cô độc trong một thế giới bất toàn, bơ vơ kiếm tìm giá trị bản thể, một số tuyệt vọng tìm đến cái chết để giải thoát nhưng nhiều người vẫn luôn nỗ lực tìm mọi cách để vượt lên. Qua ba cuốn tiểu thuyết tiêu biểu: Rừng Na Uy, Biên niên kí chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển, kiểu nhân vật chấn thương của Murakami đã thể hiện mang đến những cảm thức của thời đại mới: Sự hoang mang của con người trước những biến đổi kinh hoàng của thời đại công nghệ 4.0. Nhưng vượt lên tất cả, họ vẫn gom nhặt từng chút mảnh vỡ tâm hồn, xây dựng thành điểm tựa tinh thần để tiếp tục vươn lên. Từ khóa: Haruki Murakami, tự sự, kiểu nhân vật chấn thương, Rừng Nauy, Biên niên kí chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển. 1. Mở đầu “Chấn thương” (Trauma) vốn là một thuật ngữ y học có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp (τραῦμα). Ngoài vết thương sinh lí, trauma còn được dùng để nói về thương tổn tâm lí: “Chấn thương (thuộc về) tâm lí là một loại tổn thương tinh thần xảy ra như kết quả của một sự kiện đau buồn. Khi chấn thương dẫn đến những rối loạn căng thẳng sau đó, thiệt hại có thể liên quan đến những thay đổi về thể chất và hóa học trong não, làm thay đổi phản ứng của người đó đối với những căng thẳng trong tương lai” [11]. Trong văn học, khái niệm này được dùng để miêu tả “Một trạng thái tinh thần khổ sở tồn tại dai dẳng một cách khó hiểu trong cuộc đời của những cá nhân nhất định”, “chúng xuất hiện như thể một chuỗi những sự kiện đau khổ mà người ta bị phụ thuộc vào và điều này hoàn toàn nằm bên ngoài mong muốn hay khả năng kiểm soát của người ta” [1;tr.10]. Lí thuyết về văn học chấn thương ra đời gắn liền với những chấn động kinh hoàng của thế giới trong thế kỉ XX: chiến tranh và những bất ổn trong đời sống chính trị, sự phát triển vượt bậc về kinh tế kèm theo sự dư thừa vật chất, sự phân hóa giàu nghèo mạnh mẽ, sự bất công trong việc phân chia các quyền lợi giữa các giai tầng trong xã hội... Những biến động mang tính thời đại đã tạo ra bi kịch của con người cá nhân do không bắt nhịp được với guồng quay bạo liệt của thực tại. Hàng loạt tác phẩm ra đời viết về một thế hệ đang oằn mình với những cơn đau vò xé ruột gan bởi vết thương lịch sử. Hemingway đã gọi thế hệ của mình là “thế hệ lạc lõng”, “thế hệ mất mát”, “thế hệ vứt đi” (the lost generations) và thời đại mình đang sống là “thời đại bỏ đi”. Nhiều học thuyết, trường phái triết học, văn học, phê bình văn học mới đi sâu khai thác những tổn thương tâm lí của con người, cái nhìn cuộc sống đầy bi quan, lối sống bế tắc mà hậu quả để lại có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống tinh thần nhân loại thời đại này như: triết học Ngày nhận bài: 9/2/2018. Ngày sửa bài: 12/3/2018. Ngày nhận đăng: 10/4/2018. Tác giả liên hệ: Đặng Phương Thảo. Địa chỉ e-mail: dangphuongthao1981@gmail.com Đặng Phương Thảo 64 và văn học hiện sinh của Jean Paul Sartre và Albert Camus; văn học phi lí của Kafka, kịch phi lí của Ionesco, tiểu thuyết viết về chiến tranh của Hemingway, của Kertesz Imre... Có thể khẳng định, chưa bao giờ, đời sống và vấn đề hiện tồn lại trở nên bức thiết như giai đoạn này. Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất và thứ hai, Nhật Bản tự xưng là đội quân Thiên Hoàng, là nước Đại Đông Á. Gót giày xâm lược của quân đội Nhật Bản từng in dấu trên nhiều vùng lãnh thổ của các quốc gia. Sau cú sốc thất bại trong chiến tranh thế giới thứ hai, lịch sử Nhật Bản trải qua nhiều biến động. Cùng với những kì tích ngoạn mục trong quá trình khôi phục nền kinh tế, đất nước và con người Nhật Bản cũng phải đứng trước những thức thách cam go trước ảnh hưởng mạnh mẽ của luồng văn hóa phương Tây (qua ảnh hưởng trực tiếp từ Mỹ). Sự giao thoa văn hóa giữa truyền thống văn hóa Nhật Bản và văn hóa phương Tây hiện đại khiến con người, nhất là giới trẻ phải trải qua một giai đoạn khủng hoảng. Thực tế này cũng đã được nhà văn Kawabata phản ánh trong bộ ba tiểu thuyết đoạt giải Nobel: Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Cố đô. Con người bước đi trên đống đổ nát, hoang tàn của quá khứ và mầm non mới nhú của tương lai. Trong bối cảnh phức tạp đó, Haruki Murakami đã miêu tả sự tổn thương về tâm lí của con người khi mọi tiêu chuẩn giá trị trong cuộc sống không còn như cũ. Có những người đã từng trải qua chiến tranh và bị những vết thương trên thân thể (Trung úy Maymia, Nhục đậu khấu, Nakata) có người lại sống một cuộc đời hết sức bình thường trong một nước Nhật thời hiện đại: là một cô/cậu học sinh, sinh viên đại học (Wantanabe, Midori, Naoko, Kashahara May, Kafka..), một thủ thư (Oshima), người phụ trách thư viện tư nhân (Miss Saeki), một chàng luật sư thất nghiệp (Toru Okada), một nhân viên tòa soạn báo (Kumiko), một chính trị gia (Noboru), một nhà điêu khắc (Koichi Tamura)... Nhưng dù sống ở hoàn cảnh nào, con người trong sáng tác của Murakami đều thuộc kiểu nhân vật ám ảnh, tâm hồn bị chấn thương, hằn in những vết sẹo, dù nhìn bề ngoài có vẻ lành lặn, bình thường. Kiểu nhân vật chấn thương trong tiểu thuyết của Murakami có những biểu hiện đặc trưng sau: con người cô độc, mất mát, con người có khuynh hướng muốn tự sát và con người có ý thức vươn lên hàn gắn vết thương. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Con người cô độc Con người cô độc là hình tượng nghệ thuật quen thuộc của văn học thế giới. Nhiều cây bút đã thành danh khi miêu tả nỗi cô độc của nhân loại. Trong văn học Việt Nam, có một Nguyễn Du khóc thương Tiểu Thanh, để rồi hơn hai trăm năm sau lại có Tố Hữu khóc thương đại thi hào dân tộc. Thơ mới lãng mạn với những tên tuổi: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên mang nỗi cô đơn của những con người “đầu thai nhầm thế kỉ ”. Trên thế giới có nỗi cô độc của cả một dòng họ trong tiểu thuyết G. Garcia Marquez, của cả một thế hệ trong sáng tác E.Hemingway Trước Murakami, các cây bút tên tuổi của Nhật Bản như: Akugatawa, Dazai Osamu, Kawabata cũng đã xây dựng thành công hình tượng con người cô độc. Nỗi cô độc của con người xuất phát từ nhiều nguyên do: bởi sự mặc cảm, tự ti, bởi sự hoài nghi, mất mát, bởi sự lệch pha giữa khát vọng với hiện thực khắc nghiệt của cuộc sống hay cũng có khi đó là “căn bệnh” trầm kha sẵn có khi con người oa oa cất tiếng khóc chào đời. Con người cô độc trong sáng tác của Murakami vừa mang dấu ấn thời đại khi gắn liền với bối cảnh Nhật Bản nhiều biến động vừa mang cá tính sáng tạo của ông. Nhân vật của Murakami dù là nam hay nữ, già hay trẻ, có tên hay không tên, làm bất kì nghề gì họ đều cô độc trong thế giới của mình. Tác giả Patricia Welch đã nhận xét rất xác đáng về thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Murakami: “Là những sinh linh cô độc, họ khép mình trước thế giới, tự dựng lên những hàng rào tâm lí, tự buộc mình cách li với cộng đồng. Nhìn bên ngoài, cuộc sống của họ chẳng có gì không ổn, nhưng vẫn thiếu một cái gì đó” [12]. Dù sống giữa một thành phố sầm uất, hàng ngày trôi qua đều bị cuốn vào guồng quay của cuộc sống sinh hoạt đời Kiểu nhân vật chấn thương trong tiểu thuyết của Haruki Murakami 65 thường nhưng họ vẫn không thể xẻ chia, không thể tìm được sự thấu hiểu. Họ thấm thía cái cảm giác: “Ở ngay giữa một thành phố với hàng triệu người đi trên phố mà không có ai để chuyện trò” [5;tr.194]. Trong tiểu thuyết của Murakami, sự cô độc thường có nguyên nhân từ việc bị chính những người thân yêu trong gia đình bỏ rơi. Cậu bé Kafka 15 tuổi (Kafka bên bờ biển) bỏ nhà đi mà không một ai biết, không một ai kiếm tìm. Trong cuộc hành trình vô định, cậu cảm thấy mình “như một nhà thám hiểm đơn độc vừa mất cả la bàn lẫn bản đồ”, “cảm thấy như mình là người vô hình” [6;tr.65]. Dường như, sự biến mất của cậu không mảy may liên quan đến bất cứ một ai. Một đứa trẻ dù có khóc cũng không ai đến dỗ dành. Mẹ đưa theo chị gái bỏ đi, trong gia đình còn lại hai cha con nhưng họ đắm chìm trong thế giới riêng của mình và không chấp nhận mở lòng cho phép người kia bước vào. Mối liên hệ duy nhất giữa hai người là thứ gen, tạo ra dòng máu chảy trong huyết quản Kafka mà nếu có thể được, cậu cũng tìm cách đoạn tuyệt nó, bởi cậu cảm thấy căm ghét tất cả những thứ được kế thừa từ cha mẹ. Lựa chọn sự cô độc là cách để Kafka tự bảo vệ mình. Gặp gỡ rồi chia li, hợp - tan là qui luật muôn đời. Nhưng bị ám ảnh bởi sự ra đi đột ngột của hai người thân, Kafka né tránh bằng cách tự “xây quanh mình một bức tường, không để ai lọt vào trong, còn bản thân thì cố không mạo hiểm ra ngoài” [6;tr.13]. Trong suốt hơn mười năm của cuộc đời, cậu bé đã “quen với cô đơn”, luôn cảm thấy mình “bị cắt rời khỏi thế giới”, thản nhiên đến đáng sợ khi “gặm nhấm nỗi cô đơn đến tận cùng” [6;tr.131-135]. Nakata (Kafka bên bờ biển) xuất thân trong một gia đình quyền thế ở Tokyo, trong chiến tranh bị gửi về học tại tỉnh lẻ. Ở nơi sơ tán, cậu bé Nakata nhút nhát khiến cô giáo có cảm giác cậu là một đứa trẻ bị bạo hành tinh thần trong một gia đình kiểu mẫu. Đây là hình ảnh quen thuộc thường thấy trong xã hội hiện đại ngày nay. Những đứa trẻ sinh ra trong gia đình thừa thãi về vật chất nhưng thiếu thốn tình cảm gia đình luôn cảm thấy mặc cảm, tự ti, thu mình trong một thứ vỏ bọc vô hình. Kumiko (Biên niên kí chim vặn dây cót) bị gia đình bỏ rơi khi họ biến cô thành một thứ con tin để hóa giải sự bất hòa giữa mẹ và bà nội. Đứa trẻ bị gửi về tỉnh Nigata xa xôi ở với bà nội từ khi ngay từ khi mới được ba tuổi cho đến khi sáu tuổi lại được đón về Tokyo. Những tranh chấp, giành giật, toan tính vô tình của người lớn đã chà đạp lên tâm hồn trẻ thơ, non nớt, tạo thành những vết thương. Chúng khiến cô bé đi đến quyết định: “khép kín mình trước ngoại giới, đóng chặt tâm trí mình, không nghĩ gì nữa, không hy vọng gì nữa” [5;tr.85] và trở thành một đứa bé lầm lì, khó tính, khó gần. Những biến cố trong gia đình (chị gái tự tử, anh trai là kẻ ấu dâm bệnh hoạn) khiến Kumiko càng tách mình ra khỏi những người thân xung quanh. Midori (Rừng Na Uy) có một gia đình bình thường, không giàu cũng chẳng nghèo, sống trong một ngôi nhà phổ biến của người Nhật, gia đình cô có một mảnh vườn nhỏ và đi xe Toyota Corolla. Nhưng cô luôn cảm thấy mình bị bỏ rơi trong chính ngôi nhà của mình, cảm thấy gia đình mình toàn những người kì lạ. Người mẹ thì ghét đủ thứ việc nhà và ghét luôn cả việc quan tâm đến con cái. Người bố, khi đối mặt với cú sốc mất vợ đã vô tình làm tổn thương tới con gái của mình. Ông nói với con: “Tao thà mất hai đứa chúng mày còn hơn mất bà ấy.” Với Midori, câu nói ấy như một lưỡi dao, đâm sâu vào trái tim khiến cô đau đớn: “Cái vết thương ấy sẽ không bao giờ lành được” [7;tr.147]. Viết về sự cô độc của Midori, Murakami đã “nắm bắt được cảm giác vỡ mộng, chia cắt và hoang mang nằm bên cạnh một bề ngoài tĩnh lặng ngay cả trong những giờ phút thanh bình” [12]. Tập trung khắc họa sự cô độc của con người từ lúc còn thơ ấu, nhà văn đã phản ánh sự đổ vỡ từ bên trong của mô hình gia đình Nhật Bản vào thập niên 60 – 70 thế kỉ XX. Con người trở nên cô độc hơn khi mối dây liên hệ với các thành viên trong gia đình và trong cộng đồng trở nên lỏng lẻo đến mức gần như bằng không. Khi đã mất sự bảo bọc, chở che của gia đình, con người không tránh khỏi những va đập, tổn thương, chính những vết thương từ thơ ấu này sẽ ám ảnh họ trong suốt cuộc đời. Với những con người ấy, một cuộc trở về, một khung cảnh sinh hoạt gia đình ấm áp Đặng Phương Thảo 66 hay một cuộc hội ngộ thân tình với những người thân là điều họ không bao giờ mơ tưởng đến. Dường như mỗi người họ đều chỉ còn là những mảnh vỡ của chính mình, tự đứt lìa bay ra khỏi quỹ đạo cuộc sống xung quanh của cộng đồng, không còn mối dây liên hệ nào gắn bó với thực tại cuộc sống. Mỗi người đều tự rúc sâu vào ốc đảo cô đơn trong chính nội tâm mình và tự xây một bức tường cao dày ngăn cách mình với mọi người khác và cuộc sống chung quanh. Họ gặm nhấm dần sự sống của chính mình trong nỗi cô đơn. Ám ảnh bởi nỗi đau quá khứ, không còn niềm vui sống trong hiện tại và mờ mịt về tương lai, cuộc sống hiện tồn với họ chỉ có những buồn đau mất mát và tuyệt vọng. Bên cạnh sự đổ vỡ các giá trị, chuẩn mực trong gia đình, các nhân vật còn trở nên cô độc bởi sự mất mát do những hiểm họa tiềm ẩn của một xã hội đầy bất an, những cuộc chiến tranh phi nghĩa. Trở về từ cuộc chiến tranh Mãn Châu, trung úy Mamiya (Biên niên kí chim vặn dây cót) mất một bàn tay và mang theo những ám ảnh suốt đời về cuộc chiến, một “cái gì đó” trong ông đã vĩnh viễn mất đi. Ông sống cô độc, không gia đình, không người thân thích vì cha mẹ, anh chị đều đã chết trong chiến tranh, không lập gia đình và làm thầy giáo dạy học ở quê nhà. Cô bé Nhục Đậu Khấu (Biên niên kí chim vặn dây cót) theo cha mẹ sang Mãn Châu và trải qua tuổi thơ ở miền đất xa lạ. Hai mẹ con Nhục Đậu Khấu cùng đoàn người may mắn sống sót trở về quê hương sau chiến tranh Mĩ–Nhật. Nhưng quãng đời sau đó, kí ức về cuộc tàn sát những con thú ở vườn thú Tân Kinh của quân đội Nhật Bản đã vĩnh viễn ám ảnh Nhục Đậu Khấu và đứa con trai của bà. Một vụ tai nạn bí ẩn thời chiến tranh đã khiến Nataka mất đi kí ức. Khi tỉnh dậy, cậu bé thấy “đầu óc rỗng như cái bồn tắm đã tháo hết nước” [5;tr.56]. Từ đó cho đến khi đi gần hết cuộc đời, Nakata sống lầm lũi như một cái bóng. Những biến cố bất ngờ, đau đớn ấy tạo thành những chấn thương, mất mát, khiến họ mất niềm tin vào cuộc đời, thu mình, khép kín. Ngoài những nguyên nhân từ phía gia đình và xã hội, bi kịch của sự cô độc còn đến từ sự phi lí của số phận. Con người sinh ra, không ai được quyền tự do lựa chọn số phận cho mình. Bị ném vào cõi nhân thế với những khiếm khuyết, chấn thương sẵn có trong mình, con người phải bắt đầu cuộc đời trong thế bị động. Oshima bơ vơ giữa cõi nhân thế bởi không xác định được giới tính của mình. Khi sinh ra, anh đã mang căn bệnh máu khó đông và bị nhiễm sắc thể giới tính (một hiện tượng đặc biệt, do sự đột biến nhiễm sắc thể rất hiếm gặp ở người). Chính sự “đặc biệt” này đã dẫn tới những nỗi cô độc trong cuộc đời Oshima. Anh luôn che giấu con người thực của mình, đồng thời cũng không thể hiểu được mình là ai trong thế giới này: “Đôi khi, chính mình cũng không hiểu. Quỷ tha ma bắt, mình là cái gì nhỉ?” [6;tr.206]. Dịch giả Trung Quốc Lâm Thiếu Hoa, người rất thành công khi chuyển ngữ tiểu thuyết của Murakami cho rằng: sức hấp dẫn của tiểu thuyết Murakami là ở “vẻ đẹp cô độc”: “Nỗi cô đơn xa vắng, tình cảm lặng lẽ và nỗi buồn dìu dịu là giọng điệu rất riêng trong tác phẩm Murakami. Ở đây, sự cô độc không cần an ủi mà chính nó đã là sự an ủi. Mà điều này thì thực sự làm mê hoặc bạn đọc trẻ, gợi lên trong họ sự cộng hưởng tâm hồn () xét cho cùng Murakami đã cung cấp một cách thức tiêu khiển sự cô độc và thăng hoa sự cô độc, tức là cung cấp một kỹ thuật tự bảo vệ mình, khiến họ "có thể dựa vào tình huống biến mình thành kẻ mạnh” [8,tr.51]. Hình tượng nhân vật cô đơn là sự trải nghiệm chân thực của Murakami, của một thời tuổi trẻ cô đơn và mất mát. Ở một mức độ nào đó, con người cô đơn ấy là bản “tự thuật” của Murakami. Các nhân vật nam chính được xây dựng có nhiều điểm tương đồng, gần gũi với ông ngoài đời: thường là con một, cô đơn, thích đọc sách, nghe nhạc, khó hòa nhập, luôn tìm những góc riêng cho mình Rõ ràng, bằng những trải nghiệm của bản thân, Murakami đã chạm tới và phân tích, “mổ xẻ” những góc khuất sâu kín nhất của tâm hồn con người. Những ai từng nếm trải cô đơn, từng đi qua đau khổ, mất mát trong tình yêu đều tìm thấy mình trong những câu chuyện kể của Murakami. Bởi ông không chỉ kể về bản thân, mà còn kể về tất cả chúng ta, chạm khắc “khối sầu” của con người thời hiện đại. Kiểu nhân vật chấn thương trong tiểu thuyết của Haruki Murakami 67 2.2. Con người có khuynh hướng tự sát Những mất mát, chấn thương trong tâm hồn đã dồn đẩy con người đến hành động tiêu cực. Nhân vật trong tiểu thuyết của Murakami để trốn chạy thực tại đau khổ, bi kịch, để xoa dịu vết thương trong tâm hồn, nhiều người đã tìm đến cái chết. Khuynh hướng tự sát của nhiều nhân vật trong tiểu thuyết Murakami là một minh chứng cho những vết thương không thể chữa lành. Khuynh hướng tự sát trong văn học thường rơi vào bốn trường hợp sau: người anh hùng khi bại trận, người bị oan chứng minh sự trong sạch, kẻ có tội muốn chuộc lỗi lầm, những người bế tắc trong cuộc sống hôn nhân, gia đình. Thời trung cổ, các vụ tự sát ít xuất hiện trong văn chương bởi sự lên án của nhà thờ Thiên chúa giáo với hành động này. Nhưng từ thế kỉ XVII trở đi, trong các sáng tác của Balzac, Flaubert, Zola hay Hugo, “tự sát đã trở thành một biểu tượng “cao quí” trong văn học”. Trong Tấn trò đời của Balzac, tỉ lệ nhân vật tự sát là 849 trường hợp trên 100.000 cư dân, gần hơn, trong sáng tác của Bataille cứ 21 cái chết do tự sát thì có 9 cái chết là do tự tử [99]. Trong văn học Nhật Bản, không chỉ các nhân vật mà chính các nhà văn cũng chủ động tìm đến cái chết để giải quyết những bế tắc trong cuộc sống của mình như: Ryunosuke Akutagawa, Yukio Mishima, Yasunari Kawabata, Dazai Osamu Tinh thần quả cảm, lòng tự trọng cao của người võ sĩ Samurai, cảm thức aware là nguồn gốc sâu xa của hành động tự sát ở người Nhật. Trong ba tiểu thuyết của Murakami mà chúng tôi khảo sát, có tới 9 nhân vật chọn cái chết như một cách để trốn chạy khỏi những chấn thương tinh thần. Naoko, Kizuki, chị gái Naoko, chú ruột Naoko, Reiko, Hatsumi (Rừng Na Uy); Chị gái Kumiko, Kano Creta (Biên niên kí chim vặn dây cót), Johnnie Walker (Kafka bên bờ biển). Naoko (Rừng Na Uy) tự tử sau những ám ảnh sâu sắc từ cái chết của những người xung quanh mình. Vết thương chí mạng đầu tiên là cái chết của người chị gái mà cô bé Naoko mười một tuổi coi như thần tượng. Là người đầu tiên phát hiện và chứng kiến cảnh tượng chị gái treo cổ tự sát, tâm lí Naoko bị chấn động dữ dội, cô bé gần như bị tê liệt toàn bộ tri giác, nhận thức và vận động. Ý thức bảo với cô bé là “ta phải đi ngay xuống nhà và bảo cho mẹ biết. Ta phải kêu lên”nhưng thân xác không nghe theo. Ba ngày tiếp theo, Naoko “không thể nói được. Chỉ nằm trên giường như chết rồi, mở to mắt nhìn vào không trung” và “không biết chuyện gì đang xảy ra nữa”. Sau thời khắc ấy, cô bé Naoko không chỉ vĩnh viễn mất đi người chị gái yêu quí mà còn mất đi tuổi thơ, mất đi niềm tin vào cuộc sống. Nghe cha mẹ kể về cái chết của người chú ruột, Naoko bắt đầu bị ám ảnh bởi truyền thống tự sát trong gia đình, mà theo lời bố cô, việc đó: “Có thể là huyết thống rồi, ở bên họ nhà tôi” [7;tr.275]. Nỗi đau thứ hai của Naoko đến sau đó sáu năm, sau cái chết của Kizuki - người bạn, người tình thanh mai trúc mã tri âm tri kỉ gắn bó từ thuở thiếu thời. Không thể tự chữa lành những vết thương bằng việc trốn chạy, Naoko phải tìm đến một bệnh viện tâm thần, nhưng những chấn thương tinh thần ấy vẫn như bóng ma đeo đẳng, ám ảnh cô ngày đêm. Nỗi sợ hãi của Naoko, thực chất là biểu hiện ngược của lòng yêu đời và ham sống. Bởi chỉ khi người ta muốn sống, khát sống người ta mới sợ hãi trước cái chết. Vật vã trong cuộc chiến chống lại nỗi ám ảnh của những cơn ác mộng trong quá khứ, Naoko cảm thấy tuyệt vọng, mất phương hướng. Naoko nhiều lần mường tượng ra diện mạo của thần chết. Trong tưởng tượng của Naoko, cái chết giống như một cái giếng đồng tối om, sâu hút “cái miệng rộng ngoác”,“một lỗ mở đen ngòm vào lòng đất”, “sâu khủng khiếp”, đến độ “không thể đo được” và “đầy chặt bóng tối như thể toàn bộ bóng tối của thế giới đã được nấu chảy và lèn vào đó đến tận cùng đậm đặc của chúng”. Nó hiện diện ở một nơi nào đó không xác định được cụ thể, cũng không có dấu hiệu cảnh báo nguy hiểm. Cô gái trẻ Naoko thậm chí còn thấy trước sự vật vã, giãy giụa của chính mình trong cái chết giả định giữa lòng giếng. Cái giếng đồng là một hình ảnh biểu tượng, tượng trưng cho sự bế tắc, tuyệt vọng, hút cạn kiệt mọi niềm đam mê và sinh lực sống của cô gái trẻ. Cuối cùng cô đã lựa chọn cái chết như là một phương án giải thoát khỏi những tổn thương nghiệt ngã của cuộc đời mình. Naoko đã trốn chạy khỏi căn bệnh ấy bằng cuộc trốn chạy vĩnh viễn, cuộc thoát ly vĩnh viễn giúp cô mãi mãi thoát Đặng Phương Thảo 68 khỏi được những lụy phiền đớn đau của cuộc sống. Kizuki, người yêu của Naoko xuất thân trong một gia đình giàu có, khi 17 tuổi, cậu đã đột ngột tự sát trong nhà xe của gia đình bằng hơi xăng và khí ga độc trong chiếc xe hơi thể thao N-360 mà cậu rất yêu thích. Lí do cậu tự tử không phải bởi thiếu thốn tiền bạc, không phải bởi thiếu thốn tình yêu, cũng không hẳn vì bất lực thể chất. Sâu xa hơn, cái chết của cậu bắt nguồn từ một hoàn cảnh sống thừa đủ về vật chất nhưng héo úa khát khao vì thiếu thốn lí tưởng đời sống tinh thần lành mạnh. Không tìm thấy niềm tin về lí tưởng sống ở mặt nhân cách xã hội, cậu chỉ còn một đức tin duy nhất, chỗ dựa tinh thần duy nhất là tình yêu với Naoko. Nhưng cậu không thể giúp Naoko thoát khỏi những ám ảnh chấn thương để đạt được hạnh phúc hòa hợp trọn vẹn trong tình yêu của cả hai người. Không có động cơ, lí tưởng động lực phấn đấu trong cuộc sống, cũng không có được hạnh phúc trọn vẹn với người mình yêu khiến Kizuki tuyệt vọng tìm đến cái chết để thoát khỏi nỗi khổ đau dằn vặt của một đời sống tinh thần nặng nề, cằn cỗi, thiếu vắng niềm tin và lí tưởng sống. Reiko (Rừng Na Uy) nhiều lần tìm đến cái chết bởi sự mất mát lí tưởng, niềm tin vào giá trị của bản thân. Là một cô gái tài năng với ước mơ trở thành một nghệ sĩ biểu diễn dương cầm chuyên nghiệp nhưng những áp lực về tâm lí khiến mọi việc đang hoàn hảo, đột ngột “tất cả bỗng tan thành mây khói” [7;tr.227]. Trước một kì thi quan trọng, trong lúc Reiko miệt mài lao vào luyện tập thì ngón tay út bên trái của chị bỗng không cử động được, bác sĩ ra phán quyết: cần tránh xa cây dương cầm một thời gian. Nhưng với một cô gái đã bắt đầu chơi đàn từ lúc bốn tuổi, đã “chỉ nghĩ đến nó chứ không đến cái gì khác”, “không bao giờ làm việc nhà để tránh làm tổn thương các ngón tay”; “mọi người để ý đến cũng chỉ vì một thứ thôi: tài chơi dương cầm ” vì vậy “tước cây dương cầm của một đứa con gái như vậy thì nó còn lại gì?”. Kết quả tất yếu của điều đó là: “phựt một cái, tâm trí tôi rơi vào một cõi hỗn mang hoàn toàn. Tối đen như mực.” Sau khi nhập viện tâm thần hai tháng, ngón tay của Reiko có thể cử động lại được, có thể thực hiện ước mơ trên con đường âm nhạc nhưng cô lại cảm thấy “một cái gì đó”, “một nguồn năng lượng quý báu” ở trong mình đã “biến mất, bốc hơi mất” [7;tr.288]. Có lẽ “Nguồn năng lượng quý báu” đó, “cái gì đó bên trong” bản thân chị vừa biến mất kia chính là niềm tin vào cuộc sống, vào giá trị bản thân và tình cảm gắn kết gia đình, vào ý nghĩa của sự tồn tại của bản thân trước cuộc đời – những cội rễ vững chắc để tâm hồn con người neo đậu vào cuộc sống, tìm thấy ý nghĩa của sự tồn tại. Reiko nhận ra mình chỉ là công cụ để thỏa mãn sở thích, thị hiếu, nhu cầu của những người xung quanh. Như vậy, tổn thương của Reiko bắt đầu từ áp lực tinh thần gây tổn thương thể chất (ngón tay không cử động được), sau đó chính tổn thương thể chất dẫn đến tổn thương tâm lí khiến Reiko phải điều trị tâm thần. Cú tổn thương kép này như một vòng dây thòng lọng thít chặt cuộc đời và sự sống của Reiko. Thất vọng về giá trị bản thân, xấu hổ trước dư luận, tuyệt vọng vì phải từ bỏ niềm đam mê mơ ước cháy bỏng của đời mình, đau đớn vì thấy cuộc đời mình không còn ý nghĩa, Reiko chìm trong tuyệt vọng. Và điều tất yếu đã xảy ra với lối sống khép mình trong cô độc và đau khổ của Reiko, cô tìm đến cái chết. Cánh cửa cuộc đời tưởng chừng vĩnh viễn khép lại trước Reiko nhưng cô lại bất ngờ nhận được niềm hạnh phúc: gặp được một người đàn ông tốt, hiểu biết và hết lòng thương yêu. Cuộc đời lại không như là mơ khi một lần nữa cô bị đẩy đến bế tắc, tuyệt vọng bởi một đứa trẻ đồng tính 13 tuổi. Reiko lần thứ hai tìm đến cái chết. Sau lần chết hụt thứ hai này, cô quyết định ở lại bệnh viện tâm thần. Ở một khía cạnh nào đó, việc từ chối tái gia nhập với cộng đồng khi đã hoàn thành khóa trị liệu cũng là một cách tự sát của Reiko. Bởi cô biết, mình đã chết trong lòng những người thân đang ở thế giới bên ngoài kia. Hatsumi, người yêu của Nagasawa lại lựa chọn cái chết bằng phương thức cắt cổ tay sau hai năm kết hôn cũng là một bằng chứng cho thấy sự mất mát niềm tin vào cuộc sống hôn nhân, vào hạnh phúc và giá trị sống của bản thân cô trong cuộc đời. Kano Creta (Biên niên kí chim vặn dây cót) quyết định tự sát năm 20 tuổi vì từ khi sinh ra, cô Kiểu nhân vật chấn thương trong tiểu thuyết của Haruki Murakami 69 đã phải chịu cái đau thuần túy về thể xác. Đó là “cái đau giản đơn, thường tình, trực tiếp, vật lí, song chính vì vậy càng là cái đau buốt nhói: nào nhức đầu, nào đau răng, nào đau khi đến kì kinh nguyệt, nào đau lưng dưới, nào tê vai, nào sốt, nào đau cơ, nào bỏng, nào tê cóng, nào chuột rút, nào bong gân, nào sưng, nào bầm tím vân vân” [5;tr.108]. Nỗi đau về thể xác cũng có khả năng hủy diệt ý chí sinh tồn của con người không kém nỗi đau tinh thần. Mỗi con người có một cái ngưỡng chịu đau khác nhau và cái đau về thể xác là cái đau không thể chia sẻ được. Cha mẹ không thể đau hộ cho vết thương của con cái dù họ có sẵn sàng chết để nhường cho con sự sống. Thân thể Kano Creta lại đặc biệt nhạy cảm với cái đau, vì vậy: “những cái đau thể xác ngày càng thường xuyên, ngày càng dữ dội hơn cái đau của kẻ khác”. Cô gái quyết định tự sát để giải thoát mình khỏi nỗi đau đớn này. Vụ tự sát bất thành, cô gái tỉnh dậy ở bệnh viện và điều kì lạ diễn ra, mọi nỗi đau của cô bỗng đột ngột chấm dứt. Giấc mơ suốt hai mươi năm của cô đã thành hiện thực, nhưng cô lại không thấy hạnh phúc. Khi mọi nỗi đau biết mất, con người vẫn không thể hạnh phúc, bởi mất đi cảm giác đau, con người sẽ trở thành vô cảm. Cái đau là sợi dây kết nối con người với thế giới. Khi mọi cảm giác và cảm xúc biến mất, Kano Creta cảm thấy “như mình không gắn liền với thế giới”. Thế giới mà cô “từng căm ghét và vẫn đang căm ghét đến tận đáy lòng”, cái thế giới mà cô “nguyền rủa vì sự bất công của nó”. Song đó lại là cái thế giới mà nơi đó, ít nhất cô “còn biết mình là ai”. Khi không còn nỗi đau, cô thấy: “thế giới ấy không còn là thế giới, tôi cũng không còn là tôi nữa” [6;tr.118]. Cũng giống như Reiko (Rừng Na Uy), vụ tự sát không thành của Kano Creta giúp cô giữ lại tính mạng nhưng nó cũng đồng thời hoàn thành sứ mệnh của mình: Một Kano Creta đã chết, Kano Creta của những nỗi đau đã không còn, thay vào đó là một Kano Creta vô cảm với mọi nỗi đau, vô cảm với mọi bổn phận và danh dự của mình. Johnnie Walker (Kafka bên bờ biển) là một nhân vật ở giữa ranh giới thực - ảo. Trong thế giới thực, đó chính là nhà điêu khắc nổi tiếng Koichi Tamura, cha của cậu bé Kafka, một con người tài năng nhưng cô độc, lạnh lùng. Trong cuộc trò chuyện với Nakata, nhiều lần hắn nhắc đi nhắc lại điều hắn mong muốn: cái chết. Tự nhận mình là người làm việc gì cũng quy củ, cho nên có chết hắn cũng phải mượn tay người khác mang cái chết đến cho mình. Hắn đã thuyết phục Nakata bằng những lập luận hùng hồn: “Tình thật, tôi mệt mỏi và ớn cái cuộc đời này lắm rồi. Tôi đã sống quá, quá lâu rồi. Thậm chí tôi không còn nhớ mình bao nhiêu tuổi nữa. Và tôi cảm thấy mình không muốn sống thêm nữa” [6;tr.163-164]. Để khiến cho Nakata giải thoát mình khỏi cuộc sống, hắn bắt ông lão phải chứng kiến việc làm dã man của hắn với lũ mèo. Những mũi dao lạnh lùng, sự thản nhiên tàn bạo khi miêu tả từng động tác giết mèo của Johnnie Walker đã khiến cho Nakata không kiểm soát được mình và ra tay với hắn. Hành động của Johnnie Walker mang tính chất ám thị. Khi mũi dao của Nakata đâm trúng hắn, Johnnie Walker mãn nguyện nở nụ cười vì hắn đã được chết theo đúng ý nguyện của mình. Có thể suy nghĩ về cái chết của các nhân vật trong tiểu thuyết Murakami theo quan điểm của Yukio Mishima: “Người Nhật là những người mà trong nền tảng cuộc sống thường ngày luôn ý thức rõ cái chết. Lí tưởng cái chết của Nhật Bản rất rõ ràng và đơn giản () ẩn đằng sau cái mặt nạ gớm ghiếc của nó là một mạch nguồn tinh khiết. Mạch nguồn này khơi dòng cho nhiều con suối nhỏ mang nước sạch vào thế giới chúng ta... Ngay cả ở những vụ tự sát, nơi dường như bản thân con người quyết định mọi việc, thì trên con đường đi đến cái chết số phận vẫn giữ vai trò quan trọng mà ý chí con người không thể điều khiển được” [8;tr.13]. Bằng kiểu nhân vật có khuynh hướng tự sát, Murakami đã phản ánh chân thực những bi kịch tinh thần con người thời hiện đại với những đổ vỡ, hoang mang, mất mát mọi giá trị. Những nhân vật tìm đến cái chết như một sự chấp nhận, phó thác. Không một chút oán trách số phận, họ chọn cái chết như một giải pháp cuối cùng trong công cuộc hàn gắn những vết thương. Bởi vậy dù có nhiều cái chết, nhưng tác phẩm của Murakami không ảm đạm, bi thương mà chỉ như một tiếng thở dài. Cái chết là điểm dừng trong cuộc đời mỗi con người: “mọi chuyện sẽ đến nơi chúng phải đến nếu ta để cho chúng đi theo đường của mình. Và dù có cố đến mấy thì người ta vẫn cứ đau khổ Đặng Phương Thảo 70 khi đã đến lúc họ phải đau khổ” [6;tr.488]. Cuộc sống có quá nhiều cái tất yếu. Con người sinh ra là một tất yếu, được sống, được yêu và được chết, bà mẹ tạo hóa đã vẽ ra chúng ta ở trên đời, thì cũng có thể cuốn chúng ta đi. Hãy hạnh phúc đi như lời Reiko nói. Vì nếu cứ cố bắt cuộc đời vừa khít theo cách sống của mình, chúng ta sẽ lại khổ đau. 2.3. Con người vươn lên hàn gắn sự chấn thương Những chấn thương tâm hồn khiến các nhân vật trong sáng tác của Murakami như những cánh diều chao đảo, mất phương hướng khi không còn sợi dây kết nối với mặt đất. Khát vọng sống thúc đẩy họ tham gia những cuộc hành trình vừa lạ lùng vừa mới mẻ, vừa thực vừa hư, vừa là tìm sự thật, tìm chân lí trong hiện thực, vừa tìm thấy sức mạnh bản ngã để tự hàn gắn những chấn thương. Bởi suy cho cùng, người có thể giúp họ vượt lên và chiến thắng số phận chỉ có thể là chính họ mà thôi. Cô độc, mất mát, trống rỗng nhưng vẫn luôn nỗ lực vươn lên để hàn gắn những chấn thương, điều đó khiến các nhân vật trong sáng tác của Murakami dù ám ảnh, dù trĩu nặng tâm tư nhưng vẫn mang tính nhân văn sâu sắc. Tình yêu chính là phương thuốc đặc hiệu để hàn gắn sự chấn thương. Toru Wantanabe đã dùng tình yêu tuyệt vọng của mình để hàn gắn những vết thương cho Naoko. Ngay khi gặp lại Naoko ở một thành phố xa lạ, nơi cả hai đến trốn tránh nỗi ám ảnh mang tên Kizuki, anh đã ở bên cô gái, tìm mọi cách để đưa cô thoát ra khỏi vực thẳm, trở về với đồng cỏ xanh, mây trắng, nắng vàng. Những ngày sống trong bệnh viện tâm thần (trong tác phẩm được gọi là nhà nghỉ Ami), những lá thư của Wantanabe trở thành động lực cho Naoko, là sự níu giữ Naoko với cuộc đời. Tình cảm của Wantanabe với Naoko là cuộc chạy đua mà anh phải luôn cố sức để tiến đến gần hơn, hàn gắn vết thương cho người con gái đã tan nát cả cõi lòng vì một người con trai khác. Tình yêu mà Wantanabe dành cho Naoko có thể tiếp thêm cho cô nguồn sinh lực mới. Kumiko và Toru Okada (Biên niên kí chim vặn dây cót) là những cá thể mang trong mình những vết thương sâu sắc. Họ tìm đến với nhau và cùng xây dựng một thế giới riêng để hàn gắn những vết thương. Sống bên nhau sáu năm, họ bằng lòng với không gian hẹp mà họ có: một căn phòng nhỏ, thuê của người quen với giá rẻ, ngày ngày đi về từ nơi làm việc, nấu ăn, nghe nhạc, trao đổi với nhau một vài chuyện vụn vặt về cuộc sống Đó là những tháng năm yên ổn nhất trong cuộc đời của họ dù bên dưới mặt nước phẳng lặng kia vẫn tiềm ẩn những con sóng ngầm. Hành trình kiếm tìm liều thuốc chữa liền những vết thương của Miss Saeki là cuộc tìm kiếm tình yêu lí tưởng, tình yêu vĩnh viễn. Khát vọng kiếm tìm ấy được gửi gắm trong bài hát Kafka bên bờ biển của cô gái Saeki mười chín tuổi đang say đắm trong tình yêu. Giữa họ là khoảng cách của hai thế giới: “Anh ngồi bên rìa thế giới/ Em trên miệng núi lửa đã tắt”. Cô gái ví mình như người chết đuối huơ tay tìm “Phiến đá cửa vào”. Cuộc tìm kiếm của Saeki kéo dài suốt ba mươi năm và chỉ dừng lại sau cuộc gặp gỡ Kafka, Nakata - những con người có liên quan tới bi kịch cuộc đời bà bằng một sự kết nối bí ẩn nào đó. Cậu bé Kafka có thể là đứa con trai - tình yêu mà bà đã bỏ lỡ vì một sự mặc cảm ám ảnh của quá khứ. Ông lão Nakata là người giúp bà khép lại quá khứ đau buồn để có thể thanh thản ra đi. Cuộc gặp gỡ của họ vừa tất yếu vừa ngẫu nhiên. Hành trình của mỗi người trong cuộc hành trình kiếm tìm lời giải đáp cho số phận của họ đồng qui ở một điểm: mỗi người đều phải tự làm chủ cuộc đời mình. Nhưng tình yêu không phải là một cứu cánh đắc lực có thể hàn gắn được những chấn thương tinh thần đã ăn sâu vào cốt tủy của con người. Wantanabe không níu giữ được Naoko, sau cuộc gọi cho Midori là sự im lặng kéo dài, Kumiko bỏ đi để lại sự hoang mang, trống rỗng cho Okada. Những người Nhật trẻ như họ trở thành những kẻ mất phương hướng, mất niềm tin vào tương lai của chính mình. Họ tìm đến tình dục như một cách để xoa dịu những nỗi đau. Trong những năm học đại học, Toru Wantanabe có quan hệ tình dục với nhiều cô gái khác nhau theo kiểu tình một đêm. Khi gặp chuyện đau lòng, khi cảm thấy hụt hẫng, cô đơn, hay đơn giản chỉ là để kết thúc một cuộc gặp gỡ nhàm chán, Toru Wantanabe đều sẵn sàng quan hệ thân xác với một cô gái xa Kiểu nhân vật chấn thương trong tiểu thuyết của Haruki Murakami 71 lạ nào đó dù cả hai có thể đều không có nhu cầu. Murakami đã sử dụng sex ở đây như một sự cứu cánh cho nỗi cô đơn, nó mở ra những cánh cửa đóng kín trong lòng người. Với Nagasawa – chàng trai có cuộc sống quá đủ đầy, dư thừa về vật chất, cuộc hoan ái ngắn ngủi với những cô gái xa lạ trở thành một liều thuốc an thần để Nagasawa tạm quên đi nỗi chán chường trong cuộc sống không lí tưởng. Sau khi Kumiko đột ngột bỏ đi, Toru Okada bị đẩy vào những quan hệ tình dục trong giấc mơ với Kano Creta dù điều đó hoàn toàn không xuất phát từ ham muốn hay tình yêu. Việc quan hệ thân xác này với Toru Okada giống như một con đường để mở lối thông giữa tâm hồn và thể xác để đạt đến sự giác ngộ. Thông qua bước trung gian này, anh đã hiểu được điều gì đang diễn ra trong cuộc sống của mình, tìm lại được Kumiko, tiêu diệt Wataya Noboru và khơi lại dòng chảy cuộc đời mình. Những ảo giác dục tính chính là phương tiện để chữa lành những vết thương trong tiềm thức con người. Naoko với Kizuki, Saeki và cậu cả nhà Komura là những cặp đôi yêu nhau từ thuở ấu thơ và có quan hệ tình dục với nhau từ khi còn là những đứa trẻ. Họ luôn cảm nhận được người này chính là cả thế giới đối với người kia. Họ không cần đến một người thứ ba nào khác trong thế giới chung của họ. “Trở thành người yêu của nhau là việc tự nhiên nhất trên đời của bọn mình... Bọn mình bắt đầu hôn nhau lúc mười hai tuổi và biết vuốt ve nhau lúc mười ba tuổi... Bọn mình hầu như không biết tí gì về những nỗi khắc khoải của tình dục hoặc tâm trạng đau khổ đi kèm với sự trưởng thành của bản ngã... Bọn mình hoàn toàn cởi mở trong tình dục” [7;tr.245-246]. Quan hệ giữa Miss Saeki và chàng trai Komura cũng là mối quan hệ như vậy. Đó cũng chính là nỗi bất hạnh chung của những cặp đôi lí tưởng. Trong cái thế giới nhỏ bé và hoàn hảo của những cặp đôi này, vấn đề tình dục dường như chỉ là một trò chơi khám phá của trẻ con, họ không bao giờ bị nỗi khắc khoải dục tính giày vò. Nhưng sau những mất mát, những nỗi đau do bị chia cắt bởi cái chết, thế giới lí tưởng của họ đã hoàn toàn sụp đổ. Người ở lại tìm cách thoát ra khỏi nỗi ám ảnh ấy bằng cách bám víu vào một người thứ ba. Toru Watanabe và Kafka là những người thay thế nhưng bản thân họ là người của thế giới khác, một thế giới sống động thực sự. Họ có thể khỏa lấp nỗi đau trong giây phút hòa hợp về thể xác nhưng không thể làm hồi sinh được trái tim đã khô kiệt, héo mòn. Coi tình dục là một phương tiện để che đậy sự đơn côi, mất mát, nhưng vì tình dục không gắn với tình yêu nên sau khoảnh khắc được lấp đầy, con người lại nhanh chóng trở về với sự vô vọng, hoang mang. Toru Watanabe càng lao vào tình dục để quên đi quá khứ với Kizuki, Naoko, càng thấy cái vực thẳm ngăn cách mình với thế giới rộng thêm. Nagasawa thất bại khi tìm niềm vui sống trong đời trụy lạc, chạy trốn tới một đất nước xa xôi. Toru Okada chỉ thấy hạnh phúc khi hồi tưởng lại những khoảnh khắc bên người vợ Kumiko Chỉ bằng cách hòa hợp tuyệt đối cả về thể xác và tâm hồn, trao thân xác một cách nhiệt thành cho tình yêu, cảm xúc nhục dục mới có thể được lưu giữ và tạo những khoảnh khắc tuyệt đẹp trong cuộc đời, mới có thể mở ra những con đường và hướng đi đến tương lai. Kasahara May (Biên niên kí chim vặn dây cót) một cô bé 16 tuổi, mắc chứng tâm thần phân liệt, có những suy nghĩ lạ lùng và luôn bị ám ảnh bởi cái chết cuối cùng đã tìm thấy ý nghĩa cuộc sống trong công việc. Trong một lần ngồi sau xe moto của cậu bạn trai, để thử cảm giác, cô đưa tay bịt mắt cậu bạn dẫn đến việc họ bị tai nạn. Cậu bạn chết còn cô bé bị thương. Vết thương thể xác của cô không mấy nghiêm trọng nhưng vết thương tinh thần lại hằn sâu mãi mãi. Nó khiến cô trở nên hoang mang, bế tắc và muốn hiểu đến tận cùng ý nghĩa của sự tồn tại. Để chữa trị vết thương của mình, May đã tìm đến một công xưởng hẻo lánh, cách xa thế giới náo nhiệt, xô bồ. Ngày ngày trôi qua, cô tìm sự thanh thản trong cộng việc gắn tóc giả, thấy giá trị của lao động và ý nghĩa sự tồn tại của mình. Gắn mình trong tập thể, Kashahara May dần dần có cảm giác mình như một con ốc nhỏ xíu trong cỗ máy đang vận hành. Dẫu phải một mình vượt qua tất cả nhưng cô bé 16 tuổi ấy đã dũng cảm trụ lại sau những chấn thương, mất mát. Đặng Phương Thảo 72 Bằng cách riêng của mình, Murakami đã chạm đến đáy sâu kín của địa hạt tâm hồn con người. Không chỉ khám phá, phát hiện mà nhà văn còn trân trọng những nỗ lực dù rất nhỏ bé của con người trong hành trình tìm kiếm ý nghĩa đích thực của sự tồn tại bởi ở thời đại nào cũng vậy, “con người có thể bị hủy diệt nhưng không thể bị khuất phục” (E. Hemingway). Văn học Nhật Bản đã có vô số những cuộc hành trình kiếm tìm như thế: hành trình sâu thẳm của Basho, Thiền sư – thi sĩ lên miền Oku xa xôi, hay những chuyến du hành của lữ khách đi tìm cái đẹp – Kawabata Yasunari trong Xứ tuyết, Vũ nữ Izu... Trong tiểu thuyết của Murakami, chuyến hành trình của Kafka, Saeki, Nakata, Hoshino (Kafka bên bờ biển), của Toru Okada, trung úy Mamyia (Biên niên kí chim vặn dây cót), của Toru Wantanabe (Rừng Na Uy) là những hành trình kiếm tìm lời giải đáp cho số phận cá nhân và bản chất xã hội, hành trình dấn thân kiếm tìm khám phá bản ngã và hoàn thiện tâm linh con người. 3. Kết luận Thời điểm Murakami viết những cuốn sách đầu tiên và gặt hái thành công vang dội nhờ cuốn tiểu thuyết Rừng Na Uy, tiểu thuyết Việt Nam cũng đang bước vào giai đoạn chuyển mình. Trên văn đàn xuất hiện những cây bút tiên phong trong cách tân văn học như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh Phản ánh số phận con người cá nhân qua những kĩ thuật tự sự hiện đại như dòng tâm tư, độc thoại nội tâm, bút pháp huyền ảohọ đã đem đến cho văn đàn Việt Nam một diện mạo mới. Tuy vậy, sự đổi mới về cách nhìn thực tại và con người trong văn học Việt Nam chưa có sự thay đổi về chất như sáng tác của Haruki Murakami. Những tác phẩm của ông, từ Rừng Na-Uy, Biên niên kí chim văn dây cót, Kafka bên bờ biển thực sự là những hành trình đầy trăn trở, những cuộc lãng du kì lạ trong hiện thực, những cuộc vượt thoát ra ngoài không, thời gian và thám hiểm vào cõi nội tâm đầy bí ẩn của con người để truy tầm bản ngã cho mình. Hệ thống nhân vật của Murakami có cơ duyên từ sự kết hợp hài hòa giữa phương Đông và phương Tây. Trong tiểu thuyết Murakami, người đọc có thể thấy dấu ấn nhân vật chấn thương của E. Hemingway, Philippe Claudel, nhân vật huyền ảo của Kafka, Gabriel Garcia Marquez, Miguel Asturias, Italo Calvino, Leslie Marmon Silko và hình ảnh lữ khách cô đơn trong sáng tác Kawabata, bóng dáng nhân vật huyền thoại trong sáng tác của các nhà văn Nhật Bản: Murasaki Shikubu, Natsume Soseki, Ueda Akinari. Nhân vật của Haruki Murakami đã được đặt trong cái thế giới chông chênh ấy. Trong cõi hỗn loạn, xô bồ của đời sống, họ phải dằn vặt, nghĩ suy, trăn trở và nhiều khi đã tìm đến cái chết để giữ được bản ngã của mình. Nhưng vượt lên tất cả, họ vẫn gom nhặt từng chút mảnh vỡ tâm hồn để xây dựng thành điểm tựa, bám víu vào tia hi vọng nhỏ nhoi ấy để tiếp tục vươn lên. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Cathy Caruth, 2013. Unclaimed Experience: Trauma, Narrative, History, Baltimore & London, The John Hopkins University Press [2] Lê Nguyên Cẩn, 2013. Cấu trúc tự sự “Kafka bên bờ biển” theo phân tâm học, [3] Lê Huy Bắc, 2015, Văn học hậu hiện đại, lí thuyết và tiếp nhận. Nxb Đại học Sư phạm [4] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, 1999. Từ điển thuật ngữ văn học. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. [5] Haruki Murakami, Biên niên kí chim vặn dây cót, 2006, Trần Tiễn Cao Đăng dịch. Nxb Hội nhà văn, Nhã Nam, Hà Nội. [6] Haruki Murakami, 2007. Kafka bên bờ biển, Dương Tường dịch. Nxb Văn học, Nhã Nam, Hà Nội. Kiểu nhân vật chấn thương trong tiểu thuyết của Haruki Murakami 73 [7] Haruki Murakami, 2007. Rừng Na uy, Trịnh Lữ dịch. Nxb Hội nhà văn, Nhã Nam, Hà Nội, 2007. [8] Nhiều tác giả, 2007. Kỉ yếu hội thảo Haruki Murakami và Yoshimoto Banana, Cty văn hóa Nhã Nam và đại sứ quán Nhật bản tại Việt Nam. [9] Nguyễn Thị Thanh Nga, 2017. Bi cảm (aware) trong tiểu thuyết Cố đô của Kawabata. Tạp chí Khoa học, Đại học sư phạm Hà Nội, tr.29-30. [10] J.F. Lyotard, 2010. Hoàn cảnh hậu hiện đại, Ngân Xuyên dịch. Nxb Tri thức, Hà Nội. [11] Psychological trauma, Đặng Phương Thảo dịch, trang [12] Patricia Welch, 2005. “Murakami Haruki’s Storytelling World”, World Literature Today Vol. p.79. ABSTRACT Traumatized type of character in Haruki Murakami's novels Dang Phuong Thao Hong Bang High School, Hai Phong Traumatized characters play an important role in the artistic world of Murakami. Loners in an imperfect world seek their self-worth helplessly. Some desperately find the death to escape but many people are still trying to find ways to overcome. Through three typical novels Norwegian Wood, The Wind-up Bird Chronicle, Kafka on the shore, Murakami’s traumatized type of character has brought the sensation of the new age: the panic of people facing the dramatic changes of 4.0 technology era. However, beyond all that, people still pick up bits of soul debris building up the spiritual footprint to put themselves up. Keywords: Haruki Murakami, , narrative, Traumatized type of character, Norwegian Wood, The Wind-up Bird Chronicle, Kafka on the shore.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf5196_8_dang_phuong_thao_1917_2123685.pdf
Tài liệu liên quan