Tài liệu Khóa luận Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Mĩ La Tinh và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam: TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG 
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG 
   
KHểA LUẬN TỐT NGHIỆP 
 ĐỀ TÀI: 
THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI 
MĨ LA TINH VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM 
Giỏo viờn hướng dẫn : Th.S Nguyễn Quang 
Minh 
Sinh viờn thực hiện : Cự Thị Hồng Quyờn 
Lớp : A4 - K38B - KTNT 
 HÀ NỘI - 2003 
Khoá luận tốt nghiệp 
MỤC LỤC 
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT 
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ........... 5 
 I. Lí LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ........................ 5 
 1. Khỏi niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ............................. 5 
 2. Cỏc hỡnh thức FDI ........................................................................... 6 
 3. Tỏc động của FDI đến những nước đang phỏt triển......................... 9 
 3.1. Những lợi thế của FDI ....................................
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
114 trang | 
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1464 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Khóa luận Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Mĩ La Tinh và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG 
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG 
   
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP 
 ĐỀ TÀI: 
THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI 
MĨ LA TINH VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM 
Giáo viên hướng dẫn : Th.S Nguyễn Quang 
Minh 
Sinh viên thực hiện : Cù Thị Hồng Quyên 
Lớp : A4 - K38B - KTNT 
 HÀ NỘI - 2003 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
MỤC LỤC 
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT 
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ........... 5 
 I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ........................ 5 
 1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ............................. 5 
 2. Các hình thức FDI ........................................................................... 6 
 3. Tác động của FDI đến những nước đang phát triển......................... 9 
 3.1. Những lợi thế của FDI .............................................................. 9 
 3.2. Những mặt trái của FDI .......................................................... 16 
 4. Những nhân tố chủ yếu tác động đến thu hút FDI ......................... 19 
 4.1 Sự ổn định về kinh tế và chính trị-xã hội ................................... 20 
 4.2 Sự hoàn chỉnh, hữu hiệu của hệ thống pháp luật........................... 20 
 4.3 Sự mềm dẻo, hấp dẫn của hệ thống chính sách đầu tư nước 
ngoài ...................................................................................... 21 
 4.4 Sự phát triển của cơ sở hạ tầng .................................................. 22 
 4.5 Sự phát triển của đội ngũ lao động và hệ thống doanh nghiệp 
trong nước ............................................................................... 23 
 4.6 Sự đơn giản về thủ tục hành chính và hiệu quả các dự án FDI 
đã triển khai................................................................................. 24 
 II. THỰC TIỄN FDI TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG XU HƯỚNG CƠ BẢN............. 25 
 1. Tình hình FDI trên thế giới ............................................................ 25 
 2. Những xu hướng cơ bản của dòng FDI .......................................... 28 
 2.1. Sáp nhập và mua lại qua biên giới (cross - border M&A) có xu 
hướng chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong FDI .......................... 28 
 2.2. Nguồn vốn FDI chủ yếu vẫn chảy vào các nước công nghiệp 
phát triển .................................................................................. 30 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
 2.3. Có sự thay đổi lớn trong tương quan trật tự giữa các chủ đầu 
tư quốc tế ................................................................................. 31 
 2.4. Có sự thay đổi lớn trong lĩnh vực đầu tư ..................................... 32 
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG THU HÚT FDI Ở MĨ LA TINH ....................... 34 
 I. CÁC CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP NHẰM THU HÚT FDI ........................... 34 
 1. Sử dụng nguyên tắc “đãi ngộ quốc gia” đối với các nhà đầu tư 
nước ngoài ..................................................................................... 35 
 2. Đơn giản hoá các thủ tục .............................................................. 36 
 3. Xoá bỏ những hạn chế đối với việc chuyển vốn và lợi nhuận 
của nhà ĐTNN......................................................................................36 
 4. Mở rộng lĩnh vực thu hút vốn ....................................................... 37 
 5. Xây dựng những ưu đãi đặc biệt cho vốn đầu tư nước ngoài ......... 38 
 6. Thực hiện tự do hoá thương mại ................................................... 39 
 7. Tích cực tham gia các hiệp định đầu tư quốc tế ............................. 41 
 II. THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TẠI MỸ LA TINH ......................................... 42 
 1. Giai đoạn 1960-1970 (giai đoạn tăng trưởng) ............................... 42 
 2. Giai đoạn đầu 1980 đến nửa cuối những năm 1980 (giai đoạn 
suy giảm) ...................................................................................... 44 
 3. Giai đoạn nửa cuối những năm 1980 - nửa đầu những năm 1990 
(giai đoạn phục hồi) ........................................................................ 44 
 4. Giai đoạn từ nửa sau những năm 1990 đến nay (giai đoạn tăng 
nhanh) ........................................................................................... 46 
 III. KẾT QUẢ ĐẦU TƯ ................................................................................ 51 
 1. Khối lượng đầu tư .......................................................................... 51 
 2. Lĩnh vực đầu tư ............................................................................ 52 
 3. Cơ cấu chủ đầu tư ........................................................................... 53 
 4. Hình thức đầu tư ........................................................................... 55 
 IV. TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ CÁC NƯỚC MĨ LA TINH ........ 57 
 1. Tác động tích cực ........................................................................... 57 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
 1.1. FDI là nguồn vốn bổ sung để phát triển kinh tế và là nguồn 
cung ngoại tệ ổn định mà không làm tăng gánh nặng nợ nần ...... 57 
 1.2. FDI góp phần bù đắp thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai ......... 59 
 1.3. Tạo ra công ăn việc làm, tăng thu nhập người lao động, nâng 
cao đời sống kinh tế xã hội ........................................................ 61 
 1.4. Tăng xuất khẩu và cải thiện cơ cấu kinh tế ................................. 62 
 2. Tác động tiêu cực............................................................................. 63 
 2.1. Mất cân bằng cán cân thanh toán quốc tế ................................... 63 
 2.2. Sự phụ thuộc vào vốn đầu tư nước ngoài làm nền kinh tế dễ 
bị tổn thương................................................................................64 
 2.3. Nhiều nguồn lợi bị chuyển vào tay tư bản nước ngoài .................. 65 
 2.4. Các ảnh hưởng tiêu cực khác .................................................. 66 
CHƯƠNG III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM ................... 69 
 I. THỰC TRẠNG FDI TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA...................... 69 
 1. Số dự án, vốn đầu tư và quy mô dự án ........................................... 69 
 2. Cơ cấu đầu tư ................................................................................. 69 
 2.1. Cơ cấu đầu tư theo ngành, lĩnh vực kinh tế .................................. 69 
 2.2. Cơ cấu đầu tư theo vùng, lãnh thổ .............................................. 71 
 2.3. Cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư ........................................... 72 
 3. Về đối tác đầu tư ............................................................................. 73 
 4. Những thành tựu đạt được ............................................................... 74 
 5. Những hạn chế trong thu hút FDI ................................................... 78 
 II. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC 
NGOÀI 80 
 1. Mục tiêu ......................................................................................... 81 
 2. Định hướng ..................................................................................... 82 
 III. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT FDI CỦA VIỆT NAM THÔNG QUA KINH 
NGHIỆM CỦA MĨ LA TINH ..................................................................... 83 
 1. Đảm bảo ổn định kinh tế, chính trị-xã hội ...................................... 83 
 2. Đẩy nhanh quá trình tự do hoá thương mại...................................... 84 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
 3. Đa phương hoá, đa dạng hoá đối tác và hình thức đầu tư ............... 85 
 4. Mở rộng đồng thời có ưu tiên lựa chọn những lĩnh vực thu hút 
FDI .................................................................................................. 87 
 5. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính .......................................... 88 
 6. Tạo dựng sân chơi bình đẳng hơn cho nhà đầu tư nước ngoài ........ 89 
 7. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước ............................................. 90 
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 92 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-1- 
LỜI MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những hoạt động được đánh giá 
là đòn bẩy để thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước và hội nhập với nền kinh tế 
thế giới. Nước tiếp nhận đầu tư không những được cung cấp về vốn mà còn cả 
về công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Vì vậy, đầu tư trực tiếp nước 
ngoài đã trở thành vấn đề quan trọng đối với nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là 
các nước đang phát triển. 
Mĩ La Tinh là khu vực thu hút được lượng khá lớn vốn đầu tư trực tiếp 
nước ngoài trong thời gian qua, đứng thứ hai sau khu vực châu Á trong số các 
nước đang phát triển. Đặc biệt, một số nước trong khu vực này luôn nằm trong 
danh sách “topten” các nước đang phát triển tiếp nhận nhiều vốn đầu tư trực tiếp 
nước ngoài nhất như Brazil, Mexico, Chilê [78]. Để đạt được điều này, các nước 
Mĩ La Tinh đã phải có những chính sách, biện pháp nhằm cải thiện môi trường 
đầu tư làm tăng tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Mặc dù vậy, 
cũng giống như các nước đang phát triển khác, khu vực này cũng không tránh 
khỏi những khó khăn, vấp váp khi tiếp cận với nguồn vốn này nhưng vẫn đang 
cố gắng vượt qua thách thức để phát triển kinh tế. Những kết quả thu hút đầu tư 
trực tiếp nước ngoài của các nước Mĩ La Tinh thực sự đã để lại những kinh 
nghiệm quý báu cho các đang phát triển. 
Việt Nam mới thực hiện chính sách mở cửa chưa lâu và chỉ thực sự chú 
trọng tới thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được hơn 10 năm. Mặc 
dù đạt được một số thành tự đáng khích lệ như tăng trưởng xuất khẩu, tiếp thu 
công nghệ tiên tiến... chúng ta vẫn gặp phải rất nhiều khó khăn, vướng mắc 
trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn này. Do đó nghiên cứu và học hỏi 
các nước bạn là việc làm cần cần thiết. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-2- 
Cần phải thấy rằng, Việt Nam và Mĩ La Tinh có nhiều điểm khác biệt mà 
trước hết là các nước Mĩ La Tinh đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, nền kinh 
tế dựa trên sở hữu tư nhân có sự điều tiết của nhà nước. Việt Nam đang trong 
quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội 
chủ nghĩa từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Định hướng và chính sách 
xã hội giữa hai bên là khác nhau. Tuy nhiên xét trên khía cạnh thu hút nguồn 
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam và Mĩ La Tinh có những điểm tương 
đồng: cả hai đều là những nước đang phát triển, đang cố gắng tìm mọi cách để 
thu hút được càng nhiều nguồn vốn ưu việt này và cả hai cũng đang gặp những 
vướng mắc tương tự. Do đó, đối với Việt Nam, nghiên cứu những thành công và 
thất bại của Mĩ La Tinh để đúc rút kinh nghiệm và tránh lặp lại sai lầm là điều 
rất quan trọng trong quá trình thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp 
nước ngoài. 
2. Mục tiêu nghiên cứu 
 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài xin được làm rõ một số nội dung sau: 
 Một số vấn đề tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt là vai trò 
của nguồn vốn này đối với các nước đang phát triển và những mặt trái của nó. 
Bên cạnh đó còn đưa ra một số những nhân tố chủ yếu tác động đến quá trình 
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. 
 Những chính sách, biện pháp nhằm tạo môi trường hấp dẫn trong việc thu 
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Mĩ La Tinh cũng như tình hình thực tiễn thu 
hút FDI của khu vực này và các kết quả đạt được. Từ đó đánh giá những tác 
động tích cực cũng như những tác động tiêu cực của nguồn vốn FDI đối với sự 
phát triển kinh tế và xã hội của Mĩ La Tinh. 
 Tình hình thu hút FDI của Việt Nam trong thời gian qua bao gồm cả việc 
đánh giá hiệu quả và những tác động của nguồn vốn này đối với sự phát triển 
kinh tế và xã hội của Việt Nam . Thêm vào đó, xem xét mục tiêu và định hướng 
của Việt Nam về thu hút FDI trong thời gian tới. Từ đó đưa ra một số bài học 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-3- 
trong thu hút và sử dụng FDI ở Việt Nam thông qua kinh nghiệm của Mĩ La 
Tinh. 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
 Bài viết nghiên cứu một số vấn đề tổng quan về đầu tư trực tiếp nước 
ngoài. Các chính sách, biện pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của Mĩ La Tinh. 
Tình hình thực tiễn trong việc thu hút FDI, kết quả và những tác động của FDI 
đối với kinh tế Mĩ La Tinh và Việt Nam. 
 Tuy nhiên bài viết không thể nghiên cứu sâu toàn bộ khu vực Mĩ La Tinh 
mà chỉ đề cập đến thực trạng thu hút FDI của khu vực này một cách tổng quát. 
Sau đó là đi sâu nghiên cứu một số nước có thành tích nổi bật như Brazil, 
Mexico, Chilê và Achentina 
4. Phương pháp nghiên cứu 
Ngoài việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản như duy vật 
biện chứng, duy vật lịch sử, bài viết còn sử dụng các phương pháp so sánh, phân 
tích, tổng hợp để phân tích các kết quả nghiên cứu, kết hợp giữa lý luận và thực 
tiễn và đi từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn khách quan. 
Ngoài ra bài viết còn sử dụng bảng biểu, hình vẽ để mô phỏng xu hướng 
biến đổi của các đối tượng và hiện tượng. 
5. Kết cấu của khóa luận 
Luận văn được chia làm 3 phần: phần lời mở đầu, phần kết luận và 3 
chương, trong đó: 
Chương I : Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài 
Chương II : Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Mĩ La 
Tinh 
Chương III : Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo - Thạc sĩ Nguyễn Quang Minh đã 
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình viết và hoàn thành khoá luận tốt 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-4- 
nghiệp này. Đồng thời em cũng xin chân thành cám ơn các cô chú trong Viện 
kinh tế thế giới, bạn bè và gia đình đã động viên, giúp đỡ em rất nhiều trong quá 
trình hoàn thành khoá luận. Mặc dù hết sức cố gắng nhưng do thời gian và tài 
liệu có hạn nên bài viết không thể tránh khỏi một số sai sót, hạn chế, em rất 
mong được các quý thầy cô, bạn bè và các độc giả quan tâm phê bình và đóng 
góp ý kiến. 
Hà nội, tháng 12 năm 2003 
 Sinh viên 
 Cù Thị Hồng 
Quyên 
 Bảng 14: Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 1988-2002 (Triệu USD) 
CHỈ TIÊU 1988-1990 
1991-
1995 1996-2000 
 1996 1997 1998 1999 2000 5 năm 
2001 2002 
I. Số dự án 
Cấp mới 214 1397 365 348 275 311 377 1676 523 649 
Lượt tăng vốn 1 262 162 164 162 163 174 825 227 305 
Giải thể 6 237 54 85 101 86 113 439 94 93 
Hết hạn 2 12 4 6 2 2 2 16 1 2 
II. Vốn ĐK mới và tăng vốn 
Vốn đăng kí 1.582 16.244 8.640 4.649 3.897 1.568 2.014 20.768 2.536 1.379 
Tăng vốn 300 2.132 788 1.173 884 629 476 3.951 608 919 
Giải thể 26 1.522 1.141 544 2.428 784 1.794 6.691 1.434 690 
Hết hạn 300 98,6 146,1 24,4 19,1 1,1 2,5 193 3,8 332 
Còn hiệu lực 1.556 26.453 31.706 34.040 35.452 36.146 37.851 39.127 
III. Vốn thực hiện 7.153 2.923 3.137 2.364 2.179 2.228 12.831 2.300 2.345 
Vốn từ nước ngoài 6.086 2.518 2.822 2.214 1.971 2.043 11.568 2.100 2.345 
Vốn của DNVN 1.067 405 315 150 208 185 1.263 200 250 
Nguồn: Tạp chí Thông tin kinh tế-xã hội số 2/2003, tr.22 
K
hoá luận tốt nghiệp
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT 
FDI (foreign direct investment) : Đầu tư trực tiếp nước ngoài 
TNC (Transnational Corporation) : Công ty xuyên quốc gia 
ĐTNN : Đầu tư nước ngoài 
DN : Doanh nghiệp 
DNLD : Doanh nghiệp liên doanh 
DNVN : Doanh nghiệp Việt Nam 
DNSX : Doanh nghiệp sản xuất 
NSLD : Năng suất lao động 
TB : Trung bình 
ĐPT : Đang phát triển 
PT : Phát triển 
CNPT : Công nghiệp phát triển 
CNH-HĐH : Công nghiệp hoá-hiện đại hoá 
NIEs (New Industrial Economies) : Các nền kinh tế mới 
M&A ( Merger& Acquisition) : Sáp nhập và mua lại 
GDP (Gross Domestic Product) : Tổng sản phẩm quốc nội 
Vốn ĐK : Vốn đăng ký 
Vốn ĐT : Vốn đầu tư 
KCN & KCX : Khu công nghiệp & Khu chế xuất 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-5- 
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 
1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 
Mọi quá trình sản xuất đều cần phải có hai yếu tố cơ bản là tư liệu sản 
xuất và sức lao động. Thiếu hai yếu tố đó thì sẽ không có bất kì một quá trình 
sản xuất nào cho dù đó là sản xuất tự cung tự cấp hay sản xuất hàng hoá. Để có 
được hai yếu tố cơ bản đó, vấn đề đặt ra là cần có vốn đầu tư và thực hiện hoạt 
động đầu tư. Vốn đầu tư dùng để mua sắm, bổ sung trang thiết bị kĩ thuật, trả 
lương cho người lao động.Vốn đó dù có sự khác nhau về quy mô hay cơ cấu, 
song là cần thiết đối với mọi quá trình sản xuất, mọi quốc gia đặc biệt là các 
quốc gia đang phát triển - những nước mà chưa hoàn thành sự nghiệp công 
nghiệp khoá, hiện đại hoá. 
Vốn đầu tư có thể được huy động trong nước cũng như có thể được huy 
động từ nước ngoài. Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế được đẩy 
mạnh như thời đại ngày nay thì nguồn vốn từ nước ngoài ngày càng trở nên phổ 
biến và có vai trò không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế, mặc dù đứng về lâu 
dài mà nói thì vốn đầu tư trong nước vẫn luôn đóng vai trò chủ yếu. Đầu tư trực 
tiếp nước ngoài là một trong các kênh thu hút vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) 
của một quốc gia. 
Trên thế giới có nhiều cách diễn giải khái niệm về FDI, tuỳ theo góc độ 
tiếp cận của các nhà kinh tế. Tuy nhiên có một khái niệm được sử dụng rộng rãi 
hơn cả là khái niệm do Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra. Theo IMF: FDI là số 
vốn đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp 
hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Ngoài mục 
đích lợi nhuận, nhà đầu tư mong muốn tìm được chỗ đứng trong việc quản lý 
doanh nghiệp và mở rộng thị trường. Khái niệm này nhấn mạnh vào hai yếu tố 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-6- 
là tính lâu dài của hoạt động đầu tư và động cơ đầu tư là giành quyền kiểm soát 
trực tiếp hoạt động quản lý doanh Như vậy có thể phân biệt FDI với các dạng 
đầu tư nước ngoài khác ở các đặc điểm sau: 
 Đây là loại hình đầu tư chủ yếu có thời hạn dài, vốn của nhà đầu tư từ 
quốc gia này đưa sang quốc gia khác nhằm mục tiêu lợi nhuận. 
 Nguồn vốn FDI có thể của chính phủ, cá nhân hoặc hỗn hợp - nghĩa là 
chủ đầu tư phải có yếu tố nước ngoài mà thể hiện là sự khác nhau về quốc 
tịch, lãnh thổ. 
 Chủ sỡ hữu vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình sử dụng 
vốn và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình tuỳ theo mức độ 
góp vốn. 
 Việc tiếp nhận FDI không gây gánh nặng nợ nần cho nước chủ nhà, trái 
lại nước chủ nhà còn có điều kiện như vốn, kĩ thuật... để phát triển tiềm 
năng trong nước. 
2. Các hình thức FDI 
Xét trên giác độ toàn cầu, những hình tức FDI thường được áp dụng là: 
Một là, Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Contractual business Co-
operation). Đây là hình thức liên kết kinh doanh giữa đối tác trong nước với các 
nhà ĐTNN trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho 
mỗi bên bằng các văn bản kí kết, trong đó các bên vẫn giữ nguyên tư cách pháp 
nhân riêng mà không tạo nên một pháp nhân mới. 
Hai là, doanh nghiệp liên doanh (Joint-venture enterprise). Đây là một 
hình thức tổ chức kinh doanh quốc tế của các bên tham gia có quốc tịch khác 
nhau, trên cơ sở cùng sở hữu về vốn góp, cùng quản lý, cùng phân phối lợi 
nhuận, cùng chia sẻ rủi ro để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt 
động dịch vụ hoặc các hoạt động nghiên cứu bao gồm nghiên cứu cơ bản và 
nghiên cứu triển khai theo các điều khoản cam kết trong hợp đồng liên doanh ký 
kết giữa các bên tham gia phù hợp với các quy định của nước sở tại. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-7- 
Ba là, Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% foreign capital 
enterprise). Đây là doanh nghiệp do các nhà ĐTNN đầu tư 100% vốn, do đó 
hoàn toàn thuộc sở hữu của các nhà ĐTNN, chịu sự điều hành, quản lý của nhà 
ĐTNN nhưng vẫn là pháp nhân nước sở tại, chịu sự kiểm soát của pháp luật 
nước sở tại. 
Bốn là, đầu tư thông qua tư nhân hoá(Privatization). Đây là hình thức 
các nhà ĐTNN mua một lượng cổ phần đủ lớn của các công ty nhà nước được tư 
nhân hoá để có quyền tham gia quản lý, điều hành công ty hay doanh nghiệp đó. 
Năm là, sáp nhập và mua lại( Mergers and Acquisitions-M&As). Thông 
qua việc sáp nhập với các công ty ở nước ngoài hoặc mua đứt các công ty đó, 
nhà đầu tư nước ngoài có thể thiết lập sự có mặt của mình ở nước sở tại một 
cách nhanh nhất. Đây là hình thức đầu tư phổ biến của các công ty xuyên quốc 
gia hiện nay. 
Bên cạnh đó còn có vài dạng đặc biệt của hình thức 100% vốn nước 
ngoài áp dụng cho các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, đó là: 
 Hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao( Building Operate Transfer-
BOT) được thành lập trên cơ sở văn bản kí kết giữa một bên là nhà ĐTNN và 
một bên là Chính phủ nước sở tại để thành lập một pháp nhân mới ở nước sở tại 
nhằm thực hiện trách nhiệm của từng bên theo văn bản đã kí. Hình thức BOT 
thường áp dụng chủ yếu cho các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng và kinh doanh 
theo thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Khi hết 
thời hạn kinh doanh, công trình sẽ được chuyển giao không bồi hoàn cho nước 
sở tại. 
 Hợp đồng xây dựng - chuyển giao-kinh doanh(Building Transfer Operate 
- BTO). Hình thức này giống BTO, nhưng khác ở điểm là sau khi xây dựng 
xong, công trình được chuyển giao cho nước sở tại trước rồi nhà đầu tư mới 
được khai thác. 
 Hợp đồng xây dựng-chuyển giao (Building Transfer-BT). Hình thức này 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-8- 
cũng giống như hình thức BTO nhưng khác ở điểm là sau khi chuyển giao xong 
nhà đầu tư sẽ được chính phủ nước sở tại tạo điều kiện cho nhà ĐTNN thực hiện 
một dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý chứ không được 
khai thác công trình đã chuyển giao. 
Trong các loại hình FDI nói trên, hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình 
thức đa dạng và thường áp dụng trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí và 
trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghiệp gia công và dịch vụ. 
Doanh nghiệp liên doanh (DNLD) là loại hình được nước chủ nhà ưa 
chuộng vì có điều kiện để học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài, 
đào tạo lao động, tiếp cận dần chỗ đứng trên thị trường thế giới. Tuy nhiên hình 
thức này đồi hỏi bên nước chủ nhà phải có khả năng góp vốn, có đủ trình độ 
tham gia quản lý doanh nghiệp với người nước ngoài thì nước chủ nhà mới đạt 
hiệu quả mong muốn. Xu hướng chung của tất cả các nước là tăng dần vốn góp 
của bên nước sở tại trong DNLD, từ đó từng bước tăng cường ảnh hưởng của 
mình trong doanh nghiệp, tiến tới kiểm soát và quản lý hoàn toàn các hoạt động 
sản xuất kinh doanh của DNLD. Tuy nhiên hình thức này ngày càng không được 
chủ ĐTNN ưa chuộng vì nhiều phiền phức do bất đồng trong quản lý, đối tác 
đầu tư chưa ngang tầm về kinh nghiệm kinh doanh, quy mô kinh tế. 
Đối với Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, lúc đầu các nhà ĐTNN còn 
e ngại vì họ chưa nắm rõ tình hình và luật pháp nước sở tại, họ muốn chia sẻ rủi 
ro với đối tác nước chủ nhà, mặt khác nước chủ nhà cũng không thích hình thức 
đầu tư này vì họ muốn được chia sẻ lợi ích, học hỏi kinh nghiệm quản lý. Tuy 
nhiên xu hướng chung, hình thức này ngày càng được mở rộng hơn vì các chủ 
ĐTNN muốn tự mình quản lý và hưởng lợi nhuận do thành quả đầu tư đem lại, 
còn nước sở tại buộc phải chấp nhận để cạnh tranh thu hút FDI trong bối cảnh 
nước nào cũng tìm mọi cách để thu hút thật nhiều FDI. 
Hình thức đầu tư thông qua tư nhân hoá chỉ thực hiện ở các nước có quá 
trình tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước mà cho phép nhà đầu tư nước 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-9- 
ngoài tham gia. 
Hình thức M&As được áp dụng phổ biến khi các công ty xuyên quốc gia 
muốn nhanh chóng tìm được chỗ đứng của mình ở nước sở tại. Hình thức này 
thường diễn ra trong các ngành như viễn thông, chế tạo ô tô, ngân hàng. 
Hình thức BOT, BTO, BT được thành lập khi nước chủ nhà có nhu cầu 
tiêu dùng sản phẩm nhưng nước chủ nhà lại không có khả năng đáp ứng. Đặc 
biệt với những nước có cơ sở hạ tầng yếu kém thì hình thức này được ưa chuộng 
vì họ không có đủ vốn để xây dựng các hệ thống hạ tầng cho nền kinh tế. 
3. Tác động của FDI đến những nước đang phát triển 
FDI là một đặc trưng nổi bật của nền kinh tế thế giới hiện đại, một yếu tố 
quan trọng thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá. Trên phượng diện lý thuyết cũng 
như thực tiễn, khó có một lợi ích nào không đồi hỏi chi phí. FDI mang lại lợi ích 
và cả rủi ro cho cả nước chủ đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Tuy nhiên, trong 
nghiên cứu này ta chỉ xem xét tác động của FDI tới nước nhận đầu tư là các 
nước đang phát triển (ĐPT). 
3.1. Những lợi thế của FDI 
Thứ nhất, FDI bổ sung nguồn vốn cho nước chủ nhà phát triển kinh tế mà 
không làm tăng gánh nặng nợ nần. 
Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, các nước đang phát triển đều bị 
thiếu vốn đầu tư do tích luỹ nội bộ thấp hoặc không có tích luỹ. Điều này đã hạn 
chế đến quy mô đầu tư và đổi mới công nghệ, trang thiết bị kĩ thuật ở các nước 
này. FDI là loại hình đầu tư không quy định mức vốn đầu tư tối đa mà chỉ quy 
định mức đầu tư tối thiếu, do vậy cho phép nước sở tại khai thác được nguồn 
vốn bên ngoài, làm tăng thêm nguồn lực để phát triển kinh tế. Nguồn vốn FDI 
có thể hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế xã hội và 
thường là vốn đầu tư dài hạn, do các nhà ĐTNN tự quản lý và tự chịu kết quả 
kinh doanh nên có hiệu quả để tăng trưởng kinh tế bền vững. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-10- 
Hình 1 cho ta thấy FDI vào các nước ĐPT tăng lên nhanh chóng từ 
44,266 tỷ USD năm 1991 tăng lên 111,649 tỷ USD năm 1995 và đạt mức cao 
nhất vào năm 2000 với số lượng là 238,643 tỷ USD, tăng hơn 5 lần so với năm 
1991. Đây là một nguồn vốn lớn giúp các nước ĐPT phát triển kinh tế của mình. 
Bên cạnh đó, như đã nói FDI là nguồn vốn do các chủ ĐTNN “tự làm, tự 
chịu”, nó khác với các khoản viện trợ chính thức (ODA) hay các khoản tín dụng 
quốc tế khác là không gây ra gánh nặng nợ nần cho nước tiếp nhận đầu tư nên 
các nước đang phải chịu sức ép nợ nần ở khu vực châu Á, đặc biệt là các nước 
thuộc khu vực Mĩ La Tinh rất mong muốn tiếp nhận nguồn vốn đầu tư này. 
Thứ hai, FDI thúc đẩy chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm 
quản lý kinh doanh của nước ngoài. 
Ở các nước đang phát triển, công nghệ thường là công nghệ cổ truyền, lạc 
hậu với năng suất thấp. Bên cạnh đó, với trình độ phát triển kinh tế xã hội, giáo 
dục, khoa học kĩ thuật không cao, các nước này có ít khả năng phát triển những 
công nghệ mới và hiện đại. Mặt khác, với số vốn tích lũy ít ỏi, khả năng tự nhập 
khẩu công nghệ của các nước này cũng rất hạn chế. Trong hoàn cảnh đó, FDI 
được coi là phương tiện hữu hiệu để các nước này có thể tiếp cận với những 
công nghệ cao, hiện đại của nước ngoài. 
Hình 1: Luồng FDI vào các nước đang phát triển (1991-2000) 
0
50000
100000
150000
200000
250000
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Nguồn : UNCTAD Handbook of Statistics 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-11- 
 Thông thường, khi triển khai dự án đầu tư vào một nước, chủ ĐTNN 
không chỉ chuyển vào đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy 
móc, thiết bị, nguyên vật liệu (còn gọi là công nghệ cứng) và vốn vô hình như 
công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết quản lý, kỹ năng tiếp cân thị trường (còn 
gọi là công nghệ mềm) cũng như đưa chuyên gia nước ngoài vào hoặc đào tạo 
các chuyên gia bản xứ về các lĩnh vực đó. Điều này cho phép các nước nhận đầu 
tư không chỉ có được những công nghệ đơn thuần mà còn nắm vững cả các kĩ 
năng nguyên lý vận hành, sửa chữa, mô phỏng và phát triển nó, nhanh chóng 
tiếp cận được công nghệ hiện đại ngay cả khi nền tảng quốc gia chưa được tạo 
lập đầy đủ. Ví dụ một nghiên cứu được thực hiện với 8 chi nhánh công ty nước 
ngoài và 16 công ty thầu phụ trong nước trong lĩnh vực điện tử của Xingapo cho 
thấy sự chuyển giao công nghệ lớn nhất được thực hiện thông qua các cơ hội 
học tập mà các chi nhánh công ty của nước ngoài đưa ra qua việc kiểm tra và 
phản hồi thông tin. Sự chuyển giao công nghệ trực tiếp như đề cập ở trên có tầm 
quan trọng không lớn và phần lớn được thực hiện thông qua việc cung cấp các kĩ 
năng như cố vấn hoặc đào tạo về hệ thống quản lý chất lượng và những kĩ năng 
thực hành sản xuất hàng hoá khác. Loại công nghệ chuyển giao chủ yếu liên 
quan đến các quá trình sản xuất, đặc biệt là những kĩ năng về quản lý chất 
lượng[30]. 
Việc chuyển giao công nghệ thông qua FDI của các công ty xuyên quốc 
gia (TNC-Transnational Corporation) có vai trò to lớn trong việc kích thích các 
doanh nghiệp trong nước tự nâng cao trình độ công nghệ và thông qua chuyển 
giao công nghệ tạo ra nhiều sản phẩm mới, kiểu dáng đẹp, chất lượng cao, góp 
phần nâng cao sức cạnh tranh của bản thân doanh nghiệp trên cả thị trường trong 
nước lẫn thị trường quốc tế. 
Với hình thức doanh nghiệp liên doanh, nước chủ nhà tham gia quản lý 
cùng các nhà ĐTNN nên có điều kiện tiếp cận và học hỏi kinh nghiệm quản lý 
tiên tiến của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, nâng dần kiến thức kinh 
doanh hiện đại của cán bộ và tay nghề của đội ngũ công nhân như kinh nghiệm 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-12- 
xây dựng và đánh giá dự án, kinh nghiệm tổ chức điều hành doanh nghiệp, quản 
lý tài chính, kế toán, quản lý công nghệ, nghiên cứu thị trường, nghệ thuật tiếp 
thị, thông tin quảng cáo, tổ chức mạng lưới dịch vụ. 
Thứ ba, FDI mở ra cơ hội hội nhập kinh tế thế giới. 
Hiện nay, các nước đang phát triển đều đã nhận thức ra rằng sự phát triển 
kinh tế của mình phải dựa vào thị trường thế giới, phải tham gia tích cực vào 
phân công lao động quốc tế và họ luôn tìm cách để thực hiện quá trình đó một 
cách nhanh chóng và hiệu quả nhất. 
Hội nhập kinh tế thế giới có nghĩa là định hướng phát triển kinh tế từ thay 
thế nhập khẩu sang hướng vào xuất khẩu. Các nghiên cứu về quá trình phát triển 
kinh tế của các nước đang phát triển cho thấy một trong những nhân tố đảm bảo 
cho chiến lược hội nhập thành công là thu hút FDI. Điều này về mặt lý thuyết là 
do đầu tư trực tiếp nước ngoài gắn bó chặt chẽ với thương mại, còn về mặt thực 
tiễn là do các nước đang thiếu kinh nghiệm và khả năng thâm nhập thị trường 
nước ngoài. Hầu hết các nước đang phát triển đạt được tốc độ tăng trưởng xuất 
khẩu cao và tạo ra những chuyển biến trong cơ cấu thương mại của mình là nhờ 
thu FDI vào các ngành công nghệ tiên tiến và những ngành sản xuất các sản 
phẩm được ưa chuộng trên thị trường thế giới.Ví dụ điển hình về mặt này là 
trường hợp của Malaysia. Trong hơn hai thập kỷ qua, nước này đã thành công 
vang dội trong việc chuyển từ xuất khẩu sản phẩm sơ chế sang hàng có hàm 
lượng chế tạo cao. Tỷ lệ sản phẩm chế tạo trong tổng xuất khẩu của Malaysia đã 
tăng từ trên 20% vào đầu thập kỷ 70 lên 70% trong những năm của thập kỷ 90. 
Thành tích kỳ diệu này của Malaysia là có công rất lớn của FDI. Trong năm 
1980, tỷ lệ FDI vào khu vực chế tạo đạt mức rất cao 77% và đã tăng lên tới 
84,5% trong năm 1990. 
Bên cạnh đó, thông qua FDI, các nước đang và chậm phát triển được thu 
hút vào mạng lưới phân công lao động quốc tế và khu vực. Một thí dụ là ngành 
công nghiệp ô tô ở các nước Đông Nam Á. Các hãng sản xuất ô tô nổi tiếng như 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-13- 
Toyota, Honda, Nissan, Mazda... đều thực hiện chiến lược thiết lập mạng lưới 
sản xuất và lắp ráp được bố trí ở các nước khác nhau và được gắn bó với nhau 
thông qua buôn bán nội bộ công ty. Quá trình này được thúc đẩy mạnh mẽ bởi 
tự do hoá thương mại trong khu vực. 
Ngoài ra, FDI còn mang lại nhiều lợi ích khác cho nước chủ nhà. Đó là, 
hoạt động hiệu quả của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sẽ giúp các quốc gia 
này khai thác có hiệu quả các thế mạnh sẵn có về tài nguyên, vị trí địa lý và 
nguồn nhân công vẫn còn được sử dụng rất lãng phí ở các nước này. 
 Thứ tư, FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp 
hoá-hiện đại hoá (CHH-HĐH). 
Bằng việc chuyển giao công nghệ thường đã mất sức cạnh tranh ở chính 
quốc, nhưng lại còn khá mới mẻ và hiện đại đối với các nước tiếp nhận đầu tư, 
FDI góp phần cải thiện cơ cấu kinh tế các nước tiếp nhận đầu tư theo hướng 
công nghiệp hoá- hiện đại hoá và quốc tế hoá. ở những nền kinh tế mới CNH, 
đầu tư của các công ty xuyên quốc gia thường tập trung vào lĩnh vực công 
nghiệp chế tạo. Ví dụ, ở Xingapo các công ty nước ngoài chiếm 66-75% số tư 
bản đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế tạo trong khoảng thời gian 1977-1981, 
ở Thái Lan năm 1988 FDI vào nông nghiệp, khai thác mỏ, dầu khí chiếm 12,2% 
còn gần 90% tập trung vào công nghiệp [1]. Điều này giải thích tại sao FDI đã 
đóng vai trò tích cực trong việc thúc đẩy quá trình xuất khẩu sản phẩm công 
nghiệp ở các nước này. 
 Mặt khác vốn FDI đầu tư vào các ngành dịch vụ ngày càng tăng, do đó 
cũng góp phần thúc đẩy cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH ở các nước tiếp 
nhận vốn. Chẳng hạn như: đầu những năm 90, tỉ lệ FDI đầu tư vào khu vực dịch 
vụ ở Mêhicô đã lên đến 60%, còn ngành công nghiệp chế tạo đã giảm còn 27%, 
do đó góp phần làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế nước này theo hướng tăng của 
các ngành dịch vụ và giảm tỉ trọng của các ngành công nghiệp và nông nghiệp 
[4]. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-14- 
Thứ năm, FDI góp phần giả quyết tình trạng thất nghiệp và nâng cao thu 
nhập. 
Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, mục đích chủ yếu của các công ty 
nước ngoài là nhằm thu lợi nhuận cao, tìm kiếm thị trường mới, củng cố chỗ 
đứng và duy trì lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do đó các công ty này 
đặc biệt chú trọng đến việc tận dụng nguồn lao động rẻ ở nước tiếp nhận đầu tư. 
Thông qua việc thành lập các doanh nghiệp mới hoặc mở rộng quy mô các 
doanh nghiệp hiện có, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra công ăn 
việc làm cho một số lượng khá lớn người lao động tại nước tiếp nhận, đặc biệt là 
tại những nước đang phát triển - nơi có nguồn lao động dồi dào, nhưng thiếu vốn 
để khai thác và sử dụng. Chẳng hạn như một công ty máy tính sản xuất ổ đĩa đã 
làm tăng công ăn việc làm ở khu vực Băngkôc (Thái Lan) từ 5.000 lên đến 
20.000 người trong năm 1989. Hoặc ở Xingapo, trong năm 1989 các công ty có 
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 70% lao động có việc làm trong lĩnh vực 
chế biến [22]. Gần đây hơn, tại Mêhicô, trong năm 2001, tỷ lệ gia tăng người lao 
động vào làm tại các công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã cao gấp hai 
lần mức gia tăng bình quân của cả nước. Từ năm 1994, các công ty có vốn 
ĐTNN đã tạo ra 1/4 lượng công ăn việc làm mới cho nước này và hiện tại các ct 
này đang thu hút khoảng 20% số lao động chính thức của nước này [49]. 
Song song với tạo ra việc làm, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn làm tăng 
thu nhập cho người lao động bởi tiền lương trả từ các doanh nghiệp có vốn đầu 
tư trực tiếp nước ngoài thường cao hơn các doanh nghiệp trong nước, điều này 
góp phần nâng cao mặt bằng tiền lương chung tại nước tiếp nhận. Bảng 1 cho 
thấy sự khác biệt về tiền lương giữa các công ty có vốn ĐTNN và các công ty 
trong nước thường ở mức khá cao, khoảng 20-30% ví dụ như ở Vênêzuêla là 
29%, Thái Lan là 20%, Hồng Kông là 27%... đặc biệt có trường hợp mức chênh 
lệch này lên tới 50% (Mêhicô)[49] và 60% (Inđônêxia). 
Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, một bộ phận dân cư có thể có 
được mức thu nhập cao và kéo theo đó là mức tiêu dùng cũng như tiết kiệm sẽ 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-15- 
cao hơn, điều đó sẽ thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển cũng như mở 
rộng hoạt động tái đầu tư. 
Tóm lại, FDI đóng vai trò khá toàn diện đối với sự phát triển kinh tế xã 
hội của nước tiếp nhận đầu tư. Với những ưu điểm nổi bật trên thì việc thu hút 
FDI đã trở thành chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong bối cảnh 
toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ ngày nay. Tuy nhiên, song song với những 
nỗ lực thu hút FDI cũng phải xem chừng đến những những tác động tiêu cực mà 
FDI có thể gây ra. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-16- 
Bảng 1 : Sự chênh lệch về lương giữa các công ty có vốn ĐTNN và các công ty 
trong nước ở các nước ĐPT. 
Tác giả 
nghiên 
cứu 
Nước và năm 
nghiên cứu 
Đối 
tượng 
nghiên 
cứu 
Cơ sở 
nghiên 
cứu 
Kết quả 
Aitken, 
Harrison 
và Lipsey 
Mêhicô (1990) và 
Vênêzuêla (1987) 
Lương có 
tay nghề 
và không 
có tay 
nghề 
Đặc điểm 
công ty, 
ngành và 
khu vực 
FOE* trả cao hơn 29% ở 
Vênêzuêla và 22% ở 
Mêhicô (có tay nghề); 
22% ở Vênêzuêla và 3,3% 
ở Mêhicô (không có tay 
nghề) 
Haddad 
vad 
Harrison 
Moroco, các 
DNSX, 1985 – 
1996 
Mức 
lương TB 
trong DN 
Độ lớn 
công ty FOE trả cao hơn 30% 
Lipsey và 
Sjonlm 
Inđônêxia, các 
DNSX, 1996 
Tiền 
công TB 
Đặc điểm 
công nhân 
và DN 
FOE trả cao hơn 12% cho 
người lao động chân tay và 
22% cho người lao động 
trí óc 
Matsuoka 
Thái lan, ngành 
sản xuất, 1996 và 
1998 
Tiền 
công tính 
theo giờ 
NSLĐ khu 
vực và 
ngành 
FOE trả cao hơn 20% 
trong lĩnh vực phi sản xuất 
và 8% trong lĩnh vực sản 
xuất (1996) ; 28% và 12% 
năm 1998 
Mazumdar 
Camơrun, 
Dămbia, ngành 
sản xuất, 1993 
Thu nhập 
Đặc điểm 
công nhân 
và DN 
FOE trả cao hơn 18% ở 
Camơrun và 24% ở 
Dămbia. 
Ramstetter 
HồngKông (1983 
-1996), Malayxia 
(1972 - 1979, 
1981 - 1995), 
Xingapo (1975 - 
1996), Đàiloan 
(1974-1995), các 
DNSX 
Tiền trả 
thực tế 
cho mỗi 
lao động 
FOE trả cao hơn 27% 
(HồngKông) ;20% 
(Malayxia) ;9%(Xingapo); 
16% (Đài loan) 
Te velde 
và 
Morrissey 
Camơrun, Ghana, 
Kênia, Dămbia, 
Dimbabuê, 
DNSX, đầu thập 
niên 90 
Thu nhập 
TB hàng 
tháng 
Đặc điểm 
công nhân 
và DN 
FOE trả cao hơn 8% 
(Camơrun); 22% 
(Ghanna), 17%(Kênia), 
13% (Dimbabuê) 
Nguồn: www.odi.org.uk *FOE (Foreign-owned establishments): Doanh nghiệp 
có vốn ĐTNN. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-17- 
3.2. Những mặt trái của FDI 
FDI có thể gây ra nhiều những mặt trái cho nước nhận đầu tư. Sau đây là 
một vài mặt tiêu cực có thể dễ dàng nhận thấy: 
Một là, chi phí thu hút FDI đôi khi quá cao. 
Ngày nay, thấy rõ lợi ích ngày càng to lớn do FDI mang lại, cùng với 
chiến lược phát triển dựa trên sự hoà nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế thế giới, các 
quốc gia ngày càng tích cực hơn trong việc tìm kiếm nguồn vốn FDI. Một trong 
các biện pháp mà các nước thường đưa ra là các khuyến khích đầu tư. Đây chính 
là các ưu đãi mà nước chủ nhà dành cho các nhà đầu tư nước ngoài, thông 
thường nó có các hình thức sau: 
 Các khuyến khích về tài chính: nước chủ nhà trực tiếp cung cấp vốn cho 
các nhà đầu tư nước ngoài dưới dạng tài trợ đầu tư và tín dụng ưu đãi (chẳng 
hạn như việc cho nhà đầu tư vay vốn với lãi suất ưu đãi khi đầu tư vào vùng có 
điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn như Trung Quốc đang áp dụng). 
 Các khuyến khích về thuế: được đặt ra nhằm giảm bớt gánh nặng về thuế 
cho các nhà đầu tư như việc miễn giảm thuế trong một thời gian đầu hoạt động. 
 Các khuyến khích gián tiếp: được đặt ra nhằm tăng khả năng sinh lời cho 
các nhà đầu tư nước ngoài thông qua việc chính phủ cung cấp đất đai hoặc cơ sở 
hạ tầng với giá thấp hơn giá thương mại thông thường. 
 Như vậy, có thể nhận thấy là các khuyến khích đầu tư này chính là việc 
chuyển một phần lợi ích từ các nước tiếp nhận sang các nhà đầu tư nước ngoài. 
Đó chính là chi phí của thu hút đầu tư. Trong nhiều trường hợp, khi mà nước 
chủ nhà không đánh giá chính xác được toàn bộ các tác động tích cực mà một dự 
án FDI mang lại thì sẽ rất dễ xảy ra tình trạng chi phí bỏ ra để thu hút được dự 
án còn lớn hơn tổng lợi nhuận mà dự án đem lại. Có thể nói việc này khá nguy 
hiểm nếu không có một chính sách thu hút đầu tư đúng đắn vì khi đó FDI không 
những không thúc đẩy dược tăng trưởng kinh tế mà còn làm thất thoát các nguồn 
lực của đất nước. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-18- 
Hai là, nguy cơ trở thành bãi rác công nghệ. 
Mục tiêu của các nhà đầu tư khi tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài 
là đạt được lợi nhuận cao nhất. Bởi vậy các nhà đầu tư bao giờ cũng tận dụng tối 
đa các yếu tố sản xuất. Bên cạnh đó, dưới tác động của cách mạng khoa học kỹ 
thuật nên máy móc, công nghệ rất mau trở nên lạc hậu, điều này luôn tạo ra sức 
ép buộc các nhà sản xuất phải nhanh chóng đổi mới công nghệ, đổi mới sản 
phẩm, nâng cao chất lương sản phẩm. Kéo dài thời gian khai thác công nghệ 
bằng cách đầu tư ra bên ngoài chính là biện pháp giải quyết được hai mục tiêu 
trên.Vì lẽ đó mà hầu hết công nghệ mà các nhà đầu tư chuyển giao sang các 
nước đang và chậm phát triển đều là những công nghệ đã qua sử dụng, thậm chí 
có những công nghệ đã rất lạc hậu. 
Việc chuyển giao công nghệ lạc hậu có thể gây ra rất nhiều thiệt hại cho 
nước nhận đầu tư, đó là: thứ nhất, rất khó tính được giá trị thực của những máy 
móc chuyển giao đó, do vậy nước chủ nhà thường bị các nhà đầu tư khai tăng 
giá công nghệ dẫn đến thiệt hại trong tỷ lệ góp vốn và cuối cùng là trong việc 
phân chia lợi nhuận; thứ hai, gây ô nhiễm môi trường; thứ ba, công nghệ lạc hậu 
thì chất lượng sản phẩm thấp, chi phí sản xuất cao và do đó sản phẩm của nước 
nhận đầu tư khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. 
Thực tiễn cho thấy tình hình chuyển giao công nghệ của các nước công 
nghiệp sang các nước đang phát triển vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm. Theo 
báo cáo của ngân hàng phát triển Mỹ, có tới 70% thiết bị mà các nước Mỹ La 
Tinh nhập khẩu từ các nước tư bản phát triển là công nghệ lạc hậu. Cũng như 
vậy, có rất nhiều công nghệ lạc hậu đã chuyển giao vào các nước ASEAN trong 
những năm qua bằng con đường FDI. 
Tuy nhiên, các quốc gia nhận đầu tư có thể hạn chế bớt tác động tiêu cực 
này thông qua chính sách công nghệ thích hợp của mình. Ngoài ra, các quốc gia 
này nên chú ý việc lựa chọn công nghệ phải phù hợp với phấp luật, chính sách 
về bảo vệ môi trường. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-19- 
Ba là, rất khó quản lý được chính xác hoạt động của các doanh nghiệp có 
vốn ĐTNN. 
Có thể nói đầu tư trực tiếp nước ngoài đang là một chiến lược hàng đầu 
của các công ty xuyên quốc gia trong xu thế quốc tế hoá các nền kinh tế. Hầu 
hết các chủ đầu tư nước ngoài rất giàu kinh nghiệm, sành sỏi trong kinh doanh, 
họ luôn tìm cách né tránh sự quản lý của chính phủ nước nhận đầu tư về vốn đầu 
tư trực tiếp nói riêng và các mặt quản lý hoạt động khác nói chung, nhất là quản 
lý lợi nhuận phát sinh. Do đó nhà nước rất khó nắm bắt chính xác các số liệu từ 
các doanh nghiệp nước ngoài. 
Mặt khác, với mục đích chính là lợi nhuận, các nhà đầu tư thường đầu tư 
vào những ngành, những lĩnh vực có hiệu suất lợi nhuận cao như bảo hiểm, ngân 
hàng, khai thác dầu khí... trong khi nước nhận đầu tư lại mong muốn các nhà 
đầu tư nước ngoài đầu tư vào các ngành mà trong nước chưa phát triển như nông 
nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng... Và vì thế có thể gây ra tình trạng mất cân đối 
trong đầu tư của nền kinh tế. Nếu nhà nước không có những quy hoạch và cơ 
chế quản lý hữu hiệu sẽ có thể dẫn tới tình trạng đầu tư tràn lan, kém hiệu quả, 
tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức, nạn ô nhiễm môi trường trầm 
trọng, cơ cấu kinh tế méo mó hoặc chậm được cải thiện và từ đó tích tụ những 
nguy cơ gây mất ổn định chung của đời sống kinh tế xã hội. 
Bốn là, bị biến thành nơi tiêu thụ sản phẩm và bị phụ thuộc vào vốn đầu 
tư và mô hình công ty ở chính quốc. 
Rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài khi chọn nước để đầu tư mang theo 
mong muốn mở rộng thị trường tại nước nhận đầu tư. Đây chính là chiến lược 
xuất khẩu sản phẩm ngay tại thị trường nội địa và cũng lại là một mâu thuẫn lớn 
với chính sách hướng về xuất khẩu của nước nhận đầu tư. Do đó trên thực tế 
luôn xuất hiện các hành vi tiêu cực làm trái với các quy định pháp luật và các 
thoả thuận hợp đồng ban đầu về tiêu thụ sản phẩm. Nếu sản phẩm có khả năng 
xuất khẩu được thì các nhà đầu tư luôn nắm giữ và độc quyền thị trường tiêu 
thụ. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-20- 
Có nhiều nước đang phát triển có tích luỹ thấp, do đó nguồn vốn đầu tư 
chủ yếu dựa vào đầu tư trực tiếp nước ngoài và các nguồn vốn bên ngoài khác. 
Do đó khi có những biến cố xảy ra như khủng hoảng kinh tế, bất ổn về chính 
trị... các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn đột ngột sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới 
nền kinh tế các nước này. 
Bên cạnh đó, thông qua nguồn đầu tư trực tiếp, các công ty xuyên quốc 
gia thiết lập một hệ thống các công ty, xí nghiệp ở nước ngoài theo hình ảnh và 
cơ chế của bản thân chủ đầu tư. Điều này đã tạo ra sự lệ thuộc tất yếu nhiều mặt 
của các cơ sở kinh tế nước ngoài vào chính quốc. Hạn chế này đã gây ra mâu 
thuẫn giữa mong muốn duy trì một cơ cấu kinh tế dân tộc, độc lập, tự chủ với xu 
hớng chuyển hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thành 
một chi nhánh của công ty tư bản độc quyền. 
Ngoài ra, FDI còn gây ra nhiều những mặt tiêu cực khác như làm mất cân 
đối giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị, gây ra sự phân hoá giàu nghèo, 
tệ nạn xã hội. 
Tuy nhiên, những mặt trái của FDI cũng không thể phủ nhận được những 
lợi ích to lớn của nó, chỉ lưu ý rằng chúng ta không nên quá kì vọng vào FDI và 
phải có những biện pháp hữu hiệu để phát huy những mặt tích cực và hạn chế 
những mặt tiêu cực của FDI. Bởi vì mức độ thiệt hại mà FDI gây ra cho nước 
chủ nàh nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào chính sách, năng lực, trình độ quản 
lý, trình độ chuyên môn của nước nhận đầu tư. 
4. Những nhân tố chủ yếu tác động đến thu hút FDI 
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút FDI của một nước. 
Nó không chỉ phụ thuộc vào những điều kiện của nước chủ nhà mà nó còn phụ 
thuộc vào mục đích của nhà đầu tư. Nếu nhà đầu tư muốn tìm kiếm thị trường 
tiêu thụ sản phẩm thì điều kiện hấp dẫn nhà đầu tư sẽ là dân số đông, thu nhập 
trung bình cao, nếu họ muốn tìm nguồn nguyên liệu rẻ thì điều kiện đó là tài 
nguyên thiên nhiên dồi dào, dễ khai thác. Tuy nhiên, nếu không xét đến khả 
năng và nhu cầu về vốn đầu tư của cả bên nước chủ đầu tư lẫn bên nước nhận 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-21- 
đầu tư và với giả định bối cảnh chung của thế giới ở điều kiện bình thường cả về 
tự nhiên và nhân tạo thì có thể nhận thấy dòng vốn đầu tư quốc tế nói chung và 
dòng FDI nói riêng chỉ thực sự mở rộng và ưa tìm đến những nơi có môi trường 
đầu tư đảm bảo cho đồng vốn sinh sôi nảy nở. Thực tế đã chứng minh một môi 
trường đầu tư hấp dẫn, có sức cạnh tranh để thu hút FDI trước hết phải bao gồm 
những nhân tố chủ yếu sau: 
4.1 Sự ổn định về kinh tế và chính trị-xã hội 
Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro về kinh tế-chính 
trị của dòng vốn FDI vượt khỏi tầm kiểm soát của nhà đầu tư nước ngoài. 
Những bất ổn về kinh tế-chính trị không chỉ làm cho dòng FDI bị chững lại, bị 
thu hẹp lại mà còn làm cho dòng vốn từ trong nứơc chảy ngược ra ngoài, tìm 
đến nơi trú ẩn mới an toàn và hiệu quả hơn. Theo thống kê, người ta đã nhận 
định rằng một nước mà có tình hình chính trị xã hội ổn định thì có thể tăng 
lượng FDI thu hút được lên 57% [69]. 
Điều kiện này không chỉ bao gồm các yêu cầu về duy trì sự phát triển kinh 
tế ổn định, trật tự an ninh chính trị-xã hội cần thiết cho sự vận hành bình thường 
của đất nước mà còn phải duy trì được dư luận và tâm lý chung thuận lợi và ủng 
hộ các nhà đầu tư nước ngoài. Bất kì sự bất ổn nào về chính trị như khủng bố, 
đảo chính, nội chiến hay sự hoài nghi, tẩy chay, thiếu thiện cảm của giới lãnh 
đạo và quần chúng nhân dân đối với ĐTNN đều là những nhân tố nhạy cảm tác 
động tiêu cực tới tâm lý cũng như là hành động thực tế của nhà ĐTNN và nó 
cũng sẽ làm chậm lại những cải cách về chính sách cần thiết nhằm thu hút FDI 
của nước chủ nhà. 
4.2 Sự hoàn chỉnh, hữu hiệu của hệ thống pháp luật 
Hệ thống pháp luật đầu tư là thành phần quan trọng của môi trường đầu 
tư, bao gồm các văn bản pháp luật, các văn bản dưới luật, các văn bản quản lý 
hoạt động đầu tư nước ngoài như hướng dẫn đầu tư, đánh giá, thẩm định dự án 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-22- 
và quản lý các hoạt động đầu tư nhằm tạo nên một hành lang pháp lý đồng bộ, 
hiệu quả tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. 
Bên cạnh đó, các quy định trong hệ thốn pháp luật đầu tư của nước sở tại 
phải đảm bảo sự an toàn về vốn và cuộc sống cá nhân cho nhà đầu tư khi hoạt 
động đầu tư của họ không vi phạm pháp luật, không làm phương hại đến lợi ích, 
an ninh quốc gia. Ví dụ như phải đảm bảo không quốc hữu hoá tài sản tư nhân, 
đảm bảo việc di chuyển lợi nhuận về nước cho các nhà đầu tư được dễ dàng. Nội 
dung của hệ thống pháp luật ngày càng đồng bộ, chặt chẽ, không chồng chéo, 
phù hợp với quy định của luật pháp và thông lệ quốc tế thì khả năng thu hút FDI 
càng cao. Một hệ thống pháp luật hoàng chỉnh, hữu hiệu có thể làm tăng lượng 
FDI thu hút được lên tới 100% [69]. 
4.3 Sự mềm dẻo, hấp dẫn của hệ thống chính sách đầu tư nước ngoài 
 Chính sách thương mại mở cửa là yếu tố quan trọng để thu hút đầu tư trực 
tiếp nước ngoài trong thời đại ngày nay. Những cuộc điều tra về các công ty 
Nhật Bản quyết định đầu tư ra nước ngoài cho thấy sự nhận thức tích cực về các 
chính sách chi phối các khoản đầu tư vào một nước, và các rào chắn thương mại 
thấp là những yếu tố có ảnh hưởng đáng kể, chi phối quyết định đầu tư của các 
công ty đa quốc gia vào đất nước đó. 
Bên cạnh đó, việc tích cực tham gia các khu vực mậu dịch tự do, các thoả 
thuận tự do hoá thương mại cũng là nhân tố thu hút FDI. Bởi lẽ động lực thúc 
đẩy các hoạt động đầu tư ra nước ngoài ngày càng gắn liền với các cơ hội 
thương mại hơn là khai thác thị trường địa phương. 
Chính sách tiền tệ phải giải quyết được các vấn đề chống lạm phát và ổn 
định tiền tệ. chính sách lãi suất và tỉ giá tác động trực tiếp đến dòng chảy của FDI 
với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận thu được 
tại một thị trường xác định. Việc xem xét sự vận động của vốn nước ngoài ở các 
nước trên thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư dài hạn, nhất là FDI đổ vào một 
nước thường tỉ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong và ngoài nước, trong 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-23- 
khu vực và ngoài khu vực. Nếu độ chênh lệch lãi suất càng cao, tư bản nước 
ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít rủi ro hơn và hưởng lãi ngay 
trên số chênh lệch lãi suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước cao hơn mức 
lãi suất quốc tế thì sức hút với dòng vốn chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng 
nghĩa với lãi suất cao là chi phí trong đầu tư cao lại làm giảm lợi nhuận của các 
nhà đầu tư. Do đó xác định mức lãi suất hợp lý là một yếu tố quan trọng để thu 
hút FDI. 
Một tỉ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở 
từng giai đoạn thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn và sức hấp dẫn 
với đầu tư nước ngoài cũng càng lớn. Một nước mà có mức tăng trưởng xuất 
khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư hơn vì khả năng trả nợ của nước đó 
được đảm bảo hơn, độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm xuống. 
Các mức ưu đãi tài chính-tiền tệ dành cho nhà ĐTNN cũng là yếu tố hấp 
dẫn FDI. Các mức ưu đãi này nhằm đảm bảo cho nhà đầu tư kiếm được lợi 
nhuận cao nhất trong điều kiện kinh doanh chung của khu vực, của mỗi nước để 
khuyến khích họ đầu tư vào trong nước và vào những nơi mà chính phủ khuyến 
khích đầu tư. 
Những ưu đãi về thuế chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong những ưu 
đãi về tài chính - tiền tệ dành cho nhà đầu tư. Mức thuế ưu đãi cao hơn luôn 
dành cho các dự án có tỉ lệ vốn nước ngoài cao, quy mô lơn, dài hạn, hướng về 
thị trường nước ngoài, sử dụng nhiều lao động trong nước, tái đầu tư lợi nhuận. 
Có thể nói rằng nếu mức thuế trung bình của một nước giảm 1% thì nước đó có 
thể tăng lượng FDI lên 4% [69]. 
Ngoài ra, hệ thống thuế thi hành hiệu quả, rõ ràng dễ áp dụng và mức thuế 
không quá cao (so với lãi suất, lợi nhuận bình quân, so với mức thuế chung của 
khu vực và thế giới), các thủ tục thuế cũng đơn giản, hợp lý, tránh vòng vèo qua 
nhiều khâu trung gian, công khai và thuận lợi cho đối tượng nộp thuế cũng là 
những yêu cầu để hấp dẫn FDI nhiều hơn. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-24- 
4.4 Sự phát triển của cơ sở hạ tầng 
Sự phát triển của cơ sở hạ tầng kĩ thuật của quốc gia tiếp nhận FDI luôn là 
điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các 
quyết định và triển khai trên thực tế các dự án đầu tư đã cam kết. Một tổng thể 
hạ tầng phát triển phải bao gồm hệ thống giao thông vận tải phát triển với cầu, 
cảng, đường xá, bến bãi, sân bay và các phương tiện giao thông bảo phủ toàn 
quốc và đủ tầm hoạt động quốc tế; một hệ thống bưu chính viễn thông với các 
thiết bị hiện đại, có thể nối mạng quốc gia và quốc tế một cách thông suốt và an 
toàn; hệ thống điện nước dồi dào, phân bổ tiện lợi cho hoạt động sản xuất kinh 
doanh và đời sống hàng ngày và một mạng lưới dịch vụ phát triển, rộng khắp và 
có chất lượng cao như y tê, giải trí, các dịch vụ hải quan, tài chính, thương mại, 
quảng cáo. Tóm lại, hệ thống kết cấu hạ tầng đó phải giúp cho chủ ĐTNN cảm 
thấy thoải mái và an toàn như ở trong nước họ và giúp họ giảm các chi phí sản 
xuất về giao thông vận tải, thông tin liên lạc mà không bị cản trở trong việc kinh 
doanh với đối tác ở nước sở tại cũng như toàn cầu. 
Dịch vụ thông tin đầu tư cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút 
vốn FDI. Nội dung hoạt động dịch vụ này rất phong phú và mang tính thời sự 
cao, bao gồm từ việc cung cấp thông tin cập nhật, chính xác về môi trường đầu 
tư của nước tiếp nhận đầu tư cho các đầu tư tiềm năng trên toàn thế giới; hỗ trợ 
các đối tác đầu tư trong và ngoài nước tiếp xúc và lựa chọn các đối tác thích hợp 
đến giúp đỡ các bên làm thủ tục kí kết hợp đồng kinh doanh, thành lập doanh 
nghiệp liên doanh và các dịch vụ thông tin cần thiết khác. 
Việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng không chỉ là điều kiện cần để tăng 
tính hấp dẫn cảu môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợ cho các chủ đầu tư 
triển khai các dự án và kế hoạch đầu tư của mình mà đó còn là cơ hội để nước 
chủ nhà có thể và có khả năng thu lợi từ dòng vốn nước ngoài đã thu hút được 
thông qua thu nhập từ các dịch vụ như hải quan, thương mại, tài chính,... 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-25- 
4.5 Sự phát triển của đội ngũ lao động và hệ thống doanh nghiệp trong nước 
Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật ngày nay, lao động có tay nghề, kĩ 
thuật cao là yêu cầu cần thiết nhất lại đối với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN - 
nơi mà trình độ công nghệ được coi là cao hơn mặt bằng trong nước. Vì vậy, 
việc thiếu các nhân lực kĩ thuật lành nghề, các lãnh đạo, quản lý cao cấp, các 
nhà doanh nghiệp tài ba và sự lạc hậu về trình độ khoa học- công nghệ trong 
nước sẽ khó lòng đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư để triển khai dự án của 
họ, làm chậm và thu hẹp lại dòng vốn nước ngoài chảy vào trong nước. Theo 
thống kê thì cứ tăng số lao động trên 25 tuổi được đào tạo sau phổ thông trung 
học lên 1% thì lượng FDI thu hút được sẽ tăng thêm 3% [69]. 
Một hệ thống doanh nghiệp trong nước phát triển, đủ sức tiếp thu công 
nghệ chuyển giao, và là đối tác bình đẳng với các nhà đầu tư là điều kiện cần 
thiết để nước tiếp nhận đầu tư có thể thu hút được nhiều hơn và hiệu quả hơn 
luồng vốn FDI. Hệ thống doanh nghiệp đó phải bao gồm cả những doanh nghiệp 
sản xuất và dịch vụ trên tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, thông thạo các nghiệp 
vụ kinh doanh quốc tế, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính. Bởi 
vì các doanh nghiệp này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những điều 
kiện thuận lợi cho việc lưu chuyển vốn trong nước và quốc tế, từ đó càng thuận 
lợi cho các hoạt động đầu tư. 
4.6 Sự đơn giản về thủ tục hành chính và hiệu quả các dự án FDI đã triển khai 
Thủ tục hành chính rườm rà, phiền phức, gây tốn kém về thời gian và chi 
phí, làm mất cơ hội đầu tư là lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư nước 
ngoài. Do đó một bộ máy hành chính hiệu quả quyết định sự thành công không 
chỉ trong việc thu hút vốn nước ngoài mà còn của toàn bộ quá trình huy động, sử 
dụng vốn cho đầu tư phát triển. Bộ máy đó phải thống nhất, gọn nhẹ, sáng suốt 
và nhạy bén với các chính sách, với những thủ tục hành chính, những quy định 
pháp lý đơn giản, công khai nhất quán mà vẫn đảm bảo được tính chặt chẽ, được 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-26- 
thực hiện bởi những con người có trình độ chuyên môn cao, có tinh thần trách 
nhiệm và tôn trọng pháp luật. 
Các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án FDI với mục đích hàng đầu 
là thu lợi nhuận. Do đó, các dự án đã và đang thực hiện đạt kết quả cao sẽ 
khuyến khích các nhà đầu tư tiếp tục tái đầu tư sản xuất mowr rộng, đông thời 
cũng thuyết phục các nhà đầu tư khác yên tâm bỏ vốn. Ngược lại, nếu các dự án 
đang triển khai không đạt hiệu quả, thua lỗ thường xuyên sẽ làm nản lòng các 
nhà đầu tư vì họ cho rằng môi trường đầu tư đã có rủi ro. 
Tóm lại, trong dòng vận động của mình, FDI sẽ tìm đến các quốc gia có 
nền kinh tế-chính trị-xã hội ổn định; hệ thống luật pháp đầu tư minh bạch; chính 
sách ĐTNN thông thoáng; hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển; đội ngũ lao động có 
trình độ và rẻ; nền hành chính hữu hiệu, các dự án đã triển đạt hiệu quả và nhiều 
điều kiện khác nữa để có thể sinh sôi nảy nở và đạt hiệu quả tốt nhất. 
II. THỰC TIỄN FDI TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG XU HƯỚNG CƠ BẢN 
1. Tình hình FDI trên thế giới 
Trong lịch sử thế giới, FDI đã tồn tại ngay từ thời tiền tư bản. Các công ty 
của Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những công ty đi đầu trong lĩnh 
vực FDI dưới hình thức đầu tư vốn vào các nước Châu Á để khai thác đồn điền, 
khoáng sản nhằm cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp ở chính 
quốc. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, hoạt động đầu tư nước ngoài 
của các nước công nghiệp phát triển có quy mô ngày càng lớn. 
Những năm đầu của thế kỉ XX, khoảng 70% FDI của thế giới là đầu tư vào 
các nước đang phát triển. Sau chiến tranh thế giới thứ II, các nước thuộc địa dần 
lấy lại được độc lập dân tộc về mặt chính trị. Để giành độc lập về mặt kinh tế, ở 
những mức độ khác nhau, các nước này tiến hành “quốc hữu hoá” tư bản nước 
ngoài. Bối cảnh đó đã phần nào khiến cho dòng FDI từ các nước phát triển sang 
các nước đang phát triển và chậm phát triển đột nhiên bị chững lại và suy giảm. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-27- 
Từ sau 1945, các nước tư bản Tây Âu thiếu vốn để khôi phục nền kinh tế 
bị tàn phá sau chiến tranh. Tây Âu, Nhật Bản trở thành điểm nóng của đầu tư và 
thu hút tới 40% tổng FDI toàn thế giới năm 1950 và lên tới 69% năm 1960. 
Trong thời kì này, Mỹ là nước dẫn đầu thế giới về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, 
chủ yếu là vào Nhật Bản, Tây Âu và các đồng minh ở Đông Nam Á. 
Đến những năm thập kỉ 60 và 70, dòng FDI từ các nước công nghiệp phát 
triển đã có sự dịch chuyển đến các nước đang phát triển, chủ yếu nhằm vào các 
lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên và các ngành cần nhiều lao động như 
dệt may, chế biến.trong thời gian này, nổi lên có khu vực Mĩ La Tinh đã thu hút 
với quy mô lớn và nhịp độ khá cao trong nhiều năm liền, tạo nên nhịp tăng 
trưởng ngoạn mục. Năm 1970, khu vực này đã thu hút được 1,1 tỷ USD (chiếm 
gần 50%) tổng số FDI đổ vào các nước đang phát triển (2,3 tỷ USD) [33]. 
Cùng với quá trình phát triển thương mại quốc tế và quốc tế hoá hoạt 
động SXKD, từ giữa những năm 80 đến nay, dòng FDI trên thế giới có sự gia 
tăng nhanh chóng. 
Ta thấy tổng số FDI thế giới bình quân hàng năm trong thời kì 1983-1987 
chỉ đạt 77,1 tỷ USD, vậy mà bốn năm tiếp theo con số này tăng thêm 100 tỷ 
USD, tăng hơn 2 lần so với thời kì 1983-1987, trong đó mức tăng kỉ lục đạt 235 
tỷ USD vào năm 1990. 
Theo báo cáo của Tổ chức thương mại và phát triển của Liên Hợp Quốc 
(UNCTAD) thì những năm thập kỉ 90, FDI toàn cầu đã tăng liên tục. Tuy nhiên 
Bảng 2: Dòng FDI vào các nước trên thế giới (1983 - 1992) 
Toàn thế giới Các nước phát triển Các nước ĐPT 
Các nước Trung 
Đông ÂU 
Năm 
Số lượng 
(tỷ USD) 
Tỷ lệ 
(%) 
Số lượng 
(tỷ USD) 
Tỷ lệ 
(%) 
Số lượng 
(tỷ USD) 
Tỷ lệ 
(%) 
Số lượng 
(tỷ USD) 
Tỷ lệ 
(%) 
1983-1987 77,1 100 58,7 76 18,3 24 0,02 0,02 
1988-1992 177,3 100 139,1 78 36,8 21 1,36 0,77 
Nguồn: World Investment Report, 1996, tr 4 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-28- 
bước sang những năm đầu của thế kỉ mới FDI thế giới lại có sự sụt giảm đáng 
báo động. 
Từ bảng 3, ta thấy mặc dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế 
nhiều khu vực, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ Châu á năm 1997 
nhưng dòng FDI chảy vào các nước toàn thế giới năm 1998 vẫn đạt 694,457 tỷ 
USD, tăng 45,25% so với năm 1997, năm 1999 tiếp tục tăng thêm 56,7% (đạt 
1088,263 tỷ USD). Dòng FDI tăng mạnh và đạt đến đỉnh cao nhất vào năm 
2000, đạt mức 1491,934 tỷ USD.Có thể nói nguyên nhân chủ yếu khiến cho 
dòng FDI tăng mạnh những năm 1999-2000 là do các cuộc thôn tính và sáp 
nhập qua biên giới (cross-boder M&A) của các tập đoàn kinh tế lớn. Riêng năm 
2000, tổng giá trị các vụ M&A trên thế giới đạt mức kỉ lục là 3500 tỷ USD, tăng 
200 tỷ USD so với năm 1999 [18]. Tuy nhiên lượng FDI tập trung chủ yếu vào 
các nước phát triển đạt hơn 80% trong khi các nước đang phát triển và các nước 
khác chỉ chiếm 
có gần 20% tổng FDI chảy vào của cả thế giới năm 2000. 
Bảng 3: Dòng FDI chảy vào các khu vực (1993-2002) 
Toàn thế giới Các nước phát triển Các nước đang phát triển 
Năm 
Tỷ USD Tỷ lệ (%) Tỷ USD 
Tỷ lệ 
(%) Tỷ USD 
Tỷ lệ 
(%) 
1993 227,532 100 137,163 60,28 83,612 36,75 
1994 259,696 100 145,066 55,86 108,651 41,84 
1995 330,516 100 204,416 61,85 111,649 33,78 
1996 386,140 100 220,726 57,16 152,587 39,52 
1997 478,082 100 271,764 56,84 188,887 39,51 
1998 694,457 100 484,800 69,81 188,597 27,15 
1999 1088,263 100 839,263 77,12 225,747 20,74 
2000 1491,934 100 1228,364 82,33 238,643 15,99 
2001 735,146 100 503,144 68,44 204,801 27,86 
2002 651,189 100 460,334 70,69 162,145 24,90 
Nguồn: UNCTAD Handbook of Statistics [78] 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-29- 
Tuy nhiên bước sang thế kỉ XXI, dòng FDI có sự giảm sút đột ngột, chỉ 
đạt 735,146 tỷ USD năm 2001, giảm hơn 50% so với năm 2000 và tiếp tục giảm 
26,13% năm 2002(đạt 543 tỷ USD). Theo báo cáo đầu tư thế giới của 
UNCTAD-uỷ ban Liên hợp quốc về thương mại và phát triển thì suy giảm kinh 
tế Mỹ - Nhật và sự ngưng trệ của làn sóng sáp nhập công ty là nguyên nhân chủ 
yếu làm cho FDI thế giới giảm mạnh trong 2 năm qua. Sau khi lên đến đỉnh 
điểm vào năm 2000, làn sóng thôn tính và sáp nhập (M&A) nay đã lắng dịu lại, 
tính riêng 9 tháng đầu năm 2002, số vụ M&A trên thế giới giảm 45% chỉ đạt 
250 tỷ US, giảm 210 tỷ USD so với cùng kì năm 2001). [20]. 
Sự sụt giảm FDI chủ yếu diễn ra ở các nước công nghiệp phát triển, đặc 
biệt là Mỹ và Tây Âu - nơi thu hút được lượng FDI lớn nhất kể từ những năm 
80 trở lại đây. Năm 2001, các nước phát triển chỉ thu hút được 510 tỷ USD, 
giảm hơn 50% so với năm 2000, trong khi tại các nước đang phát triển FDI chỉ 
giảm khoảng hơn 15%, đạt hơn 200 tỷ USD. Tuy nhiên sang năm 2002, sự sụt 
giảm diễn ra ở cả hai khu vực, trong đó FDI vào các nước phát triển giảm 31%, 
đạt 349 tỷ USD; FDI vào các nước đang phát triển giảm 23%, đạt 194 tỷ USD 
[20]. 
Đánh giá về triển vọng của luồng vốn FDI trên thế giới, các chuyên gia 
của IMF cho rằng, năm 2003 FDI toàn thế giới có khả năng phục hồi nhẹ nhờ 
vào một số các nhân tố tác động như: nền kinh tế thế giới được dự đoán là sẽ 
phục hồi, đạt mức tăng trưởng cả năm 2,9%; các biện pháp giảm tỉ lệ lãi suất mà 
Mỹ, EU và Nhật Bản tiến hành trong thời gian qua sẽ kích thích đầu tư tăng trở 
lại...Trong khi đó nhân hàng đầu tư J.P.Morgan của Mỹ thì cho rằng, sản xuất 
công nghiệp thế giới có thể phục hồi vào cuối năm 2003 sẽ là cơ sở để các nhà 
sản xuất gia tăng thêm vốn đầu tư. Dự đoán, tỷ lệ đầu tư/GDP của thế giới tăng 
22,9%vào năm 2003 và 23,5% cho giai đoạn 2004-2007. Cũng trong thời gian 
này, tỷ lệ đầu tư/GDP của các nước phát triển đạt 20,2% và 20,5% còn của các 
nước đang phát triển đạt 26,5% và 27,3% [20]. 
Việc xem xét toàn cục bức tranh về FDI trên thế giới trong thời gian qua 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-30- 
cho ta thấy nguồn vốn FDI gia tăng nhanh chóng và chiếm vị trí ngày càng cao 
trong lưu chuyển vốn quốc tế. Tuy nhiên sự phân phối của dòng chảy này giữa 
các khu vực, giữa các quốc gia là không giống nhau, có liên quan đến chính sách 
và môi trường đầu tư ở các nước và về tổng quát diễn ra theo các xu hướng chính 
sau: 
2. Những xu hướng cơ bản của dòng FDI 
2.1. Sáp nhập và mua lại qua biên giới (cross - border M&A) có xu hướng 
chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong FDI 
Việc sáp nhập và mua lại các công ty để thành lập chi nhánh sản xuất ở 
nước ngoài giúp các công ty xuyên quốc gia tạo ra năng lực sản xuất lớn hơn, 
củng cố và phát huy thế mạnh của mình trong quá trình cạnh tranh quốc tế. Đặc 
biệt hình thức này còn là cách nhanh nhất giúp các công ty xuyên quốc gia thiết 
lập sự có mặt của mình ở nước chủ nhà, sử dụng hiệu quả mạng lưới cung ứng 
và hệ thống phân phối sẵn có để mở rộng thị phần, tránh được hàng rào thuế 
quan, tăng năng lực cạnh tranh. Do đó các tập đoàn xuyên quốc gia đã chủ yếu 
sử dụng hình thức đầu tư này để mở rộng quy mô của mình ở nước ngoài. 
Có thể nói sáp nhập và mua lại qua biên giới (cross - border M&As) là 
động lực chủ yếu làm gia tăng ĐTNN trong những năm gần đây.Nhìn vào bảng 
3 ta thấy, năm 1999, giá trị các vụ cross-border M&As đã đạt 766,044 tỷ USD 
chiếm hơn 70% tổng FDI trên toàn thế giới. Năm 2000, xu hướng sáp nhập các 
công ty thành các công ty khổng lồ trên thế giới tăng lên, giá trị các vụ sáp nhập 
và mua lại qua biên giới đạt 1143,816 tỷ USD chiếm 76,6% lượng FDI toàn cầu 
Bảng 4: Giá trị các vụ cross - border M&As* 
 Tỷ USD 
 1999 2000 2001 2002 
Thế giới 766,044 1143,816 593,960 369,789 
Các nước CNPT 679,481 1056,059 496,159 307,793 
Các nước ĐPT 74,030 70,610 85,813 44,532 
Nguồn: World Investment Report 2003 
* Giá trị tại các nước bán 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-31- 
Những ngành công nghiệp diễn ra những hoạt động sáp nhập và mua lại 
nhộn nhịp là các ngành viễn thông, dược phẩm, chế tạo ôtô, cung cấp năng 
lượng, ngân hàng và chủ yếu diễn ra trong nội bộ liên minh Châu Âu và Mỹ vào 
giữa những năm 90. Tuy nhiên gần đây có sự tăng lên của các vụ cross-border 
của Nhật Bản và một số nền kinh tế công nghiệp mới (NIEs). 
Sang năm 2001, làn sóng sáp nhập và mua lại có sự “lắng dịu”, chỉ đạt 
593,960 tỷ USD giảm 48% so với năm 2000. Năm 2002, làn sóng này vẫn tiếp 
tục suy giảm, đạt 369,789 tỷ USD giảm 37,7% so với năm 2001. Sự suy giảm 
của làn sóng sáp nhập và mua lại cùng với các nhân tố khác đã làm cho dòng 
FDI sụt giảm gần 50% năm 2001 và gần 30% năm 2002. 
Như vậy, sáp nhập và mua lại đang trở thành hình thức đầu tư ra nước 
ngoài chiếm tỷ trọng lớn hiện nay. Thực tế cho thấy sự tăng hay giảm vốn FDI 
trên thế giới phụ thuộc rất lớn vào chiến lược toàn cầu của các công ty xuyên 
quốc gia và sự mở rộng của các vụ M&A. 
2.2. Nguồn vốn FDI chủ yếu vẫn chảy vào các nước công nghiệp phát triển 
FDI vào các nước CNPT năm 1950 chiếm tỉ trọng 40% tổng FDI toàn 
cầu, năm 1960 chiếm khoảng 69%, năm 1970 chiếm 67,6%, năm 1980 chiếm 
73,6%. 
Hình 2 cho thấy FDI đổ vào các nước CNPT vẫn luôn chiếm tỉ trọng rất 
 Hình 2 : Lượng FDI vào các nước từ 1990 đến 2002(triệu USD) 
0
200000
400000
600000
800000
1000000
1200000
1400000
1990 1995 1998 1999 2000 2001 2002
 Các nước CNPT Các nước ĐPT 
Nguồn : Foreign Direct Invesment, inflows and outflows, by Region 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-32- 
cao (luôn lớn hơn 50% lượng FDI của thế giới) từ năm 1990 trở lại đây. Các 
nước phát triển đã đạt mức kỉ lục trong thu hút FDI năm 2000, với tỉ trọng là 
82,33%. 
Những nước thu hút FDI lớn nhất vẫn là Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Bỉ và 
Luxămbua. Nhìn vào bảng 5 ta thấy, Mỹ luôn là địa chỉ hấp dẫn trong thu hút 
FDI trong những năm 1999, 2000, 2001.Tuy nhiên sang năm 2002 đã phải 
nhường vị trí này cho Bỉ và Lucxămbua. 
 Mặc dù lượng FDI vào các nước CNPT bị giảm mạnh trong 2 năm 2001 
và 2002 nhưng các chuyên gia của IMF cho rằng, trong 5 năm tới FDI vẫn chủ 
yếu tập trung tại các nền kinh tế phát triển, song các nền kinh tế ĐPT sẽ nâng tỷ 
phần của mình lên tới 30%% lượng FDI toàn cầu, tăng khoảng 10% và 10 nền 
kinh tế lớn của thế giới có khả năng chiếm tới 70% lượng FDI toàn cầu [20]. 
Như vậy, dòng FDI lại không chảy từ nơi nhiều vốn sang nơi ít vốn, mà 
lại chảy chủ yếu trong các nước CNPT - nơi có môi trường đầu tư tốt, đồng vốn 
được sử dụng hiệu quả, quay vòng nhanh và ít chịu rủi ro. 
2.3. Có sự thay đổi lớn trong tương quan trật tự giữa các chủ đầu tư quốc tế 
Vào đầu thế kỉ XX, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan là những nước đứng đầu thế 
giới về xuất khẩu tư bản thì đến giữa thế kỉ này, Mỹ nổi lên dẫn đầu thế giới về 
lượng tư bản đầu tư ra nước ngoài, sau đó mới đến Anh, Pháp. Đầu tư của Mỹ 
trong giai đoạn này tập trung chủ yếu vào các nước Tây Âu, Nhật Bản, các nước 
đồng minh ở Đông Nam Á và các nước Mỹ La Tinh. 
Bảng 5: Ba nước dẫn đầu trong thu hút FDI 
Vị trí 1999 2000 2001 2002 
1 Mỹ Mỹ Mỹ Bỉ và Lucxămbua 
2 Bỉ và Lucxămbua Bỉ và Lucxămbua Anh Pháp 
3 Anh Đức Pháp Đức 
Nguồn : 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-33- 
Đến thập niên 70, Nhật Bản, Đức vượt qua Anh, Pháp về đầu tư nước 
ngoài và đe doạ vị trí đứng đầu của Mỹ. Trong những năm 80, Nhật dẫn đầu thế 
giới về đầu tư ra nước ngoài và đã làm rung chuyển nước Mỹ với các vụ đầu tư 
khổng lồ trong các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, thép, điện tử, robot, bất động 
sản. 
Bước sang thập niên 90, trật tự các nước chủ đầu tư lớn thế giới lại có sự 
thay đổi. Do chịu sự ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế kéo dài nên FDI ra 
nước ngoài của Nhật giảm, kéo nước này xuống vị trí thấp hơn và đưa Mỹ, Anh, 
Pháp, Đức lên các vị trí đầu bảng (xem bảng 6). 
 Phá vỡ trật tự truyền thống, một hiện tượng mới xuất hiện trong thị 
trường đầu tư quốc tế là có một số nước ĐPT trở thành chủ đầu tư, dù chỉ chiếm 
một tỷ lệ không lớn trong tổng số vốn đầu tư quốc tế nhưng con số này ngày 
càng gia tăng. Năm 1980, lượng FDI của các nước ĐPT đầu tư ra nước ngoài 
chiếm 4,77% tổng FDI ra nước ngoài trên thế giới, năm 1990 chiếm 7,14%, năm 
1995 chiếm 13,89%.Từ năm 2001 trở lại đây, do có sự giảm sút của FDI toàn 
cầu nên FDI ra nước ngoài của các nước ĐPT cũng giảm theo, chiếm khoảng 
6,46% tổng FDI đầu tư ra nước ngoài của thế giới năm 2001 [36]. 
 Chủ đầu tư các nước ĐPT lớn nhất là các NIEs Châu Á như Hàn Quốc, 
Đài Loan, Xingapo,... Đối tượng đầu tư của “các con rồng Châu Á” khi đưa vốn 
ra đầu tư trực tiếp ở nước ngoài thời gian qua tập trung chủ yếu vào Mỹ, EU và 
các nước đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á như Trung Quốc, ASEAN, 
Việt Nam... mặc dù chính họ cũng đang rất cần thu hút vốn ĐTNN. Theo nhận 
xét của ông Toshio Wantabe - giáo sư kinh tế Học viện Công nghệ Tokyo thì kể 
Bảng 6: Ba nước dẫn đầu trong đầu tư ra nước ngoài 
Vị trí 1998 1999 2000 2001 2002 
1 Mỹ Mỹ Anh Mỹ Mỹ 
2 Anh Anh Pháp Pháp Pháp 
3 Đức Pháp Mỹ Anh Anh 
Nguồn: UNCTAD Handbook Statistics 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-34- 
từ năm 1990, các con rồng Châu Á đã thực hiện khối lượng đầu tư vào các nước 
Châu Á lớn hơn khối lượng do Nhật hoặc Mỹ thực hiện. Cũng theo nguồn trên, 
Hồng Kông là nhà đầu tư lớn nhất ở Trung Quốc và Inđônêxia, trong khi đó Đài 
Loan là nhà đầu tư lớn nhất ở Malayxia và nước này còn đầu tư vào Trung Quốc 
lớn hơn cả Mỹ rất nhiều. 
Sự vươn lên của các NIEs Châu Á trong đầu ra của FDI chứng tỏ sự phát 
triển mạnh mẽ về kinh tế cũng như là tích luỹ của các nước này. 
2.4. Có sự thay đổi lớn trong lĩnh vực đầu tư 
Đầu thế kỉ XX, các nước đầu tư ra nước ngoài thường đầu tư vào các lĩnh 
vực truyền thống như khai thác tài nguyên thiên nhiên, đồn điền và một số 
ngành chế biến nông sản để khai thác được nguồn nguyên liệu và lao động rẻ ở 
các nước thuộc địa. 
Sang những năm 80, dòng vốn FDI vào các nước công nghiệp chủ yếu tập 
trung vào các ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ, những ngành có hàm lượng 
công nghệ cao như bán dẫn vi điện tử, công nghệ sinh học... Trong đó đầu tư 
đầu tư vào các ngành dịch vụ có xu hướng gia tăng. 
Bảng 7: FDI vào các ngành, 1999 - 2001 
Đơn vị : % 
1999-2000 2001 
NGÀNH 
Nước PT Nước 
ĐPT Thế giới Nước PT 
Nước 
ĐPT Thế giới 
Truyền 
thống 2,1 8,9 3,3 10,2 7,6 9,6 
Công nghiệp 
chế tạo 21,0 30,8 22,6 16,6 33,0 20,5 
Dịch vụ 71,0 56,3 68,5 64,9 58,4 46,53 
Nguồn : World Investment Report 2002 
Nhìn vào bảng 7 ta thấy trong những năm 1999 - 2000 dòng FDI thường 
tập trung chủ yếu vào các ngành dịch vụ (đặc biệt là thương mại và tài chính), 
chiếm 71% ở các nước phát triển và 56,3% ở các nước đang phát triển. Một bộ 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-35- 
phận cao tiếp theo tập trung vào các ngành công nghiệp chế tạo, đặc biệt ;à 
những ngành có hàm lượng công nghệ, kĩ thuật cao như ngành điện tử, chế tạo ô 
tô... chiếm 21% ở các nước phát triển và 30,8% ở các nước ĐPT. 
Sang năm 2001 và năm 2002, FDI vào các lĩnh vực truyền thống của các 
nước phát triển lại tăng lên đến 10,2% trong khi FDI vào khu vực công nghiệp 
chế tạo và dịch vụ lại giảm xuống tương ứng là 16,6% và 64,9%. Tuy nhiên, 
hiện tượng tương tự không xảy ra đối với các nước ĐPT, lĩnh vực truyền thống 
vẫn giảm trong tỷ trọng thu hút FDI và FDI trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo 
và dịch vụ vẫn tăng lên tương ứng. Điều này đã góp phần làm chuyển dịch cơ 
cấu kinh tế các nước ĐPT theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-34- 
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG THU HÚT FDI Ở MĨ LA TINH 
I. CÁC CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP NHẰM THU HÚT FDI 
Sau cuộc khủng hoảng nợ vào những năm đầu của thập niên 80, các nước 
Mĩ La Tinh đã thay đổi cách nhìn đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, 
từ thái độ chống đối mang tính dân tộc chủ nghĩa, các nước này đã chuyển sang 
thái độ sẵn lòng chào đón FDI. 
Sự thay đổi này một phần là do việc thay thế thu hút FDI bằng các khoản 
vay ngân hàng trong thập niên 70 trong nỗ lực nhằm “duy trì sự độc lập” đã đem 
lại kết quả ngược với sự mong đợi của các nước này. Trên thực tế, cuộc khủng 
hoảng nợ xảy ra sau đó đã tác động mạnh mẽ tới chủ quyền của họ. Từ bài học 
này, phần lớn các nước Mĩ La Tinh đã có thái độ cởi mở hơn đối với dòng vốn 
FDI ngay từ nửa sau thập kỉ 80. 
Như trong các lý thuyết về đầu tư quốc tế chỉ rõ, FDI có tác động tích cực 
đối với sự phát triển kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư. Nó không chỉ đem lại 
nguồn vốn bổ sung cho phát triển kinh tế mà cả khoa học công nghệ tiến tiến, 
kinh nghiệm quản lý, và những kinh nghiệm cần thiết khác - điều mà các nước 
đang phát triển đang thiếu. 
Nhận thức được tầm quan trọng của FDI, đặc biệt trong bối cảnh các nước 
Mĩ La Tinh đang tích cực chuyển hướng sang đường lối tự do kinh tế. Ngay từ 
cuối những năm 80, chính phủ nhiều nước Mĩ La Tinh đã thực hiện một số biện 
pháp nhằm tăng tính hấp dẫn đối với việc tự do di chuyển vốn. Tuy nhiên, các 
chính sách, biện pháp chỉ thực sự được đẩy mạnh và đạt hiệu quả khi các nước 
này bước vào thập niên 90. Sau đây là một số biện pháp, chính sách chủ yếu 
trong những nỗ lực nhằm thu hút FDI của Mĩ La Tinh. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-35- 
1. Sử dụng nguyên tắc “đãi ngộ quốc gia” đối với các nhà đầu tư nước ngoài 
Để thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và FDI nói riêng, luật của tất cả 
các nước Mĩ La Tinh đã đưa ra một nguyên tắc, đó là “đối xử bình đẳng” với 
đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài.Nguyên tắc này thậm chí còn 
được đưa vào hiến pháp của một số nước. 
Ở Mêhicô, Luật đầu tư nước ngoài ra đời năm 1993 thay thế luật đầu tư 
nước ngoài năm 1973, quy định các nhà ĐTNN (kể cả pháp nhân, thể nhân) có 
quyền bình đẳng với các nhà đầu tư trong nước, có quyền mua bán bất động sản, 
thành lập doanh nghiệp mới trên lãnh thổ Mêhicô, có quyền di chuyển những 
doanh nghiệp hiện có đến nơi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mà mình cho là 
thuận lợi dọc theo chiều dài biên giới 100 km và ven biển 50 km, sâu trong nội 
địa 20 km. Các doanh nghiệp nước ngoài có thể tổ chức, quản lý sản xuất theo 
các điều kiện như của người bản xứ khi có thể sử dụng các vật tư dao động tại 
chỗ, kể cả nguồn khoa học kĩ thuật [5]. 
Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi số 4930/64 của Braxin chỉ rõ “ Cả tư bản 
trong nước và tư bản nước ngoài đều được hưởng sự đãi ngộ như nhau” [64]. 
Tại Chilê, nguyên tắc đối xử không phân biệt đối với tư bản nước ngoài 
cũng được phản ánh rõ tại hiến pháp và tất cả các luật, trong đó có luật ĐTNN 
(Foreign Investment Statute) được biết đến như là luật DL600 (Decree Law 600) 
của nước này [44]. 
Ngoài ra hầu hết các nước Mĩ La Tinh đều không đưa ra những yêu cầu, 
những điều kiện liên quan đến hoạt động của dự án ví dụ như những điều kiện về vị 
trí địa lý, về lĩnh vực hoạt động, về hàm lượng công nghệ, hay những quy định về 
tỷ lệ xuất khẩu... đối với tư bản nước ngoài. Trong trường hợp các nước này có 
những quy định thì đó thường là những quy định liên quan đến số lao động nước 
ngoài trong doanh nghiệp mà thôi. Chẳng hạn như ở Chi lê, lao động người nước 
ngoài và lao động người Chi lê có chung một nguồn luật điều chỉnh. Mặc dù vậy 
các doanh nghiệp là có trên 25 lao động chỉ có thể sử dụng tối đa là 15% người 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-36- 
nước ngoài. 
2. Đơn giản hoá các thủ tục 
Để tránh phiền hà cho các nhà đầu tư nước ngoài muốn vào đầu tư tại 
nước mình, trong những năm 90 các nước Mĩ La Tinh đã tinh giảm đáng kể 
những điều tiết trong lĩnh vực điều chỉnh vốn ĐTNN. Điều này được phản ánh 
trong việc đơn giản hoá các quy tắc, thủ tục. Phần lớn các nước đều xoá bỏ 
những quy định về tiền phê duyệt (prior authorization) và chỉ yêu cầu trong một 
số trường hợp nhất định. Trong các trường hợp mà vẫn yêu cầu phê duyệt trước 
thì các thủ tục hành chính cũng được đơn giản hoá và tiến hành nhanh chóng. 
Ngoài ra, một số nước còn đưa ra giới hạn thời gian làm thủ tục và sau đó dự án 
sẽ tự động được xét duyệt. 
Về thủ tục đăng kí ĐTNN, phần lớn các nước Mĩ La Tinh đều không bắt 
buộc phải đăng kí nhưng các nhà ĐTNN cần phải đăng kí để được đảm bảo 
những quyền lợi liên quan đến việc rút vốn và chuyển lợi nhuận về nước. Ví dụ, 
Luật ĐTNN sửa đổi 4390/64 của Braxin không yêu cầu phải đăng kí nhưng để 
được rút vốn và chuyển lợi nhuận về nước, điều kiện tiên quyết là các nhà 
ĐTNN phải đăng kí với phòng quản lý vốn của Ngân hàng Trung ương nước 
này. Riêng ở Achentina và Bôlivia đã huỷ bỏ hoàn toàn những quy định về đăng 
kí ĐTNN. 
3. Xoá bỏ những hạn chế đối với việc chuyển vốn và lợi nhuận của nhà ĐTNN 
 Nhằm tạo tâm lý yên tâm cho các nhà ĐTNN khi đầu tư vào nước mình, 
các nước Mĩ La Tinh đã xoá bỏ những quy định về việc hạn chế chuyển vốn và 
lợi nhuận với số lượng lớn ra nước ngoài. 
Trong Luật ĐTNN của Mêhicô (1993) ghi rõ “xoá bỏ những hạn chế về 
hồi hương vốn, về chuyển ra nước ngoài những khoản thu nhập kiếm được từ 
Mêhicô như: lợi nhuận, cổ tức, thu nhập bản quyền, thu nhập về cố vấn pháp lý, 
thu nhập từ tư vấn kĩ thuật...”[5]. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-37- 
Còn trong Luật ĐTNN sửa đổi của Braxin cũng chỉ rõ “ không có hạn chế 
nào về việc rút vốn, chuyển lợi nhuận ra nước ngoài và đăng kí tái đầu tư cổ tức 
như là vốn ĐTNN mới” đối với nhà ĐTNN [64]. 
Tuy nhiên, Chi lê có quy định chặt hơn, đó là “nhà đầu tư nước ngoài có 
quyền rút vốn một năm sau khi vào nước này và có quyền chuyển lợi nhuận về 
nước bất kì lúc nào” [44]. 
4. Mở rộng lĩnh vực thu hút vốn 
Có thể nói thay đổi quan trọng nhất trong chính sách tự do hoá đối với 
luồng vốn FDI của các nước Mĩ La Tinh thể hiện ở chỗ nhà nước đã giảm bớt 
chức năng điều hoà đối với các luồng vốn ĐTNN cho các ngành, các lĩnh vực 
kinh tế. 
Từ chính sách hạn chế và cấm đoán trong những năm 70 và đầu những 
năm 80, các nước Mĩ La Tinh đã có một bước ngoặt chuyển sang sách lược 
khuyến khích ĐTNN, mở cửa các ngành sản xuất trước đây chỉ dành cho nhà 
nước và tư bản trong nước. Tuy không bỏ việc kiểm soát hoàn toàn nhưng các 
nước này đã ban hành các văn bản luật mở rộng rõ rệt không gian kinh tế cho 
hoạt động kinh doanh của các công ty nước ngoài. 
Với luật ĐTNN năm 1973, Mêhicô là một nước mà các chuyên gia Liên 
Hợp Quốc cho rằng đứng đầu về việc hạn chế tư bản nước ngoài. Tuy nhiên trên 
cơ sở luật ĐTNN năm 1993 đã công bố “Tư bản nước ngoài được tự do hoạt 
động trong mọi lĩnh vực kinh tế không thuộc diện quy chế đặc biệt”. Luật mới 
đã cho phép người nước ngoài tham gia sản xuất, kinh doanh 688 trong tổng số 
754 mặt hàng làm ra khoảng 81,4% GDP hàng năm của Mêhicô [5]. Bên cạnh 
đó luật này cũng mở rộng cho người nước ngoài tham gia vào một số ngành dịch 
vụ mà trước đây cấm như: vận tải bằng đường hàng không, truyền hình cáp, thư 
chuyển nhanh, dịch vụ tư vấn giáo giục, dịch vụ luật gia, đại lý bảo hiểm, dịch 
vụ thông tin khai thác dầu mỏ và hơi đốt, xây dựng đường ống dẫn dầu và hơi 
đốt... Các lĩnh vực kinh doanh tiếp tục được mở rộng khi Mêhicô đưa ra Nghị 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-38- 
định về Luật ĐTNN (Decree of Foreign Investment Law) năm 1998, nghị định 
này cho phép nhà đầu tư nước ngoài được tham gia vào một số lĩnh vực thuộc 
các ngành mà trước đây độc quyền nhà nước như điện năng, hoá dầu và khí đốt 
tự nhiên. Với việc tự do hoá trong lĩnh vực đầu tư, hiện nay chúng ta có thể nói 
“Mêhicô là một thị trường rất rộng mở đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài” 
[65]. 
Những thay đổi tương tự cũng diễn ra ở Braxin, nơi cho đến tận gần đây 
vẫn thực hiện những hạn chế cứng rắn trong việc tiếp cận một số ngành kinh tế 
không những đối với tư bản nước ngoài mà còn đối với cả tư bản trong nước. 
Các dự án luật được Quốc hội nước này thông qua năm 1995 có liên quan đến 
việc bãi bỏ độc quyền của nhà nước trong một số ngành công nghiệp hàng đầu 
như thăm dò, khai thác và chế biến dầu mỏ. Nhà nước cũng bãi bỏ độc quyền 
trong một số ngành dịch vụ như viễn thông, cung cấp khí đốt và một số loại hoạt 
động kinh doanh khác [6, 135]. 
Tại Chi lê, nhà ĐTNN được phép tham gia tất cả các hoạt động sản xuất 
và tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, trừ một số rất ít các ngành bao gồm buôn 
bán ven biển, vận tải máy bay và thông tin đại chúng. Nhà nước đóng vai trò rất 
nhỏ trong sản xuất, chỉ tham gia một số hoạt động chiến lược như thăm dò và 
khai thác lithium, hydrocacbon lỏng và khí ở vùng duyên hải hoặc một số vùng 
được coi là quan trọng đối với an ninh quốc gia. Tuy nhiên, trong những trường 
hợp nhất định, các công ty nước ngoài vẫn có thể được phép đầu tư vào các khu 
vực này. 
5. Xây dựng những ưu đãi đặc biệt cho vốn đầu tư nước ngoài 
Có thể nói rằng, khuyến khích dòng FDI chảy vào nước mình bằng việc 
đơn giản hoá thủ tục, bãi bỏ những hạn chế đối với vốn ĐTNN thôi chưa đủ mà 
còn phải là việc đưa ra những ưu đãi hấp dẫn và những đặc quyền cho nhà đầu 
tư nữa. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-39- 
Ưu đãi được sử dụng nhiều nhất là ưu đãi về thuế. Các nước Mĩ La Tinh 
đều đưa ra những hình thức ưu đãi như mức thuế ưu đãi, miễn thuế... Chẳng hạn 
như, Mêhicô cho phép người nước ngoài được miễn thuế lợi nhuận và cổ tức 
đầu tư; Chi lê cũng miễn thuế và các chi phí cho việc rút vốn khi tổng số vốn rút 
về nhỏ hơn hoặc bằng số vốn thực hiện. 
Để khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành, các khu vực cần phát 
triển một số nước cũng đưa ra những ưu đãi về thuế như Bôlivia, Braxin, Chi 
lê, Vênzuêla. Achentina, Peru cũng đưa các khoản ưu đãi về thuế để khuyến 
khích đầu tư nước ngoài vào các hoạt động khai mỏ, dầu khí, điện năng và ngân 
hàng. 
Ưu đãi về thuế cũng được sử dụng để khuyến khích các nhà ĐTNN đầu tư 
vào các sản phẩm xuất khẩu. Một số nước Mĩ La Tinh đã xoá bỏ hoặc giảm thuế 
nhập khẩu cho những sản phẩm là nguyên liệu đầu vào để sản xuất hàng xuất 
khẩu hoặc miễn thuế cho những sản phẩm dùng để xuất khẩu. 
Ngoài những ưu đãi về thuế, các nước Mĩ La Tinh còn dùng các ưu đãi tài 
chính khác như trợ cấp, cho vay ưu đãi, bảo lãnh cho vay...Ví dụ như ở Chi lê, 
để khuyến khích ĐTNN vào vùng Arica và Parinacota ở phía Bắc Chi lê, theo 
chương trình DFL 15, các dự án phát triển tại những khu vực này mà có doanh 
thu hàng năm đạt 1 triệu USD trở lên sẽ được nhận một khoản trợ cấp trị giá 1,3 
triệu USD[60]. 
Bên cạnh việc đưa ra những khoản ưu đãi, các nước Mĩ La Tinh còn xây 
dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp, và khu miễn thuế để thu hút đầu tư 
nước ngoài vào các khu vực đó. Khu chế xuất Maladorodos của Mêhicô là một 
ví dụ điển hình. Khu vực này dài 2000 dặm dọc theo bờ biển Thái Bình Dương 
tới vịnh Mêhicô, rộng 130 dặm dọc theo biên giới giữa Mỹ và Mêhicô. Với 
những chính sách tự do hoá thương mại, khu vực này đã thu hút được phần lớn 
FDI đổ vào Mêhicô. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-40- 
Chi lê cũng có hai khu miễn thuế, một ở phía bắc vùng Iquique, một ở 
Punta Arenas. Các doanh nghiệp sản xuất trong khu vực này sẽ được miễn thuế 
doanh nghiệp, thuế giá rị gia tăng (VAT) và các loại thuế đối với hàng nhập 
khẩu với điều kiện sản phẩm làm ra phải được xuất khẩu. Nếu sản phẩm được 
bán trong nước thì phải nộp lại thuế VAT và thuế nhập khẩu. 
6. Thực hiện tự do hoá thương mại 
Nhận thức rằng FDI chỉ chảy về những nơi có chính sách thương mại 
thông thoáng, cởi mở. Trong nửa cuối thập kỉ 80 và đầu thập kỉ 90, hàng loạt các 
nước Mĩ La Tinh đã tiến hành cải cách chính sách thương mại, tiến tới mô hình 
kinh tế mở, thực hiện tự do hoá mậu dịch với nội dung chủ yếu là dỡ bỏ những 
hạn chế đối với hoạt động xuất nhập khẩu và điều hành tỉ giá hối đoái. 
Trước hết, các nước này đã giảm mức thuế quan trung bình xuống một 
cách đáng kể. Số liệu trong bảng 8 cho thấy rõ điều này. 
Bảng 8: Cải cách thuế quan ở Mĩ La Tinh 
Mức thuế quan TB (%) Hạn chế số lượng (%) 
Nước 
1985-1987 1991-1992 1985-1987 1991-1992 
Braxin 51 21,1 39 10 
Mêhicô 34 10 92,2 19,9 
Chi lê 35 11 10,1 0,0 
Achentina 29,4 12,2 88 8,0 
Trung bình 37,3 13,5 57,3 9,4 
Nguồn: Graham Bird, sdd, tr.23; World Bank Discussion Papers No 267, 
Washington, D.C. 1994, tr.61 
Trước cải cách, mức thuế quan trung bình ở 4 nước là 37,5%. Trong tiến 
trình cải cách, mức thuế quan trung bình của khu vực này đã giảm xuống còn 
13,5%. Ngay cả Braxin là một nước khá thận trọng cũng cắt giảm đáng kể thuế 
quan nhập khẩu xuống 21,1%. ở Mĩ La Tinh không có nước nào có mức thuế 
quan trung bình vượt quá 25%, riêng Mêhicô và Chi lê có mức thuế quan tương 
ứng là 10% và 11%. Theo báo cáo của Ngân hàng phát triển Châu Mỹ thì mức 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-41- 
thuế quan trung bình của Mĩ La Tinh hiện nay chỉ còn cao hơn mức thuế quan 
của các nước phát triển [8]. Việc cắt giảm thuế quan đã tạo ra môi trường cạnh 
tranh nhiều hơn và giảm khuynh hướng chống lại xuất khẩu của chế độ bảo hộ 
mậu dịch. Điều này đã làm tăng tính hấp dẫn đối với dòng FDI vào Mĩ La Tinh. 
Xoá bỏ hoặc giảm một cách đáng kể hàng rào phi thuế quan cũng là một 
bộ phận quan trọng trong quá trình thực hiện tự do hoá thương mại của Mĩ La 
Tinh. Cho đến thập kỉ 80 ở 4 nước Braxin, Mêhicô, Chi lê và Achentina, trung 
bình có 57,3% số mặt hàng nhập khẩu phải được cấp giấy phép nhập khẩu. 
Riêng Mêhicô, năm 1984, các hàng rào phi thuế quan bao trùm 100% hàng nhập 
khẩu. Trong quá trình cải cách hầu hết các nước đã giảm đáng kể các hàng rào 
phi thuế quan. Số liệu trong Bảng 8 cho thấy Chilê đã xoá bỏ hoàn toàn các hạn 
chế định lượng. Ba nước còn lại cũng đều thay dần các hạn chế số lượng bằng 
thuế quan. Điều này cũng góp phần làm chính sách thương mại của Mĩ La Tinh 
thông thoáng hơn. 
Chính sách tỉ giá hối đoái ngày càng thống nhất và linh hoạt cũng góp 
phần làm môi trường đầu tư hấp dẫn hơn. Trước những năm 80, những nước Mĩ 
La Tinh áp dụng cơ chế hối đoái song trùng hoặc đa trùng. Cơ chế này quan hệ 
mật thiết với chính sách bảo hộ mậu dịch, do đó không khuyến khích được 
ĐTNN. Từ những năm 90, các nước này đã bắt đầu cải cách cơ chế tỉ giá hối 
đoái bằng cách xoá bỏ hệ thống đa tỉ giá, áp dụng cơ chế hối đoái thống nhất và 
linh hoạt. Điều này chẳng những khuyến khích xuất khẩu mà còn làm tăng dòng 
ĐTNN vào trong nước. 
Tham gia vào các khu vực tự do thương mại cũng là chủ trương nhằm 
tăng tính hấp dẫn môi trường đầu tư của các nước Mĩ La Tinh. Việc tham gia 
vào các thoả thuận thương mại khu vực sẽ làm gia tăng niềm tin của các nhà 
ĐTNN về tính ổn định của môi trường và tính nhất quán trong việc thực hiện 
các cam kết của nước chủ nhà. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-42- 
Như vậy sau một loạt những thay đổi, chính sách thương mại của Mĩ La 
Tinh đã trở nên cởi mở, thông thoáng góp phần tích cực vào việc nâng cao tính 
cạnh tranh trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. 
7. Tích cực tham gia các hiệp định đầu tư quốc tế 
Để đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư nước ngoài, chỉ dựa vào luật quốc 
gia thôi thì chưa đủ mà còn phải đưa vào các hiệp định đầu tư song phương, đa 
phương và các hiệp định quốc tế khu vực. Bởi vì các hiệp định này có mục đích 
là bảo vệ và hỗ trợ các nhà đầu tư. Nhận thức rõ điều này, các nước Mĩ La Tinh 
đã tích cực, chủ động tham gia vào các hiệp định đầu tư song phương, đa 
phương và các hiệp định quốc tế khác. 
Hiệp định đầu tư song phương (Bilateral Investment Treaty – BIT) là hiệp 
định dựa trên những nguyên tắc đãi nộ quốc gia và những nguyên tắc tối huệ 
quốc. Các hiệp định này bao gồm các cơ chế giải quyết tranh chấp sẽ là cơ sở 
pháp lý vững chắc bảo vệ các nhà đầu tư. Nhiều nước Mĩ La Tinh đã tham gia 
các hiệp định này.Năm 1990 các nước Mĩ La Tinh mới chỉ tham gia có 49 hiệp 
định BITs mà đến năm 2002 con số này đã lên tới 413 hiệp định. Trong đó, các 
nước Mêhicô, Chilê, Braxin chưa kí một hiệp định nào năm 1990 thì đến năm 
2002 Mêhicô đã kí 15 hiệp định, Braxin kí 14 hiệp định và Chi lê kí 47 hiệp 
định [78]. 
Bên cạnh đó, các hiệp định tự do thương mại (Free Trade Agreements - 
FTAs) cũng có tác dụng củng cố lòng tin của các nhà đầu tư vì các hiệp định này 
cũng có một số quy định về giải quyết tranh chấp liên quan đến đầu tư tương tự 
như các hiệp định đầu tư song phương. Do đó các nước trong khu vực cũng tích 
cực tham gia các FTAs. Ví dụ Mêhicô đã kí 32 FTAs với các nước trong khu 
vực Bắc Mỹ, Mĩ La Tinh, Tây Âu và Trung Đông. Chi lê cũng kí các FTAs với 
EU, Hàn Quốc... 
Ngoài ra, phần lớn các nước Mĩ La Tinh đã tham gia hệ thống các tổ chức 
đảm bảo đầu tư quốc tế như :Tổ chức đảm bảo đầu tư đa phương (MICA) của 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-43- 
World Bank là một tổ chức được thành lập năm 1988 nhằm đảm bảo cho các 
nhà đầu tư tránh khỏi những rủi ro phi thương mại; hoặc Trung tâm về giải 
quyết các tranh chấp liên quan đến đầu tư (CIRDS). Một số nước còn tham gia 
Cơ quan đầu tư tư nhân nước ngoài của chính phủ Mỹ nhằm đảm bảo cho các 
nhà đầu tư tránh khỏi những rủi ro về chính trị. 
II. THỰC TRẠNG THU HÚT FDI TẠI MỸ LA TINH 
1. Giai đoạn 1960-1970 (giai đoạn tăng trưởng) 
Dẫu rằng trong các thập kỉ 60 và 70, Mĩ La Tinh không được đánh giá cao 
như khu vực Đông Á, song khu vực này cũng được coi là một hiện tượng kinh tế 
đáng chú ý. Bởi vậy trong suốt hai thập kỉ này, các nhà đầu tư trên thế giới cũng 
đã đầu tư một lượng đáng kể FDI vào khu vực này để khai thác tiềm năng to lớn 
từ nguồn lực mà thị trườngTây Bán Cầu này hứa hẹn mang lại. Điều này đã tạo 
ra làn sóng FDI mạnh mẽ vào khu vực Mĩ La Tinh trong những năm 1960-1970. 
Tỷ lệ vốn FDI mà Mĩ La Tinh tiếp nhận hàng năm trong hai thập kỉ 1970 
và 1980 luôn chiếm khoảng 40- 50% tổng lượng FDI dành cho các nước đang 
phát triển. Trong năm 1970, trong 2,1 tỷ USD đổ vào các nước đang phát triển 
thì đã có tới 1,1 tỷ USD đổ vào Mĩ La Tinh, chiếm hơn 50% về tỷ trọng. Đặc 
biệt trong năm 1980, Mĩ La Tinh đã thu hút được 6,1 tỷ USD trong khi tất cả các 
nước đang phát triển chỉ thu hút được có 8,4tỷ USD[78] 
Cũng trong thập kỉ 70, trong mười Quốc gia đang phát triển thu hút được 
nhiều FDI nhất thì Mỹ la tinh có tới 3 Quốc gia: Braxin đứng đầu thu hút được 
1390 triệu USD, Mêhicô đứng thứ 2 với 743 triệu USD và Achentina đứng thứ 9 
với 121 triệu USD [4]. 
Nói riêng về Mêhicô, trong giai đoạn 1971-1981, một năm trước khi 
khủng hoảng nợ xảy ra, dòng FDI luôn tăng trưởng ở mức trung bình là 18%. 
Giai đoạn 1978-1982, lượng FDI trung bình tăng gấp 2 lần lượng FDI trong 
khoảng thời gian 1974-1977 và gấp 3 lần FDI của thập kỉ 60 [27]. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-44- 
Có thể nói rằng sự gia tăng mạnh mẽ của dòng FDI vào khu vực Mĩ La 
Tinh trong thời kì này là do sự bùng nổ của nhu cầu tìm kiếm các nguồn dầu mỏ, 
thêm vào đó là giá nhân công, nguyên liệu và năng lượng ở đây rất rẻ. Đặc biệt 
là do cuộc khủng hoảng dầu mỏ, tỷ trọng dòng FDI vào khu vực này càng tăng 
lên mạnh mẽ từ 9% thời kì 1968-1978 lên 15% thời kì 1978-1981 mặc dù, như 
đã nêu, một số nước Mĩ La Tinh trong thời kì này đã đưa ra các luật, các qui 
định nhằm ngăn cản sự gia tăng của dòng FDI vào nước mình, như luật ĐTNN 
1973 của Mêhicô chẳng hạn nhưng cũng không ngăn cản nổi sự bùng nổ của 
dòng FDI tràn vào khu vực này trong giai đoạn đó [27]. 
Nhưng điều gì xảy ra sau đó? Đầu tư trực tiếp nước ngoài quả thật đã dẫn 
đến tăng trưởng, song muốn tăng trưởng ổn định và lâu dài thì cần phải quản lí 
và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Sự tăng trưởng mà khu vực này có được 
trong giai đoạn những năm 1960 và 1970 chủ yếu là do sự gia tăng về khối 
lượng đầu tư chứ chưa thực sự phải là do hiệu quả đầu tư mang lại cũng như 
chưa tạo ra những biến đổi về chất trong cơ cấu kinh tế. Rốt cuộc, khủng hoảng 
dầu mỏ nổ ra, nợ nước ngoài tăng nhanh, lạm phát phi mã ở mức 4 con số khiến 
cho các nền kinh tế “bong bóng” của khu vực này bắt đầu xì hơi mạnh, rơi vào 
suy thoái và các khủng hoảng tài chính trầm trọng khi bước vào thập kỉ 80. 
2. Giai đoạn đầu 1980 đến nửa cuối những năm 1980 (giai đoạn suy giảm) 
Bước vào đấu thập kỉ 80, dòng FDI vào Mĩ La Tinh có sự suy giảm mạnh, 
từ 6,1 tỷ USD năm 1980 xuống còn 4,1 tỷ USD năm 1985. Năm 1985, Mĩ La 
Tinh chỉ chiếm có 38,6% và năm 1990 còn 31% tổng FDI vào các nước đang 
phát triển trong khi đó các nước Đông á lại tăng rất mạnh từ 5,9% năm 1980 lên 
28,1% năm 1985 và 43,9% năm 1990 [4]. 
Từ 1983 đến 1985, vốn FDI mới và tái đầu tư lợi nhuận vào Mêhicô giảm 
trung bình khoảng 3/4 so với những năm khủng hoảng dầu lửa. Kết quả là đầu tư 
trực tiếp nước ngoài trung bình hàng năm vào Mêhicô trong giai đoạn này thấp 
hơn thời kì 1962- 1973 và dòng FDI xuống mức thấp nhất vào năm 1984, đạt có 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-45- 
404 triệu đôla. Không nằm trong vòng ngoại lệ, FDI vào Braxin cũng giảm 
mạnh và giảm tới 40% trong giai đoạn 1983-1985 so với thời kì 1978-1981[27]. 
Theo các chuyên gia nhận định, việc giảm sút mạnh dòng FDI chảy vào 
Mĩ La Tinh là kết quả của các nhân tố bên ngoài gây bất ổn định cho nền kinh tế 
các nước này do việc giảm giá dầu trong giai đoạn đó gây ra. Thêm vào đó, việc 
trì hoãn các cuộc tái thương lượng đối với các khoản nợ nước ngoài của chính 
phủ các nước Mĩ La Tinh đã gây tâm lý hoang mang cho các nhà đầu tư nước 
ngoài. Vì vậy họ đã hoặc là hoãn việc đầu tư các khoản FDI mới hoặc là rút vốn 
về nước và làm cho dòng FDI bị thu hẹp lại. 
3. Giai đoạn nửa cuối những năm 1980 - nửa đầu những năm 1990 (giai đoạn 
phục hồi) 
Như đã nói vào cuối những năm 1980, các nước Mĩ La Tinh đã thay đổi 
quan điểm đối với dòng FDI và đã có những chính sách, biện pháp nhằm thu hút 
FDI. Nhờ vậy mà dòng FDI chảy vào khu vực đã có dấu hiệu phục hồi từ cuối 
1980. Tại Mêhicô, năm 1986, FDI tăng nhanh và đạt 1849,7 triệu USD. Trong 
năm 1987, FDI vào nước này tăng vượt mức trung bình những năm khủng 
hoảng dầu mỏ và đạt 3090,3 triệu USD [27]. 
Tuy nhiên trong giai đoạn cuối những năm 80, luồng FDI chảy vào khu 
vực chủ yếu được thực hiện thông qua việc trao đổi nợ lấy cổ phần. Đây là 
chương trình được thực hiện tại các nước Mĩ La Tinh nhằm đối phó với cuộc 
khủng hoảng nợ trong đó các nhà đầu tư nước ngoài thường là các công ty đa 
quốc gia mua lại một khoản nợ đã giảm giá trên thị trường thứ cấp và bán lại 
cho chính phủ nước con nợ để lấy lại tiền của nước con nợ đó. Sau đó nhà đầu 
tư phải dùng tiền này để đầu tư vào nước con nợ hoặc mua lại cổ phiếu của các 
doanh nghiệp nhà nước. Kết quả cuối cùng là nước con nợ có thể chuyển đổi 
món nợ nước ngoài của mình thành cổ phiếu thuộc sở hữu nhà nước. Tại 
Mêhicô năm 1986-1987, trong tổng dòng vốn đầu tư nước ngoài có tới 48% là 
vốn thực hiện thông qua hoán đổi nợ và con số này lên tới 67% nếu tính trong 
khoảng thời gian từ 1983 đến 1987 [27]. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-46- 
Bước sang những năm đầu thập kỉ 90, lượng vốn FDI chảy vào khu vực 
có sự gia tăng mặc dù tỷ trọng trong tổng FDI vào các nước đang phát triển 
không tăng hoặc tăng ít. 
Bảng 9: FDI vào Mỹ La tinh (1990-1996) 
Đơn vị: Tỷ USD 
Nước 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 
Mỹ La tinh 7,8 12,8 14,5 15,7 20,8 17,8 25 
Braxin 0,989 1,102 2,061 1,291 2,130 4,405 10,792 
Mêhicô 2,633 4,761 4,393 4,398 10,973 9,647 9,943 
Chi lê 0,661 0,882 0,935 1,034 2,583 2,956 4,815 
Achentina 1,836 2,439 4,431 2,793 3,635 5,609 6,949 
Nguồn: - T/c Châu Mỹ ngày nay số 3/ 1997, tr.12. 
 -  
Nhìn vào bảng 9 ta thấy FDI vào Mêhicô tăng mạnh vào 1994 đạt 10,973 
tỷ USD tăng 2,5 lần so với năm 1993. Điều này được giải thích là do luật đầu tư 
nước ngoài mới (1993) với cơ chế thông thoáng đã khiến cho các nhà đầu tư 
nước ngoài thấy rằng Mêhicô thật sự chào đón họ. Hơn nữa, hiệp định khu vực 
mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) đi vào hiệu lực cũng làm cho FDI vào 
Mêhicô tăng lên nhanh chóng vì các nhà đầu tư nước ngoài thấy được rằng đầu 
tư vào Mêhicô chính là con đường để tiếp cận với một khu vực thị trường rộng 
lớn đó là Mỹ và Canađa. Vì vậy mà trong khoảng thời gian 1994- 1996, FDI vào 
Mêhicô đã đạt trên 30 tỷ USD, chiếm 10% trong tổng số FDI vào các nước đang 
phát triển và 40% lượng FDI vào khu vực Mĩ La Tinh, cho phép Mêhicô đứng 
thứ 2 trên thế giới sau Trung Quốc trong các nước đang phát triển và đứng đầu 
khu vực Mỹ la tinh về thu hút FDI. 
Bên cạnh đó ta thấy FDI vào Braxin cũng tăng rất mạnh đạt mức tăng 
trung bình là 32% mỗi năm trong khoảng 1990-1995, đến năm 1996, FDI vào 
nước này tăng mạnh nhất, gấp 1,5 lần năm 1995 đạt 10,792 tỷ USD. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-47- 
Tương tự FDI vào Chilê và Achentina cũng tăng lên nhanh chóng trong 
những năm đầu của thập kỉ 90 đạt 45,5% và 31% tương ứng trong giai đoạn 
1990-1996. 
4. Giai đoạn từ nửa sau những năm 1990 đến nay (giai đoạn tăng nhanh) 
Vào cuối những năm 90, FDI vào Mĩ La Tinh tăng lên nhanh chóng. Năm 
1999, lượng FDI đã tăng gấp hơn 4 lần lượng FDI năm 1996. 
Có thể nói lượng FDI chảy vào Mĩ La Tinh tăng nhanh trong giai đoạn 
1997- 2002 là do các nước đều có những biện pháp ổn định kinh tế chính trị, các 
biện pháp thu hút vốn FDI và đặc biệt là quá trình tư nhân hoá diễn ra mạnh mẽ. 
Một điều đáng chú ý là khu vực này không hề bị ảnh hưởng của cuộc khủng 
hoảng tài chính tiền tệ Châu Á 1997. Bởi vì chính những năm sau đó là những 
năm mà lượng FDI đạt được mức cao và kỉ lục. Hình thức đầu tư chủ yếu trong 
giai đoạn này là thông qua các cuộc sáp nhập và mua lại (M&A). 
 Nhìn vào bảng 10 ta thấy , năm 1997, lượng FDI đột ngột tăng nhanh đạt 
69 tỷ USD tăng 176% so với năm 1996, và đạt mức kỉ lục vào năm 1999 với 
khối lượng là gần 110 tỷ USD tăng gần 60% so với năm 1997. 
Trong những năm 1997- 1998, lượng FDI vào Mêhicô đạt 26,33 tỷ USD 
trong khi Braxin lại thu hút được 47,849 tỷ USD. Nhờ đó Braxin đã được đẩy 
lên vị trí hàng đầu và kéo Mêhicô xuống vị trí thứ 2 trong số các nước thu hút 
được nhiều FDI nhất khu vực. Có được điều này một phần là do Braxin đã tham 
gia vào khu vực thị trường chung Nam Mỹ (Mercosur) nên đã thúc đẩy tư bản 
nước ngoài đầu tư vào đây để có thể thâm nhập vào thị trường các nước Nam 
Mỹ. 
Kho¸ luËn tèt nghiÖp 
-48- 
Bước sang năm 1999, Braxin vẫn là nước tiếp
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
Luận văn THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI MĨ LA TINH VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM.pdf