Khó khăn của học viên lào tại Học viện Kỹ thuật quân sự trong việc nghe hiểu tiếng Việt và một số biện pháp khắc phục

Tài liệu Khó khăn của học viên lào tại Học viện Kỹ thuật quân sự trong việc nghe hiểu tiếng Việt và một số biện pháp khắc phục: 97KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) TRAO ĐỔI v NGUYỄN THỊ THANH THỦY* *Học viện Kỹ thuật Quân sự,  thuytiengviet@gmail.com Ngày nhận bài: 27/02/2019; ngày sửa chữa: 22/5/2019; ngày duyệt đăng: 30/5/2019 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Từ kinh nghiệm hơn 10 năm giảng dạy tiếng Việt cho học viên quân sự Lào trình độ đại học tại Học viện Kỹ thuật Quân sự (HVKTQS), chúng tôi nhận thấy có một số khó khăn cơ bản của học viên Lào khi học tiếng Việt như: trình độ, lứa tuổi học viên trong một lớp không đồng đều, không được sinh hoạt cùng học viên Việt Nam, điểm khác biệt giữa hai ngôn ngữ Tất cả những điều này là rào cản khiến học viên Lào nghe hiểu chưa tốt. Mặc dù đối tượng khảo sát của chúng tôi mới chỉ dừng lại ở học viên Lào đang học tại HVKTQS, nhưng tính phổ quát của vấn đề nghiên cứu theo chúng tôi không chỉ giới hạn trong môi trường HVKTQS mà nó mang tính chất chung đối với tất cả học viên, KHÓ KHĂN CỦA HỌC VIÊN LÀO TẠI HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ TRONG VIỆC N...

pdf8 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 285 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khó khăn của học viên lào tại Học viện Kỹ thuật quân sự trong việc nghe hiểu tiếng Việt và một số biện pháp khắc phục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
97KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) TRAO ĐỔI v NGUYỄN THỊ THANH THỦY* *Học viện Kỹ thuật Quân sự,  thuytiengviet@gmail.com Ngày nhận bài: 27/02/2019; ngày sửa chữa: 22/5/2019; ngày duyệt đăng: 30/5/2019 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Từ kinh nghiệm hơn 10 năm giảng dạy tiếng Việt cho học viên quân sự Lào trình độ đại học tại Học viện Kỹ thuật Quân sự (HVKTQS), chúng tôi nhận thấy có một số khó khăn cơ bản của học viên Lào khi học tiếng Việt như: trình độ, lứa tuổi học viên trong một lớp không đồng đều, không được sinh hoạt cùng học viên Việt Nam, điểm khác biệt giữa hai ngôn ngữ Tất cả những điều này là rào cản khiến học viên Lào nghe hiểu chưa tốt. Mặc dù đối tượng khảo sát của chúng tôi mới chỉ dừng lại ở học viên Lào đang học tại HVKTQS, nhưng tính phổ quát của vấn đề nghiên cứu theo chúng tôi không chỉ giới hạn trong môi trường HVKTQS mà nó mang tính chất chung đối với tất cả học viên, KHÓ KHĂN CỦA HỌC VIÊN LÀO TẠI HỌC VIỆN KỸ THUẬT QUÂN SỰ TRONG VIỆC NGHE HIỂU TIẾNG VIỆT VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC TÓM TẮT Trong bốn kỹ năng ngôn ngữ, kỹ năng nghe hiểu được coi là một trong những kỹ năng khó nhất. Do đó, việc rèn luyện và phát triển kỹ năng nghe hiểu phải đi trước một bước. Bài viết sẽ tìm hiểu những khó khăn của học viên Lào khi nghe hiểu tiếng Việt thông qua phương pháp so sánh, đối chiếu một số điểm cơ bản giữa hai ngôn ngữ Việt-Lào, từ đó đề xuất một số phương pháp giảng dạy phù hợp nhằm khắc phục phần nào những khó khăn trong kỹ năng nghe-hiểu của học viên. Các biện pháp nhằm cải thiện kỹ năng nghe hiểu được trình bày thông qua một số biện pháp chung như trau dồi kỹ năng nghe tích cực, nghe nắm ý chính, nghe kết hợp với hình ảnh, nghe giữa chuyên sâu và mở rộng Bài viết cũng giới thiệu một số dạng bài nghe ở những cấp độ khác nhau, giúp giảng viên chủ động hơn trong việc thiết kế bài giảng sao cho phù hợp với trình độ của học viên. Từ khóa: nghe-hiểu, nghe tích cực, nghe mở rộng, nghe qua hình ảnh, nghe nhận biết học viên Lào nói chung đang theo học tiếng Việt tại Việt Nam. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ xin tập trung tìm hiểu về một số điểm khác biệt giữa hai ngôn ngữ Việt-Lào gây nên những cản trở trong quá trình nghe hiểu của học viên, từ đó đưa ra một số biện pháp khắc phục nhằm nâng cao kỹ năng nghe hiểu. 2. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA HAI NGÔN NGỮ VIỆT-LÀO 2.1. Khác biệt về thanh và dấu thanh Đặc điểm đầu tiên dẫn đến những khó khăn của học viên Lào khi nghe hiểu tiếng Việt là khó 98 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) v TRAO ĐỔI khăn trong việc phân biệt dấu thanh. Điều này xuất phát từ sự khác nhau về dấu thanh giữa tiếng Lào và tiếng Việt. Tiếng Lào có 4 dấu (mạy ệc, mạy thô, mạy t-ri, mạy chặt-ta-wa) nhưng lại có 6 thanh (cao thường; trung bình – thấp thường; trung bình – thấp thô; thấp ệc; cao – trung bình ệc; cao thô). Người Lào gọi tên thanh tiếng Lào theo phụ âm đầu vần là phụ âm cao, phụ âm trung bình hay phụ âm thấp kết hợp với dấu hoặc không kết hợp với dấu. Nghĩa là người Lào phát âm ra một tiếng có dấu không chỉ phụ thuộc vào việc dấu thanh được hiển thị trên từ mà còn phụ thuộc vào quy tắc kết hợp phụ âm đầu, nguyên âm và âm chắn cuối (Ví dụ: Phụ âm đầu + nguyên âm ngắn + âm chắn cuối là ກ, ດ, ບ thì dấu phát ra sẽ là thanh sắc; Phụ âm đầu + nguyên âm dài + âm chắn cuối là ກ, ດ, ບ thì dấu phát ra sẽ là thanh nặng, ). Điểm khác biệt nữa là trong 6 thanh nói trên được sử dụng trong từ có âm tiết vang và trong từ có âm tiết tắc lại phát thành những dạng tương ứng khác nhau. Các thanh trong tiếng Lào đôi khi tương ứng với các thanh trong tiếng Việt, nhưng đôi khi không có thanh tương đương trong tiếng Việt. Sự tương ứng của dấu thanh giữa hai ngôn ngữ thể hiện như bảng 1. Bảng 1. Sự tương ứng của dấu thanh giữa hai ngôn ngữ Dấu thanh tiếng Lào Sự tương ứng trong tiếng Việt Thanh cao: được tạo bởi “mạy t-ri’ và được viết là “ ໊” như trong từ ກ໊າ và được phát âm là “cá” Thanh sắc Thanh thấp: được tạo bởi “mạy ệc” và được viết là “ ”่ tức là một dấu nháy như thanh sắc ở phía trên, ví dụ trong từ ກ່າ được phát âm là “cà” Thanh huyền Thanh luyến lên: được tạo bởi “mạy chặt-ta-wa” và được viết là “๋” tức là một dấu cộng ở phía trên đầu như từ ກ໋າ và được phát âm là “cả” Thanh hỏi Thanh luyến xuống: được gọi là “mạy thô” và được viết là “ ้” giống như dấu ngã của tiếng Việt ở phía trên nhưng nó phát âm gần giống thanh nặng trong tiếng Việt như từ này ກ້າ và được phát âm là “cạ” Thanh nặng Thanh bằng: nghĩa là không có dấu gì ở trên hoặc dưới như từ ກາ này được phát âm là “ca” Thanh không Tuy nhiên, trên thực tế, người Lào thường chỉ sử dụng hai thanh là “mạy ệc” và “mạy thô”. Chính vì lẽ đó, khi nói, đọc, và nhất là khi nghe tiếng Việt, học viên Lào luôn cảm thấy lúng túng với dấu thanh, đặc biệt là các dấu ngã, nặng, hỏi trong tiếng Việt. 2.2. Khác biệt về cấu trúc từ vựng “Tiếng Việt là tiếng đơn âm tiết, không có biến hóa hình thái” (Nguyễn Tài Cẩn, 1999, tr.44- 45). Về cơ bản, tiếng Việt và tiếng Lào đều là ngôn ngữ đơn lập, đơn âm tiết, không chia động từ, giống, số, cách mà chỉ thêm các phụ từ để chỉ thì của hành động. Đây được coi là điểm giống nhau cơ bản giữa hai ngôn ngữ Việt và Lào. Điều này vừa là một thuận lợi cho học viên Lào khi học tiếng Việt nói chung và luyện kỹ năng nghe nói riêng, song đôi khi nó cũng là một cản trở. Bởi vì, học viên Lào thường nghĩ cứ ráp các từ vào là có thể tạo thành một câu do đó khi nghe, học viên thường không có ý thức nghe cả câu/cả đoạn để hiểu đại ý mà có xu hướng nghe từng từ, hiểu nghĩa của các từ đơn lẻ trong một đoạn âm thanh rồi suy ra nghĩa của câu. Điều này rất dễ dẫn đến hai sai lầm mà học viên Lào thường mắc phải. Thứ nhất, nếu học viên nghe không tốt sẽ dẫn đến việc phân xuất từ trong câu sai. Ví dụ câu “Vàng phải thử trong lửa mới biết vàng thật hay giả”, được học viên nghe thành các “từ”: Vàng phải / thử trong / lửa mới / biết vàng / thật hay / giả” rồi sau đó dùng từ điển để tra các “từ” này. Thứ hai, nếu học viên có thói quen nghe chuỗi âm thanh trên sự phân xuất từng âm tiết cũng sẽ dẫn đến việc học viên tra nghĩa của từng âm tiết, song “nghĩa của cả câu thậm chí nghĩa của từ đa âm tiết không phải lúc nào cũng là nghĩa của “tổng số” các âm tiết trong cụm từ” (Nguyễn Ngọc Ân, 2011, tr.130). Tôi đã gặp trường hợp một học viên Lào tra nghĩa của hai từ “giáo” và từ “sư” một cách tách rời khi nghe được từ “giáo sư” sẽ khiến cho nghĩa của từ bị làm méo mó, thậm chí sai lệch hẳn so với ý nghĩa thực của từ. Tóm lại, nếu học viên giữ thói quen hiểu nghĩa theo cách ghép các từ lại với nhau, hiểu theo cách phân xuất từng từ/ âm tiết một thì sẽ rất khó để nghe và hiểu được chính xác nội dung của lời nói. 99KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) TRAO ĐỔI v 2.3. Khác biệt về từ mang ý nghĩa ngữ pháp Ngôn ngữ Lào khá đơn giản, ít tồn tại các từ mang ý nghĩa ngữ pháp đa nghĩa, trong khi tiếng Việt thì ngược lại. Các từ biểu thị ý nghĩa ngữ pháp trong tiếng Việt đa dạng và phụ thuộc rất nhiều vào bối cảnh giao tiếp. Tính đa nghĩa này gây ra nhiều khó khăn cho học viên nói chung và khó khăn trong kỹ năng nghe hiểu nói riêng. Cụ thể, trong giao tiếp, học viên thường cảm thấy lúng túng để hiểu chính xác nghĩa của từ. Ví dụ thử khảo sát một từ “đã” trong chức năng là từ mang ý nghĩa ngữ pháp chúng ta sẽ thấy, ở những vị trí khác nhau, từ này sẽ làm cho ý nghĩa của câu được hiểu theo nghĩa khác nhau: - Chỉ thời gian trong quá khứ: Anh ấy đã về nước rồi. - Chỉ thời gian trong tương lai gần, mang ý nghĩa tình thái, ý nói thời gian đi quá nhanh: Ngày mai đã là thứ hai rồi à? - Chỉ thời gian xảy ra trong quá khứ nhưng còn tiếp diễn đến hiện tại: Nó đã nghỉ suốt một tuần rồi. - Chỉ mức độ hoàn toàn đầy đủ: Bác cứ ăn đi cho đã. - Chỉ một việc được ưu tiên làm trước một việc khác: Anh cứ ngồi nghỉ cho lại sức đã rồi đi đâu hãy đi. Vì vậy, nếu học viên không hiểu rõ bản chất của từ ngữ pháp thì sẽ khó hiểu được đúng ý nghĩa của câu ngay cả khi nghe được. 2.4. Khác biệt về vị trí của từ chỉ tần suất và số từ-loại từ trong câu Tiếng Việt Tiếng Lào Từ chỉ tần suất Thường đứng ngay sau chủ ngữ hoặc đứng đầu câu: VD: Nó luôn luôn đến lớp muộn. Thường đứng cuối câu: (Măn pày hiên xạ lượi lượi) Số từ, loại từ Số từ + loại từ + danh từ VD: Tôi mua hai cái áo. Chị ấy có hai con. Danh từ + số từ + loại từ Khọi xự sựa sỏong phửn) (Ượi nặn mi lục sỏong khôn) Những khác biệt về ngôn ngữ trên là một trong những yếu tố gây ra sự khó khăn cho học viên trong kỹ năng nghe hiểu, nhất là giai đoạn đầu học tiếng Việt. Từ thực tế trên, tôi xin đề xuất một số biện pháp nhằm cải thiện kỹ năng nghe hiểu của học viên Lào khi học tiếng Việt như sau: 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC 3.1. Biện pháp chung 3.1.1. Trau dồi kỹ năng nghe tích cực, nghe  nắm ý chính cho học viên Khi học tiếng Việt, học viên Lào thường có tư duy lắp ráp các từ đơn để diễn đạt ý muốn nói (ví dụ: “Lúc 5h30 dậy, đánh răng, ăn sáng, tôi đi học”) mà đôi khi “không để ý” đến cấu trúc ngữ pháp cả câu. Tư duy này ảnh hưởng rất lớn đến quá trình nghe vì học viên thường có thói quen nghe từ, nghe câu mà không nghe ý để hiểu nội dung chính của bài. Chính vì thế, giảng viên phải trau dồi kỹ năng nghe tích cực, có chủ đích cho học viên. Muốn như vậy, giảng viên nên phát triển dạng bài nghe như: nghe và lựa chọn thông tin chính cho từng đoạn rồi phát triển lên thành nghe và tìm ý chính cho cả bài. “Ngoài việc nghe, hiểu, giảng viên cũng cần rèn cho học viên kỹ năng phán đoán” (Nguyễn Văn Thông 1997, tr.47). Việc học viên không biết một số từ trong bài nghe là chuyện bình thường. Tuy nhiên, người nghe có thể đoán nghĩa của từ, của bài dựa vào chủ đề nghe, bối cảnh giao tiếp, cấu trúc ngữ pháp để hiểu đúng nội dung toàn bài. 3.1.2. Tạo hứng thú cho học viên thông qua  các bài nghe kết hợp hình ảnh  Trong những năm gần đây, việc sử dụng video trong giảng dạy ngôn ngữ ngày càng phổ biến. Nó tạo hứng thú học cho học viên trong việc nâng cao chất lượng kỹ năng nghe hiểu. Khi học viên nghe và nhìn, họ có thể dễ dàng hiểu ý nghĩa lời nói cũng như tâm trạng thông qua cử chỉ, điệu bộ và biểu cảm gương mặt của người nói. Các tài liệu nghe nên gồm nhiều cấp độ từ dễ đến khó, tạo cơ hội cho học viên được tiếp xúc với ngôn ngữ tự nhiên, phong phú và sinh động. Ví dụ: giảng 100 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) v TRAO ĐỔI viên cho học viên luyện nghe hiểu qua các video giới thiệu về món ăn, điểm du lịch, đất nước, con người, Áp dụng phương pháp này có thể làm tăng sự nhiệt tình, nuôi dưỡng niềm yêu thích của học viên đối với hoạt động nghe hiểu và từ đó giúp họ đạt được thành công trong việc học tiếng Việt nói chung. 3.1.3 . Kết hợp nghe chuyên sâu và nghe mở rộng  Mục đích của nghe chuyên sâu là xây dựng các kỹ năng nghe cơ bản còn nghe mở rộng là để nâng cao và mở rộng tính hiệu quả cho kỹ năng nghe chuyên sâu, từ đó cải thiện khả năng nghe nói chung cho học viên. Do vậy, trong giảng dạy kỹ năng nghe hiểu, giảng viên nên hướng dẫn học viên kết hợp cả kỹ năng nghe mở rộng lẫn chuyên sâu. Học viên nên luyện nghe các nội dung liên quan đến những khía cạnh của cuộc sống hàng ngày, khoa học và công nghệ, tài liệu chuyên ngành... Giảng viên phải tạo ta môi trường nghe thu hút được sự quan tâm của học viên khiến họ thêm đam mê và nhiệt tình đối với việc học tiếng Việt. 3.1.4. Kết hợp nghe với rèn các kỹ năng khác Trong giảng dạy nghe hiểu, giảng viên nên kết hợp phát triển kỹ năng nghe cùng với các kỹ năng khác như nói, đọc và viết. Ví dụ: sau khi nghe, học viên có thể kể lại nội dung bài nghe hoặc tham gia thảo luận về những gì họ nghe được. Bằng cách này, học viên học được cách kết hợp giữa nghe và nói. Ngoài ra, giảng viên cũng có thể kết hợp giữa nghe và viết. Ví dụ, sau khi nghe, giảng viên yêu cầu học viên viết về ý nghĩa của bài nghe hoặc viết tóm tắt lại nội dung của bài. Ngoài những biện pháp chung kể trên, để khắc phục những khó khăn trong nghe hiểu đối với học viên Lào học tiếng Việt, theo chúng tôi có nhiều cách thiết kế bài luyện ứng với trình độ khác nhau của học viên. 3.2. Biện pháp chuyên biệt Ở mỗi cấp độ nghe khác nhau, giảng viên sẽ có cách thiết kế bài nghe sao cho phù hợp với trình độ của học viên. Ở đây, chúng tôi xin đề cập kỹ hơn việc thiết kế bài nghe ở giai đoạn đầu. 3.2.1. Cấp độ nghe mang tính chất máy móc  Đây là cấp độ nghe giúp học viên sao chép, thiết lập một hệ thống ngữ âm, từ vựng mới trong não bộ làm cơ sở cho việc phát triển ngôn ngữ thứ hai. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2013, tr.501) cho rằng: “Rèn luyện kỹ năng nghe trong giai đoạn đầu tiếp nhận ngôn ngữ là rất quan trọng. Nó giúp học viên điều chỉnh phát âm, phân biệt từ, các cụm từ trên một dòng âm thanh và nhận thức được ý nghĩa của cả câu”. Việc rèn luyện kỹ năng nghe ở giai đoạn này gồm những bước cơ bản có thể áp dụng thành các cấp độ bài tập từ dễ đến khó, từ sao chép đến tái tạo như sau: - Giới thiệu ngữ âm cơ bản: Giảng viên miêu tả cấu âm, đọc hệ thống nguyên âm, phụ âm, so sánh cao độ của dấu thanh, học viên nghe và nhắc lại. Như trên chúng tôi đã trình bày, học viên Lào khá yếu trong khi phát âm các từ/tiếng có chứa dấu ngã, nặng, hỏi. Vì vậy, phần này giảng viên cần dành thời gian nhiều hơn để luyện các từ/tiếng có chứa dấu thanh này. Ví dụ: Nghe và điền dấu thanh thích hợp la – la – la ( lả - lã – lạ); ba – ba – ba ( bạ – bả - bã) ; le – le – le (lẽ – lẹ – lẻ), Các dấu thanh này sẽ bị xáo trộn, đổi chỗ liên tục để học viên nghe và nắm được độ cao thấp, khác nhau của dấu thanh. - Phát âm từ - nghe và nhắc lại. Việc phát âm từ, nghe và nhắc lại nhiều lần giúp học viên nhớ từ, cụm từ để tránh trường hợp đọc/phân xuất từ không đúng. - Phát âm các câu ngắn – nghe và nhắc lại. Giai đoạn nghe câu, giảng viên nên cho học viên nghe nhiều câu có số từ, loại từ và từ chỉ tần suất để học viên nắm chắc hơn vị trí của các từ loại này trong tiếng Việt. 101KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) TRAO ĐỔI v Ví dụ: Nghe và nhắc lại các câu sau: Họ thường xuyên đi chơi vào cuối tuần. Chúng tôi luôn luôn giúp đỡ lẫn nhau. Anh ấy mới mua một cái máy vi tính. Chị ấy mượn 2 quyển sách ở thư viện. Lưu ý là, ở giai đoạn này, để học viên có thể nghe và nhắc lại các câu một cách trơn tru thì trước khi đọc cả câu, giảng viên nên cho học viên đọc các từ/cụm từ trong câu, sau đó mới đọc trơn cả câu. - Nghe theo dây chuyền: Giảng viên nói một từ hoặc một câu ngắn cho học viên A nghe, học viên A nói lại cho học viên B, học viên B nói lại cho học viên C.... Và học viên cuối cùng nói lại cho giảng viên nghe. Sau đó giảng viên đưa ra câu đúng. Nếu học viên sai giảng viên sẽ sửa trực tiếp và chỉ ra lỗi sai của học viên. Cũng với bài tập này, giảng viên hoàn toàn có thể chuẩn bị và chia lớp thành các đội chơi với nhau theo hình thức: Giảng viên viết ra giấy một câu ngắn, (trên đó viết luôn sự phân xuất của từ). Ví dụ: “Mùa xuân / là / tết / trồng cây” “Nhân dịp năm mới, / em / đến / chúc Tết / anh chị / và / các cháu” Giảng viên đọc từ/câu cho học viên 1 nghe. Học viên 1 nói cho học viên 2 nghe, học viên 2 nói lại từ/câu mà mình nghe được học viên 3 nghe, cứ thế cho đến người cuối cùng của nhóm sẽ là người nói từ/câu mà mình nghe được từ bạn cho giảng viên nghe. Cuối cùng, giảng viên sẽ đưa tờ giấy có chữ để cả nhóm cùng nhận xét xem bạn nghe có đúng không, cách phân xuất từ có đúng không. Cấp độ nghe thứ nhất, giảng viên áp dụng nhiều trong thời gian đầu học viên học ngữ âm. Các dạng bài tập nghe kiểu này đơn giản nhưng lại rất cần thiết vì loại bài tập mang tính chất máy móc sẽ giúp học viên sao chép, thiết lập một hệ thống ngữ âm, từ vựng mới trong não bộ làm cơ sở cho việc phát triển ngôn ngữ thứ hai. Dạng bài luyện này cũng giúp học viên sẽ lĩnh hội trọn vẹn các kiểu cấu âm cơ bản trong tiếng Việt, tiếp nhận được trọng âm và ngữ điệu của lời nói tạo nền tảng vững chắc trong học tập, giao tiếp sau này. 3.2.2. Cấp độ nghe nhận biết Ở cấp độ này, mức độ nghe đã được đẩy lên một yêu cầu cao hơn. Học viên không chỉ cần nghe được vỏ âm thanh mà còn phải hiểu được ý nghĩa của từ, học viên cũng được rèn luyện ý thức nghe cả câu để nắm bắt ý. Ở cấp độ nghe này, giảng viên có thể áp dụng một số dạng bài tập sau: - Nghe một đoạn văn (hoặc đoạn hội thoại hoặc xem một đoạn clip) ngắn và lựa chọn phương án đúng trong số các câu trả lời cho sẵn dưới dạng trắc nghiệm: A, B, C. Ví dụ: Giảng viên chuẩn bị một clip có hình ảnh đẹp về ngày Tết Nguyên đán. Tốc độ nói trong clip phải phù hợp với trình độ học viên, từ ngữ rõ ràng. * Trước nghe/xem: Giảng viên cho học viên đọc trước một số từ khó (nếu cần, giảng viên có thể giải thích các cụm từ khó): tháng Giêng, tháng Chạp, lễ cúng tiễn, trang hoàng, trưng tết Tết Nguyên đán Tết Nguyên Đán hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta là dịp lễ quan trọng nhất của Việt Nam. Chính Tết diễn ra trong 3 ngày là ngày mồng 1 mồng 2 và mồng 3 tháng Giêng Âm lịch, nhưng thực tế từ sau ngày 23 tháng Chạp (tháng 12 âm lịch), sau khi làm lễ cúng tiễn ông Táo về trời thì không khí Tết đã bắt đầu đến mọi nhà. Đêm 30 tháng Chạp gọi là đêm giao thừa. Vào dịp tết, nhà nào cũng dọn dẹp, trang hoàng sạch sẽ. Người miền Bắc thường mua hoa đào còn người miền Nam thường mua hoa mai về trưng tết. Mọi người cùng tất bật chuẩn bị các món ăn cho ngày tết như giò, chả nem, canh bóng, nhưng món ăn không thể thiếu với người Việt vào dịp đặc biệt này là bánh chưng. Ngoài ra, trong 3 ngày Tết, người dân Việt Nam thường có phong tục đi thăm viếng và chúc Tết gia đình, họ hàng, bạn bè, làng xóm để hỏi thăm những điều đã làm được trong năm cũ và chúc nhau một năm mới tốt lành, may mắn, phát tài phát lộc. 102 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) v TRAO ĐỔI * Trong nghe: Giảng viên mở clip/đọc 2 lần để học viên nghe; học viên nghe và lưu nhớ lại những thông tin cần thiết. * Sau nghe: Học viên làm bài tập nghe nhận biết dưới dạng trắc nghiệm: 1. Tết Nguyên Đán hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta là dịp lễ .. nhất của Việt Nam. A. quan trọng B. trang trọng C. thận trọng 3. Chính Tết diễn ra trong 3 ngày là .. tháng Giêng Âm lịch. A. ngày 30 mồng 1 và mồng 2 B. ngày mồng 2, mồng 3 và mồng 4 C. ngày mồng 1 mồng 2 và mồng 3 3. Đêm giao thừa là đêm ... A. 20 tháng Chạp B. 30 tháng Chạp C. 30 tháng Giêng 4. Loại hoa mà người miền Bắc thường mua về trưng tết là ... A. hoa hồng B. hoa đào C. hoa mai 5. là món ăn đặc biệt không thể thiếu với người Việt Nam vào dịp Tết Nguyên đán. A. chả nem B. giò C. bánh chưng 6. Trong 3 ngày Tết, người dân Việt Nam thường có phong tục .... A. đi thăm viếng B. chúc Tết gia đình, họ hàng, bạn bè, làng xóm C. cả A và B *Cuối cùng: giảng viên sửa những lỗi sai (nếu có) cho học viên và củng cố lại bài nghe. - Nghe xác nhận thông tin đúng/sai: Học viên nghe một đoạn hội thoại (hoặc nghe/xem clip), sau đó giảng viên đưa ra các phương án để học viên kiểm tra xem thông tin đúng/sai. - Nghe và điền những từ còn thiếu vào chỗ trống. Giảng viên chuẩn bị một số đoạn văn (hội thoại), lược bớt một số từ và tạo thành chỗ trống. Giảng viên đọc đoạn văn nguyên bản, học viên nghe và điền những từ còn thiếu vào chỗ trống. - Nghe thông qua một trò chơi: học viên tham gia theo từng cặp: học viên A miêu tả một bạn nào đó trong lớp, học viên B nghe và đi tìm người mà A miêu tả. Ở cấp độ nghe thứ hai này, tính chủ động của học viên đã được phát huy. Ở đây, học viên phải chú tâm hơn để nghe không chỉ là nhắc lại được đúng vỏ ngôn ngữ mà quan trọng hơn là phải nắm được ý nghĩa mà ngôn ngữ chuyển tải. Giảng viên cần lưu ý lựa chọn những bài tập phù hợp với trình độ học viên, sát với thực tế giao tiếp sẽ tạo được hiệu ứng học tập tích cực. Cũng cần nhấn mạnh thêm, để học viên nghe tốt thì cấp độ nghe 1 và 2 là cấp độ nghe cơ bản và quan trọng nhất, giúp học viên nhận thấy những điểm khác biệt trong hai ngôn ngữ, từ đó tránh những sai sót đáng tiếc khi nghe. 3.2.3. Cấp độ nghe hiểu Giảng viên chuẩn bị một đoạn hội thoại với độ khó và độ dài tuỳ thuộc vào trình độ của học viên, trong đó có chứa đựng các thông tin, các mẫu cần luyện tập. Học viên nghe đoạn hội thoại (bằng cách nghe qua băng, nghe nhìn đoạn video hoặc nghe trực tiếp giảng viên đọc...), sau đó làm các bài tập theo kiểu: - Nghe - trả lời trực tiếp: Giảng viên đặt các câu hỏi theo nội dung bài nghe, học viên trả lời hoặc luyện tập theo từng cặp: một học viên hỏi, một học viên khác trả lời. 103KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) TRAO ĐỔI v - Nghe hội thoại hoặc đoạn văn và sắp xếp lại theo một trình tự hợp lý. - Nghe và tóm tắt nội dung thông tin: Sau khi nghe, học viên tóm tắt lại nội dung bài nghe bằng một vài câu hoặc một đoạn văn ngắn. Đây là cấp độ nghe tương đối khó. Học viên muốn làm được các dạng bài tập này buộc phải nghe và hiểu được toàn bộ nội dung của bài. Không chỉ có vậy, học viên còn được rèn kỹ năng đặt các dạng câu hỏi từ bài nghe để bạn trả lời. Học viên cũng cần nắm chắc được trình tự của bài nghe để sắp xếp ý cho hợp lý hoặc tóm tắt cho đầy đủ các ý từ bài nghe. Để tạo sự sôi động, giảng viên hoàn toàn có thể chia học viên thành các nhóm để cùng trao đổi, bổ sung thông tin mà giữa các nhóm với nhau. 3.2.4. Phát  triển nghe hiểu: nghe bài giảng  và ghi chép. Giảng viên chuẩn bị một bài khoá về một chủ đề nhất định tương ứng trong chương trình giảng dạy, phù hợp với trình độ về từ vựng, ngữ pháp. Giảng viên trình bày bài khoá dưới hình thức giảng bài. Những điểm chính yếu, nhất là các con số mang ý nghĩa quan trọng xuất hiện trong bài, giảng viên đọc chậm với ngữ điệu nhấn giọng để học viên chú ý và có đủ thời gian để ghi chép. Trong khi ghi chép, học viên có thể dùng các ký hiệu hoặc viết tắt để ghi nhanh hơn (trong trường hợp này, giảng viên sẽ quy ước cách viết tắt cho cả lớp) ví dụ: vk- vũ khí, đ/nc - đất nước, cm: chứng minh, kl: kết luận. Sau khi kết thúc phần nghe, học viên có thể làm các bài tập như: trả lời câu hỏi liên quan đến bài nghe, vẽ lại lược đồ dựa vào nội dung bài nghe hoặc tóm tắt ngắn gọn nội dung bài khoá. Đây là hình thức luyện nghe khó, tuy nhiên, nó lại là tiền đề quan trọng giúp học viên Lào chủ động hơn khi học cùng học viên Việt Nam và nghe các giảng viên giảng bài ở trình độ cao hơn. Với những bài khóa ngắn, nội dung đơn giản, giảng viên giảng và yêu cầu học viên ghi chép lại những ý chính đã nghe được. Phương pháp luyện nghe này không chỉ mang lại lợi ích ở kỹ năng nghe mà còn giúp học viên nắm chắc hơn văn phong trong khi viết, diễn đạt lại lời giảng của giảng viên theo ý hiểu của bản thân. 4. KẾT LUẬN Nghe - hiểu là một kỹ năng rất cần thiết khi giao tiếp. Nếu nói tốt mà nghe hiểu không tốt thì cuộc hội thoại sẽ rất khó thành công. Ngược lại, nếu nghe tốt nhưng nói chưa tốt thì vẫn có thể hy vọng người bản ngữ sẽ đoán được nội dung mà đối tượng giao tiếp định nói thông qua ngôn ngữ cơ thể, động tác phụ họa. Tuy nhiên, tất cả các kỹ năng nghe – nói – đọc – viết đều cần quan tâm đúng mức và bố trí thời gian hợp lý tùy vào mục đích sử dụng của học viên. Điều quan trọng là cần phải tìm ra được phương pháp dạy-học, cách thiết kế cũng như tiếp cận bài giảng sao cho hợp lý với cả học viên và người dạy. Với một số dạng bài tập nghe hiểu trên, giảng viên giảng dạy có thể vận dụng hợp lý cho từng đối tượng, trình độ học tập của học viên hoặc giảng viên cũng hoàn toàn có thể kết hợp các dạng bài tập trên để giúp bài học thêm phong phú và cải thiện tốt hơn khả năng nghe -hiểu. Để rèn luyện kỹ năng nghe hiểu, việc dạy và học cần thiết phải được chia theo trình độ từ dễ đến khó. Và dù ở cấp độ nào thì việc rèn luyện, sửa chữa uốn nắn những sai sót cho học viên là điều vô cùng quan trọng. Từ thực tiễn giảng dạy tiếng Việt cho học viên Lào, tôi tổng kết và đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn cho học viên trong việc nghe hiểu. Hy vọng những ý kiến trao đổi trên đây sẽ giúp cho học viên Lào học tiếng Việt nói chung và thực hành kỹ năng nghe hiểu nói riêng ngày càng tốt hơn./. 104 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 20 (7/2019) v TRAO ĐỔI DIFFICULTIES IN LISTENING TO VIETNAMESE OF LAO STUDENTS AT MILITARY TECHNICAL ACEDAMY AND SOME SUGGESTED SOLUTIONS NGUYEN THI THANH THUY Abstract: Of four language skills, listening comprehension is considered one of the most difficult skill. Therefore, the exercise and development of listening-comprehension skills must be preceded step by step. The article will learn the difficulties of Lao practitioners when listening to the Vietnamese language through the comparison method, which deals with a number of fundamental points between Vietnamese and Laos language, thereby producing some of the right teaching methods to overcome the difficulties of the students in listening-comprehension. Measures to improve listening - comprehension skills are presented through a number of common measures such as improving positive listening skills, listening to the main ideas, listening with images, listening between intensive and expanding ... The article also introduces a number of types of listening at different levels, helping teachers to be more active in designing lectures to suit students’ level. Keywords: Listening comprehension, listening positively, hearing expansion, listening through the video, listening for clues Received: 27/02/2019; Revised: 22/5/2019; Accepted: 30/5/2019 Tài liệu tham khảo: Nguyễn Ngọc Ân (2011), “Thực trạng và giải pháp rèn luyện kỹ năng nghe hiểu trong việc học ngoại ngữ với sinh viên không chuyên ở trường đại học, cao đẳng”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, số 25, tr.130-133. Nguyễn Tài Cẩn (1999, in lần 6), Ngữ pháp tiếng Việt – Tiếng – Từ ghép – Đoản ngữ , NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Thông (1997), Dạy nghe ghi tiếng Việt cho người nước ngoài, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2013), “Làm thế nào để dạy nghe hiệu quả”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Nghiên cứu và giảng dạy Việt Nam học và tiếng Việt”, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.499-509.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkho_khan_cua_hoc_vien_lao_tai_hoc_vien_ky_thuat_quan_su_trong_viec_nghe_hieu_tieng_viet_va_mot_so_bi.pdf
Tài liệu liên quan