Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Khoa học Cơ bản 67
KHẢO SÁT VAI TRÒ CỦA DẦU MÙ U TRONG QUÁ TRÌNH HỒI PHỤC 
VẾT THƯƠNG TRÊN MÔ HÌNH CHUỘT 
Nguyễn Văn Linh*, Võ Thành Long**, Đào Trọng Thức***, Trương Công Trị***, 
Trịnh Thị Diệu Thường***, Bùi Chí Bảo*** 
TÓM TẮT 
Giới thiệu: Vết thương do tai nạn, bỏng, vết thương sau phẫu thuật, vết côn trùng cắn gây ra những tổn 
thương da như là viêm loét, nhiễm trùng, tạo sẹo gây ảnh hưởng đến sức khỏe và thẩm mỹ của bệnh nhân. 
Những dược liệu có nguồn gốc tự nhiên có vai trò kháng khuẩn và đẩy mạnh quá trình hồi phục vết thương đang 
được quan tâm nghiên cứu trong thời gian gần đây. Dầu mù u được chiết xuất từ trái mù u (Calophyllum 
inophyllum) có các hoạt chất sinh học có khả năng kháng khuẩn, kháng viêm, và kháng oxy hoá đã được sử dụng 
từ rất lâu để điều trị vết thương. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu vai trò của dầu mù u 
trong quá trình hồi phục vết thương trên da chuột. 
Mục tiêu: Nghiên cứu tính kháng viêm và hiệu quả trong việc điều trị vết thương của tinh dầu mù u trên 
mô hình chuột. 
Phương pháp: Dầu mù u (Calophyllum inophyllum) được tinh chiết bằng dung môi ethanol, thành phần 
calophyllolide trong tinh dầu sẽ được định lượng bằng HPLC. Chuột nhắt trắng đực (Mus musculus var. Albino) 
từ 8-10 tuần tuổi, khoẻ mạnh, có trọng lượng trung bình khoảng 30±2g được chia ra thành 5 nhóm, trong đó 
nhóm I điều trị vết thương bằng dầu mù u, nhóm II được điều trị bằng thuốc sát trùng Betadine®, nhóm III được 
điều trị bằng tinh dầu gạo, nhóm IV không điều trị và nhóm V không tạo vết thương. Đánh giá tác dụng của tinh 
dầu mù u dựa trên biểu hiện lành sẹo vết thương, đánh giá tổn thương qua độ lớn của lá lách và cấu trúc mô học 
tại vị trí vết thương bằng phương pháp nhuộm HE. 
Kết quả: Hàm lượng calophyllolide trong dầu mù u tinh chế: 225,78 ± 4,39 mg. Quan sát đại thể vết thương 
điều trị bằng dầu mù u không bị viêm, sưng đỏ, vết thương lành sau 7 ngày điều trị. Chiều dài và trọng lượng lá 
lách của chuột điều trị bằng dầu mù ù không có khác biệt so với nhóm chuột bình thường không tạo vết thương 
(P=0,1124) và có sự khác biệt so các nhóm còn lại (P<0,0001). Quan sát vùng mô tại vị trí vết thương bằng 
phương pháp nhuộm HE cho thấy vết thương điều trị bằng dầu mù u có cấu trúc mô trở nên đồng nhất sau 7 
ngày và có cấu trúc tương tự mô bình thường sau 14 ngày. 
Kết luận: Dầu mù u giúp vết thương hồi phục nhanh, không gây viêm, liền sẹo, mô da phục hồi nhanh và 
tốt. 
Từ khóa: Cây mù u, tinh dầu, lành vết thương, kháng viêm, mô da. 
ABSTRACT 
INVESTIGATION OF OIL EXTRACTED FROM CALOPHYLLUM INOPHYLLUM L. ON HEALING 
PROCESS OF SURGICAL WOUNDSIN MOUSE MODEL 
Nguyen Van Linh, Vo Thanh Long, Dao Trong Thuc, Truong Cong Tri, Trinh Thi Dieu Thuong, 
Bui Chi Bao * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - Supplement of No 1 - 2016: 67 - 74 
Background: Wounds from accidents, burns, post-surgery or insect bites cause skin lesions such as ulcers, 
infectiousness, scars that affect people’s healthy and beauty. Herbal medicine which plays a antimicrobial role 
* Đại học Cần Thơ Đại học Quốc Tế TP. Hồ Chí Minh  Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Địa chỉ liên hệ : TS. Bùi Chí Bảo ĐT: 0909.708.225 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 68
promote the process of wound healing that recent researches are interested oil extracted. Cutaneous wounds are 
common diseases in clinical treatments that require abundant efforts in finding new natural products for 
preventing bacterial infections and promoting wound regeneration. Oil extracted from Calophyllum inophyllum 
L. are widely knowned as a natural product that have anti-bacterials, anti-inflammatory and anti-oxidant 
bioactivities. In this study, we investigate role of oil extracted from Calophyllum inophyllum L. in wound healing 
process on mice model. 
Objectives: Investigate anti-inflammatory bioactivities of oil extracted from Calophyllum inophyllum L in 
wound healing process on mouse model. 
Method: Male mice (Mus musculus var albino) weighing about 30±2g, 8-10 weeks oldwere divided into 5 
groups (n=3): that were treated with oil extracted from Calophyllum inophyllum L., Betadine®, rice brain oil, one 
group with no treatment and one normal group. Wound healing process was evaluated by macroscopic 
observation, histological observation and wound stress was evaluated by spleen index. 
Results: Calophyllolide concentration: 225.78±4.39 mg (n=3). Wound treated with oil extracted shown no 
sign of inflammation and bacterial infection. Evaluating the inflammation by spleen stress showed that no 
statistical significant difference between group treated with oil extracted from Calophyllum inophyllum L. in 
compared with normal group. Histological observations showed that epithelium tissue from group treated with oil 
extracted healed at day 7 and completed recovered at day 14. 
Conclusions: Oil extracted from Calophyllum inophyllum L. promoted wound healing process with anti-
inflammatory effects. 
Keywords: Calophyllum inophyllum L., oil extracted, wound healing, anti-inflammatory activities, skin. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tổn thương da cấp tính và mạn tính là một 
trong những vấn đề được quan tâm nhiều trong 
điều trị lâm sàng bởi tỉ lệ mắc phải hàng năm 
cao, nguyên nhân bệnh lý đa dạng, mức độ phức 
tạp trong điều trị(1), chi phí điều trị tốn kém và 
tiên lượng rất kém ở nhiều trường hợp bệnh lý 
mạn tính(10). Vết thương do phẫu thuật, chấn 
thương, vết loét, vết động vật cắn hay bỏng là 
những nguyên nhân thường gặp trong tổn 
thương da cấp tính trong khi đó vết loét tiểu 
đường, loét do bất động lâu ngày là những 
nguyên nhân thường gặp ở bệnh lý mạn tính. 
Quy trình điều trị thông thường sử dụng các 
chất kháng khuẩn hoặc băng gạc tại vị trí vết 
thương nhằm ngăn chặn nhiễm trùng, tổn 
thương mô lan rộng và thúc đẩy nhanh quá trình 
hồi phục vết thương. Một vài chất kháng khuẩn 
gây nên phản ứng dị ứng và kéo dài quá trình 
hồi phục vết thương(1,12). Để khắc phục những trở 
ngại trên, các thuốc chiết xuất tự nhiên đã được 
sử dụng(2,6), tuy nhiên vẫn cần nhiều nghiên cứu 
nhằm tìm ra và phát triển các hoạt chất thiên 
nhiên hiệu quả hơn trong điều trị tổn thương da. 
Cây mù u có tên khoa học là Calophyllum 
inophyllum thuộc họ Calophyllaceae, mọc hoang 
trong rừng nhiệt đới trên toàn thế giới, đặc biệt 
phân bố nhiều ở khu vực Đông Nam Á, Úc, Ấn 
Độ, Nhật Bản và Việt Nam(14). Từ xưa, dầu mù u 
chiết xuất từ hạt đã được sử dụng để làm lành 
các vết thương ngoài da, chữa các vết bỏng. 
Trong dầu mù u có chứa các thành phần hóa học 
thuộc nhóm coumarin, xanthan, flavonoid, các 
dẫn xuất chromanon, triterpene, steroid đã được 
chứng minh có nhiều tác dụng sinh học đáng kể 
như kháng virus, kháng khuẩn, kháng nấm, 
kháng viêm, chống ung thư và chống oxy hóa(5). 
Một số hợp chất đã được ly trích và có nhiều 
nghiên cứu báo cáo về hoạt tính sinh học của 
chúng như độc đối với một số tế bào, chống 
thấm nước, kháng viêm, kháng khuẩn và kháng 
virus HIV(12). Hoạt chất calophyllolide là một 
chất thuộc nhóm courmarin, có các hoạt tính 
sinh học như: kháng viêm, chống oxy hoá, ngăn 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Khoa học Cơ bản 69
ngừa ung thư và kháng khuẩn(10). Vì vậy, dịch 
chiết dầu mù u có tiềm năng ứng dụng cao 
nhằm phòng ngừa nhiễm khuẩn và kháng viêm 
trong điều trị các tổn thương da. 
Một vật liệu sinh học có hiệu quả phải đảm 
bảo được môi trường tại vị tri vết thương gần 
giống với môi trường lành vết thương tự nhiên. 
Quá trình lành vết thương là một quá trình phức 
tạp, đặc trưng bởi 3 giai đoạn nối tiếp đó là giai 
đoạn viêm, tăng sinh và tái cấu trúc(4). Trong thời 
gian lành vết thương, các hàng rào cản và các 
đặc tính cơ học của da sẽ được phục hồi nhờ vào 
hoạt động của nhiều loại tế bào, trải qua quá 
trình tăng sinh, biệt hoá, di chuyển và chu trình 
chết tế bào để tái cấu trúc da. Khi lành, mô da là 
một khối tổng hợp gồm 3 lớp: biểu bì, trung bì và 
hạ bì kết hợp chặt chẽ với nhau thành các lớp tổ 
chức bao phủ mang tính chất chun dãn (về các 
phía), có tính nhớt, tính tạo hình, có các lớp biểu 
mô, các mô liên kết, các tuyến, lông và gốc lông, 
thớ cơ, tận cùng các dây thần kinh, lưới mạch 
máu và bạch mạch. Các tế bào biểu bì luôn luôn 
thay thế mới hoàn toàn trong 4-6 tuần. Da là một 
trong các loại mô luôn sinh trưởng nhanh của cơ 
thể(7,11,13). Nếu quá trình này bị gián đoạn có thể 
gây ra vết thương lâu lành, tăng khả năng nhiễm 
trùng, giảm khả năng phục hồi hoặc tạo thành 
các vết sẹo(9). Nhiễm trùng vết thương kéo dài 
dẫn đến những biết chứng nặng như nhiễm 
khuẩn tụ cầu kháng thuốc, nhiễm trùng huyết, 
hay uốn ván; làm kéo dài thời gian điều trị, 
nhiều chi phí và có thể dẫn đến tử vong. Vì vậy, 
nỗ lực nghiên cứu tìm hiểu và phát triển các vật 
liệu sinh học từ tự nhiên là cấp thiết và cần có hệ 
thống đánh giá mô hình động vật để giúp đưa 
ứng dụng làm lành vết thương trong điều trị. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành khảo 
sát vai trò của tinh dầu mù u trong quá trình hồi 
phục vết thương trên mô hình da chuột. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Chuột nhắt trắng (Mus musculus var. Albino) 
có nguồn gốc từ Viện kiểm nghiệm thuốc 
TP.HCM, được nuôi và thử nghiệm tại Trung 
tâm Y Sinh học phân tử, ĐH Y Dược TP. HCM. 
Chuột được sử dụng trong thí nghiệm là chuột 
đực, khoẻ mạnh, từ 8-10 tuần tuổi, có trọng 
lượng trung bình khoảng 30±2 g. Dầu mù u 
nguyên chất (Khoa Dược, ĐH Y Dược TP. 
HCM), chế phẩm tinh dầu gạo-rice brain oil 
(Philippines), Zoletil 50mg/ml (Virbac), kim khâu 
da và chỉ tiêu số 4 (Trustigut), Betadine® 
(Mundipharma), hoá chất nhuộm HE (Sigma), 
máy cắt lát mô tươi (Sakura), hệ thống máy sắc 
ký HPLC (Ant Teknik). 
Phương pháp nghiên cứu 
Hình 1: Sơ đồ thiết kế thí nghiệm. 
Tinh chiết dầu mù u 
Tinh dầu mù u được ly trích và định lượng 
bằng HPLC tại khoa Dược, Đại học Y Dược Tp. 
Hồ Chí Minh. 
Điều kiện sắc ký: Hệ thống máy HPLC 
Shimadzu LC - 20A. Cột: Kyatech C8 (250 x 4,6 
mm), cỡ hạt: 5 μm. Tiền cột: Phenomenex. Bơm: 
LC-8A. Pha động: ACN – H2O (55: 45). Detector: 
SPD-20A. Bước sóng phát hiện: 233nm. Tốc độ 
dòng: 0,9 ml/phút. Thể tích tiêm mẫu: 20 μl. 
Cách pha dung dịch chuẩn và dung dịch 
thử 
Dung dịch chuẩn: Cân chính xác 1,0 mg 
calophyllolid chuẩn cho vào bình định mức 
25ml. Hòa tan trong methanol, điền dung môi 
đến vạch vừa đủ 25 ml, lắc đều, thu được dung 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 70
dịch mẹ có nồng độ khoảng 40 μg/ml. Pha loãng 
dung dịch mẹ trong methanol đến các nồng độ 
cần thiết. Lọc qua màng lọc Millipore có kích 
thước lỗ lọc 0,22 μm trước khi bơm mẫu qua hệ 
thống HPLC. 
Dung dịch thử: Cân chính xác khoảng 200 mg 
mẫu thử cho vào bình định mức 10 ml. Thêm 6 
ml hỗn hợp methanol – nước (9:1, v/v) vào bình 
định mức, lắc đều và làm ấm mẫu ở 60oC trong 
10 phút. Tiếp tục siêu âm mẫu trong 15 phút, để 
nguội. Bổ sung hỗn hợp methanol – nước (9:1, 
v/v) đến vạch vừa đủ 10 ml. Lọc mẫu qua màng 
lọc Millipore có kích thước lỗ lọc 0,22 μm. 
Tạo vết thương và điều trị 
Chuột được chia ra thành 5 nhóm, trong mỗi 
nhóm chia ra 3 lô, mỗi lô 3 con (nhóm 0 chỉ có 1 
lô). Lô thứ nhất, thu kết quả sau 1 ngày tạo vết 
thương, tương tự cho lô thứ 2 và thứ 3 lần lượt 
sau 7 và 14 ngày. 
- Nhóm I (đối chứng): Không điều trị 
- Nhóm II: Điều trị bằng thuốc sát trùng 
Betadine® 
- Nhóm III: Điều trị bằng trị bằng dầu gạo 
- Nhóm IV: Điều trị bằng dầu mù u 
- Nhóm V (bình thường): Chuột bình 
thường, không tạo vết thương 
Chuột sẽ được gây mê bằng thuốc Zoletil 
liều 0,36mg/kg thể trọng bằng cách dùng ống 
tiêm tiêm thuốc vào vùng khoang bụng. Sau khi 
gây mê, chuột được đặt vào vị trí cố định trong 
khu vực phẫu thuật. Dùng dao lam cạo sạch lông 
trên lưng. Dùng cồn y tế để sát trùng vùng da. 
Tiếp theo dùng dao phẫu thuật tạo vết thương 
dài 2 cm, sau đó dung kim khâu da và chỉ tiêu số 
4 khâu vết thương. Chuột sau khi tạo vết thương 
được nuôi trong điều kiện sạch, nước uống và 
thức ăn được cung cấp tự do. Chuột trong mỗi 
nhóm được điều trị bằng các loại thuốc tương 
ứng cho từng nhóm, mỗi ngày 2 lần cho đến khi 
thu nhận mẫu da của từng nhóm chuột. Quan 
sát vết thương và ghi nhận số liệu hàng ngày, 
mẫu da được thu thập vào ngày 2, 7 và 14 sau 
khi tạo vết thương. Giết chuột bằng cách kéo 
giãn đốt sống cổ, sau đó cắt mẫu da bao gồm 
vùng đã tạo vết thương cho vào ống chứa formol 
10% để phân tích mô học. Mô da chuột sẽ được 
cắt lát bằng máy cắt mô tươi, sau đó nhuộm HE 
và quan sát dưới kính hiển vi quang học. Sau đó, 
giải phẫu đại thể chuột để ghi nhận các số liệu 
của lá lách. 
Phân tích kết quả 
Xử lý và phân tích dữ liệu bằng phần mềm 
GraphPad Prism 6. Các số liệu được thống kê 
bằng phương pháp phân tích phương sai một 
nhân tố (One-way ANOVA) và Fisher’s LSD. 
KẾT QUẢ 
Kết quả tinh chiết dầu mù u bằng phương pháp HPLC 
Hình 2: Sắc ký đồ HPLC mẫu chuẩn calophyllolide. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Khoa học Cơ bản 71
Hình 3: Sắc ký đồ HPLC mẫu thử dầu Mù u tinh chế. 
Thẩm định phương pháp định lượng 
Quy trình có tính tương thích hệ thống đạt, 
tính đặc hiêu tốt, phương trình hồi quy tuyến 
tính giữa nồng độ calophyllolide chuẩn và diện 
tích đỉnh có dạng ŷ = 146921,67x với R2 = 0,9998 
và khoảng tuyến tính từ 0,6 – 60 μg/ml, độ chính 
xác đạt với RSD = 1,70% (n=6), độ đúng có tỷ lệ 
phục hồi nằm trong khoảng 98 – 102% và RSD% 
< 2% (n=9).Hàm lượng calophyllolide trong dầu 
mù u tinh chế: 225,78 ± 4,39 mg (n=3) 
Đánh giá đại thể hồi phục vết thương 
Trong thí nghiệm này, chúng tôi tiến hành 
tạo 2 vết thương trên cùng 1 con chuột để dễ 
dàng so sánh. 
Hình 4: Tạo vết thương trên chuột. 
Sau 1 ngày điều trị bằng dầu gạo, vết thương 
có biểu hiện viêm đỏ; vết thương điều trị bằng 
dầu mù u, không viêm, không sưng đỏ, vết 
thương khép kín miệng; điều trị bằng thuốc sát 
trùng Betadine® và đối chứng sưng và viêm, vết 
thương còn hở miệng. Sau 4 ngày: điều trị bằng 
dầu gạo vẫn còn bị viêm đỏ, diện tích viêm tăng 
hơn so với sau 1 ngày; điều trị bằng dầu mù u 
bắt đầu lành da non, miệng vết thương khép kín; 
điều trị bằng Betadine® và đối chứng vết 
thương bắt đầu ra da non. Sau 7 ngày, vết 
thương điều trị bằng dầu mù u lành hẳn, lông 
bắt đầu mọc nhiều. điều trị bằng dầu gạo vẫn 
còn bị viêm đỏ, nhóm đối chứng và Betadine® 
vết thương lành, nhưng tạo sẹo xấu, nhưng vết 
thương khép chưa kín. 
Đánh giá mức độ viêm của chuột 
Kích thước lá lách trong từng nhóm điều trị 
như trong bảng 1. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 72
Bảng 1: Chỉ số Spleen Index (Mean±SD) 
Nhóm chuột 
Trọng lượng 
cơ thể (g) 
Chiều dài lá 
lách (cm) 
Trọng lượng lá 
lách (g) 
Bình thường 30,5±1,2 1,41±0,08 0,18±0,02 
Đối chứng 31,1±1,3 2,85±0,06 0,51±0,04 
Betadine® 29,8±1,7 2,27±0,11 0,31±0,01 
Dầu Gạo 30,2±1,4 2,09±0,11 0,25±0,02 
Dầu Mù u 30,3±0,9 1,57±0,05 0,16±0,01 
Phân tích one-way ANOVA cho thấy: không 
có sự khác biệt đáng kể về mặt thống kê về trọng 
lượng cơ thể chuột trên các nhóm chuột (P = 
0,8912), nhưng có sự khác biệt đáng kể về mặt 
thống kê về chiều dài lách và trọng lượng lách 
(P<0,0001). Tiếp tục tiến hành đa so sánh Fisher’s 
LSD nhằm tìm ra sự khác biệt về mặt thống kê 
của từng nhóm chuột so với nhóm bình thường. 
Bảng 2: Kết quả đa so sánh Fisher’s LSD trên từng 
nhóm chuột 
Nhóm chuột 
Chiều dài lách 
(P-value) 
Trọng lượng 
lách (P-value) 
Bình thường và đối chứng < 0,0001 < 0,0001 
Bình thường và Betadine® < 0,0001 0,0006 
Bình thường và dầu gạo < 0,0001 0,0578 
Bình thường và dầu mù u 0,1124 0,4223 
Kết quả so sánh mức độ viêm của lá lách qua 
chỉ số Speen Index cho thấy rằng vết thương 
được điều trị bằng dầu mù u ít bị viêm hơn so 
với điều trị bằng dầu gạo, và thuốc sát trùng 
Betadine®, vết thương đối chứng bị viêm rất 
nặng (chiều dài và trọng lượng lá lách trong 
khoảng 2,85±0,06; 0,51±0,04 tương ứng), chiều 
dài và trọng lượng lá lách của nhóm chuột điều 
trị bằng dầu mù u không có khác biệt so với 
nhóm chuột bình thường. Điều này chứng tỏ 
rằng dầu mù u có hiệu quả cao trong việc kháng 
viêm.Kết quả phân tích thống kê cho thấy ở 
nhóm chuột điều trị dầu mù u không có khác 
biệt đáng kể về mặt thống kê về chiều dài lách và 
trọng lượng lách so với nhóm chuột bình thường 
không tạo vết thương (P=0,1124 và P=0,4223 
tương ứng). Trọng lượng và chiều dài lá lách của 
các nhóm chuột điều trị bằng dầu gạo, 
Betadine® và đối chứng có sự khác biệt rất lớn 
so với nhóm chuột bình thường. Từ kết quả này 
cho thấy, dầu mù u có khả năng kháng viêm rất 
tốt, các nhóm còn lại không kháng viêm. 
Hình 5: Mức độ viêm của lá lách sau khi tạo vết thương. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Khoa học Cơ bản 73
Kết luận: Chiều dài lá lách của nhóm chuột 
đối chứng sau 1, 7 và 14 ngày tạo vết thương đều 
dài hơn nhất, tiếp theo là nhóm điều trị 
Betadine®, dầu gạo và dầu mù u. Qua kết quả 
phân tích thống kê về chiều dài lá lách, nhóm 
dầu mù u không khác biệt so với nhóm bình 
thường. Điều này chứng minh được tác dụng 
kháng viêm rất tốt của dầu mù u. 
Kết quả đánh giá mô học 
Hình 6: Kết quả nhuộm mẫu da mô chuột theo dõi qua 1 đến 14 ngày. Vết thương chưa liền (hình sao) sau 7 
ngày, vết thương còn sẹo (mũi tên) sau 14 ngày. 
Qua kết quả phân tích mô học cho thấy, vết 
thương được điều trị bằng dầu mù u, cấu trúc 
mô trở nên đồng nhất sau 7 ngày và có cấu trúc 
tương tự mô bình thường sau 14 ngày. Trong khi 
đó ở các nhóm Betadine®, gạo và đối chứng, bề 
mặt biểu bì vẫn chưa hoàn toàn lành hẳn sau 7 
ngày. Sau 14 ngày cấu trúc biểu mô vẫn chưa 
hoàn toàn trở lại giống như nhóm bình thường. 
Kết quả cho thấy dầu mù u có khả năng hồi phục 
vết thương nhanh so với nhóm điều trị bằng 
Betadine®, gạo và nhóm không điều trị. 
BÀN LUẬN 
Thông qua phương pháp sắc ký HPLC, định 
lượng được calophyllolide trong tinh dầu mù u. 
Theo tài liệu nghiên cứu trước thì calophyllolide 
có khả năng kháng viêm, kháng khuẩn và một số 
hoạt tính sinh học khác(10). Kết quả trong thí 
nghiệm này cho thấy, dầu mù u có tác dụng làm 
lành vết thương nhanh, không để lại sẹo xấu, có 
tác dụng kháng viêm rất tốt khi so sánh mức độ 
sưng của lá lách với các nghiệm thức khác. Lách 
là cơ quan có chức năng đa dạng, đóng vai trò 
tích cực trong miễn dịch. Trong phản ứng viêm 
hoặc bị nhiễm trùng, lá lách sẽ phì đại cấp tính 
đây là kết quả của sự tăng cường hoạt động 
miễn dịch. Nhu cầu tiêu diệt kháng nguyên lạ 
trong máu tăng lên dẫn đến sự tăng sinh của các 
tế bào lưới nội mô trong lách, tăng kích thích sản 
xuất kháng thể thông qua tăng số lượng tế bào 
lympho. Vì vậy, khi chuột bị thương lá lách sẽ 
tăng cường độ hoạt động để tổng hợp các tế bào 
miễn dịch để tiêu diệt kháng nguyên lạ, lúc này 
lá lách sẽ bị phì to hơn bình thường mức độ phì 
to tùy thuộc vào mức độ viêm. Khi vết thương 
lành, hoạt động lá lách trở lại mức độ bình 
thường. Sau khi tạo vết thương 1 ngày, kích 
thước và trọng lượng của lá lách tăng hơn so với 
nhóm chuột bình thường, sau 7 ngày ở nhóm 
chuột đối chứng không được điều trị thuốc lá 
lách phì rất to, điều này là do cơ thể chuột bị 
viêm nên lá lách phải tăng cường hoạt động dẫn 
đến lá lách sưng lên. Ở chuột điều trị bằng dầu 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 74
mù u, lá lách không thay đổi sau 1 hoặc 7 ngày, 
cho thấy hiệu quả kháng viêm, kháng khuẩn của 
dầu mù u. Sau 14 ngày, vết thương lành, lá lách 
ở nhóm chuột tạo vết thương có kích thước 
tương đương với chuột bình thường. Đánh giá 
cấu trúc mô cho thấy sau 7 ngày vết thương 
được điều trị bằng dầu mù u cấu trúc trở nên 
đồng nhất, đến 14 ngày thì tương tự như cấu 
trúc da bình thường. So sánh với nhóm điều trị 
bằng dầu gạo, Betadine® và nhóm không điều 
trị cho thấy dầu mù u có khả năng hồi phục vết 
thương nhanh, sẹo lành đẹp. Như vậy, dầu mù u 
có tác dụng làm lành vết thương tốt. Betadine® 
có thành phần chính là iod kết hợp với polyvinyl 
pyrrolidon dễ tan trong nước và cồn, do thành 
phần chính là iod mặc dù ít độc hơn so với iod 
nguyên tố nhưng khi sử dụng Betadine® cũng 
có nhiều tác dụng phụ như gây kích ứng viêm 
da tại chỗ do iod, ngoài ra iod còn làm chậm quá 
trình tái tạo mô da. Dầu gạo, được li trích từ cám 
gạo, tuy có chứa nhiều vitamin có ít cho sức khoẻ 
và làm đẹp, nhưng hiệu quả trong việc lành vết 
thương không cao. Nghiên cứu này tập trung 
đánh giá kết quả vào ngày 1, 7 và 14 tạo vết 
thương sau khi tham khảo các công trình nghiên 
cứu của các tác giả khác cho rằng chỉ cần khảo 
sát quá trình hồi phục vết thương trên da chuột 
trong 2 tuần đầu tiên(3). Nghiên cứu về hình thái 
mô học của vết thương da chuột khi điều trị 
bằng Coronopus didymuscủa Nitzvà bằng 
Euphorbia tirucalli của Euler, cũng chỉ quan sát 
đến ngày thứ 7 sau khi tạo vết thương(3,8). Tiến 
hành đánh giá mô học nhằm tăng tính thuyết 
phục của các kết quả trong nghiên cứu này. 
Phương pháp này cũng đã được Nitz sử dụng 
trong nghiên cứu hình thái vết thương trên da 
chuột. Do đó, phương pháp thực hiện trong 
nghiên cứu này tạo ra kết quả có mức tin cậy 
cao. Tuy nhiên cần có những nghiên cứu sâu 
hơn về để xác định chính xác về mức độ kháng 
viêm ở mức độ phân tử. 
KẾT LUẬN 
Kết quả phân tích sắc ký đồ bằng HPLC đã 
định lượng được trong tinh dầu mù u sử dụng 
trong nghiên cứu này có chứa calophyllolid. Việc 
sử dụng dầu mù u trong điều trị vết thương giúp 
vết thương trên da chuột hồi phục nhanh, không 
gây viêm, liền sẹo tốt, trong đó cấu trúc mô của 
vết sẹo tương tự như mô bình thường sau 14 
ngày điều trị. Hướng tiếp theo của nghiên cứu 
này là đánh giá cơ chế lành vết thương ở da 
bằng các chỉ thị phân tử đáp ứng tái tạo da như 
TGF-alpha và cơ chế kháng viêm IL6, IL8. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Adam J, et al (2008). Current Management of Acute 
Cutaneous Wounds. The New England Journal of Medicine, 359: 
1037-46. 
2. Balunas MJ, et al (2005). Drug discovery from medicinal 
plants. Life Sciences, 78: 431–41. 
3. Euler NSF, et al (2013). Evaluation of the use of raw extract of 
Euphorbia tirucalli L. in the healing process of skin wounds in 
mice. Acta Cirurgica Brasileira, 28(10): 716-20. 
4. Kirsten AB, et al (2013). Cutaneous wound healing: recruiting 
developmental pathways for regeneration. Cell. Mol. Life 
Sciences, 70: 2059–2081. 
5. Li YZ, et al (2010). Triterpenoids from Calophyllum 
inophyllum and their growth inhibitory effects on human 
leukemia HL-60 cells. Fitoterapia, 81: 586-589. 
6. Liu WH, et al (2015). Calophyllolide Content in Calophyllum 
inophyllum at Different Stages of Maturity and Its Osteogenic 
Activity. Molecules, 20: 12314-12327. 
7. Martin P (1997). Wound healing-aiming for perfect skin 
regeneration. Science, 276(5309): 75–81. 
8. Nitz A (2006). Estudo morfometrico na cicatrizacao de feridas 
cutaneas em ratos utilizando Coronopus didynus e Calendula 
officinali. ACM Arq Catarin Med, 35(4): 74-9. 
9. Richard AFC, et al (2007). Tissue Engineering for Cutaneous 
Wounds. Journal of Investigative Dermatology, 127: 1018–
1029. 
10. Silpa S, et al (2014). A review article of pharmacological 
activities and biological importance of calophyllum 
inophyllum. International Journal of Advanced Research, 
2(12): 599-603. 
11. Singer AJ, et al (1999). Cutaneous wound healing. N Engl J 
Med, 341(10): 738–746. 
12. Tsai SC, et al (2012). Anti-inflammatory effects of 
Calophyllum inophyllum L. in RAW264.7 cells. Oncology 
Reports, 28: 1096-1102. 
13. Watt FM, et al (2011). Cell-extracellular matrix interactions in 
normal and diseased skin. Cold Spring Harb Perspect Biol, 
3(4): 1-14. 
14. WHO (2004). Review of Traditional Medicine in the South-
East Asia Region. World Health Organization, Regional Office 
for South-East Asia New Delhi. Seatrade Med, 83. 
Ngày nhận bài báo: 24/11/2015 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2015 
Ngày bài báo được đăng: 15/02/2016