Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 60
KHẢO SÁT HÌNH ẢNH HỞ ỐNG ĐỘNG MẠCH CẢNH VÀO TAI GIỮA 
Đỗ Hải Thanh Anh*, Phạm Ngọc Hoa**, Ngô Trí Hùng*** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Động mạch cảnh trong trong xương đá là một cấu trúc giải phẫu quan trọng trong vùng xương 
thái dương. Bình thường, động mạch nằm trong ống động mạch cảnh có vách xương toàn vẹn. Khi có biến thể hở 
ống động mạch cảnh, vách xương này bị khuyết, khiến cho động mạch bộc lộ trực tiếp vào hòm nhĩ, đôi khi lồi vào 
trong hòm nhĩ, có thể bị chẩn đoán nhầm với tổn thương khác như u cuộn mạch, hoặc có thể bị tổn thương trong 
khi phẫu thuật tai, hoặc cũng có thể gây ra một số triệu chứng khác như ù tai kéo dài. 
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ, đặc điểm dịch tễ của biến thể hở ống động mạch cảnh. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế mô tả cắt ngang, phương pháp lấy mẫu hồi cứu. Thu 
thập hình ảnh chụp cắt lớp vi tính của 862 xương thái dương (431 bệnh nhân, 245 nữ, 186 nam), máy chụp cắt 
lớp vi tính 64 lát cắt và 128 lát cắt, chụp xoắn ốc, độ dày lát cắt tái tạo 0,6-0,625mm, dựng hình đa mặt phẳng. 
Kết quả: Hở ống động mạch cảnh vào tai giữa: tỉ lệ chung 27,8%, hở ống động mạch cảnh hai bên 21,3%, 
hở bên phải 26,2%, hở bên trái 29,5%. Hở bên phải: nữ 25,3%, nam 27,4% (p=0,6589), hở bên trái: nữ 31,8%, 
nam 26,3% (p=0,2411). Tuổi của nhóm có hở ống động mạch cảnh trung bình 52 đến 54 tuổi, cao hơn nhóm 
không hở, có ý nghĩa thống kê. 
Kết luận: Hở ống động mạch cảnh là một biến thể quan trọng của động mạch cảnh trong đoạn trong xương 
đá, với tỉ lệ ghi nhận trong y văn dao động khá rộng, tuy nhiên trong nghiên cứu này ghi nhận tỉ lệ khá cao 
27,8%. Không có sự khác biệt về bên và về giới. Tuổi của nhóm có hở ống động mạch cảnh trung bình 52 đến 54 
tuổi, cao hơn nhóm không hở, có ý nghĩa thống kê. 
Từ khóa: động mạch cảnh trong đoạn trong xương đá, ống động mạch cảnh, hở ống động mạch cảnh, chụp 
cắt lớp vi tính 
ABSTRACT 
IMAGING OF CAROTID CANAL DEHISCENCE IN THE MIDDLE EAR 
Do Hai Thanh Anh, Pham Ngoc Hoa, Ngo Tri Hung 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 23 - No 1- 2019: 60-64 
Background: Petrous internal carotid artery is an important anatomical structure in the temporal bone. 
Normally, the artery runs through the temporal bone in an intact carotid canal. When there is the variant of 
carotid canal dehiscence, the bony wall of the carotid canal is defective, causing the artery to expose directly into 
the tympanic cavity, sometimes protrude into it. This may lead to misdiagnose with other lesions such as glomus 
tumors , or the artery could be damaged during ear surgery, or may also cause some other symptoms such as 
prolonged tinnitus. 
Purpose: Define the rate and some epidemiological characteristics of carotid canal dehiscence. 
Materials and methods: Cross-sectional design, retrospective sampling. Collecting computed tomography 
images of 862 temporal bones (431 patients, 245 women, 186 men), using 64-slice and 128-slice CT scanners, 
spiral acquisition, reconstructive thickness 0.6-0.625mm, multiplanar reconstruction. 
Results: Carotid canal dehiscence in the middle ear: general rate 27.8%, bilateral 21.3%, dehiscence on the 
*Bộ môn Chẩn Đoán Hình Ảnh, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh, 
** Hội Chẩn Đoán Hình Ảnh TP. Hồ Chí Minh 
*** Bộ môn Giải phẫu học, Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: ThS. Đỗ Hải Thanh Anh ĐT: 0935887889 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 61
right 26.2%, on the left 29.5%. Right-side dehiscence group: 25.3% women, 27.4% men (p = 0.6589). Left-side 
dehiscence group: 31.8% women, 26.3% men (p = 0.2411). The average age of the dehiscence is 52 to 54 years old, 
higher than that of the other group, statistically significant. 
Conclusion: Carotid canal dehiscence is an important variant of the petrous internal carotid artery, with a 
fairly wide range of rates in the literature. However, this study recorded a relatively high rate at 27.8% . There is 
no difference in terms of affected side and gender. The average age of the dehiscence is 52 to 54 years old, higher 
than that of the other group, statistically significant. 
Keywords: petrous internal carotid artery, carotid canal, carotid canal dehiscence, computed tomography 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Động mạch cảnh trong là một cấu trúc giải 
phẫu quan trọng trong vùng xương thái 
dương. Trong xương đá, động mạch cảnh 
trong chạy trong một ống xương gọi là ống 
động mạch cảnh – đây là một thành phần của 
thành trước hòm nhĩ. Bình thường, ống động 
mạch cảnh có vách xương toàn vẹn, ngăn cách 
đoạn gối động mạch cảnh trong trong xương 
đá với hòm nhĩ(7). Khi có biến thể hở ống động 
mạch cảnh, vách xương này bị khuyết ở đoạn 
tiếp giáp với hòm nhĩ, khiến cho gối động 
mạch cảnh trong đoạn trong xương đá bộc lộ 
trực tiếp vào hòm nhĩ, đôi khi lồi vào trong 
hòm nhĩ, có thể bị chẩn đoán nhầm với tổn 
thương khác như u cuộn mạch, hoặc có thể bị 
tổn thương trong khi phẫu thuật tai, hoặc cũng 
có thể gây ra một số triệu chứng khác như ù tai 
kéo dài(2,8,10). Biến thể này tuy ít gặp nhưng lại 
có ý nghĩa quan trọng. Trên thế giới cũng đã 
có các nghiên cứu trên tử thi và hình ảnh học 
về vấn đề này, tuy nhiên chúng tôi chưa tìm 
thấy nghiên cứu này ở trong nước. Do đó, 
chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu 
“Khảo sát hình ảnh hở ống động mạch cảnh vào tai 
giữa” với mục tiêu: 
Xác định tỉ lệ có biến thể hở ống động mạch 
cảnh vào tai giữa trên phim chụp cắt lớp vi tính 
xương thái dương và một số đặc điểm liên quan 
của biến thể này. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Mô tả cắt ngang. 
Đối tượng nghiên cứu 
Những bệnh nhân được chụp cắt lớp vi tính 
vùng đầu cổ ở Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ 
Chí Minh cơ sở I và Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 
10/2013 đến tháng 4/2017, có hình ảnh được lưu 
trữ hoặc có thể tái tạo với lát cắt mỏng hơn hoặc 
bằng 0,625 mm và dựng hình đa mặt phẳng. 
Loại trừ những bệnh nhân có tổn thương hoặc 
đã từng can thiệp ở vùng xương thái dương, tai 
giữa hoặc hố sau. 
Phương tiện nghiên cứu 
Khảo sát bằng máy chụp cắt lớp vi tính 64 lát 
cắt và 128 lát cắt, trên các lát cắt mỏng hơn hoặc 
bằng 0,625 mm, dựng hình đa mặt phẳng, mặt 
phẳng ngang trục song song với đường cắt qua 
hốc mắt-lỗ tai, khảo sát chính trên cửa sổ xương. 
Thu thập dữ liệu hình ảnh chụp cắt lớp vi 
tính từ máy chụp, trạm làm việc, hệ thống 
PACS, xử lí dựng hình và đo đạc trên các trạm 
làm việc với phần mềm chuyên dụng. 
Số liệu được thu thập bằng bảng thu thập số 
liệu, nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 
20. Xác định mối liên quan bằng phép kiểm Chi 
bình phương, phép kiểm chính xác Fisher. Mối 
liên quan có ý nghĩa thống kê nếu p < 0,05. 
KẾT QUẢ 
Trong khoảng thời gian tiến hành nghiên 
cứu thu được 862 mẫu chụp cắt lớp vi tính 
xương thái dương trên 431 bệnh nhân, gồm 245 
nữ (56,8%) và 186 nam (43,2%), tuổi từ 14 đến 94 
tuổi, tuổi trung bình 46,13 ± 16,7. 
Tỉ lệ hở ống động mạch cảnh 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
giữa hở bên phải và hở bên trái. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 62
Bảng 1. Tỉ lệ hở ống động mạch cảnh về phía tai giữa 
mỗi bên và hai bên 
 Chung (N=862) 
Bên phải 
(N=431) 
Bên trái 
(N=431) 
Hở ống ĐMC về phía tai giữa 
Có 240 (27,8%) 113 (26,2%) 127 (29,5%) 
Không 622 (72,2%) 318 (73,8%) 304 (70,5%) 
Hở ống ĐMCT về phía tai giữa 2 bên (N=431) 
Có 92 (21,3%) 
Không 339 (78,7%) 
Bảng 2. Phân bố bên phải và trái của nhóm hở ống 
động mạch cảnh về phía tai giữa một bên 
Bên phải 
(N=339) 
Bên trái 
(N=339) 
Giá trị 
p 
Hở ống ĐMC về phía 
tai giữa 
 0,0689 
Có 21 (6,2%) 35 (10,3%) 
Không 318 (93,8%) 304 (89,7%) 
Hở ống động mạch cảnh và giới 
Dân số mẫu gồm 235 nữ và 186 nam. 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
về giới của đặc tính hở ống động mạch cảnh ở 
mỗi bên (Bảng 3). 
Có 92 trường hợp hở ống động mạch cảnh 
về phía tai giữa hai bên, trong đó 54 trường hợp 
là nữ, chiếm 22% dân số nữ trong mẫu nghiên 
cứu. Ở nam là 38 trường hợp, chiếm 20,4% dân 
số nam trong mẫu nghiên cứu. Không có sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê về giới trong nhóm 
này (giá trị p=0,7228). 
Hở ống động mạch cảnh và tuổi 
Tuổi của nhóm có hở ống động mạch cảnh 
cao hơn nhóm không hở, có ý nghĩa thống kê 
(Bảng 4). 
Độ dài đoạn hở ống động mạch cảnh vào tai 
giữa (Bảng 5). 
Bảng 3. Phân bố theo giới của hở ống động mạch cảnh ở mỗi bên 
 n Nữ (N=245) n Nam (N=186) Giá trị p 
Hở ống ĐMC về phía tai giữa bên phải 245 186 0,6589 
Có 62 (25,3%) 51 (27,4%) 
Không 183 (74,7%) 135 (72,6%) 
Hở ống ĐMC về phía tai giữa bên trái 245 186 0,2411 
Có 78 (31,8%) 49 (26,3%) 
Không 167 (68,2%) 137 (73,7%) 
Bảng 4. Tuổi trung bình của các nhóm hở ống động 
mạch cảnh mỗi bên và hở ống động mạch cảnh hai bên 
 Tuổi (năm) TB (ĐLC) Giá trị p 
Hở 2 bên <0,0001 
Có (N=92) 53,5 (16,5) 
Không (N=339) 44,1 (16,2) 
Hở bên phải <0,0001 
Có (N=113) 54,2 (16,5) 
Không (N=318) 43,3 (15,8) 
Hở bên trái <0,0001 
Có (N=127) 52,0 (16,9) 
Không (N=339) 43,7 (16,0) 
Bảng 5. Độ dài đoạn hở ống động mạch cảnh vào 
tai giữa 
Chung 
(N=240) 
Bên phải 
(N=113) 
Bên trái 
(N=127) 
Độ dài đoạn hở ĐMCT về phía tai giữa (mm) 
Trung bình (độ lệch 
chuẩn) 
4,6 (1,9) 4,7 (2,0) 4,6 (1,9) 
BÀN LUẬN 
Tỉ lệ hở ống động mạch cảnh 
Tỉ lệ hở ống động mạch cảnh phát hiện được 
trong nghiên cứu là 240 trường hợp trên 862 
mẫu chụp cắt lớp vi tính xương thái dương của 
431 bệnh nhân, chiếm tỉ lệ 27,8%. Tỉ lệ có hở ở cả 
hai bên là 92/431 bệnh nhân (21,3%). 
Hở ống động mạch cảnh vào tai giữa là tình 
trạng khuyết vách xương thành ống động mạch 
cảnh phần tiếp giáp với hòm nhĩ, khiến cho 
động mạch cảnh trong đoạn trong xương đá, 
thường là phần gối động mạch giữa đoạn đứng 
và đoạn ngang, bộc lộ trực tiếp vào trong hòm 
nhĩ, đôi khi lồi hẳn vào trong hòm nhĩ. Điều này 
không chỉ gây ra vấn đề về mặt chẩn đoán bệnh, 
mà quan trọng không kém là khiến cho động 
mạch cảnh trong đoạn này không được vách 
xương bảo vệ, trở nên dễ bị tổn thương khi bệnh 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 1 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 63
nhân được phẫu thuật tai(3). Biến thể ít gặp nên 
chẩn đoán này không được quen thuộc trên lâm 
sàng và có thể bị bỏ qua hoặc nhầm lẫn với một 
tổn thương u giàu mạch máu(8). 
Đã có các bài nghiên cứu về hở ống động 
mạch cảnh thực hiện trên cả trên mẫu tử thi và 
mẫu chụp cắt lớp vi tính xương thái dương. Tuy 
nhiên, tỉ lệ xuất hiện biến thể này dao động khá 
rộng giữa các tác giả nghiên cứu, từ hiếm gặp 
đến khá phổ biến. 
Với nhóm tác giả nghiên cứu trên hình chụp 
cắt lớp vi tính: nghiên cứu của chúng tôi cho tỉ lệ 
cao hơn rất nhiều so với các tác giả có tỉ lệ này 
rất thấp như: Atilla 1,4%(1), Koesling 2%(4), Wang 
6,9%(11). Tuy nhiên cũng có nhóm tác giả cho tỉ lệ 
này cao hơn nghiên cứu của chúng tôi như: 
Mehmet 30,9%(9) và Dew 33%(2). Về sự khác biệt 
này, có thể do các vấn đề như kĩ thuật chụp cắt 
lớp vi tính – nghiên cứu chúng tôi sử dụng máy 
64 và 128 lát cắt với các thế hệ máy mới, độ dày 
lát cắt 0,6-0,625 mm, các nghiên cứu trước đó có 
thể do thế hệ máy cũ hơn và lát cắt dày hơn làm 
hạn chế phần nào khả năng phát hiện biến thể; 
ngoài ra số lượng mẫu nghiên cứu cũng dao 
động lớn giữa các nhóm nghiên cứu, cũng như 
đặc điểm của dân số đưa vào mẫu khác nhau, 
cách loại trừ bệnh nhân đưa vào mẫu khác nhau 
cũng có thể ảnh hưởng đến tỉ lệ phát hiện biến 
thể này. 
Với nhóm tác giả nghiên cứu trên xác, tỉ lệ 
này cũng dao động rộng: một số tác giả cho tỉ lệ 
thấp như Hasebe 4,9%(3), Moreano 7,7%(5); trong 
khi một số tác giả lại cho tỉ lệ cao hơn hẳn như 
Penido 35,2%(6), và Leonetti lên đến 40%. 
Như vậy, bên cạnh những nghiên cứu cho tỉ 
lệ biến thể này rất thấp cũng đã có những nghiên 
cứu cho tỉ lệ cao lên đến 30-40%. Điều này nhắc 
nhở các bác sĩ hình ảnh học cần lưu ý hơn khi 
tường trình kết quả các phim chụp xương thái 
dương, cũng như các nhà lâm sàng cần phối hợp 
chụp cắt lớp vi tính trước mổ để đánh giá toàn 
diện vùng xương thái dương trước phẫu thuật, 
tránh gây tổn thương động mạch có thể dẫn đến 
chảy máu trong mổ nghiêm trọng do các biến 
thể mạch máu vùng này. 
Nguồn gốc của hở ống động mạch chưa 
được khẳng định rõ. Có thể có một số giải thích 
cho tình trạng này như: cốt hóa không đầy đủ, 
bất thường bẩm sinh, hay do quá trình hấp thụ 
xương theo tuổi(6). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi không có sự 
khác biệt về tỉ lệ giữa hở ống động mạch cảnh 
bên phải và bên trái. Kết quả này tương đồng 
với tác giả Sivrice ME (9). 
Độ dài đoạn hở ống động mạch trong nghiên 
cứu chúng tôi trung bình là 4,6 ± 1,9mm, với 
khoảng thay đổi từ 1mm đến 12,9mm. Tác giả 
Hasebe(3) nghiên cứu trên 142 mẫu tử thi ghi 
nhận chiều dài đoạn hở từ 0,7mm đến 4,4mm. 
Đặc điểm về tuổi và giới của hở ống động mạch cảnh 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có 
sự khác biệt giữa nam và nữ về biến thể này, 
tương đồng với các tác giả Penido(6) và Sivrice 
ME(9). Tuổi của nhóm có hở ống động mạch cảnh 
trung bình 52 đến 54 tuổi, cao hơn nhóm không 
hở, có ý nghĩa thống kê; trong khi tác giả Sivrice 
ME(9) lại thấy không khác biệt về tuổi, còn tác giả 
Moreano lại thấy tỉ lệ hở ống động mạch cảnh 
giảm theo tuổi(5). Có thể do sự khác biệt về loại 
mẫu nghiên cứu (chúng tôi và Mehmet nghiên 
cứu trên chụp cắt lớp vi tính, Moreano nghiên 
cứu trên xác), đặc điểm về dân số lấy mẫu khác 
nhau, số lượng mẫu khác nhau, phương tiện 
thực hiện nghiên cứu khác nhau, có thể dẫn đến 
sự khác biệt kết quả này. 
KẾT LUẬN 
Hở ống động mạch cảnh là một biến thể 
quan trọng của động mạch cảnh trong đoạn 
trong xương đá, với tỉ lệ ghi nhận trong y văn 
dao động khá rộng, tuy nhiên trong nghiên cứu 
này ghi nhận tỉ lệ khá cao 27,8%. Không có sự 
khác biệt về bên và về giới. Tuổi của nhóm có hở 
ống động mạch cảnh trung bình 52 đến 54 tuổi, 
cao hơn nhóm không hở, có ý nghĩa thống kê. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 1 * 2019
Chuyên Đề Ngoại Khoa 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Atilla S, Akpek S, Uslu S et al (1995). Computed tomographic 
evaluation of surgically significant vascular variations related 
with the temporal bone. European Journal of Radiology, 20(1):52-56. 
2. Dew LA, Shelton C, Harnsberger HR et al (1997). Surgical 
Exposure of the Petrous Internal Carotid Artery: Practical 
Application for Skull Base Surgery. The Laryngoscope, 107(7):967-976. 
3. Hasebe S, Sando I, Orita Y (2003). Proximity of Carotid Canal 
Wall to Tympanic Membrane: A Human Temporal Bone Study. 
Laryngoscope, 113: 802-7. 
4. Koesling S, Kunkel P, Schul T (2005). Vascular anomalies, 
sutures and small canals of the temporal bone on axial CT. 
European Journal of Radiology, 54(3): 335-343. 
5. Moreano EH, Paparella MM, Zelterman D et al (1994). 
Prevalence of carotid canal dehiscence in the human middle ear: 
A report of 1000 temporal bones. The Laryngoscope, 104(5):612-618. 
6. Penido NO, Borin A, Fukuda Y (2005). Microscopic anatomy of 
the carotid canal and its relations with cochlea and middle ear. 
Brazilian Journal of Otorhinolaryngology, 71(4): 410-414. 
7. Savic D, Djeric D (1985). Anatomical variations and relations in 
the medial wall of the bony portion of the eustachian tube. Acta 
Otolaryngol, 99(5-6): 551-6. 
8. Schmalfuss IM, Camp M (2008). Skull base: pseudolesion or true 
lesion? Eur Radiol, 18(6): 1232-43. 
9. Sivrice ME, Yasan H, Coban I (2017). Prevalence of carotid canal 
dehiscence facing with middle ear and its relationship with 
tinnitus. Journal of Clinical and Analytical Medicine, 8(3): 195-197. 
10. Van Damme JP, Heylen G, Gilain C et al (2017). Pulsatile 
tinnitus associated with dehiscent internal carotid artery: An 
irremediable condition? Auris Nasus Larynx, 44(5): 612-615. 
11. Wang CH, Shi ZP, Liu DW et al (2011). High Computed 
Tomographic Correlations between Carotid Canal Dehiscence 
and High Jugular Bulb in the Middle Ear. Audiology and 
Neurotology, 16(2): 106-112. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019