Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 86
KHẢO SÁT DỊCH TRÍCH TỪ HOA DỪA CẠN (CATHARANTHUS ROSEUS) 
ỨC CHẾ VIRUS DENGUE TRONG KỲ NGUYÊN PHÂN TẾ BÀO GAN 
Nguyễn Văn Linh*, Phạm Thị Bảo Trân*, Lê Thị Chi**, Bùi Chí Bảo***, Châu Gia Các**** 
TÓM TẮT 
Giới thiệu: Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là bệnh truyền nhiễm cấp tính gây nên bởi virus Dengue, lưu 
hành chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ở bệnh nhân SXHD chức năng gan bị rối loạn, tế bào gan người 
là tế bào đích của virus khi xâm nhiễm và quá trình nhân bản của virus gây ra tiến trình hoại sinh trong tế bào 
này. Do chưa có vaccine phòng ngừa cũng như thuốc điều trị đặc hiệu nên tỉ lệ người mắc bệnh và tử vong không 
ngừng gia tăng. Điều này trở thành mối quan ngại lớn đối với sức khỏe cộng đồng trên bình diện quốc tế. Vì thế, 
việc tìm ra những dược liệu có khả năng ức chế quá trình nhân bản của virus đang được quan tâm trong thời 
gian gần đây. Cây dừa cạn (Catharanthus roseus) chứa những hợp chất có hoạt tính sinh học như alkaloid có khả 
năng ức chế quá trình phân bào. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành khảo sát hiệu quả của dịch trích từ 
hoa dừa cạn trong việc ức chế sự nhân bản virus Dengue trong kỳ nguyên phân tế bào gan. 
Mục tiêu: Khảo sát hiệu quả ức chế sự nhân bản của virus Dengue trong tế bào gan bằng thuốc trích từ hoa 
dừa cạn. 
Phương pháp: Thu dịch trích từ hoa dừa cạn trắng và kiểm tra độ tinh sạch bằng phương pháp HPLC. Xác 
định khả năng sống của tế bào khi nhiễm virus Dengue qua phương pháp xác định chỉ số MOI. Khảo sát nồng độ 
dịch trích từ hoa dừa cạn lần lượt là 100 ng/ml, 200 ng/ml, 300 ng/ml để xác định nồng độ ức chế nhân bản của 
virus nhưng tế bào gan vẫn sống. Đánh giá tác động của thuốc lên tế bào đã nhiễm virus Dengue bằng phương 
pháp nhuộm miễn dịch huỳnh quang và biểu hiện RNA của virus thông qua phương pháp RT-PCR. 
Kết quả: Dịch trích từ mẫu hoa khô cho chất lượng tốt hơn mẫu tươi. Tại chỉ số MOI 50 số tế bào bị nhiễm 
virus còn sống chiếm tỉ lệ khoảng 80% cao hơn MOI 10 và MOI 100. Tế bào gan có tỷ lệ sống cao và giảm khả 
năng nhân bản của virus Dengue khi xử lý thuốc ở nồng độ 100 ng/ml. Kết quả kiểm tra RT-PCR cũng cho thấy 
thuốc có hiệu quả ức chế quá trình nhân bản của virus Dengue. 
Kết luận: Dịch trích từ hoa dừa cạn có hiệu quả làm giảm sự nhân bản của virus Dengue trong kỳ nguyên 
phân tế bào gan. 
Từ khoá: Hoa dừa cạn, sốt xuất huyết, DEN-2, tế bào Chang Liver. 
ABSTRACT 
SURVEY DRUG EXTRACTED FROM FLOWERING PERIWINKLE (CATHARANTHUS ROSEUS) 
INHIBITING VIRUS DENGUE ON DURING MITOSIS LIVER CELL. 
Nguyen Van Linh, Pham Thi Bao Tran, Le Thi Chi, Bui Chi Bao, Chau Gia Cac 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 20 - Supplement of No 1 - 2016: 86 - 93 
Background: Dengue hemorrhagic fever (DHF) is an acute infectious disease caused by Dengue virus in 
tropical and subtropical regions. Dengue virus infected human liver cells and replicated, leading to dysfunctions 
and damages to liver cells. Currently, there are no preventive vaccine or specific drugs. Disease prevalent and 
mortality are inscreased continuously. Thus, DHF is a major concern in global health care. New drugs that 
* Đại học Cần Thơ **Đại học Cửu Long ***Đại học Y Dược Tp.Hồ Chí Minh 
****Đại học Y Sungkyunwkan, Hàn Quốc 
Tác giả liên lạc : TS. Bùi Chí Bảo ĐT: 0909.708.225 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Khoa học Cơ bản 87
inhibit viral RNA replication are required. Catharanthus roseus contains biological compounds such as alkaloid 
which can inhibit mitosis. In this study, we investigate the inhibition effect of drug extracted from Catharanthus 
roseus in viral RNA replication on mitosis of liver cells. 
Objectives: Investigate the inhibition effect of drug extracted from Catharanthus roseus in viral RNA 
replication on mitosis of liver cells. 
Methods: Drug extracted from Catharanthus roseus was collected and checking purity by HPLC technique. 
Cell survival ability that infected by Dengue virus was measured by MOI index. Drug extracted with 
concentration of 100 ng/ml, 200 ng/ml, 300 ng/ml was used to test inhibition effects. Drug effects was evaluated 
by immunocytochemistry and RT-PCR for RNA expression. 
Results: Drug extracted from dried materials are better than fresh materials. At MOI 50, cell survival was 
80% which is higher than at MOI 10 and MOI 100. Survival rate is high and viral replication is decreased when 
treated with drug at 100 ng/ml. RT-PCR results showed that drug can inhibit viral RNA replication. 
Conclusions: Drug extracted from Catharanthus roseus can inhibit viral RNA replication in liver cell 
mitosis. 
Keywords: Catharanthus roseus, Dengue Hemorrhagic Fever, DEN-2, Chang Liver cells. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là một 
bệnh nhiễm trùng cấp tính, nguyên nhân gây 
bệnh do virus Dengue có 4 tuýp huyết thanh 
khác nhau là DEN-1, DEN-2, DEN-3 và DEN-
4(1,11). Bệnh truyền từ người sang người qua 
trung gian truyền bệnh là muỗi Aedes aegypti. 
Do bệnh có tỷ lệ mắc và tử vong cao nên 
SXHD được xem là vấn đề y tế quan trọng của 
các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt 
Nam. Hàng năm, theo ước tính của Tổ chức Y 
tế Thế giới có khoảng 20 triệu trường hợp 
nhiễm virus Dengue và khoảng 24.000 ca tử 
vong(11). Tại Việt Nam, SXHD được phát hiện 
từ năm 1959, bệnh lưu hành quanh năm 
nhưng thường tăng cao từ tháng 6 đến tháng 
11. Hơn 85% các ca SXHD và 90% các ca tử 
vong xảy ra ở các tỉnh phía Nam của Việt 
Nam. Khoảng 90% các ca tử vong do SXHD là 
dưới 15 tuổi(11). Tỷ lệ mắc bệnh giữa các năm 
và giữa các miền dao động rất khác nhau. 
Hiện chưa có vaccine dự phòng hiệu quả đối 
với bệnh SXHD cũng như chưa có thuốc điều 
trị đặc hiệu. Qua nghiên cứu, giải phẫu bệnh 
học của gan và các tương quan sinh học trong 
các trường hợp bệnh SXHD đã phát hiện 
kháng nguyên của virus Dengue được tìm 
thấy ở đại thực bào, phổi, lách, tuyến ức, tế 
bào Kuffer ở gan, tế bào monocyte ở máu 
ngoại biên(11). Do đó, tế bào gan và tế bào 
Kupffer có thể là các tế bào đích giúp virus 
Dengue nhân lên, dựa trên cơ sở virus Dengue 
nhân bản đặc biệt trong quá trình nguyên 
phân của tế bào gan(9). Suy gan tối cấp là một 
biến chứng nghiêm trọng và có khả năng gây 
tử vong cao(4,5,7,9). Ngoài ra, bằng phương pháp 
hóa dịch mô, kháng nguyên virus Dengue đã 
được phát hiện trong tế bào gan từ những 
vùng ngoại tử cho thấy tế bào gan là vị trí 
chính sao chép virus sốt xuất huyết trong gan 
và virus gây ra chết theo chương trình của tế 
bào gan(10). DEN-2 có thể nhiễm đồng đều đến 
năm dòng tế bào gan, nhưng tỷ lệ nhân bản 
của virus cao trong các dòng tế bào Hul7, PLC, 
M3B và Chang cao hơn trong dòng tế bào 
HA22T(6). Có thể đây yếu tố phân chia tế bào 
đóng vai trò quan trọng trong việc nhân lên 
của virus trong tế bào gan. Vì thế, việc tìm ra 
những hoạt chất có khả năng ức chế quá trình 
nhân bản của virus cần được quan tâm. 
Cây dừa cạn (Catharanthus roseus) cũng có các 
tên gọi khác như bông dừa, hoa hải đằng, trường 
xuân. Cây dừa cạn có nguồn gốc từ châu Phi. 
Hiện nay, người ta đã xác định được các hoạt 
chất của cây dừa cạn là những alkaloid có nhân 
indol trong tất cả các bộ phận của cây, nhiều 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 88
nhất trong rễ và lá. Những alkaloid trong dừa 
cạn được chia làm 2 nhóm: nhóm alkaloid 
monomer có nhân indol hay indolinic như: 
ajmalicin, serpentin, alstonin, akuammin, 
lochnerin, catharanthin, reserpin và vindolin. 
Nhóm alkaloid dimer, không đối xứng gần như 
đặc thù của loài dừa cạn như: vinblastine, 
vincristine, leurosin, leurosidin, rovidin(8). Dừa 
cạn ở nước ta có tỷ lệ alkaloid toàn phần là 0,1-
0,2%. Các chất chủ yếu là: vinblastine, 
vincristine, prinin, vindolin, ajmalicin, 
catharanthin, tetrahydroalstonin, vincosid(3). Các 
dẫn xuất của vinblastine có khả năng ức chế 
phân bào. 
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm tìm hiểu về 
dược tính và ứng dụng hiện nay nhằm cung cấp 
các thông tin cần thiết cho việc tìm ra các loại 
thuốc ức chế ngăn chặn bệnh SXHD. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Hoa dừa cạn trắng được thu hái ở tỉnh Đồng Tháp. 
Hình 1: Hoa dừa cạn tươi (A), phơi khô (B) và nghiền thành bột (C). 
Phương pháp 
Thu nhận mẫu thuốc 
Thu hái khoảng 200 g bông dừa cạn tươi, 
rửa sạch, phơi khô. Sau đó cân lại được 22 g 
hoa khô. Nghiền thành bột mịn bằng máy xay 
xát được khoảng 16,6 g bột. Hoà tan với 
DMSO, gia nhiệt ở nhiệt độ khoảng 60 - 700C, 
khoảng 30 phút, lọc qua cột lọc 0,2 mm. Chạy 
sắc kí HPLC để kiểm tra độ tinh sạch. Thu 
nhận được dịch trích. 
Nuôi cấy tế bào Chang Liver 
Giữ ống tế bào trong bể ổn nhiệt 37oC và lắc 
thật nhanh, tế bào sẽ tan ra trong vòng 1 phút. 
Sau đó đặt cốc thủy tinh chứa cồn 70% và 
chuyển ngay vào tủ cấy để thao tác. Mở ống 
đựng nhưng không cho cồn rơi vào trong ống. 
Chuyển toàn bộ những gì trong ống vào đĩa nuôi 
cấy và thêm môi trường Mccoy’s 5A có bổ sung 
trypsin 10% FBS, 1% PS. Ủ trong tủ trữ ấm ở 
nhiệt độ 37oC, 5% CO2. Nuôi trong vòng 2-3 
ngày. Sau khi mật độ tế bào chiếm 70% - 80% 
diện tích đĩa thì tiến hành cấy chuyền. Kết quả 
được đánh giá bằng cách quan sát khả năng bám 
dính, sự phát triển của tế bào sau 24 giờ nuôi và 
kiểm tra sự tạp nhiễm dưới kính hiển vi soi 
ngược (Olympus). 
Nhiễm DEN-2 vào tế bào Chang Liver 
Pha loãng dung dịch gốc chứa virus trong 
SFM trong ống tuýp 1,5 ml. Bắt đầu bằng cách 
thêm 500 μl SFM vào mỗi ống. Trộn các ống tại 
mỗi bước pha loãng. Rửa sạch các tế bào trong 
các đĩa lây nhiễm, hai lần với 2 ml PBS. Ủ các đĩa 
ở 370C cho đến khi sẵn sàng cho thu kết quả. 
Xác định chỉ số MOI (Multiplicity of 
Infection) 
Nhiễm virus sang tế bào Chang Liver 
A B C 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Khoa học Cơ bản 89
trong môi trường Mccoy’s 5A bổ sung 10% 
FBS, 1% PS với nồng độ virus (mg/ml) giảm 
dần: 1/100; 1/500; 1/1000. Ủ trong 24 giờ ở 
37oC. Sau đó quan sát dưới kính hiển vi huỳnh 
quang. So sánh tỷ lệ tế bào sống/tế bào chết và 
tỷ lệ tế bào bị nhiễm virus/ tế bào chưa bị 
nhiễm ở các nồng độ khác nhau. Kết quả được 
đánh giá thông qua chỉ số MOI. 
Đồng nhất chu kỳ tế bào Chang Liver 
Đồng nhất tế bào về pha G1: chuyển tế bào vào 
bình Roux chứa môi trường 10% huyết thanh. 
Khi đạt độ phủ khoảng 70%, thay môi trường 
serum starvation (0.1% FBS). Ủ tế bào ở 370C, 5% 
CO2 trong 24 giờ. Sau đó thêm vào Thymidine. 
Đồng nhất tế bào về pha S: Xử lý tương tự như pha 
G1 nhưng thêm vào 5-fluorodeoxyuridine. Đồng 
nhất tế bào về pha G2/M: chuyển tế bào vào bình 
Roux chứa môi trường 10% huyết thanh. Cho 
thêm 200 ng/ml Colchicines, ủ tế bào ở 370C, 5% 
CO2 trong khoảng thời gian: 6 giờ để đưa tế bào 
về pha G2, 12-24 giờ để đưa tế bào về pha M. 
Nhuộm miễn dịch huỳnh quang 
Rửa tế bào với nước muối sinh lý và ổn 
định bằng PFA (4%) trong 5 phút ở nhiệt độ 
phòng, sau đó phá màng tế bào bằng chất tẩy 
nhẹ triton-X100 (0,03%) để giúp kháng thể đi 
vào và bắt được với protein, tiếp theo ủ với 
kháng thể trong vòng 1-2 giờ, sau đó rửa lại 
với PBS 3 lần, tiếp tục ủ với kháng thể thứ 2 (ủ 
trong tối), kháng thể thứ 2 này có thể bắt được 
huỳnh quang với màu tùy theo bước sóng, 
tiếp tục rửa lại với PBS 3 lần, mẫu thu được cố 
định trên slide và dùng lamen đậy lại. Quan 
sát dưới kính hiển vi huỳnh quang (ZEISS). 
Ly trích RNA virus và RT-PCR 
RNA virus được ly trích từ dịch nuôi cấy tế 
bào theo phương pháp TRIzol. Tổng hợp cDNA 
rồi sau đó tiến hành RT-PCR theo bộ Kit 
TaKaRa. Đánh giá kết quả dựa vào band hình 
điện di trên gel agrose 2%. 
Bảng 1: Trình tự các cặp mồi cho phản ứng RT–PCR. 
Marker Trình tự mồi Kích thước 
DEN-2 
F: GGCCGCAACCATGGCAAACG 
R: GGCCGCAACCATGGCAAACG 
211bp 
GAPDH 
F: GCCTTCCGTGTCCCCACTGC 
R: CAATGCCAGCCCCAGCGTCA 
411bp 
KẾT QUẢ 
Kết quả phân tích HPLC mẫu hoa dừa cạn 
Hình 2: Kết quả phân tích HPLC mẫu hoa dừa cạn. 
A: mẫu chuẩn DMSO; B: DMSO có chứa mẫu hoa tươi; C: DMSO có chứa mẫu hoa khô 
Nhận xét: Kết quả phân tích bằng phương 
pháp sắc kí lỏng hoà tan với dung dịch chuẩn 
DMSO nhiệt độ 60oC sắc ký chạy từ phải sang 
trái cho thấy (Hình A) trong vùng chạy từ 
khoảng 3,6 đến 5 ppm đã xác định có 10 đỉnh 
(peak). (Hình B) hoà tan DMSO với mẫu tươi 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 90
trong vùng chạy từ 1,2-1,6 ppm có sự xuất hiện 1 
đỉnh còn chập nhau 1 phần chưa tách hoàn hoàn. 
(Hình C) hoà tan DMSO với mẫu khô trong 
vùng chạy từ 1,2-1,6 ppm có sự xuất hiện của 1 
đỉnh tách rời nhau hoàn toàn. Như vậy ở mẫu 
khô khi phân tích thì cho kết quả tách các chất 
hoàn toàn tốt hơn so với mẫu tươi. 
Kết quả nuôi cấy tế bào 
Hình 3: Tế bào Chang Liver sau khi nuôi cấy. 
Nhận xét: Sau 24h nuôi cấy, tế bào Chang 
Liver đã bám vào bề mặt môi trường nuôi cấy và 
cũng có một số tế bào không bám được vào bề 
mặt môi trường. Với những tế bào Chang Liver 
có khả năng bám dính vào bề mặt môi trường là 
Chang Liver có khả năng thích nghi với môi 
trường nuôi cấy. Còn đối với các tế bào Chang 
Liver không bám được vào môi trường là do tế 
bào chết do bị sốc khi xử lí với trypsin hoặc các tế 
bào này bị trypsin ức chế làm mất khả năng bám 
dính của tế bào. Sau 48 giờ nuôi cấy, quan sát 
thấy các tế bào Chang Liver đã phát triển và tăng 
sinh phủ khắp đĩa nuôi cấy. Chứng tỏ các tế bào 
đã thích nghi với điều kiện nuôi cấy. Tiến hành 
thay môi trường sau hai ngày nuôi để bổ sung 
chất dinh dưỡng cho môi trường nuôi và loại bỏ 
các tế bào chết và các yếu tố gây cản trở cho sự 
tăng sinh của tế bào. 
Kết quả nhiễm DEN-2 vào tế bào Chang 
Liver 
Kết quả cho thấy ở MOI 10, khả năng tồn tại 
của DEN-2 sau khi nhiễm vào tế bào Chang 
Liver tỉ lệ tế bào bị nhiễm virus Dengue còn sống 
rất thấp. MOI 100 thì tỉ lệ này lại quá cao, có thể 
gây ngộ độc tế bào. Các tế bào có chỉ số MOI 10 
và MOI 100 đều không thích hợp cho các thí 
nghiệm tiếp theo. Ở chỉ số MOI 50 (tương ứng 
với nồng độ 1/500), số tế bào bị nhiễm virus còn 
sống chiếm tỉ lệ khoảng 80%, khả năng tồn tại 
của virus Dengue là cao và ổn định tối ưu. 
Hình 4: Kết quả nhiễm DEN-2 thông qua chỉ số 
MOI. 
Biểu hiện hình thái của virus Dengue sau 
khi tác động thuốc 
Hình 5: Kết quả điều trị virus Dengue-2 thuốc với 
các nồng độ thuốc (A): (–) Dengue-2; (B): (+) 
Dengue-2/ (-) thuốc; (C): + 100 ng/ml thuốc; (D): 
+200 ng/ml thuốc; (E): +300 ng/ml thuốc. 
Nhận xét: Tế bào nhiễm Dengue-2 khi cho 
thuốc tác động vào ở nồng độ khác nhau, thì với 
nồng độ 100 ng/ml ức chế được DEN-2 tế bào 
không bị chết biểu hiện (GFP) phát sáng, các tế 
bào chết biểu hiện các chấm đen, ở nồng độ 200 
ng/ml nồng độ thuốc cao không có ức chế được 
DEN-2 vì tế bào chết nhiều biểu hiện dấu chấm 
đen, nồng độ 300 ng/ml nồng độ thuốc rất cao 
gây ra tế bào chết cao gây ngộ độc tế bào. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Khoa học Cơ bản 91
Hình 6: Biểu hiện của virus Dengue. 
Nhận xét: Khi quan sát dưới ánh sáng huỳnh 
quang ta thấy các chấm có màu xanh lục là các 
hạt (particle) của virus Dengue (GFP phát sáng). 
Kết quả cho thấy tế bào Chang Liver có các chấm 
màu xanh lục (GFP phát sáng) rất nhiều, đặc biệt 
các đốm màu xanh do chưa có thuốc chứng tỏ 
giai đoạn này sự nhân bản của virus Dengue 
trong tế bào, tế bào Chang Liver khi cho thuốc 
tác động lên có các chấm màu xanh lục (GFP 
phát sáng) ít nhất, tương ứng với số lượng virus 
Denguegiảm di rất nhiều. Điều này đã chứng 
minh rằng khi có thuốc tác động lên tế bào 
nhiễm virus Dengue đã ức chế được sự nhân 
bản của Dengue. 
Hình 7: Kết quả kiểm tra chất lượng sản phẩm cDNA 
bằng marker GAPDH (chứng nội).
Kết quả RT-PCR 
Hình 8: Kết quả diện di bằng marker DEN-2 và biểu đồ phân tích sản phẩm điện di. 
Nhận xét: Trong kết quả điện di, ở giếng 
(Nước) không biểu hiện band hình; giếng (–
Thuốc), band điện di sáng và rõ; giếng (+ Thuốc) 
band rất mờ. Trong biểu đồ (sử dụng phần mềm 
ImageJ) so sánh giữa giếng không điều trị và 
điều trị thuốc cho thấy, band ở giếng không điều 
trị thuốc (62,04%) sáng và rõ hơn band ở giếng 
điều trị thuốc (37,95%), chứng tỏ hiệu quả của 
thuốc đã ức chế quá trình nhân bản của virus 
Dengue trong tế bào. 
BÀN LUẬN 
Dược liệu và chế phẩm từ dược liệu có thành 
phần phức tạp, để đáp ứng được tính đặc hiệu, 
thông thường phương pháp HPLC hay được sử 
dụng. HPLC cũng là phương pháp định lượng 
phổ biến nhất trong các dược điển hiện hành. 
Tuy nhiên, để áp dụng các phương pháp này, 
một trong những yêu cầu đầu tiên là phải có các 
chất chuẩn. Hơn thế nữa, các chất chuẩn rất cần 
thiết cho công tác nghiên cứu phát triển dược 
liệu và các chế phẩm từ dược. Vì vậy, phương 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016
Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 92
pháp HPLC được lựa chọn trong nghiên cứu này 
để định lượng và xác định tạp chất liên quan. 
Sau khi thu được dịch chiết toàn phần, thực hiện 
quá trình phân lập để tách riêng đối tượng 
nghiên cứu. Việc phân lập các hợp chất nghiên 
cứu trong đề tài dựa trên các quá trình hóa lí 
như dựa vào tính tan của hợp chất trong dung 
môi, khả năng thẩm thấu, khả năng phân bố của 
chất vào môi trường. Tùy thuộc vào mức độ tinh 
khiết của hợp chất sau phân lập, quá trình tinh 
chế có thể được thực hiện bằng một trong các 
phương pháp sau: nếu hợp chất sau phân lập đã 
có độ tinh khiết khá cao thì chỉ cần tinh chế đơn 
giản bằng cách kết tinh lại trong dung môi nhiều 
lần, nếu hợp chất sau phân lập có độ tinh khiết 
chưa cao thì quá trình tinh chế có thể thực hiện 
bằng cách lặp lại quá trình sắc kí cột như giai 
đoạn phân lập để lựa chọn phân đoạn tinh khiết 
hơn, hoặc thay đối dung môi rửa giải hoặc kiểu 
sắc kí. Trên thế giới, một số nghiên cứu gần đây 
cho thấy khi xử lý các tế bào Vero với 
cytochalasin D, một chất ức chế 
macropinocytosis, ngoài tác dụng ức chế tế bào 
như mong muốn còn dẫn đến ức chế sự xâm 
nhiễm của virus(2) hay việc sử dụng đột biến trội 
Esp15 trong việc ức chế clathrin qua trung gian 
của quá trình dung hợp hai tế bào cho thấy sự 
giảm xâm nhập của virus West Nile được trên tế 
bào C6/36. Kết quả này đã làm giảm việc xâm 
nhập của virus Dengue rất khả quang, giảm đến 
80%(2). các nghiên cứu của Chu và cs. (2004)(2) và 
Krishnan và cs. (2007)(5) đã điều tra sự xâm nhập 
của virus Dengue vào các tế bào HeLa, kết quả 
cho thấy sự xâm nhập của virus Dengue nói 
riêng và chi flavivirus nói chung không chỉ 
thông qua endocytosis mà còn bằng nhiều con 
đường khác nhau, giúp ích đáng kể cho sự hiểu 
biết của chúng ta về sự xâm nhập flavivirus vào 
tế bào chủ, từ đó sẽ có phương pháp ngăn chặn 
hiệu quả sự nhân bản hay sự xâm nhiễm của 
virus Dengue vào tế bào, lảm giảm các hậu quả 
đáng tiếc từ bệnh do virus Dengue gây raTừ 
những nghiên cứu đã công bố, có thể nhận ra 
một điểm chung là các thuốc hoặc chất ức chế 
quá trình nguyên phân của tế bào có thể làm 
giảm và tiêu diệt virus. Nghiên cứu này cũng có 
kết quả tương tự, virus DEN-2 hiện diện nhiều 
trong chu trình G2-M của tế bào dòng Chang 
Liver so với các chu trình tế bào khác. Kết quả 
này giúp mở ra một hướng liệu trị bệnh sốt xuất 
huyết do DEN-2. 
KẾT LUẬN 
Nghiên cứu đã thu được dịch trích từ hoa 
dừa cạn tinh chiết từ ethanol và kiểm tra độ tinh 
khiếtqua phương pháp HPLC cho thấy ly trích 
từ mẫu khô cho kết quả tốt hơn so với mẫu tươi. 
Xác định được khả năng tồn tại của tế bào Chang 
Liver sau khi nhiễm DEN-2 là khá cao khoảng 
80%. Xác định được ở nồng độ thuốc 100ng/ml 
có khả năng giúp tế bào gan sống và giảm được 
khả năng nhân bản của virus Dengue trong kỳ 
nguyên phân tế bào Chang Liver. Quan sát được 
sự biểu hiện kiểu hình khi quan sát dưới huỳnh 
quang và biểu hiện kiểu gen của virus Dengue 
thông qua phương pháp RT-PCR. Đánh giá được 
tác động của thuốc vào tế bào gan đã nhiễm 
virus trong kỳ nguyên phân đồng thời biểu hiện 
làm giảm khả năng nhân bản của virus Dengue. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Alvarez ME, et al (1985). Dengue and hepatic failure. Am. J. 
Med, 79: 670-674. 
2. Chu JJH, et al. (2004). Infectious Entry of West Nile Virus 
Occurs through a Clathrin-Mediated Endocytic Pathway. 
Journal of Virology, 78: 10543-10555. 
3. Đỗ Tất Lợi (2004). Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, tái 
bản lần thứ 7, trang 307-309. Nhà xuất bản Y học. Hà Nội. 
4. Krishnan MN, et al (2007). Rab 5 is required for the cellular 
entry of Dengue and WestNile Viruses. Journal of Virology, 
81(9):4881-5. 
5. Lawn SD, et al (2003). Dengue haemorrhagic fever with 
fulminant hepatic failure in an immigrant returning to 
Bangladesh. Clin. Inf. Dis, 37: 1-4. 
6. Lin YL, et al(2000). Infection of five human liver cell lines by 
dengue-2 virus. J. Med. Virol., 60:425-431. 
7. Lum LC, et al (1993). Fulminant hepatitis in Dengue infection. 
Southeast Asian J. Trop.Med. Public Health, 24(3): 467-471. 
8. Moreno-Valenzuela OA, et al(1998). Effect of differentiation on 
the regulation of indole alkaloid production in 
Catharanthusroseus hairy roots. Plant Cell Rep, 18(1-2):99-104. 
9. Perez EA, et al (2009). Microtubule inhibitors: differentiating 
tubulin-inhibiting agents based on mechanisms of action, 
clinical activity, and resistance. Mol Cancer Ther, 8(8):2086–
2095. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 20 * Phụ bản của Số 1 * 2016 Nghiên cứu Y học
Khoa học Cơ bản 93
10. Subramanian V (2005). Dengue haemorrhagic fever and 
fulminant hepatic failure. Dig. Dis. Sci, 50: 1146-1147. 
11. WHO (2014). Hỏi đáp về sốt xuất huyết Dengue và sốt xuất 
huyết Dengue nặng. Tổ chức Y tế Thế giới, Văn phòng đại 
điện WHO Việt Nam. 
Ngày nhận bài báo: 20/11/2015 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2015 
Ngày bài báo được đăng: 15/02/2016