Nguyễn Văn Quang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 184(08): 89 - 94 
89 
KHẢO SÁT ĐÁP ỨNG MIỄN DỊCH VỚI VẮC XIN AMERVAC PRRS 
TRÊN LỢN TẠI TUYÊN QUANG 
Nguyễn Văn Quang *, Nguyễn Thị Kim Lan, Phạm Diệu Thùy, 
Vũ Minh Thảo, Nguyễn Hữu Hòa 
Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Khảo sát khả năng bảo hộ của vắc xin Amervacs PRRS trên lợn tại Tuyên Quang, kết quả cho 
thấy, vắc xin Amervac PRRS (vắc xin nhược độc của Công ty Laboratories HIPRA S.A - Tây Ban 
Nha) an toàn và có khả năng kích thích cơ thể lợn sản sinh kháng thể tốt, có hiệu lực bảo hộ cho 
100% số lợn không mắc bệnh tai xanh (hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp - PRRS) trong 4 
tháng theo dõi. Trước và sau khi tiêm vắc xin Amervac PRRS, 100% số lợn được tiêm phòng đều 
có thân nhiệt và tần số hô hấp nằm trong giới hạn sinh lý bình thường, không lợn nào có biểu hiện 
phản ứng với vắc xin. Sau 1 tháng có 78,57 - 100% số mẫu huyết thanh có kháng thể trong máu 
đạt hiệu giá ngưng kết ở mức 1/160. Sau 2 tháng, 3 tháng và 4 tháng 100% số mẫu đều ngưng kết ở 
hiệu giá từ 1/640 đến 1/2560. 
Từ khóa: lợn, hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp, hiệu giá kháng thể, vắc xin, Tuyên Quang 
ĐẶT VẤN ĐỀ* 
Một trong những bệnh có khả năng lây lan 
nhanh và gây thiệt hại nhiều cho chăn nuôi 
lợn là hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở 
lợn (Porcine Reproductive and Respiratory 
Sydrome - PRRS) hay bệnh tai xanh ở lợn 
[1], [3], [4]. Bệnh làm ảnh hưởng trực tiếp 
đến khả năng sinh sản ở lợn nái, gây sảy thai 
hoặc đẻ non, lợn con sơ sinh yếu, chết thai, 
thở khó, đôi khi có triệu chứng thần kinh, tỷ 
lệ chết cao, lợn thịt giảm ăn, sút cân, lợn đực 
chất lượng tinh giảm[7], [9]. Từ năm 2007 
- 2013, bệnh đã bùng phát mạnh ở nhiều tỉnh, 
thành trong cả nước [8], [9], [10]. Lần đầu 
tiên dịch lợn tai xanh bùng phát ở Hải Dương 
vào ngày 12/3/2007, sau đó dịch lây lan 
nhanh và rộng khắp các tỉnh miền Bắc. Các 
năm tiếp theo dịch PRRS tiếp tục bùng phát ở 
hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước. Tuyên 
Quang là tỉnh miền núi có nghề chăn nuôi lợn 
khá phát triển. Theo số liệu thống kê chăn 
nuôi ngày 01/4/2017, tỉnh Tuyên Quang có 
tổng số 543.372 con lợn. Mặc dù tỉnh Tuyên 
Quang chưa có dịch bệnh tai xanh xảy ra, 
song ở các tỉnh lân cận đã có dịch, vì vậy tỷ lệ 
mẫu huyết thanh lợn dương tính với virus 
PRRS chiếm tới 22% (Nguyễn Thị Kim Lan 
và cs, 2017) [6]. Vấn đề phòng bệnh chủ động 
để bảo về cho đàn lợn bằng vắc xin là rất quan 
*
 Tel: 0912 660317, Email: 
[email protected] 
trọng (Nguyễn Bá Hiên và cs, 2013 [2]; Văn 
Đăng Kỳ, 2013 [5]; Yeom M. et al, 2015 [11]). 
Để có cơ sở khoa học cho công tác phòng bệnh 
hiệu quả, trong năm 2017, chúng tôi đã nghiên 
cứu khả năng bảo hộ của vắc xin Amervac 
PRRS trên lợn tại tỉnh Tuyên Quang. 
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Vật liệu 
Lợn: 600 con, 4 tuần tuổi, khỏe mạnh, nuôi 
trong điều kiện chăn nuôi công nghiệp (để 
khảo sát đáp ứng miễn dịch với vắc xin 
Amervac PRRS). Những lợn này chưa được 
tiêm vắc xin phòng bệnh tai xanh, là con của 
những lợn nái cũng chưa được tiêm vắc xin 
phòng bệnh tai xanh. 
Mẫu huyết thanh lợn: 300 mẫu (mỗi lợn lấy 1 mẫu) 
Vắc xin Amervac PRRS và dung dịch pha 
(Amervac PRRS là vắc xin nhược độc của Công 
ty Laboratories HIPRA S.A - Tây Ban Nha). 
Các thiết bị, dụng cụ; giống virus PRRS 
chuẩn; các loại hóa chất và dung dịch dùng 
cho nghiên cứu. 
Nội dung nghiên cứu 
Xác định khả năng bảo hộ của vắc xin 
Amervac PRRS trên lợn tại một số trang trại 
chăn nuôi lợn tại TP. Tuyên Quang, tỉnh 
Tuyên Quang (mức độ an toàn của vắc xin, 
hiệu giá kháng thể sau khi tiêm vắc xin 
Amervac PRRS 1, 2, 3 và 4 tháng). 
Nguyễn Văn Quang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 184(08): 89 - 94 
90 
Phương pháp nghiên cứu 
* Phương pháp sử dụng vắc xin Amervac PRRS 
- Địa điểm tiêm vắc xin Amervac PRRS cho 
lợn ở 4 trại lợn trên địa bàn TP. Tuyên Quang 
Trại 1: Trại lợn Phạm Ngọc Thìn, tại tổ 14, 
phường Hưng Thành (150 con) 
Trại 2: Trại lợn Nguyễn Văn Chung, tại tổ 14, 
phường Hưng Thành (120 con) 
Trại 3: Trại lợn Nguyễn Thị Kim Oanh, tại tổ 
14, phường Hưng Thành (250 con) 
Trại 4: Trại lợn Long Thị Hằng, tại thôn 1, xã 
Đội Cấn (80 con) 
- Điều kiện của lợn được lựa chọn tiêm vắc 
xin: Trước khi tiêm vắc xin, xác định lợn có 
kháng thể kháng PRRSV trong huyết thanh 
hay không: Chọn những đàn lợn không được 
tiêm phòng bệnh tai xanh, đồng thời là con 
của những lợn mẹ cũng không được tiêm 
phòng bệnh này, sau đó kiểm tra định tính 
thấy không có kháng thể trong máu. Kiểm tra 
thân nhiệt, tần số hô hấp và biểu hiện của lợn 
trước khi tiêm vắc xin. 
- Tiêm vào bắp thịt cho mỗi lợn 2 ml vắc xin 
Amervac PRRS pha với dung dịch pha có sẵn. 
Theo dõi thân nhiệt, tần số hô hấp và biểu 
hiện của lợn sau khi được tiêm vắc xin. 
* Phương pháp lấy mẫu huyết thanh lợn sau 
tiêm vắc xin: Lấy mẫu huyết thanh lợn sau 
khi tiêm vắc xin 1, 2, 3 và 4 tháng. Mỗi thời 
điểm lấy ngẫu nhiên 75 mẫu huyết thanh 
(tổng là 300 mẫu). Xác định hiệu giá kháng 
thể sau tiêm Amervac PRRS bằng phương 
pháp IPMA. Các mẫu huyết thanh được pha 
loãng với dung dịch pha loãng theo cơ số 2, 
bắt đầu từ độ pha loãng 1/40. 
- Khả năng bảo hộ lợn được xác định bằng 
hiệu giá kháng thể: Theo TCVN (2014), vắc 
xin PRRS có khả năng bảo hộ khi hiệu giá 
kháng thể ngưng kết đạt từ 1/160 trở lên. 
* Phương pháp IPMA (Immuno – Peroxidase 
Monolayer Assay) xác định hiệu giá kháng 
thể được thực hiện theo quy trình chẩn đoán 
của Trung tâm chẩn đoán thú y trung ương: 
Bước 1: Nuôi cấy tế bào MARC - 145 
- Hồi phục tế bào 
- Cấy chuyển tế bào 
- Tách tế bào ra khỏi lọ 
Bước 2: Xử lý mẫu để phân lập virus 
Bệnh phẩm là huyết thanh: Lắc bằng máy 
trộn, ly tâm nhanh bằng máy ly tâm ở vận tốc 
8000 vòng/phút trong 1 phút. Sau đó xử lý ở 
nhiệt độ 56oC trong 30 phút để diệt bổ thể rồi 
đem tiến hành các phương pháp để phát hiện 
kháng thể. 
Bước 3: Gây nhiễm các tế bào bằng virus PRRS 
- Lấy giống virus chuẩn từ nơi bảo quản, làm 
tan đá nhanh rồi pha loãng với môi trường 
MEN chứa 5% FCS để được liều 500 TCID50 
virus/ml (giống virus đã được hiệu chỉnh 
nồng độ từ trước). 
- Cho 100 µl dung dịch virus đã pha loãng ở 
trên vào mỗi giếng. 
- Ủ các đĩa này trong 2 ngày, ở 37oC trong 
buồng CO2 nồng độ 5%. 
Bước 4: Cố định các tế bào 
- Đổ bỏ môi trường nuôi cấy và rửa các phiến 
một lần trong nước muối (saline). 
- Cho 100 µl dung dịch A (dung dịch cố định 
tế bào gồm PBS có 10% formalin và 1% 
NP40) vào mỗi giếng. 
- Ủ ở nhiệt độ phòng khoảng 30 phút. 
- Đổ bỏ dung dịch A, rồi rửa đĩa 2 lần bằng 
dung dịch B (dung dịch nước rửa gồm PRS 
với 1% Tween 80). 
Bước 5: Pha loãng huyết thanh 
- Chia 180 µl của NaCl 0,5 M với 4% huyết 
thanh ngựa và 0,5% Tween 80, có pH 7,2 
(dung dịch đệm), vào từng giếng của các hàng 
A và E của các phiến đệm (dummy plates). 
- Chia 120 µl dung dịch đệm vào tất cả các 
giếng khác. 
- Pha 20 µl huyết thanh xét nghiệm hay huyết 
thanh đối chứng vào các giếng của các hàng 
A và E (độ pha loãng 1/10) và lắc đều. 
- Pha loãng huyết thanh bốn lần bằng chuyển 
40 µl từ các hàng A và E sang các hàng B và 
F, tiếp tục như vậy, để cho ra các độ pha 
loãng 1/80, 1/160. 
Cho huyết thanh vào phiến đã có đại thực bào 
cố định 
- Chuyển 50 µl từ mỗi giếng của các đĩa đệm 
vào các giếng tương ứng của phiến đã có đại 
Nguyễn Văn Quang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 184(08): 89 - 94 
91 
thực bào cố định. Đậy các đĩa này lại và ủ 
trong 1 giờ ở 37oC. 
- Đổ bỏ dung dịch huyết thanh và rửa các đĩa 
ba lần bằng dung dịch B (dung dịch nước rửa, 
gồm PBS với 1% Tween 80). 
Bước 6: Cho kháng kháng thể PRRS đã 
gắn enzyme (kháng kháng thể này được 
tạo ra trên thỏ) 
- Pha loãng kháng thể với dung dịch pha loãng 
(dung dịch nước rửa B), theo tỷ lệ 1/80, 1/160. 
- Thêm 50 µl dịch pha loãng này vào từng 
giếng của các đĩa. Đậy các đĩa và ủ trong 1 
giờ ở 37oC. 
- Rửa các phiến này ba lần bằng dung dịch B. 
Bước 7: Cho cơ chất 
- Chia 50 µl dung dịch chất nhiễm sắc/chất nền 
(AEC) đã lọc - dung dịch E (dung dịch ACE, 
gồm 1 ml dung dịch ACE nguyên chất + 14 ml 
dung dịch đệm axetat 0,1 M (pH = 5,2) + 15µl 
H2O2 30%) vào các giếng của các đĩa. 
- Ủ đĩa trong 30 phút ở nhiệt độ phòng. 
Bước 8: Đọc kết quả 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Theo dõi một số chỉ tiêu sinh lý của lợn trước 
và sau khi tiêm vắc xin Amervacs PRRS
Bảng 1. Chỉ tiêu sinh lý của lợn trước và sau khi tiêm vắc xin 
Trại lợn 
Số lợn 
kiểm tra 
(con) 
Trước tiêm Sau tiêm 
Nhiệt độ (oC) 
(
X
mX  ) 
Hô hấp 
(Lần/phút) 
(
X
mX  ) 
Nhiệt độ (oC) 
(
X
mX  ) 
Hô hấp (Lần/phút) 
(
X
mX  ) 
1 30 38,86 ± 0,47 15,36 ± 0,3 39,38 ± 0,52 15,66 ± 0,4 
2 30 38,35 ± 0,22 15,68 ± 0,2 39,35 ± 0,21 15,92 ± 0,1 
3 30 38,32 ± 0,31 16,07 ± 0,1 39,12 ± 0,31 16,72 ± 0,1 
4 30 38,93± 0,21 15,72 ± 0,2 39,97 ± 0,73 16,19 ± 0,3 
Bảng 1 cho thấy: Sau khi tiêm phòng, thân nhiệt của đàn lợn có sự thay đổi một chút so với trước 
khi tiêm. Tuy nhiên, sự thay đổi này không đáng kể. 
Như vậy, sau khi tiêm phòng vắc xin Amervac PRRS, đàn lợn đều có thân nhiệt và tần số hô hấp 
hơi tăng một chút so với trước khi tiêm, nhưng vẫn nằm trong giới hạn sinh lý bình thường. Đây 
là một trong các phản ứng tích cực của cơ thể lợn, chứng tỏ vắc xin đưa vào cơ thể lợn đã có 
những đáp ứng tích cực để bắt đầu cho quá trình sản sinh kháng thể, tạo miễn dịch phòng bệnh tai 
xanh cho lợn. 
Kết quả theo dõi biểu hiện của lợn trước và sau khi tiêm vắc xin Amervacs PRRS 
Kết quả theo dõi được trình bày ở bảng 2. 
Bảng 2. Biểu hiện của lợn trước và sau khi tiêm vắc xin 
Trại 
lợn 
Số lợn theo 
dõi (con) 
Biểu hiện của lợn 
Trước khi tiêm Sau khi tiêm 
1 150 Khỏe mạnh, không có biểu hiện bất thường Khỏe mạnh, không có biểu hiện bất thường 
2 120 Khỏe mạnh, không có biểu hiện bất thường Khỏe mạnh, không có biểu hiện bất thường 
3 250 Khỏe mạnh, không có biểu hiện bất thường Khỏe mạnh, không có biểu hiện bất thường 
4 80 Khỏe mạnh, không có biểu hiện bất thường Khỏe mạnh, không có biểu hiện bất thường 
Quả bảng 2 cho thấy: Sau khi tiêm vắc xin Amervac PRRS, tất cả 600 con lợn được tiêm đều ăn 
uống, vận động bình thường. Điều đó chứng tỏ vắc xin này có độ an toàn rất cao, đúng như 
khuyến cáo của nhà sản xuất. 
Kết quả xác định hiệu giá kháng thể của lợn sau khi tiêm vắc xin 1 tháng 
Để đánh giá khả năng đáp ứng miễn dịch của lợn sau khi tiêm vắc xin, chúng tôi đã lấy mẫu 
huyết thanh của 300 con lợn (đại diện cho 600 con được tiêm) ở 4 thời điểm: Sau khi tiêm 1, 2, 3 
và 4 tháng; tiến hành xác định hiệu giá kháng thể bằng phương pháp IPMA, từ đó đánh giá được 
khả năng bảo hộ của vắc xin. 
Nguyễn Văn Quang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 184(08): 89 - 94 
92 
Kết quả được trình bày ở các bảng 3. 
Bảng 3. Hiệu giá kháng thể của lợn sau khi tiêm vắc xin 1 tháng 
Trại lợn 
Số kiểm 
tra 
(mẫu) 
Hiệu giá kháng thể Tổng mẫu 
từ 
1/160 trở 
lên (mẫu) 
Tỷ lệ 
bảo 
hộ 
(%) 
1/ 
40 
1/ 
80 
1/ 
160 
1/ 
320 
1/ 
640 
1/ 
1280 
1/ 
2560 
Trại 1 21 4 17 21 100 
Trại 2 14 2 4 8 12 85,71 
Trại 3 26 6 20 26 100 
Trại 4 14 3 11 11 78,57 
Tính chung 75 5 14 56 70 93,33 
Kết quả ở bảng 3 cho thấy: 
Sau khi tiêm phòng vắc xin Amervac PRRS cho lợn, sau 1 tháng có 78,57 - 100% số lợn có 
kháng thể trong máu đạt hiệu giá ngưng kết ở mức 1/160. Điều này có nghĩa là: 78,57 - 100% số 
lợn sau khi tiêm vắc xin 1 tháng đã có khả năng bảo hộ cho lợn an toàn với bệnh tai xanh. 
Tại trại 1: Cả 21 mẫu đều đạt hiệu giá ngưng kết cao (100% có khả năng bảo hộ), trong đó có 
4/21 mẫu (19,05%) đạt hiệu giá 1/160; 17/21 mẫu (80,95%) đạt hiệu giá 1/320. 
Tại trại 2: Có 2/14 mẫu (14,29%) đạt hiệu giá 1/80 (chưa có khả năng bảo hộ); 4/14 mẫu 
(28,57%) đạt hiệu giá 1/160 và 8/14 mẫu (57,14%) đạt hiệu giá 1/320. Tỷ lệ lợn được bảo hộ là 
85,71%. 
Tại trại 3: 100% số mẫu chứng tỏ lợn được bảo hộ. Trong đó có 6/26 mẫu (23,08%) đạt hiệu giá 
1/160; 20/26 mẫu (76,92%) đạt hiệu giá 1/320. 
Tại trại 4: Có 3/14 mẫu (21,43%) đạt hiệu giá 1/80 (chưa có khả năng bảo hộ); 11/14 mẫu 
(78,57%) đạt hiệu giá 1/320. Tỷ lệ lợn được bảo hộ là 78,57%. 
Kết quả trên tương đồng với nhận xét của Tô Long Thành (2007) [9]: Cơ thể vật nuôi cần một 
thời gian nhất định để huy động cơ chế phòng ngự đặc hiệu, sau khi tiêm vắc xin khoảng 2 tuần, 
kháng thể đặc hiệu sẽ được sản sinh ra và con vật sẽ có sức miễn dịch đối với bệnh. 
Kết quả xác định hiệu giá kháng thể của lợn sau khi tiêm vắc xin 2 tháng 
Bảng 4. Hiệu giá kháng thể của lợn sau khi tiêm vắc xin 2 tháng 
Trại lợn 
Số kiểm 
tra (mẫu) 
Hiệu giá kháng thể Tổng mẫu từ 
1/160 trở lên 
(mẫu) 
Tỷ lệ bảo hộ 
(%) 
1/ 
40 
1/ 
80 
1/ 
160 
1/ 
320 
1/ 
640 
1/ 
1280 
1/ 
2560 
Trại 1 22 8 14 22 100 
Trại 2 15 7 8 15 100 
Trại 3 23 13 10 23 100 
Trại 4 15 8 7 15 100 
Tính chung 75 36 39 75 100 
Qua kết quả ở bảng 4 cho thấy: 
Tại trại 1 có 8/22 mẫu đạt hiệu giá 1/640; 14/22 mẫu đạt hiệu giá 1/1280. 
Tại trại 2 có 7/15 mẫu đạt hiệu giá 1/640; 8/15 mẫu đạt hiệu giá 1/1280. 
Tại trại 3 có 13/23 mẫu đạt hiệu giá 1/640; 10/23 mẫu đạt hiệu giá 1/1280. 
Tại trại 4 có 8/15 mẫu đạt hiệu giá 1/640; 7/15 mẫu đạt hiệu giá 1/1280. 
Như vậy, sau 2 tháng, 100% số mẫu đều đạt hiệu giá 1/640 và 1/1280. Theo quy định, huyết 
thanh có hiệu giá từ 1/160 trở lên đã có hàm lượng kháng thể đủ khả năng bảo hộ cho lợn không 
bị mắc PRRS. 
Nguyễn Văn Quang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 184(08): 89 - 94 
93 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với nhận xét của Tô Long Thành (2007) [9], khi 
các tác giả cho rằng: Vắc xin Amervac PRRS có khả năng bảo hộ cho đàn lợn rất cao (100%). 
Kết quả xác định hiệu giá kháng thể của lợn sau khi tiêm vắc xin 3 tháng 
Bảng 5. Hiệu giá kháng thể của lợn sau khi tiêm vắc xin 3 tháng 
Trại lợn 
Số kiểm 
tra 
(mẫu) 
Hiệu giá kháng thể Tổng mẫu từ 
1/160 trở lên 
(mẫu) 
Tỷ lệ bảo hộ 
(%) 
1/ 
40 
1/ 
80 
1/ 
160 
1/ 
320 
1/ 
640 
1/ 
1280 
1/ 
2560 
Trại 1 18 4 8 6 18 100 
Trại 2 17 6 6 5 17 100 
Trại 3 28 9 11 8 28 100 
Trại 4 12 2 10 12 100 
Tính chung 75 21 25 29 75 100 
Qua bảng 5 cho thấy: Có 21/75 mẫu huyết thanh ngưng kết ở độ pha loãng 1/640; 25/75 mẫu 
ngưng kết ở độ pha loãng 1/1280; 29/75 mẫu ngưng kết ở độ pha loãng 1/2560. Tính chung, cả 
75 mẫu đều có hàm lượng kháng thể cao, đủ khả năng bảo hộ cho lợn. Theo đó, đáp ứng miễn 
dich của lợn với vắc xin Amervac PRRS tại Tuyên Quang tốt hơn so với kết quả nghiên cứu của 
Nguyễn Tùng và cs (2012) [10] với vắc xin nhược độc chủng JXA1. 
Kết quả xác định hiệu giá kháng thể của lợn sau khi tiêm vắc xin 4 tháng 
Bảng 6. Hiệu giá kháng thể của lợn sau khi tiêm vắc xin 4 tháng 
Trại lợn 
Số kiểm 
tra (mẫu) 
Hiệu giá kháng thể Tổng mẫu từ 
1/160 
trở lên (mẫu) 
Tỷ lệ bảo hộ 
(%) 
1/ 
40 
1/ 
80 
1/ 
160 
1/ 
320 
1/ 
640 
1/ 
1280 
1/ 
2560 
Trại 1 23 2 8 13 23 100 
Trại 2 14 7 7 14 100 
Trại 3 27 6 21 27 100 
Trại 4 11 1 10 11 100 
Tính chung 75 2 22 51 75 100 
Qua bảng 6 cho thấy: 
Sau 4 tháng, chỉ có 2 mẫu huyết thanh đạt 
hiệu giá ngưng kết ở độ pha loãng 1/640, 22 
mẫu ngưng kết ở độ pha loãng 1/1280; có tới 
51 mẫu ngưng kết ở độ pha loãng 1/2560. Kết 
quả trên chứng tỏ rằng, sau khi tiêm 1 mũi 
vắc xin Amervac PRRS 4 tháng, hàm lượng 
kháng thể trong máu của lợn vẫn tiếp tục tăng 
lên với đậm độ cao hơn so với các thời điểm 
sau khi tiêm 2 và 3 tháng. 
Kết quả trên cũng cho thấy, 100% số lợn 
được tiêm vắc xin Amervac PRRS đều được 
bảo hộ sau khi tiêm. Mặc dù không có điều 
kiện tiếp tục theo dõi hiệu giá kháng thể sau 
khi tiêm vắc xin 5 và 6 tháng (do thí nghiệm 
được tiến hành tại các gia trại chăn nuôi lợn, 
số lợn tiêm phòng đã được chủ trại xuất bán 
sau 4 tháng theo dõi), song chúng tôi nhận 
thấy rằng, với khả năng sản sinh kháng thể ở 
thời điểm sau khi tiêm 4 tháng như trên thì 
lợn vẫn duy trì được hàm lượng kháng thể đủ 
khả năng bảo hộ ở một số tháng tiếp theo. 
Các kết quả ở bảng 4 - 7 cho phép chúng tôi 
nhận xét rằng: Vắc xin Amervac PRRS là loại 
vắc xin an toàn và có hiệu lực cao trong 
phòng bệnh tai xanh cho lợn tại tỉnh Tuyên 
Quang. Vì vậy, chi cục Chăn nuôi và Thú y 
tỉnh Tuyên Quang có thể lựa chọn loại vắc 
xin này để tiêm phòng cho đàn lợn ở các địa 
phương trên địa bàn tỉnh, nhằm chủ động 
phòng bệnh tai xanh cho đàn lợn. 
KẾT LUẬN 
Vắc xin Amervac PRRS (vắc xin nhược độc 
của Công ty Laboratories HIPRA S.A - Tây 
Ban Nha) an toàn và có hiệu lực bảo hộ cho 
100% số lợn được tiêm phòng ở Tuyên 
Quang trong 4 tháng theo dõi. 
Trước và sau khi tiêm vắc xin Amervac 
PRRS, 100% số lợn được tiêm phòng đều có 
Nguyễn Văn Quang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 184(08): 89 - 94 
94 
thân nhiệt và tần số hô hấp nằm trong giới 
hạn sinh lý bình thường, không lợn nào có 
biểu hiện phản ứng với vắc xin. 
Sau 1 tháng có 78,57 - 100% số lợn có kháng 
thể trong máu đạt hiệu giá ngưng kết ở mức 
1/160. Sau 2 tháng, 3 tháng và 4 tháng 100% 
số lợn đều ngưng kết ở hiệu giá từ 1/640 đến 
1/2560. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trương Thị Diễm Hằng, Nguyễn Ngọc Hải 
(2014), “Đánh giá tình trạng gây hội chứng rối 
loạn sinh sản và hô hấp lợn tại tỉnh Bình Dương 
bằng phương pháp Elisa và PCR”, Tạp chí Sinh 
học, 36 (1se), tr. 22 – 27. 
2. Nguyễn Bá Hiên, Nguyễn Thị Lan, Nguyễn 
Hữu Nam (2013), “Nghiên cứu chọn chủng virus 
gây Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản (PRRS) 
để sản xuất vắc xin phòng bệnh tại Việt Nam”, 
Tạp chí Khoa học kỹ thuật thú y, 20 (1), tr. 5 - 15. 
3. Nguyễn Bá Hiên, Huỳnh Thị Mỹ Lệ, Lê Văn 
Lãnh, Đỗ Ngọc Thúy (2013), Bệnh truyền nhiễm 
thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 289 - 295. 
4. Nguyễn Đức Hiền (2012), “Tình hình nhiễm 
hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản và một số 
yếu tố nguy cơ trong lan truyền bệnh giữa các 
đàn heo tại tỉnh Cần Thơ”, Tạp chí Khoa học – 
Đại học Cần Thơ, 22c, tr. 96 - 105. 
5. Văn Đăng Kỳ (2013), “Hội chứng rối loạn sinh 
sản và hô hấp ở lợn (PRRS) và kinh nghiệm phòng 
chống”, Tạp chí Khoa học Việt Nam, tập X, số 3 - 
2013, tr. 76 - 80. 
6. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang, 
Nguyễn Thị Ngân, Trần Nhật Thắng, Nguyễn 
Hữu Hòa (2017), “Sự lưu hành virus gây bệnh tai 
xanh và kết quả phân lập vi khuẩn gây viêm phổi 
ở lợn tại tỉnh Tuyên Quang”, Tạp chí Khoa học 
và công nghệ - Đại học Thái Nguyên, 168 (08), 
tr. 119 – 124. 
7. Phạm Sỹ Lăng, Phan Đăng Kỳ (2007, Hội 
chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn, Diễn đàn 
khuyến nông và công nghệ - Bộ Nông nghiệp và 
Phát triển Nông thôn. 
8. Hoàng Văn Năm (2001), “Hội chứng sinh sản 
và hô hấp ở lợn”, Bản dịch tổng hợp, Tạp chí 
Khoa học Kỹ thuật Thú y, số 1 - 2001, tr. 74 - 84. 
9. Tô Long Thành (2007),“Hội chứng rối loạn 
sinh sản và hô hấp lợn”, Tạp chí Khoa học Kỹ 
thuật Thú y, tập XIV, số 3/2007, tr. 96-98 
10. Nguyễn Tùng, Tống Hữu Hiến, Nguyễn Trọng 
Cường (2012) “Khảo nghiệm vắc xin nhược độc 
chủng JXA1 phòng hội chứng rối loạn sinh sản và 
hô hấp trên heo”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Thú 
y, tập XVIII, số 6, tr. 17. 
11. Yeom M., Lyoo K. S., Kang B. K., Song D., 
Park B. (2015), “Efficacy of a combined 
inactivated porcine reproductive and respiratory 
syndrome virus vắc xin using North American and 
European strains in specific pathogen free pigs”, 
Vet J., 233(15), pp. 64 – 67. 
SUMMARY 
SURVEY ON IMMUNE RESPONSE TO AMERVAC PRRS VACCINE 
IN PIGS IN TUYEN QUANG 
Nguyen Van Quang, Nguyen Thi Kim Lan
*
, Pham Dieu Thuy 
 Vu Minh Thao, Nguyen Huu Hoa 
University of Agriculture and Forestry - TNU 
A surveying of the Amervac PRRS Vaccine on pigs in Tuyen Quang province, the results showed 
that, the vaccine Amervac PRRS (the weakened vaccine from Laboratories HIPRA SA - Spain) 
was safe and stimulating. Pig organ producing good antibody, effective protection for 100% of 
pigs without blue ear disease (Porcine Reproductive and Respiratory Syndrom - PRRS) during 4 
months of monitoring. Before and after vaccination with Amervac PRRS, 100% of the vaccinated 
pigs had body temperature and respiratory rate within normal physiological limits. No pigs 
exhibited a response to the vaccine. After 1 month, 78.57 - 100% of serum samples with antibodies 
in blood reached the agglutination mark at 1/160. After 2 months, 3 months and 4 months, 100% 
of samples were congested at titre from 1/640 to 1/2560. 
Keywords: Pig, Porcine Reproductive and Respiratory Syndrom, Antibody titre, Vaccine, 
Tuyen Quang 
Ngày nhận bài: 18/6/2018; Ngày phản biện: 06/7/2018; Ngày duyệt đăng: 31/7/2018 
*
 Tel: 0912 660317, Email: 
[email protected]