Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ Em 75
KHẢO SÁT CÁC ĐẶC ĐIỂM CHUYỂN DẠ GIAI ĐOẠN HAI 
CỦA CÁC THAI PHỤ CÓ GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG 
Ở BỆNH VIỆN ĐA KHOA THIỆN HẠNH 
Trần Thị Thu Huyền*, Nguyễn Hồng Hoa** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Ngày nay nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật, việc sử dụng gây tê ngoài màng cứng 
(GTNMC) đã trở thành một phương pháp giảm đau sản khoa phổ biến tại các bệnh viện Phụ sản trên thế giới và 
Việt Nam. Bên cạnh các ưu điểm nổi trội được biết đến như làm giảm đau, giảm căng thẳng lo âu cho thai phụ do 
cơn gò tử cung trong chuyển dạ gây ra, thì GTNMC còn có thể là một trong những nguyên nhân gây chuyển dạ 
kéo dài và làm tăng nguy cơ sinh giúp ở thai phụ. Tại Việt Nam, các nghiên cứu về GTNMTC và kết cục thai kỳ 
đã từng được thực hiện nhưng có nghiên cứu nào tập trung khảo sát các đặc điểm của chuyển dạ giai đoạn II nên 
chúng tôi thực hiện nghiên cứu này tại Bệnh viện Đa khoa Thiện Hạnh, 1 bệnh viện tư nhân ở Đắklắk có tỉ lệ sử 
dụng GTNMC giảm đau cho thai phụ từ 40-60%. 
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm của chuyển dạ giai đoạn hai của các thai phụ có GTNMC. 
Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo hàng loạt ca trong thời gian từ 01/01/2016 đến 31/12/2016. 
Kết quả: Trên 614 thai phụ bước vào giai đoạn hai chuyển dạ có gây tê ngoài màng cứng: thời gian trung 
bình của chuyển dạ giai đoạn hai: đối với con so 1,4 ± 0,79 giờ, còn đối với con rạ là 0,8 ± 0,46 giờ; Tim thai dao 
động từ 110 - 160 lần/phút có tỷ lệ 98,05%; Có sử dụng oxytocin để tăng cơn gò tử cung chiếm 91,99%; Tỷ lệ 
sinh thường là 93,81%, sinh giúp: 2,12% và sinh mổ: 4,07%. 
Kết luận: GTNMC dường như không là nguyên nhân gây kéo dài giai đoạn hai của chuyển dạ cũng như 
không là yếu tố tăng tỉ lệ sinh giúp. Nhưng có tỉ lệ cao sử dụng oxytocin để tăng cơn co tử cung trong chuyển dạ 
giai đoạn II của các trường hợp có GTNMC. 
Từ khóa: Gây tê ngoài màng cứng trong chuyển dạ, chuyển dạ giai đoạn hai. 
ABSTRACT 
DISCRIBING CHARACTERISTICS OF THE SECOND STAGE OF LABOR IN PREGEGNANCY 
WOMEN USED EPIDURAL ANALGESIA IN THIEN HANH HOSPITAL 
Tran Thi Thu Huyen, Nguyen Hong Hoa 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 22 - No 1- 2018: 75 - 79 
Background: A retrospective review of 614 selected records of parturient labors used epidural analgesia 
administration in order to describe the characteristics of the second stage of labor. Labor management and 
outcomes were also collected. 
Methods: Case report. 
Results: The second-stage length in labor of nulliparasis 1.4 ± 0.79 (hours) and of multiparas is 0.8 ± 0.46 
(hours); fetal heart rate during 110 – 160 BPM (98.05%); having induced by oxytocin with 91.99%; the rate of 
spontaneous vaginal delivery: 93.81%, instrumental vaginal delivery: 2.12%, and 4.07% cesarean deliveries. 
* Bệnh viện đa khoa Thiện Hạnh- ĐakLak **Bộ môn Phụ Sản, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Hồng Hoa ĐT: 0908285186 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ Em 76
Conclusions: The epidural analgesia is not either considered the related factor of longer mean length of the second 
stage or likely to experience instrument-assisted delivery. However, labors in the epidural group were more likely 
to have oxytocin induction or augmentation. 
Conclusion: Epidural analgesia did not increase the incidence of instrumental assisted delivery and was not 
associated with prolonged second stage of labor. 
Keywords: Epidural analgesia in labor, the second stage of labor. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Gây tê ngoài màng cứng (GTNMC) là một 
phương pháp giảm đau trong chuyển dạ được 
áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Hằng năm có 
khoảng 60% thai phụ trong chuyển dạ lựa chọn 
giảm đau sản khoa (2,4 tỉ thai phụ) theo thống kê 
của Mỹ(10). Tại Việt Nam có rất nhiều bệnh viện 
sản phụ khoa đã áp dụng phương pháp 
GTNMC trong đó có bệnh viện Hùng Vương và 
bệnh viện Từ Dũ từ những năm 1998 và 1999. 
GTNMC được đánh giá và công nhận là phương 
pháp điều trị giảm đau hiệu quả và an toàn(8). 
Tuy nhiên, GTNMC có thể là một trong những 
nguyên nhân gây chuyển dạ giai đoạn hai kéo 
dài dẫn tới sinh giúp(3,13). Nghiên cứu của Yancey 
MK và cộng sự(11)ghi nhận ở bệnh viện Tripler 
Army có tỷ lệ thai phụ gây tê ngoài màng cứng 
tăng lên gần 60% nhưng tỷ lệ sinh giúp không 
thay đổi (từ 11,1% lên 11,9%). Nghiên cứu mới 
nhất của Anim S.M và cs lại khẳng định sản phụ 
có gây tê ngoài màng cứng tăng nguy cơ sinh 
giúp 1,42 lần (KTC 95% 1,28 đến 1,57) và kéo dài 
giai đoạn hai chuyển dạ gấp 13,66 lần (KTC 95%: 
6,67 - 20,66), tăng nguy cơ sử dụng oxytocin lên 
1,19 lần (KTC 95% 1,03 đến 1,39)(1). Như vậy,các 
nghiên cứu hiện nay vẫn còn tiếp tục thực hiện 
để xác định GTNMC có làm thay đổi thời gian 
chuyển dạ giai đoạn hai và tăng nguy cơ sinh 
giúp hay không? Hiện tại có nhiều nghiên cứu 
đánh giá về GTNMC trong sản khoa tại Việt 
Nam nhưng chưa có nghiên cứu tập trung khảo 
sát đặc điểm giai đoạn hai của chuyển dạ trong 
các trường hợp sinh ngã âm đạo có GTNMC. 
Bệnh viện Đa Khoa Thiện Hạnh Đăk Lăk là một 
bệnh viện đa khoa tư nhân ở khu vực Tây 
Nguyên, khoa Sản áp dụng giảm đau sản khoa 
từ đầu năm 2006, cho nên chúng tôi quyết định 
tiến hành nghiên cứu với kỳ vọng mang lại 
những giá trị về chẩn đoán và xử trí giai đoạn 
hai của chuyển dạ cho các bác sỹ lâm sàng. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Mô tả đặc điểm của chuyển dạ giai đoạn hai 
trên các thai phụ có gây tê ngoài màng cứng 
(thời gian giai đoạn hai cuộc chuyển dạ, đặc 
điểm tim thai, cơn gò, vị trí của thai trong khung 
chậu, cách sinh). 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Một nghiên cứu báo cáo hàng loạt ca từ 
01/01/2016 đến 31/12/2016 trên 614 thai phụ có 
gây tê ngoài màng cứng bước vào giai đoạn hai 
chuyển dạ tại khoa sản bệnh viện Đa khoa Thiện 
Hạnh.Thu thập số liệu theo hồ sơ bệnh án lưu. 
Tiêu chuẩn chọn vào: 
Những thai phụ có sử dụng giảm đau sản 
khoa bằng gây tê ngoài màng cứng thỏa các tiêu 
chuẩn: Các thai phụ đạt tiêu chuẩn ASA I – II và 
bước vào giai đoạn hai của cuộc chuyển dạ. 
Tiêu chuẩn loại trừ: 
Không ghi đầy đủ các số liệu về cuộc sinh 
như: thời điểm giai đoạn hai chuyển dạ, cơn gò 
tử cung, tim thai, ngôi thai, độ lọt, màu sắc nước 
ối. Thai chết lưu, thai dị tật bẩm sinh nặng có chỉ 
định chấm dứt thai kỳ. 
KẾT QUẢ 
Qua phân tích 614 trường hợp, chúng tôi thu 
được kết quả như sau: 
Đặc điểm dịch tễ 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi mẹ 
trung bình là 26,27 ± 4,73 (Bảng 1). Thai phụ 
nhỏ nhất là 16 tuổi và thai phụ lớn tuổi nhất là 
44 tuổi. Thai phụ con so chiếm tỷ lệ 67,92%; 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ Em 77
thai phụ con rạ chiếm 32,08%. Tuổi thai trung 
bình 38,65 ± 1,02 tuần; tuổi thai nhỏ nhất trong 
nghiên cứu là 30 tuần và tuổi thai lớn nhất là 
41 tuần. 
Bảng 1. Đặc điểm dịch tễ đối tượng nghiên cứu. 
Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ (%) 
Tuổi mẹ (tuổi) 
Trung bình 26,27 ± 4,73 
Nhỏ nhất 16 
Lớn nhất 44 
Tiền thai 
Con so 417 67,92 
Con rạ 197 32,08 
Tuổi thai (tuần) 
Trung bình 38,65 ± 1,02 
Nhỏ nhất 30 
Lớn nhất 41 
Thời gian chuyển dạ giai đoạn hai 
Đối với con so thời gian trung bình của 
chuyển dạ giai đoạn hai là 1,4 ± 0,79 giờ (Bảng 
2). Trường hợp chuyển dạ giai đoạn hai nhanh 
nhất là 5 phút (0,09 giờ) và dài nhất là 5 giờ. Đối 
với con rạ thời gian trung bình của chuyển dạ 
giai đoạn hai là 0,8 ± 0,46 giờ. Trường hợp 
chuyển dạ giai đoạn hai nhanh nhất là 5 phút 
(0,09 giờ) và dài nhất là 2 giờ 55 phút (2,92 giờ). 
Bảng 2. Thời gian chuyển dạ giai đoạn hai: 
Đặc điểm Trung bình Lớn nhất Nhỏ nhất 
Thời gian giai đoạn: 2 (giờ) 
Con so 1,4 ± 0,79 5,00 0,09 
Con rạ 0,8 ± 0,46 2,92 0,09 
Đặc điểm chuyển dạ giai đoạn hai 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tần số tim 
thai 110-160 lần/phút của thai phụ bước vào 
giai đoạn hai chuyển dạ chiếm 98,05%; tần số 
tim thai 160 
lần/phút chiếm tỷ lệ thấp đều là 0,98% (Bảng 
3). Trong giai đoạn hai chuyển dạ, thai phụ sử 
dụng oxytocin chiếm tỷ lệ cao 91,69%. Kiểu 
thế trước tại thời điểm này chiếm 88,11%; kiểu 
thế sau chiếm 11,40%; chỉ có 3 trường hợp là 
kiểu thế ngang chiếm 0,49%. Đa số sinh 
thường chiếm tỷ lệ 93,81%; đối tượng tham gia 
nghiên cứu sinh giúp cụ thể là sinh kềm chiếm 
2,12% và sinh mổ chiếm 4,07%. 
Bảng 3. Đặc điểm chuyển dạ giai đoạn hai 
Đặc điểm Tần số (n) Tỷ lệ (%) 
Tim thai (lần/phút) 
< 110 6 0,98 
110 - 160 602 98,05 
> 160 6 0,98 
Sử dụng oxytocin (giọt/phút) 
Có 563 91,69 
Không 51 8,31 
Kiểu thế 
Trước 541 88,11 
Sau 70 11,40 
Ngang 3 0,49 
Cách sinh 
Sinh thường 576 93,81 
Sinh kềm 13 2,12 
Sinh mổ 25 4,07 
BÀN LUẬN 
Theo bảng 1, đối tượng tham gia nghiên 
cứu của chúng tôi là lứa tuổi sinh đẻ của người 
phụ nữ Việt Nam. Và tuổi thai trung bình chủ 
yếu là thai đủ trưởng thành. Bên cạnh đó trong 
nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ con so và con rạ 
tương tự như nghiên cứu của Phan Thị Thu Ba 
và của Phan Thị Hằng(7,8). GTNMC được thai 
phụ con so chấp nhận nhiều hơn con rạ vì thời 
gian chuyển dạ kéo dài hơn ở những thai phụ 
sinh con so và họ chưa từng trải qua những cơn 
đau của cuộc chuyển dạ nên chưa có sự chuẩn 
bị về tâm lý nhiều. 
Trong bảng 2, thời gian trung bình của 
chuyển dạ giai đoạn hai trong nghiên cứu của 
chúng tôi đối với con so (1,4 ± 0,79 giờ). Nghiên 
cứu của Rimaitis K là 0,9 ± 0,2 giờ và với nghiên 
cứu của Yee LM có thời gian trung bình của giai 
đoạn hai là 3,1 ± 0,02 giờ(10,13). Điều này được lý 
giải do các nghiên cứu khác nhau lựa chọn đối 
tượng nghiên cứu khác nhau, nồng độ thuốc 
GTNMC, liều lượng thuốc GTNMC khác nhau 
giữa các nghiên cứu. Thời gian trung bình của 
chuyển dạ giai đoạn hai đối với con rạ trong 
nghiên cứu của chúng tôi (0,8 ± 0,46 giờ) tương 
đương so với nghiên cứu của Rimaitis K 1,1 ± 0,3 
giờ(8). Thời gian trung bình của giai đoạn hai của 
chúng tôi ở con so và con rạ đều dưới 2 giờ, điều 
này ghi nhận cho thấy GTNMC không làm kéo 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ Em 78
dài giai đoạn hai cuộc chuyển dạ, kết quả này 
tương đương với nghiên cứu của Phan Thị Thu 
Ba ghi nhận GTNMC không làm kéo dài giai 
đoạn hai cuộc chuyển dạ(8). 
Theo Bảng 3, nghiên cứu của chúng tôi chủ 
yếu tim thai dao động từ 110 – 160 lần/phút đây 
là biều hiện thai nhi chưa có dấu hiện thiếu oxy. 
Đa số các trường hợp có kiểu thế trước và kiểu 
thế sau là kiểu thế thuận lợi tiên lượng sinh ngã 
âm đạo thành công và phù hợp với tỷ lệ kiểu thế 
trong dân số chung (kiểu thế ngang chiếm 5-
10%). Trong nghiên cứu của chúng tôi có 3 
trường hợp kiểu thế ngang đều mổ lấy thai trong 
giai đoạn hai do đầu không lọt và tim thai suy. 
Tương tự nghiên cứu của tác giả Atanasova M(2). 
Nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ sử dụng 
Oxytocin khá cao nên có thể là yếu tố dẫn tới 
thời gian chuyển dạ giai đoạn hai của chúng tôi 
không kéo dài (bảng 3). Kết quả của chúng tôi 
tương đương với kết quả của tác giả Đỗ Văn Lợi 
có truyền oxytocin tăng co với tổng dịch truyền 
trong cuộc chuyển dạ dao động từ 150ml - 190 
ml dung dịch Glucose 5%(5). Nhưng, khác với các 
nghiên cứu của tác giả Cheng YW và tác giả 
Singh SK có tỷ lệ sử dụng oxytocin trong nhóm 
GTNMC thấp hơn(3,4,11). Điều này có thể do 
nghiên cứu của chúng tôi chỉ ghi nhận sử dụng 
oxytocin trong giai đoạn hai của chuyển dạ so 
với các tác giả Cheng Y.W sử dụng oxytocin từ 
giai đoạn một và không thấy có sự tương quan 
giữa sử dụng oxytocin với thời gian chuyển dạ. 
Nghiên cứu của tác giả Phan Thị Thu Ba thực 
hiện tạibệnh viện Từ Dũ cótỷ lệ sinh giúp là 
17,20%(8), tác giả Phan Thị Hằng -bệnh viện 
Hùng Vương là 19%(7) và tác giả Đỗ Văn Lợi 
bệnh viện Phụ sản Trung Ương lại có tỷ lệ 
12,2%(5); đều cao hơn nghiên cứu của chúng tôi. 
Có lẽ do các bác sỹ ở bệnh viện tuyến trên có 
kinh nghiệm lâu năm nhiều hơn và kỹ thuật 
thực hiện thủ thuật tốt hơn. Tỷ lệ sinh giúp của 
chúng tôi cũng thấp hơn nghiên cứu của Phùng 
Quang Thủy nghiên cứu tại bệnh viện Trung 
Ương Huế (sinh kềm 8,1%) nhưng cao hơn 
nghiên cứu của tác giả Phạm Thiều Trung thực 
hiện nghiên cứu ở bệnh viện Đa khoa Cần Thơ 
(tỷ lệ sinh giúp 1,49%)(6,9). Tác giả Rimaitis K có 
kết quả sinh giúp là 2,43% trong đó tỷ lệ sinh 
giác hút 2,16%, tương tự với nghiên cứu của 
chúng tôi và đều thấp hơn tác giả Singh SK có 
kết quả sinh giúp 9%(10,11). Điều này cho thấy 
GTNMC chưa chắc là yếu tố chính làm gia tăng 
mức độ sinh giúp. 
KẾT LUẬN 
GTNMC dường như không là nguyên nhân 
gây kéo dài giai đoạn hai của chuyển dạ cũng 
như không là yếu tố tăng tỷ lệ sinh giúp nhưng 
có tỷ lệ cao sử dụng oxytocin để tăng cơn co tử 
cung trong chuyển dạ giai đoạn II của các trường 
hợp có GTNMC. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Anim-Somuah M, Smyth. RH, Jones L (2011). ”Epidural versus 
non-epidural or no analgesia in labour”. Cochrane Database Syst 
Rev, 7(12):pp.CD000331. DOI: 10.1002/14651858.CD000331.pub3. 
2. Atanasova M, Nikolov A(2011). “Epidutal anagesia for vaginal 
delivery. Influence over the delivery, fetal presentation, the 
method of delivery and laction”. Akush Ginekol (Sofiia), 50 
(6):pp.28-36. 
3. Cheng YW, Hopkins LM, Laros RK Jr, Caughey AB (2007). 
“Duration of the second stage of labor in multiparous women: 
maternal and neonatal outcomes”. American Journal of Obstetrics 
and Gynecology, 196(6). DOI:10.1016/j.ajog.2007.03.021. 
4. Cheng YW, Shaffer BL, Nicholson JM, et al ( 2014). “Second Stage 
of Labor and Epidural Use: A Larger Effect Than Previously 
Suggested”. Obstet Gynecol, 123(3):pp.527–535. 
5. Đỗ Văn Lợi (2017). “Nghiên cứu hiệu quả giảm đau trong 
chuyển dạ của phương pháp gây tê ngoài màng cứng do và 
không do bệnh nhân tự điều khiển”. Luận án tiến sĩ y học, pp.89-
90. Đại học Y Hà nội. 
6. Phạm Thiều Trung (2011). “Nghiên cứu giảm đau trong chuyển 
dạ bằng gây tê ngoài màng cứng liên tục tại bệnh viện đa khoa 
TP. Cần Thơ”. Luận án CK cấp II, pp.39-45. Đại học Y Cần Thơ. 
7. Phan Thị Hằng, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang (2015). “Bí tiểu 
sau sinh và các yếu tố nguy cơ trên thai phụ có giảm đau sản 
khoa”. Tạp Chí Phụ Sản, 14(03):pp.59-62. 
8. Phan Thị Thu Ba (2013). “So sánh kết cục sinh ngả âm đạo giữa 
có và không giảm đau bằng gây tê ngoài màng cứng". Tạp chí Y 
học TP. HCM, 17(01):pp.141-148. 
9. Phùng Quang Thủy, Cao Ngọc Thành, Lê Quang Vinh (2012). 
“Nghiên cứu ứng dụng phương pháp đẻ không đau bằng 
phương pháp gây tê ngoài màng cứng”. Y Học Thực Hành, 
12(854):pp.29-32. 
10. Rimaitis K, Klimenko O, Rimaitis M, et al ( 2015). “Labor 
epidural analgesia and the incidence of instrumental assisted 
delivery”. Medicina, 51(2):pp.76-80. 
11. Singh SK, Yahya N, Misiran K, et al (2016). "Combined spinal-
epidural analgesia in labour: its effects on delivery outcome". 
Revista Brasileira De Anestesiologia, 66(3):pp.259-264. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ Em 79
12. Yancey MK, Pierce B, Schweitzer D, et al (1999). “Observations 
on labor epidural analgesia and operative delivery rates”. Am J 
Obstet Gynecol, 180(2Pt1):pp.353-9. 
13. Yee LM, Sandoval G, Bailit J, et al (2016). “Maternal and 
Neonatal Outcomes With Early Compared With Delayed 
Pushing Among Nulliparous Women”. The American College of 
Obstetricians and Gynecologists, 128(5):pp.1039-1047. 
Ngày nhận bài báo: 17/11/2017 
Ngày nhận phản biện: 25/12/2017 
Ngày bài báo được đăng: 30/03/2018