Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 1
KHẢ NĂNG TỒN TẠI VÀ DI CƯ CỦA TẾ BÀO TRONG GEL FIBRIN 
SAU KHI GHÉP TRÊN MẢNH NGÀ RĂNG ĐÃ XỬ LÝ 
Nguyễn Thị Ngọc Hạnh*, Đoàn Nguyên Vũ**, Trần Xuân Vĩnh***, Trần Lê Bảo Hà** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Gel fibrin là vật liệu khung nâng đỡ phù hợp cho sự tái tạo mô tủy. Tuy nhiên trong kĩ nghệ mô 
nha khoa hiện nay, ứng dụng của gel fibrin còn rất hạn chế. 
Mục tiêu: Mục tiêu của nghiên cứu này là tạo gel fibrin có tế bào và đánh giá sự tồn tại, di cư của tế bào 
trong cấu trúc này sau khi ghép trên mảnh ngà răng đã xử lý. 
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Các mảnh ngà răng người được tạo có kích thước khoảng 5 – 6 
mm, đường kính rãnh là 1mm. Tế bào gốc tủy răng được đưa lên khung nâng đỡ gel fibrin. Gel fibrin có tế bào 
gốc tủy răng và mô tủy nguyên được cấy lên mảnh ngà răng đã xử lý. Cố định các thành phần trên mảnh ngà 
răng và nuôi cấy in vitro 2 tuần. Sự tồn tạo và di cư của tế bào trong gel fibrin được đánh giá bằng kỹ thuật mô 
học và phản ứng PCR 
Kết quả: Kết quả cho thấy có sự tồn tại của tế bào trong cấu trúc sau 2 tuần ghép trên mảnh ngà răng đã xử 
lý và có sự di cư của tế bào trong mô tủy nguyên sang gel fibrin. 
Từ khóa: Gel fibrin, bệnh lý tủy, tồn tại, di cư. 
ABSTRACT 
THE SURVIVAL AND MIGRATION OF CELLS IN THE GEL FIBRIN-FORMING CELLS AFTER 
SEEDED HUMAN TREATED DENTIN MATRIX 
Nguyen Thi Ngoc Hanh, Doan Nguyen Vu, Tran Xuan Vinh, Tran Le Bao Ha 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 2 - 2016: 1 - 6 
Background: The fibrin gel has many useful characteristics for the pulp tissue regeneration but its 
application in dental engineering is still limited. 
Objective: The aims of this study are to conduct a cell containing fibrin gel and to evaluate the survival and 
migration of cells in this structure after seeded on human treated dentin matrix. 
Material and Methods: Firstly, the dentin slices from 5 – 6 mm in length and 1 mm diameter of drain were 
cut from human tooth. Dental pulp stem cells were seeded on fibrin gel. Secondly fibrin gel/cell structure and 
living pulp are seeded to the dentin slices. These slices then were fixed and cultured in vitro for 2 weeks. The 
survival and migration of cells in gel fibrin was evaluated by HE staining and PCR. 
Results: The results showed that the cells presented in fibrin gel/cell structure after two weeks. Some cells of 
living pulp tended to move into fibrin gel and proliferated together with dental pulp stem cells. 
Keywords: fibrin gel, survival, migration 
* Trường Cao đẳng Y tế Kiên Giang 
** Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia-thành phố Hồ Chí Minh 
***Bộ môn Nha khoa cơ sở, Khoa RHM, Đại học Y Dược, TpHCM 
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Trần Lê Bảo Hà ĐT: 0988575507 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 2
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh lý tủy là một bệnh khá phổ biến trong 
lĩnh vực nha khoa, và nội nha là phương pháp 
điều trị được áp dụng nhiều nhất. Răng sau nội 
nha sẽ mất đi khả năng nhận cảm với sự thay đổi 
của môi trường và khả năng sửa chữa của răng 
với những tổn thương sau đó. Chính vì vậy, nhu 
cầu đòi hỏi một liệu pháp khác nhằm phục hồi 
tốt hơn cho răng là cần thiết. 
Trên thế giới, khi tế bào gốc tủy răng người 
được phân lập lần đầu tiên vào năm 2000, cùng 
với sự phát triển của kĩ nghệ mô thì các nhà 
nghiên cứu đã bắt đầu hi vọng có thể tái tạo lại 
được mô ngà tủy tự nhiên thay thế cho phương 
pháp điều trị nội nha hiện tại, mở ra cuộc cách 
mạng cho sự tái tạo ngà tủy, hay nói cách khác là 
chiếc răng có hy vọng được sống lại(3). Ngà răng 
người có các phân tử tín hiệu và rất nhiều 
protein đã được chứng minh là quan trọng 
trong sự phát triển, khoáng hóa và tái tạo ngà 
răng. Khi được phóng thích, những yếu tố này 
đóng vai trò quan trọng trong sự thành lập 
ngà sửa chữa, một đáp ứng của phức hợp ngà 
tủy. Những nghiên cứu trước đây đã chứng 
minh ngà răng người đã xử lý (hTDM) có tính 
tương hợp sinh học cũng như hoạt tính sinh 
học thích hợp để làm khung nâng đỡ lý tưởng 
trong tái tạo răng(5). 
Khung nâng đỡ fibrin được sử dụng trong 
các nghiên cứu tái tạo mô sụn, tim mạch và thần 
kinh. Các đặc tính sinh học của gel fibrin phù 
hợp làm khung nâng đỡ như: tương hợp sinh 
học, đáp ứng miễn dịch thấp, phân hủy sinh học, 
dễ dàng thu nhận và xử lý, có thể tạo ra được 
nhiều hình dạng với nhiều kích thước khác 
nhau... Gel fibrin thu nhận từ máu của bệnh 
nhân nên đó là khung nâng đỡ tự thân, sẽ không 
độc, không gây viêm. Gel fibrin mềm mại nên có 
thể đưa vào buồng tủy dễ dàng(2,4,9). Với những 
tính năng này, gel fibrin là vật liệu khung nâng 
đỡ phù hợp cho sự tái tạo mô tủy. Tuy nhiên 
trong kĩ nghệ mô nha khoa hiện nay, ứng dụng 
của gel fibrin còn rất hạn chế. Vì vậy, chúng tôi 
thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu là tạo 
được cấu trúc gel fibrin có tế bào và đánh giá sự 
tồn tại, di cư của tế bào trong cấu trúc này. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng 
Gel fibrin từ huyết tương người; Tế bào gốc 
tủy răng người. 
Tạo mô hình nghiên cứu 
Xử lý răng và tạo mảnh ngà răng: 
Các mảnh ngà răng được tạo có chiều dài từ 
5-6 mm, đường kính rãnh là 1mm và được lần 
lượt khuấy trong PBS (Phosphat Buffered Saline 
(Gibco)) 1X 10 phút, trong EDTA 
(ethylenediaminetetraacetic acid - Sigma) 17% 10 
phút, trong axit citric 19% 1 phút. Sau đó, các 
mảnh ngà răng này được lắc trong PBS 1X 5-7 
ngày, tốc độ lắc là 120 vòng/phút. Cuối cùng, các 
mảnh ngà răng đã xử lý được thu nhận, làm khô, 
đóng gói và chiếu xạ ở Trung Tâm Nghiên Cứu 
và Triển Khai Công Nghệ Bức Xạ, Thành phố Hồ 
Chí Minh với liều chiếu xạ là 25 kGy(7, 8). 
Tạo cấu trúc gel fibrin/tế bào 
Gel fibrin có chứa tế bào bên trong được tạo 
bằng cách cho 250 µl huyết tương vào giếng, 
thêm 250 µl dung dịch CaCl2 40mM vào và thêm 
104 tế bào gốc tuỷ răng, huyền phù để tế bào 
phân bố đều trong gel. Sau 24 giờ, thu nhận cấu 
trúc gel fibrin/tế bào và ghép lên mảnh ngà răng. 
 Thu nhận mô tủy nguyên từ răng người nam 
Răng được tạo các rãnh dọc theo thân và 
chân với độ sâu vừa phải, không lộ tủy bằng 
máy cắt răng. Mô tủy nguyên được thu nhận 
trong tủ vô trùng theo các bước sau: khử trùng 
răng trong povidine trong 10 phút, rửa lại với 
PBS 1X (2 lần), đặt răng lên gạc vô trùng, dùng 
kéo cắt răng làm đôi theo các rãnh đã được tạo ra 
trước đó, thu nhận phần tủy buồng, cắt bỏ phần 
tủy chân gần chóp để tránh nguy cơ nhiễm 
khuẩn, cho vào 1 đĩa petri sạch có sẵn PBS 1X, 
dùng lưỡi dao phẫu thuật cắt mô tủy nguyên ra 
thành 2 phần. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 3
Ghép cấu trúc gel fibrin/tế bào lên mảnh ngà 
răng 
Chúng tôi thực hiện 3 nghiệm thức nghiên 
cứu, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần: 
 Nghiệm thức 1 (NT 1): Mảnh ngà răng + 
gel fibrin/tế bào + mô tủy nguyên 
 Nghiệm thức 2 (NT 2): Mảnh ngà răng + 
gel fibrin/tế bào 
 Nghiệm thức 3 (NT 3): Mảnh ngà răng + 
gel fibrin 
Cố định gel fibrin và mô tủy nguyên lên mảnh 
ngà răng 
Tùy theo thành phần của từng nghiệm thức, 
tiến hành đặt gel fibrin, gel fibrin/ tế bào và mô 
tủy nguyên lên rãnh của mảnh ngà răng. Cố 
định các thành phần ghép bằng cách đặt lưới 
thép không gỉ kích thước 1x1cm, vào từng giếng 
của đĩa 4 giếng, lên trên mảnh ngà răng, sao cho 
vừa chặt tay. 
Đánh giá sự tồn tại của tế bào 
Mô hình sau khi lấy ra sẽ được cố định trong 
dung dịch formalin 10% đệm phosphate. Sau đó, 
mẫu được khử khoáng, cắt lát và nhuộm H&E. 
Đánh giá sự di cư của tế bào 
Phần gel fibrin sau khi tách ra từ 3 nghiệm 
thức sau 2 tuần nghiên cứu sẽ được bảo quản 
trong môi trường nuôi cấy. Sau đó, thực hiện 
phản ứng PCR xác định biểu hiện gen SRY. 
Tế bào gốc tủy răng người được thu nhận từ 
người nữ, mô tủy nguyên được thu nhận từ 
người nam. Gen SRY là gen đại diện cho giới 
tính nam. Phản ứng PCR nhằm xác định có hay 
không sự hiện diện của tế bào người nam ở vùng 
các tế bào nữ trong cấu trúc gel fibrin/tế bào, 
thông qua sự có mặt của gen SRY. 
KẾT QUẢ 
Tạo cấu trúc gel fibrin/tế bào 
Kính hiển vi soi ngược được sử dụng để 
quan sát tế bào trong gel. 
Hình 1. Tế bào trong gel (40X) A: Tế bào sau khi đưa lên gel fibrin, B: Tế bào sau 24 giờ đưa lên gel fibrin, C: Bề 
mặt đĩa sau khi lấy gel fibrin ra. 
A B 
C 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 4
Hình 2. Tế bào bên trong gel fibrin sau 1 tuần: (A) NT 1; (C) NT 2 và sau 2 tuần: (B) NT 1; (D) NT 2 
2 1 F M L 
Hình 3. Kết quả PCR gen SRY mẫu gel sau 2 tuần, L: thang đánh giá; M: mô tủy nguyên người nam, F: mô tủy 
nguyên người nữ, 1: mẫu gel NT 1, 2: mẫu gel NT 2. 
Khi mới được cố định lên gel, tế bào có dạng 
tròn. Sau 24 giờ, tế bào có dạng trải dài. Sau khi 
lấy gel fibrin ra khỏi giếng, bề mặt giếng dưới 
kính hiển vi hầu như không thấy tế bào (Hình 1 
A, B, C). 
A B 
C D 
Gel fibrin/ tế bào Gel fibrin/ tế 
bào 
Gel fibrin/ tế bào 
Ngà Ngà 
Gel fibrin/ tế 
bào 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 5
Kết quả nhuộm H&E 
Ở cả NT 1 và NT 2, mật độ tế bào bên trong 
gel ở 1 tuần và 2 tuần đều tương đương nhau, 
khó nhận ra sự thay đổi. (Hình 2 A, B, C, D). 
Kết quả PCR 
Kết quả PCR (Hình 3) cho thấy 4 mẫu đều 
biểu hiện gen chứng nội GAPDH (97bp). Mẫu 
gel của NT 1 biểu hiện gen SRY (224bp) giống 
với mẫu chứng là mô tủy nguyên của người 
nam, chứng tỏ đã có tế bào của phần mô tủy 
nguyên trong mô hình in vitro di chuyển sang 
phần gel fibrin. Mẫu gel của NT 2 biểu hiện âm 
tính giống với mẫu chứng là mô tủy nguyên của 
người nữ, phù hợp với thí nghiệm, do NT 2 
không bổ sung mô tủy nguyên trong mô hình 
nghiên cứu. 
BÀN LUẬN 
Cấu trúc gel fibrin/tế bào 
Tế bào được đưa vào gel fibrin khi dung dịch 
fibrin còn tồn tại ở dạng lỏng (chưa hình thành 
gel). Khi đó, các tế bào huyền phù đều trong 
dung dịch fibrin. Khoảng 20 phút sau, dung dịch 
fibrin chuyển thành dạng gel, tế bào được bắt 
giữ bên trong gel. Dưới kính hiển vi soi ngược, 
có thể thấy tế bào phân bố đều trong gel fibrin. 
Khi mới được cố định lên gel, tế bào có dạng 
tròn do tế bào chưa bám dính và đang ở trạng 
thái co lại bởi ảnh hưởng của trypsin. Sau khi cố 
định tế bào lên gel fibrin, cần giữ gel trong tủ 
nuôi cấy ít nhất 24 giờ trước khi thu nhận. Đó là 
thời gian để tế bào thích nghi với môi trường 
mới và bám trải trên đó. 
Quan sát sau 24 giờ, tế bào bắt đầu có dạng 
bám trải trên khung nâng đỡ gel fibrin. Sau khi 
lấy gel fibrin ra khỏi giếng, quan sát bề mặt 
giếng dưới kính hiển vi, hầu như không thấy sự 
xuất hiện của tế bào. Điều này cho thấy, hiệu 
suất cố định tế bào lên gel fibrin cao. 
Sự tồn tại của tế bào 
Sau 2 tuần trong điều kiện nuôi cấy in vitro 
có thể quan sát thấy nhiều tế bào vẫn hiện diện 
bên trong gel. Ở cả NT 1 và NT 2, mật độ tế bào 
bên trong gel ở 1 tuần và 2 tuần đều tương 
đương nhau, khó nhận ra sự thay đổi. Điều này 
cho thấy các tế bào vẫn tồn tại bên trong gel. 
Kết quả nghiên cứu phù hợp với các kết luận 
trên thế giới vì gel fibrin đã được chứng minh là 
có khả năng hỗ trợ sự bám, tăng sinh và biệt hóa 
của tế bào. Christman (2004) và Zha (2008) đã 
chứng minh trên gel fibrin tế bào có thể tồn tại 
và phát triển được. Gel fibrin có cấu trúc không 
gian 3 chiều, các lỗ thông với nhau. Gel fibrin 
đóng vai trò như chất nền ngoại bào tạm thời, 
cung cấp môi trường cho tế bào phát triển. Ngoài 
ra, gel fibrin có vùng RGD (Arginine-glycine-
asparagine) là vùng cho phép các thụ thể của tế 
bào bám vào. Khi được đưa lên gel fibrin, tế bào 
được giữ lại trong chất nền ngoại bào này(1, 6) 
Theo Sharma (2014) và Jamey (2009), sự 
mềm mại và tương hợp sinh học tốt của gel 
fibrin là rất hiệu quả để tạo khung nâng đỡ cho 
tế bào. Hơn nữa, khung nâng đỡ fibrin còn có 
nhiều đặc tính như phân hủy sinh học, dễ dàng 
thu nhận và xử lý, có thể tạo ra được nhiều hình 
dạng với nhiều kích thước khác nhau. Gel fibrin 
thu nhận từ máu của bệnh nhân nên đó là khung 
nâng đỡ tự thân, sẽ không độc, không gây viêm. 
Không giống với hydrogel tổng hợp, fibrin 
không chỉ là khung nâng đỡ giúp phân phối tế 
bào một cách thụ động, mà nó còn chứa các nhân 
tố tăng trưởng đặc biệt như các thành phần đông 
máu, gồm fibronectin, axit hyaluronic và nhân tố 
von Willebrand(2, 4). 
Sự di cư của tế bào 
Kết quả PCR để đánh giá sự di cư của tế bào 
từ mô tủy nguyên người nam sang gel fibrin. 
Đồng thời với việc khuếch đại gen SRY (224 bp) 
chúng tôi khuếch đại gen GAPDH (97 bp). Đây 
là gen được thể hiện trên mọi tế bào, không phụ 
thuộc vào thể loại, trạng thái hoạt động hay 
nguồn gốc nên được dùng như một gen nội 
chuẩn để đánh giá chất lượng của sản phẩm 
DNA tách chiết. Kết quả cho thấy sự biểu hiện 
của GAPDH ở tất cả các mẫu đều rất rõ ràng. 
Điều này chứng tỏ khâu tách chiết và khuyếch 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 6
đại đạt độ nhạy. Cả 4 mẫu đều có chất lượng 
DNA được thu nhận tốt, đảm bảo tiêu chuẩn cho 
phản ứng, phản ứng PCR với chu trình thiết lập 
diễn ra bình thường, đồng thời không có sự khác 
biệt về lượng mẫu đã sử dụng trong mỗi phản 
ứng PCR. 
Hai mẫu đối chứng có kết quả hợp lý, mẫu 
mô tủy nguyên giới tính nam biểu hiện dương 
tính với gen SRY, mẫu mô tủy nguyên giới tính 
nữ không biểu hiện gen SRY. Về kết quả khuếch 
đại gen SRY, mẫu biểu hiện dương tính chỉ có 
nghiệm thức 1. Trong mô hình thí nghiệm, 
nghiệm thức 1 được bổ sung mô tủy nguyên 
người nam và gel fibrin có tế bào nữ. Kết quả 
cho thấy phần gel fibrin ở nghiệm thức 1 đã xuất 
hiện tế bào mang giới tính nam, từ đó kết luận 
rằng tế bào từ mô tủy nguyên của người nam đã 
di cư sang phần gel fibrin trong mô hình thí 
nghiệm. Nghiệm thức 2 âm tính với gen SRY, 
phù hợp với mô hình thí nghiệm, do nghiệm 
thức 2 không được bổ sung mô tủy nguyên của 
người nam, chỉ có gel fibrin có tế bào nữ. Kết quả 
PCR có thể đưa ra kết luận rằng tế bào từ mô tủy 
nguyên đã di cư sang cấu trúc gel fibrin/tế bào. 
KẾT LUẬN 
Kết quả nghiên cứu đã tạo được cấu trúc gel 
fibrin/tế bào từ huyết tương và dung dịch CaCl2 
với nồng độ cuối của CaCl2 là 20mM, và mật độ 
104 tế bào trên 500 µl gel. Có sự tồn tại của tế bào 
bên trong cấu trúc gel fibrin sau 2 tuần ghép trên 
mảnh ngà răng đã xử lý và sự di cư của tế bào 
trong mô tủy nguyên sang gel fibrin. 
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ bởi Bộ Khoa học và 
Công nghệ trong khuôn khổ đề tài mã số ĐTĐL.2012-G34. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Christman KL, Vardanian AJ, Fang Q., Sievers R. E., Fok H. 
H., et al. (2004), "Injectable fibrin scaffold improves cell 
transplant survival, reduces infarct expansion, and induces 
neovasculature formation in ischemic myocardium", J Am Coll 
Cardiol, 44 (3), pp.654-660. 
2. Cornelissen C. G., Dietrich M., Kruger S., Spillner J., Schmitz-
Rode T., et al. (2012), "Fibrin gel as alternative scaffold for 
respiratory tissue engineering", Ann Biomed Eng, 40 (3), 
pp.679-687 
3. Gronthos S., Mankani M., Brahim J., Robey P. G., Shi S. (2000), 
"Postnatal human dental pulp stem cells (DPSCs) in vitro and 
in vivo", Proc Natl Acad Sci USA, 97 (25), pp.13625-13630. 
4. Janmey P. A., Winer J. P., Weisel J. W. (2009), "Fibrin gels and 
their clinical and bioengineering applications", Journal of The 
Royal Society Interface, 6 (30), pp.1-10. 
5. Li R., Guo W., Yang B., Guo L., Sheng L., et al. (2011), "Human 
treated dentin matrix as a natural scaffold for complete 
human dentin tissue regeneration", Biomaterials, 32 (20), 
pp.4525-4538. 
6. Shaikh F. M., Callanan A., Kavanagh E. G., Burke P. E., Grace 
P. A., et al. (2008), "Fibrin: a natural biodegradable scaffold in 
vascular tissue engineering", Cells Tissues Organs, 188 (4), 
pp.333-346. 
7. Tran Le Bao Ha, Nguyen Thi Ngoc My, Doan Nguyen Vu 
(2015), "Fabrication and evaluation of human dentin as 
scafford for dental pulp stem cells", Tissue engineering and 
Regenerative medicine. 
8. Tran Le Bao Ha, Đoan Nguyen Vu, To Minh Quan, Phan Kim 
Ngoc, Nguyen Thi Thu, et al. (2011), "Study on Culture of 
Human Dental Pulp Stem Cells to apply in Tissue 
Engineering", Journal of Biomimetics, Biomaterials & Tissue 
Engineering, 11, pp.13-20. 
9. Zhao H., Ma L., Zhou J., Mao Z., Gao C., et al. (2008), 
"Fabrication and physical and biological properties of fibrin 
gel derived from human plasma", Biomed Mater, 3 (1), 
pp.15001-15010 
Ngày nhận bài báo: 27/01/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/02/2016 
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2016