Tài liệu Khả năng kháng khuẩn vibrio parahaemolyticus của dịch trích cây trâm bầu (combretum quadrangulare) trong điều kiện in vitro: An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 1 – 6 
1 
KHẢ NĂNG KHÁNG KHUẨN Vibrio parahaemolyticus CỦA DỊCH TRÍCH CÂY TRÂM BẦU 
(Combretum quadrangulare) TRONG ĐIỀU KIỆN IN VITRO 
Nguyễn Công Tráng1, Ngô Thị Kim Cúc1, Phan Ngọc Thịnh1 
1Trường Đại học Tiền Giang 
Thông tin chung: 
Ngày nhận bài: 05/08/2017 
Ngày nhận kết quả bình duyệt: 
08/10/2017 
Ngày chấp nhận đăng: 04/2018 
Title: 
A study on the anti-bacterial 
activity of extracts from sakae 
naa tree (Combretum 
quadrangulare) in Vitro 
Keywords: 
Sakae naa tree, 
hepatopancreas, EMS, herbal 
medicine, Vibrio 
parahaemolyticus 
Từ khóa: 
Cây trâm bầu, EMS, thảo 
mộc, Vibrio 
parahaemolyticus 
ABSTRACT 
Vibrio parahaemolyticus is a dangerous bacteria that caused a lot of diseases 
in a aquaculture, particularly EMS symtomp on the shrimp. Over the years, 
Sakae naa tree (Combretum quadrangulare) has been considered a precious 
herb because of its benefits to cure health humans and aqua...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 567 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Khả năng kháng khuẩn vibrio parahaemolyticus của dịch trích cây trâm bầu (combretum quadrangulare) trong điều kiện in vitro, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 1 – 6 
1 
KHẢ NĂNG KHÁNG KHUẨN Vibrio parahaemolyticus CỦA DỊCH TRÍCH CÂY TRÂM BẦU 
(Combretum quadrangulare) TRONG ĐIỀU KIỆN IN VITRO 
Nguyễn Công Tráng1, Ngô Thị Kim Cúc1, Phan Ngọc Thịnh1 
1Trường Đại học Tiền Giang 
Thông tin chung: 
Ngày nhận bài: 05/08/2017 
Ngày nhận kết quả bình duyệt: 
08/10/2017 
Ngày chấp nhận đăng: 04/2018 
Title: 
A study on the anti-bacterial 
activity of extracts from sakae 
naa tree (Combretum 
quadrangulare) in Vitro 
Keywords: 
Sakae naa tree, 
hepatopancreas, EMS, herbal 
medicine, Vibrio 
parahaemolyticus 
Từ khóa: 
Cây trâm bầu, EMS, thảo 
mộc, Vibrio 
parahaemolyticus 
ABSTRACT 
Vibrio parahaemolyticus is a dangerous bacteria that caused a lot of diseases 
in a aquaculture, particularly EMS symtomp on the shrimp. Over the years, 
Sakae naa tree (Combretum quadrangulare) has been considered a precious 
herb because of its benefits to cure health humans and aquatic animals. This 
study was conducted to explore anti-bacterial activities of extracts from the 
sakae naa tree on Vibrio parahaemolyticus, together with seeds, leaves and the 
skin of the tree in vitro condition. The finding showed that extracts from 
Combretum quadrangulare were resistant significantly on Vibrio 
parahaemolyticus with 13.19 mm of average diameter, in which the resistance 
from seed extracts was stronger than those leaves and bark of the tree with 
16.29 mm, 11.84 mm, and 11.44 mm of diameter, respectively. Anti-bacterial 
activities of extracts from sakae naa tree were in different ratios due to the 
mixed level of purified water. The experiment 1, 2, 3 and 4 was at 14.15 mm, 
13,25 mm, 14.09 mm, and 12.28 mm diameter accordingly. MIC of seed 
extracts from sakae naa tree (one per five mixed with purified water) on Vibrio 
parahaemolyticus was 7.5 µL/mL. 
TÓM TẮT 
Vibrio parahaemolyticus gây nhiều bệnh nguy hiểm cho động vật thủy sản, đặc 
biệt hiện nay là hội chứng EMS trên tôm. Cây trâm bầu (Combretum 
quadrangulare) từ lâu được xem là loại thảo dược quý chữa nhiều bệnh trên 
người và động vật thủy sản. Nghiên cứu này để xác định khả năng kháng V. 
parahaemolyticus của dịch trích lá, vỏ và hạt cây trâm bầu trong điều kiện in 
vitro. Nghiên cứu cho thấy, dịch trích cây trâm bầu kháng V. parahaemolyticus 
mạnh với đường kính vòng kháng khuẩn trung bình 13,19 mm. Trong đó, dịch 
trích hạt cho tính kháng mạnh hơn dịch trích từ lá và vỏ với đường kính vòng 
kháng khuẩn lần lượt là 16,29 mm, 11,84 mm và 11,44 mm. Tính kháng khuẩn 
của dịch trích cây trâm bầu ở các tỷ lệ phối trộn nước cất, giảm dần theo sự 
tăng dần nước cất, cụ thể, đường kính vòng kháng khuẩn ở NT1 là 14,15 mm, ở 
NT2 là 13,25 mm, ở NT3 là 14,09 mm và ở NT4 là 12,28 mm. MIC của dịch 
trích hạt trâm bầu (tỷ lệ trích 1/5) đối với Vibrio parahaemolyticus là 7,5 
µL/mL. 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 1 – 6 
2 
1. GIỚI THIỆU 
Khi diện tích nuôi trồng thủy sản ngày càng được 
mở rộng thì dịch bệnh là một trong những yếu tố 
gây khó khăn lớn nhất cho nghề nuôi. Các loài vi 
khuẩn gây bệnh trên động vật thủy sản hiện nay rất đa 
dạng và phức tạp với nhiều dạng khác nhau như 
Aeromonas sp., Edwardsiella sp., Vibrio sp., 
Streptococcus sp.,... Trong đó, loài gây bệnh nguy 
hiểm cho động vật thủy sản phổ biến là loài vi 
khuẩn Vibrio parahaemolyticus. Chúng có khả 
năng bùng phát và lây lan nhanh chóng vì thế vấn 
đề kiểm soát, tiêu diệt loài vi khuẩn này gặp rất 
nhiều khó khăn. 
Do tác nhân gây hội chứng EMS trên tôm là loài 
vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus khi bị nhiễm 
bacteriophage hiện nay ngày càng trở nên phổ 
biến, dẫn đến nhu cầu sử dụng kháng sinh để điều 
trị bệnh do loài vi khuẩn này gây ra cũng ngày 
một tăng cao, nếu không xử lý triệt để sẽ gây mất 
mùa và thiệt hại nặng nề, vì vậy nhu cầu sử dụng 
kháng sinh để điều trị bệnh do loài vi khuẩn này 
gây ra cũng ngày một tăng cao. Tuy nhiên, việc 
lạm dụng, sử dụng các loại hoá chất, kháng sinh 
không đúng quy cách, không đúng liều lượng đã 
gây ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe động vật thủy 
sản, môi trường sinh thái, an toàn vệ sinh thực 
phẩm và đặc biệt là tạo ra các chủng vi khuẩn 
kháng lại thuốc kháng sinh, làm giảm hiệu quả 
điều trị bệnh; đồng thời tăng nguy cơ nhiễm các 
loài vi khuẩn có khả năng kháng thuốc cho con 
người, động vật và tồn dư trong thịt động vật thủy 
sản (Thành Công, 2016). 
Hiện nay có rất nhiều loại thảo mộc như cây nhọ 
nồi, cây sài đất, cây chó đẻ, cây sim, củ tỏi... đang 
được ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn nuôi trồng 
thủy sản, giúp đảm bảo an toàn và hiệu quả cao 
trong việc điều trị bệnh cho động vật thủy sản. 
Đặng Thị Lụa và cs. (2015), Nguyễn Thị Hạnh và 
cs. (2015), đã thử nghiệm tác dụng kháng vi 
khuẩn Vibrio parahaemolyticus gây bệnh hoại tử 
gan tụy cấp (AHPND) trên tôm nuôi nước lợ của 
dịch chiết hạt sim, lá sim và dịch chiết cây diệp hạ 
châu đắng. Khả năng kháng Vibrio 
parahaemolyticus của cây màng tang (Litae 
cubela) đã được thử nghiệm trong nghiên cứu của 
Nguyễn Hải Vân và cs. (2015). Riêng cây trâm 
bầu, đặc biệt là bộ phận hạt có chứa nhiều tinh 
dầu và hợp chất flavonoid (Bùi Xuân Hào, 2013). 
Theo Adnyana et al. (2000), hạt cây trâm bầu có 
chứa 6 loại glucosides triterpene là ursane - (1 - 
4), oleanane - và các loại lupane có tác dụng diệt 
các loài vi khuẩn Alcaligenes faecalis, Bacillus 
cereus và Staphylococcus typhimurium. Bên cạnh 
đó, hạt cây trâm bầu còn diệt các loài ký sinh 
trùng gây bệnh trên các loài động vật thủy sản 
nuôi (Bùi Quang Tề, 2011). Tuy nhiên nghiên cứu 
về tính kháng Vibrio parahaemolyticus gây bệnh 
trên động vật thủy sản hiện nay của cây trâm bầu vẫn 
chưa được thực hiện. 
Trong nghiên cứu này, dịch trích từ cây trâm bầu 
được dùng để thử nghiệm, đánh giá khả năng 
kháng Vibrio parahaemolyticus, làm cơ sở khoa 
học cho việc chế tạo các sản phẩm thảo dược để 
phòng trị bệnh cho tôm nuôi. 
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1 Vật liệu nghiên cứu 
Các bộ phận (vỏ, lá, hạt) của cây trâm bầu được 
thu hái vào tháng 01/2017, tại xã Thân Cửu Nghĩa 
và Long An, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. 
Lá trâm bầu được thu hái là các lá xanh, già, 
không sâu bệnh, nấm mốc hay vàng úa. Vỏ cây 
trâm bầu được tách ra từ thân cây trâm bầu tươi 
khỏe, chọn vỏ cây già, không bị sâu đục thân. Trái 
trâm bầu được thu hái là những trái già, nguyên 
vẹn, sau khi thu hái, trái được tách lấy hạt và sử 
dụng hạt để nghiên cứu. 
Vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus được mua tại 
Phòng Thí nghiệm Bệnh học Thủy sản, Khoa 
Thủy sản, Trường Đại học Nông Lâm thành phố 
Hồ Chí Minh. 
Nguyên vật liệu khác bao gồm môi trường chọn 
lọc của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus là 
Chrom agar (thành phần gồm agar, peptone, dịch 
trích nấm men, chromogenic mix) được sử dụng 
để nuôi cấy vi khuẩn; môi trường MHA (thành 
phần gồm beef extract, casein thủy phân trong 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 1 – 6 
3 
acid, tinh bột, agar) dùng để khảo sát tính kháng 
khuẩn; môi trường BHIB (thành phần gồm brain 
heart infusion, pancreatic digest of casein, dịch 
trích nấm men, peptone, muối NaCl, agar, 
dextrose) dùng để xác định nồng độ ức chế tối 
thiểu (MIC). Nghiên cứu sử dụng các môi trường 
dựa theo tham khảo tài liệu của Lưu Thị Thanh 
Trúc (2014). Một số dụng cụ, thiết bị gồm pipet, 
đèn cồn, giấy lọc, ống nghiệm, tủ cấy vô trùng, tủ 
ủ, tủ sấy, máy quang phổ, nồi hấp, đĩa petri, que 
cấy, que trang, dụng cụ đục lỗ trên đĩa thạch, 
thước kẻ có chia vạch, đầu tips, kính hiển vi, v.v. 
Hóa chất gồm cồn 90o, nước muối sinh lý, nước 
cất, H2SO4, BaCl2.2H2O, các đĩa giấy tẩm hóa 
chất thực hiện phản ứng oxidase, bộ hóa chất 
nhuộm gram và H2O2 10%. 
2.2 Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1 Trích dịch cây trâm bầu 
Theo phương pháp Dodia và cs. (2008), các bộ 
phận cây trâm bầu sau khi thu hái tiến hành rửa 
sạch, sau đó sấy ở 60 0C trong 30 phút. Phân loại 
và xay nhuyễn thành bột thô. Ngâm bột nguyên 
liệu trong nước cất vô trùng theo các tỷ lệ khối 
lượng nguyên liệu với nước cất là 1/3 (NT1), 1/4 
(NT2), 1/5 (NT3) và 1/6 (NT4); sau đó hấp cách 
thủy hỗn hợp ở 98 0C trong 3 giờ; để hỗn hợp 
nguội, lọc qua giấy lọc để thu dịch trích và bảo 
quản dịch trích trong tủ lạnh. Trước mỗi lần sử 
dụng, dịch trích được khử trùng bằng tia UV trong 
thời gian 30 phút. 
2.2.2 Chuẩn bị vi khuẩn Vibrio 
parahaemolyticus 
Vi khuẩn thuần Vibrio parahaemolyticus sau khi 
mua về để ở nhiệt độ phòng 6 giờ; sau đó cấy lên 
đĩa thạch chứa môi trường Chrom agar; tiến hành 
ủ các đĩa ở nhiệt độ 30 0C trong 24 giờ. Sau đó, 
chúng ta kiểm tra tính thuần của vi khuẩn trước 
khi sử dụng bằng phương pháp quan sát màu sắc 
và hình dạng khuẩn lạc, kiểm tra tính di động, 
nhuộm gram, thực hiện phản ứng catalase, phản 
ứng oxidase. 
2.2.3 Khảo nghiệm tính kháng khuẩn 
Khảo nghiệm được thực hiện theo phương pháp 
Schillinger và Luke (1989), Sarkar et al. (1996). 
Chúng ta chuẩn bị vi khuẩn Vibrio 
parahaemolyticus có thời gian phát triển từ 18 - 
24 giờ. Sử dụng phương pháp đục lỗ trên đĩa 
thạch MHA với 20 ml MHA/đĩa, đục 5 lỗ trên mặt 
thạch MHA ở các vị trí 12 giờ, 3 giờ, 6 giờ, 9 giờ 
và ở vị trí trung tâm, mỗi lỗ có đường kính 4 mm. 
Chuẩn bị huyền phù vi khuẩn, so sánh với độ đục 
McFarland 0.5 (OD = 0,125; λ=550 nm), sau đó 
pha loãng huyền phù 100 lần trước khi sử dụng. 
Nhỏ 1 mL dung dịch huyền phù vi khuẩn lên đĩa 
thạch MHA, chan đều, đổ bỏ huyền phù dư và 
dùng que cấy trải chan huyền phù đến khi khô. 
Nhỏ 0,15 mL dịch trích vào mỗi lỗ (chỉ nhỏ 4 lỗ, 
lỗ còn lại nhỏ 0,15 mL nước muối sinh lý để làm 
đối chứng). Ủ đĩa trong tủ ủ ở 30 0C trong 24 giờ, 
sau đó ta tiến hành đo đường kính vòng vô khuẩn 
bằng thước đo có chia vạch (mm). 
2.2.4 Xác định nồng độ ức chế tối thiểu (MIC - 
Minimum inhibitory concentration) 
Do hạt cây trâm bầu cho tính kháng Vibrio 
parahaemolyticus mạnh hơn 2 bộ phận còn lại, 
nên chúng tôi quyết định chọn hạt để thử nghiệm 
xác định MIC. MIC được xác định theo tiêu chuẩn 
của NCCLS (2005), trích bởi Lưu Thị Thanh Trúc 
(2014). 
Dịch trích hạt trâm bầu ở tỷ lệ trích 1/5 với nước 
cất được xem là dung dịch mẹ, môi trường BHIB 
(được hấp vô trùng); pha loãng dung dịch mẹ với 
nước cất để đạt nồng độ pha loãng khác nhau. 
Chúng ta chuẩn bị huyền phù vi khuẩn Vibrio 
parahaemolyticus có thời gian phát triển từ 18 - 
24 giờ, so sánh với độ đục chuẩn McFarland 0.5 
(OD = 0,125 với λ = 550 nm); pha loãng huyền 
phù ra 100 lần để sử dụng. Sau đó đánh dấu ống 
nghiệm từ 1 đến n; từ ống 1 đến ống n nhỏ 1,98 
mL môi trường BHIB; từ ống 1 đến ống n - 1 nhỏ 
2 mL dịch trích hạt trâm bầu được pha loãng với 
các nồng độ tương ứng; riêng ống n không nhỏ 
dịch trích (ống đối chứng) mà nhỏ 2 mL nước cất 
vô trùng. Tiếp đến, chúng ta nhỏ tiếp 0,02 mL 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 1 – 6 
4 
huyền phù vi khuẩn vào tất cả ống nghiệm; lắc 
đều các ống nghiệm, ủ 22 - 24 giờ ở 30 0C. 
Đọc kết quả MIC, tìm MIC của dịch trích hạt trâm 
bầu cho vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus. Ống n 
(ống đối chứng) đục do vi khuẩn phát triển và 
không có dịch trích hạt trâm bầu. Một loạt ống 
nghiệm đục hướng về ống số n và một loạt ống 
nghiệm trong hướng về ống số 1. Quan sát dãy 
ống nghiệm, tìm xem ống nào cuối cùng trong dãy 
và ghi nhận nồng độ của dịch trích hạt trâm bầu ở 
ống đó (đơn vị tính là µL/mL). 
2.3 Xử lý số liệu 
Nghiên cứu dùng phần mềm SPSS 16.0 và Excel 
2010 để nhập và xử lý số liệu. Nghiên cứu phân 
tích ANOVA bằng phép thử Duncan để so sánh 
tính kháng khuẩn của dịch trích hạt, lá và vỏ cây 
trâm bầu ở các tỷ lệ phối trộn khác nhau giữa bột 
nguyên liệu cây trâm bầu với nước cất đối với vi 
khuẩn Vibrio parahaemolyticus. 
3. Kết quả và thảo luận 
3.1 Khả năng kháng Vibrio parahaemolyticus 
của dịch trích cây trâm bầu 
Với phương pháp đục lỗ thạch trên đĩa petri bằng 
môi trường MHA (Hình 1), chúng tôi đã khảo sát 
được tính kháng Vibrio parahaemolyticus bằng 
cách đo đường kính vòng kháng khuẩn của dịch 
trích cây trâm bầu từ các tỷ lệ phối trộn nguyên 
liệu ban đầu với nước cất cũng như từ các bộ phận 
của chúng lên chủng Vibrio parahaemolyticus và 
dựa theo tiêu chuẩn của Schillinger và Luke 
(1989) đánh giá đường kính vòng kháng khuẩn. 
Hình 1. Đĩa thạch khảo sát khả năng kháng Vibrio 
parahaemolyticus của dịch trích cây trâm bầu 
Bảng 2. Khả năng kháng Vibrio parahaemolyticus của dịch trích các bộ phận cây trâm bầu 
Bộ phận Đường kính vòng kháng khuẩn (mm) 
Vỏ 11,44 ± 0,19a 
Lá 11,84 ± 0,29a 
Hạt 16,30 ± 0,38b 
Ghi chú: Các giá trị trong bảng là giá trị trung bình và sai số chuẩn. Các giá trị trong cùng một cột có chứa các ký tự 
khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết quả đã trừ ra 4 mm đường kính lỗ thạch. 
Kết quả Bảng 2 cho thấy, tính kháng Vibrio 
parahaemolyticus của dịch trích cây trâm bầu 
giảm dần từ dịch trích hạt, lá và cuối cùng là vỏ 
với đường kính vòng kháng khuẩn lần lượt là 
16,30 mm; 11,84 mm và 11,44 mm. Khả năng 
kháng Vibrio parahaemolyticus của dịch trích hạt 
trâm bầu có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 
0,05) so với dịch trích lá và vỏ, tuy nhiên tính 
kháng Vibrio parahaemolyticus giữa dịch trích lá 
và vỏ trâm bầu có sự khác biệt không có ý nghĩa 
thống kê (p>0,05). Điều này cho thấy, khả năng 
kháng Vibrio parahaemolyticus của dịch trích hạt 
cây trâm bầu mạnh nhất so với vỏ và lá, riêng vỏ 
và lá trâm bầu thì dù sử dụng bộ phận nào cũng 
không làm ảnh hưởng đến khả năng kháng Vibrio 
parahaemolyticus. 
3.2 Xác định MIC của dịch trích hạt trâm bầu 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 1 – 6 
5 
Theo kết quả khảo sát thì khả năng kháng Vibrio 
parahaemolyticus của dịch trích cây trâm bầu là 
tốt nhất. Bên cạnh đó, do khả năng kháng khuẩn 
của dịch trích ở NT1, NT2 và NT3 là như nhau và 
nhằm thuận tiện trong quá trình lắng lọc dịch trích 
hạt cây trâm bầu cũng như nâng cao khả năng ứng 
dụng cây trâm bầu vào thực tiễn trong thời gian 
tới thì chúng tôi chọn tỷ lệ trích 1/5 để xác định 
MIC. 
Từ kết quả thăm dò, chúng tôi quyết định chọn 
dãy nồng độ 2,5; 5; 10; 20; 40; 80; 160; 320 
µL/mL để xác định MIC; dịch trích hạt trâm bầu ở 
tỷ lệ trích 1/5 với nước cất được xem là dung dịch 
mẹ và sau đó pha ra thành dãy nồng độ trên. Kết 
quả MIC đã xác định được MIC của dịch trích hạt 
trâm bầu đối với loài Vibrio parahaemolyticus là 
7,5 µL/mL. 
Thông qua kết quả khảo sát có thể nhận thấy, việc 
xác định MIC của dịch trích hạt cây trâm bầu 
cũng như việc kết hợp với tính kháng khuẩn của 
dịch trích cây trâm bầu đã mở ra hướng ứng dụng 
mới của cây trâm bầu trong thực tiễn nuôi trồng 
thủy sản thời gian tới. Từ đó, chúng ta có thể thấy 
được triển vọng ứng dụng cây trâm bầu thay thế 
kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản, tuy không 
thay thế hoàn toàn kháng sinh trong thực tiễn 
nhưng có thể góp một phần nhỏ trong việc điều trị 
bệnh cho một số loài động vật thủy sản; đặc biệt 
là khả năng ứng dụng phòng trị bệnh gan tụy, hội 
chứng EMS trên các loài tôm nuôi hiện nay. 
4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 
4.1 Kết luận 
Dịch trích cây trâm bầu có tính kháng mạnh đối 
với Vibrio parahaemolyticus với đường kính vòng 
kháng khuẩn 13,2 mm. 
Đường kính vòng kháng khuẩn của dịch trích hạt, 
vỏ và lá cây trâm bầu đối với Vibrio 
parahaemolyticus lần lượt là 16,29 mm; 11,44 
mm và 11,84 mm. Ở các tỷ lệ phối trộn bột 
nguyên liệu cây trâm bầu với nước cất 1/3, 1/4, 
1/5, 1/6 cho đường kính vòng kháng khuẩn lần 
lượt là 14,15 mm; 13,25 mm; 14,09 mm; 12,28 
mm. 
Đối với vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus, dịch 
trích từ hạt cây trâm bầu ở tỷ lệ 1/3 cho khả năng 
kháng mạnh nhất. 
Dịch trích từ hạt cây trâm bầu (tỷ lệ trích 1/5 với 
nước cất) ở nồng độ 7,5 µL/mL ức chế được vi 
khuẩn Vibrio parahaemolyticus. 
4.2 Khuyến nghị 
Chúng ta cần có thêm nghiên cứu về tính kháng 
khuẩn của dịch trích cây trâm bầu đối Vibrio 
parahaemolyticus trong điều kiện in vitro trong 
môi trường nuôi tôm để tìm ra khả năng ứng dụng 
của cây trâm bầu trong thực tiễn. Cần nghiên cứu 
thêm khả năng kháng khuẩn của dịch trích cây 
trâm bầu và xác định thêm MIC đối với các loài vi 
khuẩn khác gây bệnh cho động vật thủy sản như 
Streptococcus agalactiae, Edwardsiella ictaluri, 
Vibrio vulnificus, Aeromonas hydrophila, v.v. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Adnyana I. K, Yasuhiro T, Suresh A, Arjun H. B, 
Kim Qui T & Shigetoshi K. (2000). 
Quandranosides VI-XI, Six New Triterpene 
Glucosides from the seeds of Combretum 
quadrangulare. Chem. Pharm. Bull, 48(8), 
1114 - 1120. 
Bùi Xuân Hào. (2013). Góp phần tìm hiểu thành 
phần hóa học của lá cây trâm bầu - 
Combretum quadrangulare kurz. 
thanh-phan-hoa-hoc-cua-la-cay-tram-bau-
combretum-quadrangulare-kurz-37353/, truy 
cập ngày 30/5/2017. 
Bùi Quang Tề. (2011). Một số thảo dược thay thế 
kháng sinh. 
uocthiennhien, truy cập ngày 20/06/2017. 
Dodia, D. N., Patel, I. S. & Patel, G. M.. (2008). 
Botanical pesticides for pest management. 
Scientific publishere (India), 5, 276 - 282. 
Đặng Thị Lụa, Lại Thị Ngọc Hà & Nguyễn Thanh 
Hải. (2015). Tác dụng diệt khuẩn của dịch 
chiết lá sim và hạt sim (Rhodomyrtus 
tomentosa) đối với vi khuẩn gây bệnh hoại tử 
An Giang University Journal of Science – 2018, Vol. 19 (1), 1 – 6 
6 
cấp trên tôm nuôi nước lợ. Tạp chí Nghiên cứu 
Khoa học, 7, 1101 - 1108. 
Lưu Thị Thanh Trúc. (2014) Thực hành chuẩn 
đoán bệnh trên động vật thủy sản. TP. HCM: 
Nhà xuất bản Nông Nghiệp. 
Nguyễn Thị Hạnh & Đặng Thị Lụa. (2015). Tác 
dụng diệt khuẩn của cây diệp hạ châu đắng 
(Phyllanthus amarus) đối với vi khuẩn gây 
bệnh hoại tử gan tụy cấp trên tôm nuôi nước 
lợ. Hội nghị Khoa học trẻ Thủy sản toàn quốc 
lần thứ VI, RIA3, trang 5. 
Nguyễn Hải Vân, Caruso Domenico, Meile Jean-
Christophe, Trịnh Thị Trang, Nguyễn Ngọc 
Tuấn, Lebrun Marc, Chu Kỳ Sơn & Sarter 
Samira. (2015). Khả năng kháng khuẩn của 
cây màng tang (Litae cubela) ở Việt Nam và 
ảnh hưởng của tinh dầu lên đáp ứng sinh học 
của cá chép (Cyprinus carpio). Hội nghị Khoa 
học trẻ Thủy sản toàn quốc lần thứ VI, RIA3, 
trang 7. 
Sarker, M. G. A, Faruk, M. A. R & Uddin, U. U. 
(2002). Virulence and drug sensitivity of 
Flavobaterium columnare, the causative agent 
of columnaris disease, the causative agent of 
 columnaris disease. Biological Science, 5, 204 - 
207. 
Schillinger, V. and Luke, K.K. (1989). 
Antibacterial activity of Lactobacillus sake 
isolated from meat. Appl. Environ. Microbiol, 
55, 1091 - 1096. 
Thành Công. (2016). Cần tăng cường quản lý 
kháng sinh trong nuôi thủy sản. 
1/88241/An-toan-ve-sinh-thuc-pham/Can-
tang-cuong-quan-ly-khang-sinh-trong-nuoi-
thuy-san.aspx, truy cập ngày 30/5/2017. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 1569829400_01_nguyen_cong_trang_xpdf_5703_2189617.pdf 1569829400_01_nguyen_cong_trang_xpdf_5703_2189617.pdf