Tài liệu Kết quả phẫu thuật trật khớp háng bẩm sinh ở trẻ em từ 18 tháng đến 6 tuổi: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 95
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT TRẬT KHỚP HÁNG BẨM SINH
Ở TRẺ EM TỪ 18 THÁNG ĐẾN 6 TUỔI
Lê Phước Tân*, Ngô Hồng Phúc*, Bùi Hồng Thiên Khanh*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị trật khớp háng bẩm sinh bằng phẫu thuật Salter kèm cắt xương đùi
trong nhóm bệnh nhi từ 8 tháng đến 6 tuổi.
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu mô tả dọc tất cả bệnh nhân trật khớp háng bẩm sinh và phẫu thuật từ
01/2015 đến 01/2017 tại khoa Bỏng-Chỉnh hình bệnh viện Nhi Đồng 2
Kết quả: Có 38 trường hợp trẻ bị trật khớp háng bẩm sinh thỏa tiêu chuẩn lựa chọn. Nhóm tuổi nhỏ hơn 36
tháng chiếm tỷ lệ cao hơn 76,3%. Tỷ lệ nam: nữ là 1: 2,8. Đa số bệnh nhân bị trật khớp háng bên trái với tỷ lệ
68,4%. Đa số bệnh nhân đến khám bệnh là do dáng đi khập khiễng chiếm tỷ lệ 68,4%. Trật khớp háng độ 3 theo
phân loại của Tonnis chiếm tỷ lệ cao nhất là 68,4%. Tất cả bệnh nhận trật khớp háng trong nhóm nghiên cứu đều
cầ...
11 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 315 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả phẫu thuật trật khớp háng bẩm sinh ở trẻ em từ 18 tháng đến 6 tuổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 95
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT TRẬT KHỚP HÁNG BẨM SINH
Ở TRẺ EM TỪ 18 THÁNG ĐẾN 6 TUỔI
Lê Phước Tân*, Ngơ Hồng Phúc*, Bùi Hồng Thiên Khanh*
TĨM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị trật khớp háng bẩm sinh bằng phẫu thuật Salter kèm cắt xương đùi
trong nhĩm bệnh nhi từ 8 tháng đến 6 tuổi.
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu mơ tả dọc tất cả bệnh nhân trật khớp háng bẩm sinh và phẫu thuật từ
01/2015 đến 01/2017 tại khoa Bỏng-Chỉnh hình bệnh viện Nhi Đồng 2
Kết quả: Cĩ 38 trường hợp trẻ bị trật khớp háng bẩm sinh thỏa tiêu chuẩn lựa chọn. Nhĩm tuổi nhỏ hơn 36
tháng chiếm tỷ lệ cao hơn 76,3%. Tỷ lệ nam: nữ là 1: 2,8. Đa số bệnh nhân bị trật khớp háng bên trái với tỷ lệ
68,4%. Đa số bệnh nhân đến khám bệnh là do dáng đi khập khiễng chiếm tỷ lệ 68,4%. Trật khớp háng độ 3 theo
phân loại của Tonnis chiếm tỷ lệ cao nhất là 68,4%. Tất cả bệnh nhận trật khớp háng trong nhĩm nghiên cứu đều
cần cắt ngắn xương. Chiều đài đoạn xương đúi cắt ngắn chỉ từ 1 đến 2 cm, trung bình là 1,2 ± 0,3 cm. Chỉnh
xoay xương đùi ra trước quá mức chỉ thực hiện ở 55,3% trường hợp. Chỉ số ổ cối giảm rõ rệt sau mổ với độ giảm
là 13,1º, sự khác biệt này cĩ ý nghĩa thơng kê và sau mổ 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng. Biến chứng sau mổ ít gặp
trong đĩ tỷ lệ tái trật khớp là 7,9%, cĩ 26,3% trường hợp bị đau khớp từ vừa đến ít khi vận động, dấu
Trendelenburg gặp ở 15,6% trường hợp sau mổ. Đánh giá kết quả sau mổ ghi nhận, kết quả rất tốt và tốt đạt
được ở 84,2%, kết quả kém chiếm 7,9% các trường hợp sau mổ.
Kết luận: Phương pháp phẫu thuật là Salter + cắt ngắn xương đùi từ 1 đến 2 cm ở 100% trường hợp
giúp đạt kết quả rất tốt và tốt ở 84,2% trường hợp. Do đĩ cĩ nên chăng thực hiện kết hợp cắt ngắn xương
đùi kèm theo phẫu thuật cắt xương chậu Salter để giúp việc nắn khớp dễ hơn vào giảm biến chứng hoại tử
chỏm xương đùi sau mổ.
Từ khĩa: Trật hớp háng, phẫu thuật Salter.
ABSTRACT
OUTCOME OF SURGICAL MANAGEMENT OF CONGENITAL HIP DYSPLASIA IN
CHILDREN FROM 18 MONTH-OLD AND 6 YEARS-OLD
Le Phuoc Tan, Ngo Hong Phuc, Bui Hong Thien Khanh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 4- 2018: 95 - 105
Objectives: Evaluate the outcome of Salter operationin mangement of congenital hip dysplasia at Children’s
Hospital 2.
Methods: Study prospectively all the patient diagnosed one-sided congenital hip dysplasia was managed
with Salter operation from01/2015 to 01/2017.
Results: 38 cases of congenital hip replacement were selected. Age group less than 36 months accounted for
76.3%. Male: female is 1: 2.8. Most patients asr left-sided hip at 68.4%. The majority of patients come to the clinic
for limp gait, accounting for 68.4%. Congenital hip dysplasia of grade 3 by Tonnis accounted for the highest rate
of 68.4%. All hip arthroplasty patients in the study group needed to cut the femur. The length of the cut bone is
only 1 to 2 cm, the average is 1.2 ± 0.3 cm. Anterior excessive rotation repair was performed in only 55.3% cases.
* Bệnh viện Nhi Đồng 2. ** Đại Học Y Dươc TP. HCM.
Tác giả liên lạc: BS. Lê Phước Tân, ĐT: 0908227942, Email: letannd2@gmail.com.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Nhi 96
Acetabular index was significantly reduced postoperatively with the degree of 13.1º. This difference was
statistically significant, and after 3 months, 6 months, and 12 months. Postoperative recurrent rate was 7.9%,
and 26.3% of cases of hadmild to moderate joint pain. Trendelenburg was found in 15.6% of cases after surgery.
Evaluation of postoperative results, very good and good results achieved at 84.2%, bad results in less than 7.9% of
postoperative cases.
Conclusions: Salter operation with femur shortening from 1 cm to 2 cm in 100% of cases achieve very good
and good results in 84.2% of cases. Therefore, should femur shortening be performed routinely to help the Salter
operation easier and to reduce postoperative avascular necrosis.
Key words: Congenital hip dysplasia, Salter operation.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trật khớp háng bẩm sinh là sự di chuyển của
chỏm xương đùi ra khỏi ổ cối, cĩ kèm theo hoặc
khơng loạn sản ổ cối, gây ảnh hưởng rất lớn đến
chất lượng cuộc sống của trẻ(19,27). Dị tật này
chiếm tỉ lệ khoảng 1/1000 trẻ sinh ra sống(4,8), với
80% các trường hợp trật khớp háng bẩm sinh
gặp ở trẻ gái(26) và thường hay xuất hiện bên
trái(9), yếu tố gia đình cũng được ghi nhận(6). Trật
khớp háng bẩm sinh nhất là ở trẻ sơ sinh và nhũ
nhi vẫn là một đề tài thời sự thu hút các nhà
chỉnh hình nhi và đặc biệt lưu ý đến việc tầm
sốt bằng nhiều phương pháp (khám thường
quy tất cả trẻ mới sinh: siêu âm; X- Quang kiểm
tra) với mục đích phát hiện sớm và điều trị sớm
để cĩ kết quả tốt(14). Một yếu tố quan trọng trong
việc điều trị trật khớp háng bẩm sinh là thiết lập
một tình trạng ổn định của chỏm xương đùi sau
khi đã nắn chỉnh khớp(18). Phương pháp điều trị
trật khớp háng bẩm sinh hiện nay thay đổi tùy
theo lứa tuổi. Đối với trẻ từ 1 đến 6 tháng tuổi,
nẹp Pavnik được sử dụng để nắn lại khớp háng.
Trẻ từ 6 đến 18 tháng sẽ được nắn kín bĩ bột
hoặc mổ nắn trật theo đường mổ bên trong. Đối
với trẻ từ 18 tháng đến 6 tuổi, việc điều trị trật
khớp háng bẩm sinh bằng phương pháp bảo tồn
nắn trật hoặc phẫu thuật Ludloff khơng cịn hiệu
quả. Khi đĩ, phẫu thuật mở cắt xương chậu, cĩ
thể kèm với cắt xương đùi là lựa chon tốt nhất
cho bệnh nhi(11).
Phẫu thuật cắt xương chậu được Salter giới
thiệu vào năm 1961 (hay cịn gọi là phẫu thuật
Salter) giúp chỉnh lại vị trí thành phần ổ cối của
xương chậu(19). Đây là phẫu thuật mở cắt xương
giúp xoay ra sau và mở rộng ổ cối quanh một
trục cố định nhờ đĩ mái ổ cối cĩ thể bao phủ
chỏm xương đùi cả phía trên và phía trước(19,20).
Phẫu thuật này được thực hiện với mục đích làm
cho vùng bao phủ của chỏm xương đùi nhiều về
phía trước hơn và nhờ đĩ ít về phía sau hơn. Sự
thành cơng của phẫu thuật tùy thuộc vào mức
độ di động của khớp mu(2). Ngồi ra, phẫu thuật
cắt xương đùi được thực hiện kèm theo với mục
đích điều chỉnh biến dạng nghiêng trước quá
mức hay biến dạng vẹo ngồi của cổ xương đùi
và cắt ngắn chiều dài xương đùi để làm giảm áp
lực của chỏm xương đùi sau khi nắm trật vào ổ
cối(5). Trong báo cáo đầu tiên của Salter vào năm
1961, tác giả chỉ khuyến cáo sử dụng phẫu thuật
Salter cho trẻ từ 18 tháng đến 6 tuổi nhưng sau
đĩ tác giả này tiếp tục mở rộng cho những trẻ
lớn hơn và thanh thiếu niên(21). Bên cạnh phẫu
thuật cắt xương chậu Salter, cịn cĩ một số tác giả
sử dụng phẫu thuật cắt xương khác như phẫu
thuật cắt xương quanh bao khớp Pemberton(24)
hoặc như của các tác giả Steel (1973)(22),
Sutherland and Greenfield (1977)(23). Tuy nhiên
sự thành cơng của mỗi loại phẫu thuật phụ thuộc
rất nhiều vào kinh nghiệm của mỗi tác
giả(21,22,23,24). Tại bệnh viên Nhi Đồng 2, chúng tơi
thực hiện việc điều trị bảo tồn trật khớp háng
bẩm sinh với nẹp Pavnik hoặc phẫu thuật
Ludloff tùy lứa tuổi khi trẻ nhỏ hơn 18 tháng
tuổi. Trong những trường hợp điều trị bảo tồn
thất bại, phẫu thuật Ludloff thất bại hoặc bệnh
nhi được phát hiện bệnh trễ hơn 18 tháng tuổi,
chúng tơi sử dụng phẫu thuật cắt xương chậu
Salter kèm cắt ngắn xương đùi để điều trị bệnh.
Qua kết quả bước đầu đạt được, chúng tơi nhận
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 97
thấy phương pháp phẫu thuật này cĩ kết quả
khả quan, đặc biệt giúp giảm tỷ lệ hoại tử chỏm
xương đùi sau mổ. Hiện nay tại Việt Nam, vẫn
chưa cĩ nhiều nghiên cứu về điều trị trật khớp
háng ở trẻ em. Hơn nữa các nghiên cứu đa phần
này là hồi cứu số liệu và chủ yếu tập trung vào
kỹ thuật cắt xương chậu Salter. Cũng vì lý do đĩ,
chúng tơi nhận thấy cần tiến hành một nghiên
cứu khác với thiết kế nghiên cứu tiến cứu mơ tả
dọc tốt hơn và do một nhĩm nghiên cứu đồng
thuận phương pháp phẫu thuật trật khớp háng
bẩm sinh thực hiện qua đĩ đánh giá kết quả điều
trị trật khớp háng tại bệnh viện Nhi Đồng 2.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá kết quả điều trị trật khớp háng bẩm
sinh bằng phẫu thuật Salter kèm cắt xương đùi
trong nhĩm bệnh nhi từ 8 tháng đến 6 tuổi.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tơi thực hiện nghiên cứu tiến cứu mơ
tả dọc tất cả bệnh nhân được chẩn đốn trật
khớp háng bẩm sinh và phẫu thuật từ tháng 01
năm 2015 đến tháng 01 năm 2017 tại khoa Bỏng-
Chỉnh hình bệnh viện Nhi Đồng 2. Tiêu chuẩn
chọn bệnh trong nghiên cứu là: trẻ em từ 18
tháng đến ≤ 6 tuổi được chẩn đốn trật khớp
háng bẩm sinh, được người giám hộ đồng ý
tham gia vào nghiên cứu bằng văn bản, được
phẫu thuật Salter kèm cắt ngắn xương đùi để
điều trị trật khớp háng 1 bên, cĩ tái khám và theo
dõi sau mổ. Lý do chúng tơi chọn lứa tuổi từ 18
tháng đến ≤ 6 tuổi là vì đối với trẻ <18 tháng tuổi,
kết quả tốt cĩ thể đạt được bằng các biện pháp
khác và bệnh nhân cịn quá nhỏ gây khĩ khăn về
mặt kỹ thuật mổ. Đối với trẻ em> 6 tuổi, những
điều kiện tiên quyết của việc nắn trật và sự hài
hịa của mặt khớp thường khơng đáp ứng, do đĩ
chống chỉ định phẫu thuật Salter” (18,19).
Chúng tơi tiến hành nghiên cứu qua các
bước. Bước 1, chúng tơi chọn bệnh nhân theo
tiêu chuẩn chọn bệnh. Bước 2, chúng tơi giải
thích cho thân nhân về tình trạng bệnh, phương
pháp phẫu thuật, các biến chứng cĩ thể xảy ra
trong quá trình điều trị. Thân nhân ký cam kết
đồng ý phẫu thuật. Bước 3, chúng tơi thu thập số
liệu lâm sàng và cận lâm sàng dựa vào các biến
số nghiên cứu. Bước 4, chúng tơichuẩn bị bệnh
nhân trước mổ. Bước 5, chúng tơi tiến hành phẫu
thuật. Bước 6, chúng tơi tiếp tục theo dõi và
chăm sĩc sau mổ. Bước 7, chúng tơithực hiện tái
khám và đánh giá kết quả sau phẫu thuật.
Chúng tơi thu thập các dữ liệu lâm sàng
gồm: tuổi, giới; các yếu tố nguy cơ: tiền căn gia
đình, ngơi mơng, thiểu ối, con so, sinh đơi; lý do
nhập viện; triệu chứng lâm sàng; cận lâm sàng:
X- quang khung chậu thẳng, từ đĩ phân loại trật
khớp háng bẩm sinh theo Tonnis. Chúng tơi thực
hiện phẫu thuật Salter tĩm tắt như sau: Bệnh
nhân nằm ngửa với phần háng được kê cao. Gối
kê cao háng nên đặt dưới mào chậu nhưng
khơng đặt dưới mơng để tránh đẩy cơ mơng lên
khớp háng làm cản trở bộc lộ khuyết ngồi lớn. Vị
trí rạch da ở 1cm dưới mào chậu và dây chằng
bẹn kéo dài từ phía sau đến gai chậu trước trên.
Sau đĩ bộc lộ lần lượt 3 thành phần: đầu tiên là
mào chậu, thứ hai là khoang giữa cơ may và cơ
căng mạc đùi và thứ ba là phần giữa và bên của
thần kinh bì đùi trong, khâu chặt bao khớp là
một yếu tố quan trọng của phẫu thuật. Thực hiện
cắt xương chậu và chỉnh sửa xương chậu sau cắt,
ghép xương, cố định mảnh ghép. Phẫu thuật cắt
xương đùi để nắn chỉnh khớp và làm giảm áp
lực ở chỏm xương đùi, độ dài xương đùi cắt
ngắn khoảng 1 – 2 cm, xoay xương đùi nếu cần
và cố định xương lại bằng vít. Vết mổ được khâu
lại cẩn thận từng lớp sau khi đã cầm máu và
kiểm tra kỹ các vị trí cố định xương. Sau khi
khâu và băng vết mổ cẩn thận, bột được sử dụng
để cố định hai chân ở tư thế dạng và hơi gập.
Tập vật lý trị liệu sau mổ: theo phác đồ của bệnh
viện Nhi Đồng 2 để ngăn ngừa teo cứng khớp
sau tháo bột.
Chúng tơi đánh giá kết quả sau mổ dựa theo
tiêu chuẩn của Barrett được cải biên theo tiêu
chuẩn của McKay 1974(12).
Rất tốt: vững khớp, khơng đau khớp hơng ít,
khơng tập tễnh, dấu hiệu Trendelenburg, khơng
hạn chế vận động khớp. Tốt: vững khớp, đau
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Nhi 98
khớp hơng ít, cĩ tập tễnh ít, dấu hiệu
Trendelenburg (±), hạn chế vận động khớp ít.
Khá: Vững khớp, đau khớp hơng, tập tễnh,
dấu hiệu Trendelenburg (+), hạn chế vận động
khớp hoặc kết hợp các dấu hiệu trên.
Kém: Khơng vững khớp hoặc đau khớp
hơng, hoặc cả hai, dấu hiệu Trendelenburg (+).
Bệnh nhân được theo dõi sau mổ theo phác
đồ của bệnh viện Nhi Đồng 2 là sau mổ 3 tháng,
6 tháng, 12 tháng và 24 tháng. Sau mổ 3 tháng,
bột được tháo bỏ. Bệnh nhân được tập vật lý trị
liệu theo phác đồ của bệnh viện Nhi Đồng 2 cho
tới khi thấy rõ liền vị trí cắt xương và xương
ghép trên phim X quang. Đánh giá khi bệnh
nhân tái khám dựa trên: lâm sàng, dấu hiệu trật
khớp háng, dấu hiệu Trendelenburg, đau khớp
háng khi vận động; X quang khung chậu: chỉ số
ổ cối và các biến chứng như hoại tử chỏm xương
đùi, to cổ xương đùi.
Số liệu thơ trên bảng thu thập số liệu sẽ được
nhập vào máy tính bằng phần mềm Epidata 3.1
sau đĩ được xuất vào phần mềm Stata 13.0. Sử
dụng phần mềm Stata 13.0 để phân tích các số
liệu. Biến định lượng biểu hiện bằng số trung
bình ± độ lệch chuẩn, số trung vị (giá trị nhỏ
nhất – giá trị lớn nhất). Biến định tính được biểu
hiện bằng tần suất và tỷ lệ phần trăm. Phép kiểm
t – test để so sánh 2 trung bình nếu số liệu tuân
theo phân phối bình thường. Phép kiểm phi
tham số Mann – Whitney U dùng để so sánh 2
trung vị của 2 nhĩm độc lập nếu số liệu khơng
tuân theo phân phối bình thường. Phép kiểm
Kruskal-Wallis dùng để so sánh 3 số trung vị của
3 nhĩm độc lập nếu số liệu khơng tuân theo
phân phối bình thường. Phép kiểm Chi bình
phương (Chi-squard test) dùng để so sánh tỷ lệ
giữa các nhĩm trong nghiên cứu hoặc phép kiểm
chính xác Fisher (Fisher’s exact test) khi cĩ > 20%
tần số mong đợi trong bảng < 5. Phép kiểm Chi
bình phương McNemar để so sánh biến nhị
phân trước và sau can thiệp điều trị. Sự khác biệt
cĩ ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
KẾT QUẢ
Trong thời gian từ tháng 01 năm 2015 đến
tháng 01 năm 2017, chúng tơi ghi nhận được
38 trường hợp trẻ bị trật khớp háng bẩm sinh
thỏa tiêu chuẩn lựa chọn gồm ở lứa tuổi từ 18
tháng đến 6 tuổi và được điều trị bằng phẫu
thuật Salter.
Bảng 1. Đặc điểm dịch tễ học (n=38)
Dịch tễ học N %
Nam 10/38 26,3
Nữ 28/38 73,7
< 36 tháng 29/38 76,3
Trật khớp háng bên trái 26/38 68,4
Trật khớp háng bên phải 12/38 31,6
Tuổi trung bình: 29,7 tháng
Tuổi trung bình của nhĩm nghiên cứu là 29,7
tháng, nhĩm tuổi nhỏ hơn 36 tháng chiếm tỷ lệ
cao hơn 76,3%. Bệnh nhi nữ chiếm đa số với tỷ lệ
là 73,7%, tỷ lệ nam: nữ là 1: 2,8. Đa số bệnh nhân
bị trật khớp háng bên trái với tỷ lệ 68,4% và
khơng ghi nhận trường hợp nào bị tổn thương 2
bên khớp háng.
Bảng 2. Đặc điểm bệnh lý (n=38)
Đặc điểm bệnh lý N %
Dáng đi khập khiễng 26/38 68,4
Dấu Galeazzi và nếp mơng-đùi-kheo cao 38/38 100
Cĩ tiền căn bị trật khớp háng 9/38 23,7
Giới hạn dạng của khớp háng 12/38 31,6
Dấu Trendelenburg trước mổ 0/38 0
Đa số bệnh nhân đến khám bệnh là do dáng
đi khập khiễng chiếm tỷ lệ 68,4%, những bệnh
nhân này đều chưa từng đi khám và tập vật lý
trị liệu. Bệnh nhân cĩ tiền căn bị trật khớp
háng là tình huống hay gặp thứ 2 chiếm tỷ lệ
23,7%. Về biểu hiện lâm sàng, dấu Galeazzi và
nếp mơng-đùi-kheo cao gặp ở tất cả bệnh nhân
(100%), giới hạn dạng của khớp háng khơng phải
là dấu hiệu thường gặp (31,6%), khơng ghi nhận
dấu Trendelenburg trước mổ.
Bảng 3. Đặc điểm cận lâm sàng (n=38)
Đặc điểm cận lâm sàng N %
Trật khớp háng độ 3 theo phân loại của
Tonnis
26/38 68,4
Trật khớp háng độ 4 theo phân loại của
Tonnis
7/38 18,4
Hoại tử chỏm xương đùi trên phim X quang 1/38 2,6
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 99
Chỉ số ổ cối trung bình trước phẫu thuật là
40,6º, trung vị là 41º, thay đổi từ chỉ số ổ cối nhỏ
nhất là 28º đến chỉ số ổ cối lớn nhất là 52º. Chỉ số
ổ cối trung bình của nhĩm bệnh nhi nữ cao hơn
nhĩm bệnh nhi nam, tương tự, chỉ số ổ cối trung
bình nhĩm tuổi trên 36 tháng cao hơn nhĩm tuổi
dưới 36 tháng. Trật khớp háng độ 3 theo phân
loại của Tonnis chiếm tỷ lệ cao nhất là 68,4%, độ
4 chiếm tỷ lệ cao thứ 2 là 18,4%. Chúng tơi ghi
nhận 1 trường hợp hoại tử chỏm xương đùi trên
phim X quang chiếm tỷ lệ 2,6% thuộc độ 1 theo
phân loại hoại tử chỏm xương đùi của Bucholz
và Ogden. Và trường hợp này là trật khớp háng
độ 4 theo phân loại trật khớp háng của Tonnis.
Bảng 4. Đặc điểm điều trị (n=38)
Đặc điểm cận lâm sàng N %
Chỉ định phẫu thuật Salter do trật khớp
háng bẩm sinh trễ
28/38 73,7
Truyền máu 0/38 0
Cần cắt ngắn xương 38/38 100
Chỉnh xoay xương đùi ra trước quá mức 21/38 55,3
Thời gian mổ trung bình = 132,4 phút
Về chỉ định phẫu thuật Salter, hầu hết bệnh
nhận được phẫu thuật Salter là do phát hiện trật
khớp háng bẩm sinh trễ chiếm tỷ lệ 73,7%. Thời
gian mổ trung bình là 132,4 phút, máu mất trung
bình là 151,3 ml và khơng cĩ bệnh nhân nào phải
truyền máu. Tất cả bệnh nhận trật khớp háng
trong nhĩm nghiên cứu đều cần cắt ngắn xương.
Chiều đài đoạn xương đúi cắt ngắn chỉ từ 1 đến
2 cm, trung bình là 1,2 ± 0,3 cm. Chỉnh xoay
xương đùi ra trước quá mức chỉ thực hiện ở
55,3% trường hợp.
Bảng 5. Biến chứng và đánh giá kết quả sau mổ
(n=38)
N %
Biến chứng
Tái trật khớp 3/38 7,9
Bị đau khớp từ vừa đến ít khi vận động 10/38 26,3
Dấu Trendelenburg sau mổ 6/38 15,6
Đánh giá kết quả sau mổ
Rất tốt và tốt 32/38 84,2
Kém 3/38 7,9
Biến chứng sau mổ ít gặp trong đĩ tỷ lệ tái
trật khớp là 7,9%, cĩ 26,3% trường hợp bị đau
khớp từ vừa đến ít khi vận động, dấu
Trendelenburg gặp ở 15,6% trường hợp sau mổ.
Đánh giá kết quả sau mổ ghi nhận, kết quả rất
tốt và tốt đạt được ở 84,2%, kết quả kém chiếm
7,9% các trường hợp sau mổ.
Bảng 6. Chỉ số ổ cối trước và sau mổ
Chỉ số ổ cối Giá trị (º) P*
Trước mổ (n=38) 40,6 ± 5,8
<0,0001
Ngay sau mổ (n=38) 27,5 ± 3,3
Sau mổ 3 tháng (n=38) 24,1 ± 2,6
Sau mổ 6 tháng (n=38) 22,2 ± 2,0
Sau mổ 12 tháng (n=15) 21,1 ± 0,9
*: phép kiểm t bắt cặp.
Chỉ số ổ cối giảm rõ rệt sau mổ với độ giảm
là 13,1º, sự khác biệt này cĩ ý nghĩa thơng kê và
sau mổ 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng chỉ số ổ cối
tiếp tục giảm với độ giảm khơng nhiều như ngay
sau mổ và sự khác biệt đều cĩ ý nghĩa thơng kê.
100% bệnh nhi lành xương đùi tốt sau mổ và
khơng bị tình trạng khớp giả hoặc biến chứng
khác. Sự chênh lệch hai chi dưới sau mổ là 1 đến
2 cm, trung bình là 1,2 cm (± 0,3 cm). Sau 6 tháng
theo dõi thì sự chênh lệch này chỉ cịn từ 0,3 đến
1 cm, trung bình là 0,5 cm (± 0,2 cm). Đối với 15
trường hợp được theo dõi đến 12 tháng thì sự
chênh lệch được ghi nhận là 0,3 đến 0,5 cm,
trung bình là 0,4 cm (± 0,1 cm).
Bảng 7. Kết quả lâm sàng theo tiêu chuẩn McKay
Kết quả N (%)
Rất tốt 23 (60,5%)
Tốt 9 (23,7%)
Khá 3 (7,9%)
Kém 3 (7,9%)
BÀN LUẬN
Chúng tơi ghi nhận tuổi trung bình lúc phẫu
thuật trong nhĩm nghiên cứu là 29,7 ± 11,3
tháng, với tuổi trung vị là 26 tháng, tuổi lớn nhất
là 71 tháng và tuổi nhỏ nhất là 18 tháng. Nhĩm
tuổi từ 18 tháng đến 36 tháng chiếm đa số với tỷ
lệ là 76,3%. Tác giả Hồng Hải Đức nghiên cứu
trên 292 bệnh nhi bị trật khớp háng bẩm sinh
được phẫu thuật Salter tại Viện nhi trung ương
ghi nhận kết quả tuổi tại thời điểm phẫu thuật là
bệnh nhi tuổi từ 12 tháng đến 36 tháng cĩ 48
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Nhi 100
trường hợp chiếm tỷ lệ 16,4%, tuổi từ 3 đến 8
tuổi cĩ 212 trường hợp chiếm tỷ lệ 72,6%, bệnh
nhi trên 8 tuổi cĩ 32 trường hợp chiếm tỷ lệ
11%(13). Báo cáo của tác giả Nguyễn Ngọc Hưng
đối với 73 bệnh nhi bị trật khớp háng bẩm sinh
được phẫu thuật Salter cĩ sử dụng mảnh ghép
xương mác tại Viện nhi Trung Ương cĩ kết quả
tuổi như sau, 3 bệnh nhân (17,8%) cĩ tuổi 12 - 18
tháng, 60 bệnh nhân (82,2%) cĩ tuổi trên 18 đến
36 tháng tại thời điểm phẫu thuật và tuổi trung
bình được phẫu thuật là 22,4 tháng(17).
Như vậy tuổi trong nhĩm nghiên cứu của
chúng tơi cũng tương tự ghi nhận của các tác giả
khác ở Việt Nam là khoảng từ 2 tuổi rưỡi đến 3
tuổi và nhĩm tuổi dưới 36 tháng chiếm tỷ lệ đa
số và một số tác giả trên thế giới(7,25). Chúng tơi
ghi nhận trong nhĩm nghiên cứu tỷ lệ nữ là
73,7% cao hơn so với tỷ lệ nam là 26,3%. Tỷ lệ
nam: nữ được ghi nhận là 1:2,8. So với tác giả
Hồng Hải Đức trong một nghiên cứu ở 292
bệnh nhi bị trật khớp háng bẩm sinh được phẫu
thuật Salter từ tháng 1 năm 1991 đến tháng 12
năm 2003 ghi nhận 75,3% trường hợp là trẻ nữ,
tỷ lệ nam: nữ là 1:3(13).
Đối với 38 trường hợp khớp háng được phẫu
thuật trong nghiên cứu, chúng tơi ghi nhận chỉ
số ổ cối trước mổ trung bình là 40,6º ± 5,8, trung
vị là 41º, thay đổi từ 28º đến 52º. Tác giả Hồng
Hải Đức ghi nhận chỉ số ổ cối trước mổ trung
bình là 44,26º, thay đổi từ 31,7º đến 52,8º(13). Chỉ
số ổ cối trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Ngọc Hưng đối với 79 bệnh nhi bị trật khớp
háng bẩm sinh trung bình trước mổ là 42,463º ±
4,528, thay đổi từ 35,07º đến 52,09º và cĩ 6 khớp
háng cĩ chỉ số ổ cối trên 50º chiếm tỷ lệ 7,6%.
Nghiên cứu 36 bệnh nhi bị trật khớp háng bẩm
sinh được phẫu thuật Salter của Ünsala (2015)
ghi nhận chỉ số ổ cối trung bình trước mổ là
39,9º, thay đổi từ 35º đến 47º(1). El-Sayed (2009)
ghi nhận trong nghiên cứu với 55 bệnh nhi trật
khớp háng bẩm sinh được phẫu thuật Salter chỉ
số ổ cối trung bình trước mổ là 41,861º, thay đổi
từ 29º đến 54º(10).
Bảng 8. Chỉ số ổ cối trước mổ so với các nghiên cứu
Trung bình ± độ
lệch chuẩn
Nhỏ
nhất
Lớn
nhất
El-Sayed
(10)
41,861º 29º 54º
Ünsala
(1)
39,9º 35º 47º
Nguyễn Ngọc Hưng
(17)
42,463º ± 4,528 35,07º 52,09º
Hồng Hải Đức
(13)
44,26º 31,7º 52,8º
Chúng tơi 40,6º ± 5,8 28º 52º
Chúng tơi ghi nhận phân bố của các độ trật
khớp háng của 38 trường hợp trong nghiên cứu
lần lượt là độ 2 ghi nhận 5 trường hợp chiếm tỷ
lệ 13,1%, độ 3 ghi nhận 26 trường hợp chiếm tỷ
lệ 68,4% và độ 4 ghi nhận 5 trường hợp chiếm tỷ
lệ 18,4%, khơng ghi nhận trường hợp nào thuộc
độ 1.
Trong 34 trường hợp hồi cứu khớp háng bị
trật bẩm sinh được điều trị phẫu thuật Salter tại
Khoa Bỏng chỉnh hình bệnh viện Nhi Đồng 2 từ
tháng 01/2010 đến tháng 06/2014, tác giả Ngơ
Hồng Phúc ghi nhận phân bố bệnh nhi theo
phân loại của Tonnis như sau, 5 trường hợp
thuộc độ 2 chiếm tỷ lệ 14,7%, 24 trường hợp
thuộc độ 3 chiếm tỷ lệ 70,6% và 5 trường hợp
thuộc độ 4 chiếm tỷ lệ 14,7%(16).
Tác giả Nguyễn Ngọc Hưng báo cáo kết quả
phân loại Tonnis trong nghiên cứu của 79 khớp
háng được phẫu thuật Salter trên 73 bệnh nhi bị
trật khớp háng bẩm sinh ghi nhận 26 khớp thuộc
độ 3 chiếm tỷ lệ 32,9% và 53 khớp thuộc độ 4
chiếm tỷ lệ 67,1%(17). Bhuyan (2012) báo cáo phân
bố của các loại trật khớp háng theo Tonnis hay
độ nặng của trật khớp háng trước mổ bao gồm 4
trường hợp khớp háng thuộc độ 1 chiếm tỷ lệ
13,3%, 14 trường hợp khớp háng thuộc độ 2
chiếm tỷ lệ 46,6% và 12 trường hợp khớp háng
thuộc độ 3 chiếm tỷ lệ 40%(3). El-Sayed (2009) ghi
nhận trong nghiên cứu với 55 bệnh nhi trật khớp
háng bẩm sinh trong đĩ cĩ 71 trường hợp khớp
háng được phẫu thuật Salter ghi nhận kết quả
theo phân loại Tonnis là 28 trường hợp khớp
háng thuộc độ 3 chiếm tỷ lệ 39,4% và 43 trường
hợp khớp háng thuộc độ 4 chiếm tỷ lệ 60,6%(10).
Chúng tơi sử dụng phương pháp cắt xương
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 101
chậu của Salter và cĩ cắt ngắn xương đùi kèm
theo trong 100% trường hợp của nhĩm nghiên
cứu. Cắt ngắn xương đùi được thực hiện để việc
nắn chỉnh chỏm xương đùi vào ổ cối dễ dàng
hơn và bớt áp lực lên chỏm xương đùi gây biến
chứng hoại tử chỏm sau mổ. Do đĩ chúng tơi
chủ động cắt xương đùi tất cả các trường hợp
phẫu thuật Salter để điều trị trật khớp háng bẩm
sinh. Đặc biệt với những trường hợp trật nặng
thuộc độ 4 theo Tonnis, chỏm xương đùi ở rất
cao so với ổ cối. Chúng tơi phải chủ động thực
hiện cắt ngắn xương đùi trước, sau đĩ mới thực
hiện phẫu thuật cắt xương chậu Salter và nắn
khớp dễ dàng hơn. Chúng tơi cắt ngắn xương
đùi từ 1 đến 2 cm, trung bình là 1,2 cm (± 0,3 cm).
Khi nào chúng tơi ghi nhận trình trạng xoay ra
trước quá mức của đầu trên xương đùi, chúng
tơi mới thực hiện chỉnh xoay xương đùi kèm
theo. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ chỉnh xoay là
55,3%, tức là cĩ 21 trường hợp khớp háng phải
thực hiện thủ thuật này. Thời gian phẫu thuật
trung bình là 132,4 ± 22,2 phút lượng máu mất
trung bình là 151,3 ± 48,6 ml và khơng cĩ trường
hợp nào phải truyền máu.
Các phương pháp phẫu thuật được sử
dụng trong nghiên cứu của Tác giả Hồng Hải
Đức (2012) với 348 trường hợp khớp háng
được phẫu thuật trên 292 bệnh nhi bi trật
khớp háng bẩm sinh được ghi nhận như sau.
Phương pháp cắt xương chậu và tạo hình bao
khớp được thực hiện ở 165 trường hợp khớp
háng, trong đĩ cĩ 49 trường hợp ở độ tuổi từ
12 tháng đến 36 tháng và 116 trường hợp ở độ
tuổi từ 3 đến 8 tuổi. Phương pháp cắt xương
chậu, tạo hình bao khớp kèm cắt xương đùi
được thực hiện ở 183 trường hợp khớp háng,
trong đĩ cĩ 5 trường hợp ở lứa tuổi từ 12
tháng đến 36 tháng, 144 trường hợp ở độ tuổi
từ 3 đến 8 tuổi và 34 trường hợp trên 8 tuổi(13).
Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Ngọc
Hưng với 79 trường hợp khớp háng được
phẫu thuật Salter cĩ sử dụng mảnh ghép
xương mác đồng loại, cĩ 8 trường hợp khớp
hơng phải thực hiện cắt ngắn xương đùi kèm
theo chiếm tỷ lệ 10,1% và tất cả số bệnh nhân
này đều trên 24 tháng tuổi. Trong nghiên cứu
này, tác giả khơng sử dụng đinh Kirschner để
cố định mảnh ghép với xương chậu trong tất
cả các trường hợp. Về kỹ thuật mổ, khi bao
khớp được mở, cĩ một số thành phần trong
khớp được cắt rời với kết quả ghi nhận như
sau: cắt dây chằng trịn được thực hiện ở 79
trương hợp chiếm tỷ lệ 100%, cắt dây chằng
ngang được thực hiện ở 64 trường hợp chiếm
tỷ lệ 81, cắt sụn sợi rìa ổ cối được thực hiện ở
77 trường hợp chiếm tỷ lệ 97,5% và lấy bỏ tổ
chức mỡ được thực hiện ở 79 trường hợp
chiếm tỷ lệ 100%(17). Bhuyan (2012) nghiên cứu
trên 25 bệnh nhi bị trật khớp háng bẩm sinh
với 30 trường hợp khớp háng được phẫu
thuật, tất cả các trường hợp khớp háng được
phẫu thuật trong nghiên cứu này đều được sử
dụng kỹ thuật cắt xương chậu cĩ kèm cắt ngắn
và xoay xương đùi. Máu mất trung bình trong
nghiên cứu này là 220 ml (từ 200 đến 250 ml)
và thời gian phẫu thuật trung bình là 2,5 giờ
(từ 2,25 đến 2,75 giờ)(3). El-Sayed (2009) trong
nghiên cứu với 71 trường hợp khớp háng
được phẫu thuật trên 55 bệnh nhi bị trật khớp
háng bẩm sinh báo cáo kỹ thuật mổ gồm 100%
trường hợp thực hiện cắt xương chậu theo
Salter và cĩ 53 bệnh nhân được thực hiện cắt
ngắn xương đùi kèm theo chiếm tỷ lệ 96,3%.
Cĩ 2 trường hợp phải sử dụng dây Kirschner
để cố định mảnh ghép ở xương chậu. Cắt
chỉnh xoay ra trước quá mức của đầu trên
xương đùi được thực hiện ở 55 khớp háng
chiếm tỷ lệ 77,4%. Cịn cắt chỉnh biến dạng
vẹo trong của xương đùi chỉ thực hiện ở 5
trường hợp khớp háng chiếm tỷ lệ 7%. Thời
gian mổ trung bình là 115 phút (từ 90 đến 150
phút). Lượng máu mất trung bình là 180 ml
(từ 125 đến 290 ml)(10).
Như vậy nghiên cứu chúng tơi cĩ điểm hơi
khác so với các tác giả là chúng tơi chủ động cắt
ngắn xương đùi trong tất cả các trường hợp
phẫu thuật cắt xương chậu Salter. Mục đích của
việc cắt xương đùi là giúp tạo thuận cho lợi cho
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Nhi 102
việc đưa chỏm xương đùi vào ổ cối và giúp giảm
áp lực lên chỏm xương đùi. Phương pháp cắt
ngắn xường đùi này cũng được tác giả Bhuyan
(2012) thực hiện ở 30 trường hợp khớp háng bị
trật với chiều đài cắt ngắn là 1 đến 2 cm(3). Tương
tự chúng tơi, cắt ngắn với chiều dài từ 1 đến 2
cm, trung bình là 1,2 cm. Sau mổ chúng tơi cĩ ghi
nhận sự chênh lệch về chiều dài của 2 chi dưới
nhưng sự chênh lệch này khơng nhiều và khơng
ảnh hưởng nhiều đến vận động và dáng đi của
hai chân. Sau 6 tháng theo dõi sau mổ, chúng tơi
ghi nhận sự chênh lệch này khơng cịn đáng kể
nữa (trung bình 0,5 cm). Chúng tơi tiếp tục theo
dõi được 15 trường hợp sau mổ đến 12 tháng ghi
nhận được sự chênh lệnh 2 chi dưới chỉ cịn
trung bình là 0,4 cm (± 0,1 cm), thay đổi từ 0,3
đến 0,5 cm. Như vậy cĩ thể thấy chiều dài của
chi dưới bên phẫu thuật từ từ được cải thiện dần
và cĩ một yếu tố chúng tơi ghi nhận thêm là sự
chênh lệch của 2 chi dưới này khơng ảnh hưởng
đến sự đi lại của bệnh nhi và khơng gây phiền
hà cho bệnh nhi và thân nhân bệnh nhi. Tỷ lệ cắt
ngắn xương của Hồng Hải Đức (2012) là
52,5%(13), cịn nghiên cứu của El-Sayed (2009) thì
tỷ lệ cắt ngắn xương là 96,3% cũng rất cao(10).
Bảng 9. Phương pháp phẫu thuật so với các nghiên
cứu
Phương pháp phẫu
thuật
Salter + cắt ngắn
xương đùi
Salter + xoay
xương đùi
El-Sayed
(10)
96,3% 84,4%
Bhuyan
(3)
100% 100%
Hồng Hải Đức
(13)
52,5% 0
Chúng tơi 100% 55,3%
Kết quả của chúng tơi tương tự tác giả
Nguyễn Ngọc Hưng trong nghiên cứu gồm 79
trường hợp khớp háng được phẫu thuật Salter cĩ
sử dụng mảnh ghép xương mác đồng loại ghi
nhận chỉ số ổ cối trung bình ngay sau mổ, sau 3
tháng, 6 tháng, 12 tháng, 24 tháng lần lượt là
25,759º, 22,795º, 21,621º, 20,385º và 19,278º và tác
giả này cũng khơng đánh giá chỉ số CE. Theo kết
quả của nghiên cứu này, sự thay đổi các chỉ số ổ
cối trên đều khác nhau cĩ ý nghĩa thơng kê(17).
Ngồi ra tác giả này cịn ghi nhận sau 24 tháng
độ giảm của chỉ số ổ cối khơng cịn khác nhau cĩ
ý nghĩa về mặt thống kê nữa(17). Tác giả Hồng
Hải Đức qua 348 trường hợp khớp háng được
phẫu thuật Salter ghi nhận kết quả chỉ số ổ cối
ngay sau mổ, sau 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng lần
lượt là 26,67º, 23,53º, 22,16º, 20,92º(13). Tác giả này
cũng khơng đánh giá chỉ số CE. Trong 45 trường
hợp khớp háng được phẫu thuật của 36 bệnh nhi
bị trật khớp háng bẩm sinh, Ünsala (2015) ghi
nhận chỉ số ổ cối trên phim X Quang trước mổ là
39,9° và giảm xuống cịn 18,52º của lần tái khám
cuối cùng với thời gian theo dõi trung bình là
41,8 tháng, thay đổi từ 10º đến 30º. Sự khác nhau
trung bình giữa chỉ số ổ cối trước mổ và lần tái
khám gần nhất là 21,404º ± 0,832. Tác giả cịn ghi
nhận sự liên quan giữa giai đoạn theo dõi và tỷ
lệ phần trăm chỉ số ổ cối được hồi phục (r=0,34,
p<0,05). Như vậy cĩ nghĩa là tỷ lệ phần trăm chỉ
số ổ cối được hồi phục sẽ tăng cùng với thời gian
theo dõi tăng(1).
Bảng 10. Chỉ số ổ cối sau mổ so với các nghiên cứu
Chỉ số ổ cối
Ngay sau
mổ
Sau mổ 3
tháng
Sau mổ 6
tháng
Sau mổ
12 tháng
El-Sayed
(10)
20,48° - - -
Bhuyan
(3)
21° - - -
Nguyễn Ngọc
Hưng
(17)
25,759º 22,795º 21,621º 20,385º
Chúng tơi 27,5º 24,1º 22,2º 21,1º
Chúng tơi ghi nhận chỉ số ổ cối ngay sau mổ
và sau mổ 3 tháng, 6 tháng. Do thời gian nghiên
cứu ngắn chỉ 2 năm, chúng tơi khơng thể ghi
nhận thêm chỉ số ổ cối sau mổ 12 tháng và 24
tháng. Chúng tơi vẫn đang tiếp tục thực hiện
điều này và hy vọng sẽ sớm cĩ một báo cáo cập
nhật về theo dõi lâu dàn đối với nhĩm nghiên
cứu này. Chỉ số ổ cối trung bình ngay sau mổ,
sau mổ 3 tháng và sau mổ 6 tháng được ghi nhận
lần lượt là 27,5º, 24,1º và 22,2º. Độ giảm của chỉ
số ổ cối ngay sau mổ so với trước mổ là 13,1º, sau
3 tháng so với ngay sau mổ là 3,4º, sau 6 tháng so
với sau 3 tháng là 1,9º. Và chỉ số ổ cối của 15
trường hợp được theo dõi đến 12 tháng so với
sau 6 tháng là 21,1º so với 22,3º. Tất cả độ giảm
này đều cĩ ý nghĩa về mặt thơng kê (p<0,0001)
theo kiểm định t bắt cặp cho thấy sự cải thiện rất
tốt của khớp háng sau phẫu thuật. Bhuyan (2012)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 103
với 30 trường hợp khớp háng được phẫu thuật,
ghi nhận chỉ số ổ cối trung bình giảm từ 42°±5°
trước mổ xuống 21°±2° sau mổ. Chỉ số CE trung
bình sau mổ là 23,5°, thay đổi từ 21° đến 26°(3). El-
Sayed (2009) trong nghiên cứu với 71 trường hợp
khớp háng được phẫu thuật với thời gian theo
dõi trung bình là 5 năm 4 tháng ghi nhận chỉ số ổ
cối giảm từ 41,86° trước mổ xuống 20,48° ngay
sau mổ và 16,78° ở lần tái khám gần nhất và sự
khác nhau đều cĩ ý nghĩa thống kê(10). Như vậy
chỉ số ổ cối sau mổ giảm tốt sau mỗi lần tái khám
và cĩ ý nghĩa thống kê, điều này cũng được ghi
nhận qua tất cả nghiên cứu của các tác giả tại
Việt Nam cũng như trên thế giới. Nghiên cứu
của chúng tơi cịn cĩ phần hạn chế hơn các tác
giả khác vì chỉ theo dõi được các bệnh nhi sau
mổ 6 tháng thơi ngắn hơn thời gian theo dõi của
các tác giả khác.
Chúng tơi ghi nhận kết quả của biến chứng
khi theo dõi sau mổ của nhĩm nghiên cứu gồm
cĩ: 3 trường hợp bán trật (7,9%), 3 trường hợp
trật khớp tái phát (7,9%), 10 trường hợp đau
khớp khi vận động (26,3%), 2 trường hợp hoại tử
chỏm xương đùi (5,3%), 1 trường hợp to cổ
xương đùi (2,6%) và 6 trường hợp cĩ dấu hiệu
Trendelenburg (15,6%). Kết quả lâm sàng sau
mổ đước đánh giá theo tiêu chuẩn của McKay
(1974) gồm 4 mức độ(12). Kết quả được xem là rất
tốt khi cĩ tình trạng vững khớp, khơng đau khớp
hơng ít, khơng tập tễnh, dấu hiệu
Trendelenburg, khơng hạn chế vận động khớp.
Kết quả được xem là tốt khi cĩ tình trạng vững
khớp, đau khớp hơng ít, cĩ tập tễnh ít, dấu hiệu
Trendelenburg (±), hạn chế vận động khớp ít.
Kết quả được xem là khá khi cĩ tình trạng vững
khớp, đau khớp hơng, tập tễnh, dấu hiệu
Trendelenburg (+), hạn chế vận động khớp hoặc
kết hợp các dấu hiệu trên. Cuối cùng kết quả
được đánh giá là kém khi cĩ tình trạng khơng
vững khớp hoặc đau khớp hơng, hoặc cả hai,
dấu hiệu Trendelenburg (+)(12). Qua 38 trường
hợp trật khớp háng được phẫu thuật, chúng tơi
ghi nhận kết quả rất tốt ở 23 trường hợp (60,5%),
kết quả tốt ở 9 trường hợp (23,7%), kết quả khá ở
3 trường hợp (7,9%) và kết quả kém ở 3 trường
hợp (7,9%). Đối với 3 trường hợp cĩ kết quả
kém, chúng tơi đang lên phương án can thiệp
phẫu thuật lại cho bệnh nhi. Các trường hợp cịn
lại vẫn đang tiếp tục theo dõi thêm.
Tác giả Hồng Hải Đức qua 348 trường hợp
khớp háng được phẫu thuật Salter, kết quả lâm
sàng đánh giá trên 287 trường hợp khớp háng
theo dõi được sau mổ. Kết quả lâm sàng ghi
nhận dấu hiệu Trendelenburg cĩ 49 trường hợp
chiếm tỷ lệ 17,1%, dáng đi lạch bạch ghi nhận 27
trường hợp chiếm tỷ lệ 9,4%, trật khớp tái phát
ghi nhận ở 19 trường hợp chiếm tỷ lệ 6,6%, bán
trật khớp ghi nhận ở 12 trường hợp chiếm tỷ lệ
4,2% và đau khớp háng khi vận động ghi nhận ở
9 trường hợp chiếm tỷ lệ 3,1%. Ngồi ra các biến
chứng khác như hoại tử chỏm xương đùi ghi
nhận ở 13 trường hợp khớp háng (4,5%) và to cổ
xương đùi ghi nhận ở 8 trường hợp khớp háng
(2,8%). Kết quả chung dựa theo tiêu chí của tác
giả được ghi nhận như sau, kết quả tốt ở 62
trường hợp chiếm tỷ lệ 21,6%, kết quả khá ở 194
trường hợp chiếm tỷ lệ 67,6% và kết quả kém ở
31 trường hợp chiếm tỷ lệ 10,8% (13). Tác giả
Nguyễn Ngọc Hưng trong nghiên cứu gồm 79
trường hợp khớp háng được phẫu thuật Salter cĩ
sử dụng mảnh ghép xương mác đồng loại ghi
nhận kết quả lâm sàng sau mổ như sau. Hoại tử
chỏm xương đùi ghi nhận ở 5 trường hợp chiếm
tỷ lệ 6,3%, trong đĩ cĩ 3 trường hợp thuộc độ 3
và 2 trường hợp thuộc độ 4 theo phân loại
Tonnis. Cĩ 2 trường hợp khớp hơng (2,5%) rộng
đầu và cổ xương đùi (coxa magna) tại thời điểm
kiểm tra sau cùng, trong đĩ cĩ 1 trường hợp
thuộc độ 3 và 1 trường hợp thuộc độ 4 theo phân
loại Tonnis. Kết quả sau cùng ghi nhận theo tiêu
chuẩn của Mckay là rất tốt cĩ 53 trường hợp
(67,1%), tốt cĩ 20 trường hợp (25,3%), khá cĩ 3
trường hợp (3,8%) và kém cĩ 3 trường hợp
(3,8%). Thời gian theo dõi sau mổ trung bình của
tác giả là 38 tháng (25 đến 51 tháng)(17).
Nghiên cứu của chúng tơi cĩ ưu điểm là sử
dụng thiết kế nghiên cứu tiến cứu mơ tả dọc
và tất cả phẫu thuật trên bênh nhi trong
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018
Chuyên Đề Ngoại Nhi 104
nghiên cứu đều do một bác sĩ phẫu thuật thực
hiện. Do đĩ, kết quả nghiên cứu của chúng tơi
ghi nhận cĩ tính khách quan và tốt hơn so với
các thiên kế nghiên cứu hồi cứu của các tác giả
khác. Ngồi ra, phương pháp phẫu thuật
chúng tơi sử dụng là cắt ngắn xương đùi thực
hiện kèm theo ở tất cả các trường hợp phẫu
thuật cắt xương chậu Salter cho thấy giúp
giảm tỷ lệ biến chứng hoại tử chỏm xương đùi
sau mổ so với các tác giả khác.Tuy nhiên
nghiên cứu này cũng cịn cĩ nhiều hạn chế.Số
lượng bệnh nhi trong nghiên cứu chỉ cĩ 38
trường hợp, cịn tương đối nhỏ. Do đĩ kết quả
nghiên cứu chưa thể đại diện cho dân số mẫu
là các bệnh nhi bị trật khớp háng bẩm sinh.
Thời gian theo dõi sau mổ của nghiên cứu khá
ngắn chỉ 6 tháng sau mổ và chỉ 15 trường hợp
theo dõi đến 12 tháng cho nên kết quả nghiên cứu
vẫn chưa thể đánh giá hết được ưu và khuyết
điểm của phương pháp phẫu thuật này.
KẾT LUẬN
Qua 38 trường hợp nghiên cứu, chúng tơi
ghi nhận phương pháp phẫu thuật là Salter + cắt
ngắn xương đùi từ 1 đến 2 cm ở 100% trường
hợp giúp chỉ số ổ cối giảm từ 40,6º xuống cịn
27,5º ngay sau mổ và tiếp tục giảm sau 3 tháng, 6
tháng và 12 tháng, cĩ ý nghĩa thống kê. Kết quả
rất tốt và tốt đạt được ở 84,2% trường hợp. Do đĩ
cĩ nên chăng thực hiện kết hợp cắt ngắn xương
đùi kèm theo phẫu thuật cắt xương chậu Salter
để giúp việc nắn khớp dễ hơn vào giảm biến
chứng hoại tử chỏm xương đùi sau mổ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Banskota AK, Paudel B, Pradhan I (2005) "Results of
simultaneous open reduction and Salter innominate osteotomy
for developmental dysplasia of the hip" (2), pp.126.
2. Berkeley ME, Dickson JH, Cain TE. (1984) "Surgical therapy for
congenital dislocation of the hip in patients who are twelve to
thirty-six months old". JBJS, 66, (3), pp.412-420.
3. Bhuyan BK (2012) "Outcome of one-stage treatment of
developmental dysplasia of hip in older children". Indian journal
of orthopaedics, 46, (5), pp.548.
4. Bưhm P, Brzuske A (2002) "Salter innominate osteotomy for the
treatment of developmental dysplasia of the hip in children:
results of seventy-three consecutive osteotomies after twenty-six
to thirty-five years of follow-up". JBJS, 84, (2), pp.178-186.
5. Canale ST, Beaty JH (2012) Campbell's Operative Orthopaedics
E-Book, Elsevier Health Sciences, 47(2): pp.154–159.
6. Carter CO, Wilkinson JA (1964) "10 Genetic and Environmental
F. actors in the Etiology of Congenital Dislocation of the Hip".
Clinical orthopaedics and related research, 33, pp.119-128.
7. Chang CH, Kao HK, Yang WE. (2011) "Surgical results and
complications of developmental dysplasia of the hip–one stage
open reduction and Salter’s osteotomy for patients between 1
and 3 years old". Chang Gung Med J, 34, (1),pp. 84-92.
8. Đỗ Văn Dũng (2001) "Bổ sung một số phương pháp cho bảng
dự trù". Căn bản thống kê y học. Bộ mơn Thống kê Y Học và Tin Học,
Khoa Y tế cơng cộng,Trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí
Minh, tr. 72-80.
9. Dunn PM (1976) "Perinatal observations on the etiology of
congenital dislocation of the hip". Clinical orthopaedics and related
research, 119, pp.11-22.
10. El-Sayed M (2009) "Single-stage open reduction, Salter
innominate osteotomy, and proximal femoral osteotomy for the
management of developmental dysplasia of the hip in children
between the ages of 2 and 4 years". Journal of Pediatric
Orthopaedics B, 18, (4), pp.188-196.
11. Gulati V, Eseonu K, Sayani J (2013) "Developmental dysplasia of
the hip in the newborn: A systematic review". World journal of
orthopedics, 4, (2), pp.32.
12. Haidar RK, Jones RS, Vergroesen DA (1996) "Simultaneous open
reduction and Salter innominate osteotomy for developmental
dysplasia of the hip". Bone & Joint Journal, 78, (3), pp.471-476.
13. Hồng Hải Đức, Nguyễn Ngọc Hưng (2012) "Nhận xét phẫu
thuật salter điều trị sai khớp hơng bẩm sinh ở trẻ em". Y Học
thực hành (830) - Số 7, tr 80-83.
14. Kotlarsky P, Haber R, Bialik V (2015) "Developmental dysplasia
of the hip: What has changed in the last 20 years?". World journal
of orthopedics, 6, (11), pp.886.
15. Kotzias NA., Ferraz A, Foresti FB (2014) "Bilateral
developmental dysplasia of the hip treated with open reduction
and Salter osteotomy: analysis on the radiographic results".
Revista brasileira de ortopedia, 49, (4), pp.350-358.
16. Ngơ Hồng Phúc, Lê Phước Tân, Trương Anh Mậu (2015) "Điều
trị phẫu thuật trật khớp háng bẩm sinh". Y Học TP. Hồ Chí
Minh Phụ Bản Tập 19, (Số 5), tr. 64-68.
17. Nguyễn Ngọc Hưng (2013) "Cắt xương chậu kết hợp ghép
xương mác đồng loại điều trị loạn sản ổ cối trong trật khớp hơng
bẩm sinh trẻ em". Nghiên Cứu Y Học, 85, (5), tr. 60-67.
18. Pekmezci M, Yazici M (2004) "Salter osteotomy: an overview".
Acta Orthop Traumatol Turc, 41, pp.37-46.
19. Salter RB (1961) "Innominate osteotomy in the treatment of
congenital dislocation and subluxation of the hip". Bone & Joint
Journal, 43, (3), 518-539.
20. Salter RB, Dubos JP (1974) "The First Fifteen Years' Personal
Experience with Innominate Osteotomy in the Treatment of
Congenital Dislocation and Subluxation of the Hip". Clinical
orthopaedics and related research, 98, pp.72-103.
21. Salter RB, Hansson G, Thompson GH (1983) "Innominate
osteotomy in the management of residual congenital
subluxation of the hip in young adults". Clinical orthopaedics and
related research, (182), pp.53-68.
22. Steel HH (1973) "Triple osteotomy of the innominate bone". JBJS,
55, (2), pp.343-350.
23. Sutherland DH, Greenfield R (1977) "Double innominate
osteotomy". JBJS, 59, (8), pp.1082-1091.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 4 * 2018 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 105
24. Tavares JO (2004) "Modified Pemberton acetabuloplasty for the
treatment of congenital hip dysplasia". Journal of Pediatric
Orthopaedics, 24, (5), pp.501-507.
25. Ünsala SŞ, Ceylanb MF, Günera S (2015) "Results of open
reduction and Salter innominate osteotomy for developmental
dysplasia of the hip". Eastern Journal of Medicine, 20, pp.187-191.
26. Wilkinson JA. (1972) "A post-natal survey for congenital
displacement of the hip". Bone & Joint Journal, 54, (1), pp.40-49.
27. Wong-Chung J, Ryan M, O'Brien Timothy M (1990) "Movement
of the femoral head after Salter osteotomy for acetabular
dysplasia". Bone & Joint Journal, 72, (4), pp.563-567.
Ngày nhận bài báo: 20/05/2017
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 25/06/2018
Ngày bài báo được đăng: 15/08/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_phau_thuat_trat_khop_hang_bam_sinh_o_tre_em_tu_18_th.pdf