Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 57
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CẮT TUYẾN GIÁP NỘI SOI 
TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ TUYẾN GIÁP THỂ BIỆT HOÁ 
Đỗ Hữu Liệt*, Đoàn Tiến Mỹ*, Nguyễn Thái Tuấn*, Dương Thuỳ Linh*, Lê Thị Ngọc Hạnh*, 
Huỳnh Thanh Phong*, Nguyễn Thị Kim Loan*, Nguyễn Thị Ngọc Ngân*, Nguyễn Thị Thủy*, 
Bùi Thị Hồng Lợi*, Nguyễn Thị Minh Thu*,Vương Bảo Vân Bình*, Nguyễn Thị Mỹ Liên*, 
Nguyễn Thị Hồng Điệp* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi gần đây được áp dụng nhiều trong phẫu thuật tuyến giáp. Chúng tôi phát 
triển kỹ thuật cắt toàn bộ tuyến giáp nội soi kèm nạo vét hạch trung tâm với tiếp cận từ một bên và hai bên trong 
điều trị ung thư tuyến giáp biệt hoá. 
Phương pháp: Chúng tôi phân tích 44 trường hợp ung thư tuyến giáp thể biệt hoá được phẫu thuật hoàn 
toàn qua ngã nội soi từ tháng 1/2010 đến tháng 12/2016 tại khoa ngoại Gan Mật Tuỵ bệnh viện Chợ Rẫy. Chúng 
tôi dùng 3 trocar – 1 trocar 10mm, 2 trocar 5mm, tiếp cận đường nách và quầng vú cùng bên ung thư giáp, tiến 
hành cắt thuỳ, bệnh phẩm được bỏ vào bao lấy qua lỗ trocar 10mm. Trong trường hợp tiếp cận 2 bên thì bên còn 
lại được phẫu tích tương tự. Sau mổ ghi nhận tai biến, biến chứng và đo thyroglobulin trong máu sau 1 tháng 
phẫu thuật. Sau đó bệnh nhân có thể được nhận điều trị tiếp với I131 và hocmon tuyến giáp. Bệnh nhân được theo 
dõi tái khám mỗi 6 tháng. 
Kết quả: Từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 12 năm 2016, tại khoa ngoại Gan Mật Tuỵ bệnh viện Chợ Rẫy, 
chúng tôi thực hiện được 44 trường hợp, có 4 nam (9,1%) và 40 nữ (90,9%). Đường kính trung bình của bướu 
giáp là 1,5 ± 0,62 (0,5-3)cm.Tất cả bệnh nhân đều được thực hiện thành công với phương pháp mổ nội soi. Có 27 
trường hợp (61,1%) bướu thùy phải, 11 trường hợp bướu thùy trái (25%), và 6 trường hợp (13,6%) bướu 2 
thùy; 100% trường hợp được làm FNA trước mổ. Chúng tôi thực hiện cắt toàn bộ tuyến giáp cho 41 trường hợp, 
cắt thuỳ (P) 2 trường hợp (4,5%), 1 trường hợp (2,3%) cắt thuỳ (T). Tất cả đều được nạo hạch trung tâm. Thời 
gian mổ trung bình là 64,5 ± 15,7 (42-110) phút. Không có biến chứng do CO2 gây ra. Có 14 trường hợp (31,8%) 
bị khàn tiếng tạm thời sau mổ với thời gian hồi phục dưới 6 tuần. 7 trường hợp (15,9%) hạ calci máu tạm thời với 
thời gian bù calci nhỏ hơn 2 tuần. Thời gian nằm viện trung bình 2,7 ± 1,06 (1-7) ngày. Nồng độ thyroglobulin 
(Tg) sau mổ 1 tháng 2,4 ± 1,11 (0,1-5) ng/ml. Điều trị I131 cho 41 trường hợp với liều khởi đầu 30mCi. Hiện tại 
tất cả bệnh nhân đều khoẻ mạnh chưa trường hợp nào phát hiện di căn. 
Kết luận: Việc phẫu thuật cắt tuyến giáp nội soi với tiếp cận một bên và 2 bên để điều trị ung thư tuyến giáp 
thể biệt hoá hoàn toàn có thể thực hiện dễ dàng, ít biến chứng trừ khàn tiếng và hạ calci máu thoáng qua, kết quả 
tương đương với phẫu thuật mở thường qui, không những đáp ứng được giá trị thẫm mỹ cao cho bệnh nhân mà 
còn đáp ứng được về mặt kết quả ung thư học trong điều trị ung thư. Chúng tôi tin tưởng kỹ thuật này ngày 
càng phát triển trong tương lai. 
Từ khoá: Cắt tuyến giáp nội soi, ung thư thề biệt hoá, nạo hạch trung tâm. 
*Khoa Ngoại Gan Mật Tuỵ - Bệnh viện Chợ Rẫy. 
Tác giả liên lạc: TS. BS. Đỗ Hữu Liệt, ĐT: 0913 849 434, Email: 
[email protected]. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 58
ABSTRACT 
RESULTS OF ENDOSCOPIC THYROIDECTOMY IN EFFERENTIATED THYROID CANCER 
TREATMENT 
Do Huu Liet, Doan Tien My, Nguyen Thai Tuan, Duong Thuy Linh, Le Thi Ngoc Hanh, 
 Huynh Thanh Phong, Nguyen Thi Kim Loan, Nguyen Thi Ngoc Ngan, Nguyen Thi Thuy, 
 Bui Thi Hong Loi, Nguyen Thi Minh Thu,Vuong Bao Van Binh, Nguyen Thi My Lien, 
Nguyen Thi Hong Diep * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement Vol. 21 - No 2 - 2017: 57 - 63 
Background: Endoscopic techniques have recently been applied to thyroid surgery. We developed the 
unilateral and bilateral axillo-breast (UAB and BAB) approaches for total thyroidectomy within differentiated 
thyroid cancer (DTC) treatment. The aims of this study were to evaluate the completeness of this approach for 
total thyroidectomy and prophylactic central lymph node dissection, applied with the differentiated thyroid 
cancers. 
Methods: We analyzed 44 patients who underwent endoscopic thyroidectomy for differentiated thyroid 
cancers between January 2010 and December 2016 at Cho Ray Hospital. We inserted 3 trocars with two 5mm-
trocar and 10mm-trocar at ipsilateral axilla and the other at upper margin of breast areola. Specimen was put into 
an endobag and pulled out through the axillary skin incision and similar to contralateral lobe approach. 
Complications such as hypocalcaemia or vocal cord palsy, bleeding were also evaluated. The postoperative 
thyroglobulin (TG), TSH, FT4, PTH, calci levels and ultrasound were used to assess the completeness of this 
method after one month. The patients were drunk some I131 capsules, levothyroxine and follow-up for each 6-
month period. 
Results: From January 2010 to december 2016 at Cho Ray Hospital, 44 patients who underwent endoscopic 
thyroidectomy and central lymph node disection for differentiated thyroid cancers. The mean diameter of tumor 
was 1.5 ± 0.62 (0.5-3)cm. All patients were successfully performed with endoscopic procedure. There were 27 
cases (61.1%) from right lobe, 11 cases (25%) from left lobe, 6 cases (13.6%) from bilateral site and 100% cases 
underwent FNA previous operation. Endoscopic procedures were 3 lobectomies, 41 total thyroidectomies and 
central lymph node disection. The mean operating time was 64.5 ± 15.7 (42-110) minutes. No CO2 gas-related 
complications, such as subcutaneous emphysema or hypercapnia. There were 14 cases (31.8%) of hoarseness due 
to recurrent laryngeal nerve injury but she recovered for 6 weeks, 7 cases had transient hypocalcaemia and also 
recovered for 2 weeks. The mean length of the hospital stay was 2.7 ± 1.06 (1-7) days. The mean serum Tg level 
was 2.4 ± 1.11 (0.1-5) ng/ml after postoperative one month. There were 41 cases to be received 30mCi I131 with 
the first time. Now, all patients are not recurrence or metastasis during follow-up. 
Conclusions: The unilateral and bilateral axillo-breast (UAB and BAB) approaches for endoscopic 
thyroidectomy shows insignificant postoperative complications, except transient vocal cord palsy. The endoscopic 
thyroidectomy results are similar to conventional open thyroidectomy but more than cosmetic results. It is also a 
feasible method for total thyroidectomy. Therefore, the UBA and BAB approaches for endoscopic total 
thyroidectomy can be the surgical treatment of choice for selected cases of thyroid cancer in future.
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư giáp thể biệt hoá là bệnh lý ác tính 
chiếm khoảng 1-2% ung thư ở người, tỷ lệ bệnh 
mới mắc trung bình hằng năm trên thế giới trên 
100.000 dân khoảng 1,2-2,6 đối với nam và 2-3,8 
đối với nữ, tỷ lệ này ngày càng tăng trong vài 
thập kỷ qua(1,12). Tại Mỹ, ung thư giáp dạng nhú 
(PTC) thường gặp nhất trong những năm gần 
đây, tỷ lệ tăng hơn 240% với 62.980 trường hợp 
mới trong năm 2014(2,7). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 59
Trước đây, điều trị chủ yếu là phẫu thuật mở 
kèm nạo vét hạch vùng cổ theo phương pháp 
thường qui. Gần đây, với sự phát triển về dụng 
cụ nội soi, kỹ thuật, phẫu thuật nội soi cắt tuyến 
giáp ngày càng phát triển mạnh mẽ và trở thành 
thường qui cho những bướu giáp lành tính bởi 
phẫu thuật nội soi có ưu điểm hơn về chức năng, 
thẫm mỹ và lành vết thương nhanh chóng. 
Hiện nay, việc áp dụng phẫu thuật nội soi 
cho điều trị ung thư tuyến giáp vẫn còn nhiều 
tranh cãi. Tuy nhiên, từ khi Miccoli và cộng sự 
năm 2002 đã thực hiện phẫu thuật cắt toàn bộ 
tuyến giáp qua ngã nội soi cho bệnh nhân PTC 
có nhiều công trình nghiên cứu sau đó đã 
được công bố(8,11). Tại Việt Nam, các công 
trình nghiên cứu về vấn đề này được công bố 
rất ít. Chính vì thế chúng tôi nghiên cứu đề tài 
này nhằm đánh giá kết quả của phẫu thuật cắt 
tuyến giáp qua ngã nội soi trong điều trị ung 
thư tuyến giáp. 
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 
Đánh giá hiệu quả của phẫu thuật nội soi 
trong điều trị ung thư tuyến giáp. 
Xác định tai biến, biến chứng của phẫu thuật. 
Hiệu quả của việc điều trị sau 1 tháng qua 
chỉ số thyroglobulin và siêu âm. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Can thiệp lâm sàng không nhóm chứng. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Ung thư giáp nhú hoặc nang qua FNA hoặc 
qua cắt lạnh trong mổ. 
Không xâm lấn tại chỗ, không di căn xa. 
ASA-1 hoặc ASA-2. 
Chức năng tuyến giáp trong giới hạn bình 
thường. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bướu thòng xuống trung thất. 
Ung thư thể tuỷ và thể không biệt hoá. 
Di căn hạch nhóm I, nhóm hạch cổ bên. 
Qui trình thực hiện 
Bệnh nhân được gây mê nội khí quản, nằm 
ngữa, kê gối nhỏ dưới vai. 
Chúng tôi sử dụng 3 trocar cho phẫu thuật 
này.Trocar 10mm được đặt ở hõm nách đường 
nách trước ngay quầng vú, rút nhẹ trocar để tạo 
đường hầm, bơm CO2 áp lực 10mmHg. Một 
trocar 5mm được đặt ở đường gấp giữa nách-
chỗ nếp gấp của cánh tay và thành ngực. Khi đặt 
xong 2 trocar này chúng tôi dùng mốc đốt tạo 
khoảng trống dưới da trước cơ ngực lớn. Khi có 
khoảng trống đủ rộng, trocar còn lại 5mm được 
đặt phía trên quầng núm vú.Tất cả các trocar đều 
ở cùng bên với bướu của tuyến giáp. 
Duy trì CO2 với áp lực 10mmHg và nâng 
tốc độ bơm khoảng 15 lít/ phút. Chúng tôi 
dùng mốc đốt và ống hút để tạo phẫu trường 
từ ngực lên đến cổ, bộc lộ toàn bộ thùy và 
bướu của tuyến giáp. 
Sau đó, chúng tôi dùng dao siêu âm phẫu 
tích các cực của tuyến giáp, bộc lộ tuyến cận giáp 
và thân kinh thanh quản quặc ngược trước khi 
cắt thùy tuyến giáp. Tuỳ vào kết quả FNA trước 
mổ, nếu kết quả là nghi ngờ ung thư giáp chúng 
tôi tiến hành cắt thuỳ chứa bướu nghi ngờ gởi 
cắt lạnh, chờ kết quả khoảng 15 phút, nếu kết 
quả cắt lạnh lành tính chúng tôi kết thúc cuộc 
phẫu thuật như phẫu thuật nội soi trong bướu 
lành tính. Nếu kết quả cắt lạnh là PTC hoặc ung 
thư giáp dạng nang (FTC), chúng tôi thực hiện 
cắt trọn thuỳ còn lại kèm nạo vét hạch trung tâm 
thường qui (nhóm VI) dù lâm sàng có phát hiện 
hay không. Trong trường hợp kết quả FNA 
trước mổ là ung thư giáp nhú hoặc nang chúng 
tôi thực hiện cắt giáp toàn bộ ngay từ đầu kèm 
nao hạch trung tâm cùng lúc mà không cần cắt 
lạnh. Việc cắt thuỳ còn lại có thể thực hiện cùng 
bên hay hai bên thuỳ vào bướu đơn nhân hay da 
nhân.Trong trường hợp bướu chỉ đơn nhân 
chúng tôi thực hiện cắt thuỳ còn lại cùng bên mà 
không cần thêm trocar. Nếu bướu là đa nhân hai 
thuỳ chúng tôi chọn thêm trocar bên đối diện và 
cắt tương tự. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 60
Sau khi cắt xong toàn bộ tuyến giáp kèm 
nạo vét hạch trung tâm, chúng tôi kiểm tra 
chảy máu, cho bệnh phẩm vào bao, đặt 1 ống 
dẫn lưu nhỏ qua lỗ trocar 5mm đường nách 
trước, lấy bệnh phẩm qua lỗ trocar 10mm và 
tất cả được gởi giải phẫu bệnh có đánh số 
phân biệt giữa hạch và mô bướu giáp. Các lỗ 
trocar được khâu với chỉ vicryl 4.0 tan nhanh 
hoặc nilon 4.0, băng ép toàn bộ phẫu trường 
đã phẫu tích giữ ít nhất 48 giờ sau mổ. Ống 
dẫn lưu được rút sau mổ 1 ngày. 
Theo dõi và ghi nhận tất cả biến chứng sau 
mổ nếu có bao gồm: chảy máu, hạ calci, khàn 
tiếng, tụ máu, tụ dịch, 
Tất cả bệnh nhân đều được tái khám sau 
Một tuần- đánh giá về tình trạng vết mổ, 
kiểm tra tình trạng tụ dịch qua siêu âm và hướng 
dẫn bệnh nhân tập vùng cổ chống dính. 
Bốn tuần – siêu âm đánh giá hiệu quả phẫu 
thuật(tuyến giáp còn sót lại, tụ dịch, hạch), 
kiểm tra chức năng tuyến giáp, PTH, calci toàn 
phần và Thyroglobulin(Tg). 
Sau 4 tuần bệnh nhân sẽ được điều trị tiếp 
bằng I131. 
Sau đó bệnh nhân được uống hocmon giáp 
và tái khám định kỳ mỗi 6 tháng. 
KẾT QUẢ 
Từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 12 năm 
2016, tại khoa ngoại Gan Mật Tuỵ bệnh viện 
Chợ Rẫy, chúng tôi thực hiện được 44 trường 
hợp, có 4 nam (9,1%) và 40 nữ (90,9%). Đường 
kính trung bình của bướu giáp là 1,5 ± 0,62 
(0,5-3)cm.Tất cả bệnh nhân đều được thực 
hiện thành công với phương pháp mổ nội soi. 
Có 27 trường hợp (61,1%) bướu thùy phải, 11 
trường hợp bướu thùy trái (25%), và 6 trường 
hợp (13,6%) bướu 2 thùy; 100% trường hợp 
được làm FNA trước mổ trong đó ung thư 
giáp nhú 28 trường hợp(63,%), nghi ngờ ung 
thư giáp nhú 13 trường hợp (29,6%), 3 trường 
hợp (6,8%) không phải ung thư giáp nhưng 
khi thực hiện sinh thiết lạnh trong mổ đều 
được trả lời ung thư giáp. Chúng tôi thực hiện 
cắt toàn bộ tuyến giáp cho 41 trường hợp, cắt 
thuỳ (P) 2 trường hợp (4,5%), 1 trường hợp 
(2,3%) cắt thuỳ (T). Tất cả đều được nạo hạch 
trung tâm. Giải phẫu bệnh sau mổ có 40 
trường hợp (90,9%) ung thư giáp dạng nhú, 4 
trường hợp ung thư giáp dạng nang, 13 
trường hợp (29,5%) có di căn hạch. Tiếp cận từ 
1 bên 34 trường hợp (77,3%), từ 2 bên 10 
trường hợp (22,7%). Thời gian mổ trung bình 
là 64,5 ± 15,7 (42-110) phút. Không có biến 
chứng do CO2 gây ra. Có 14 trường 
hợp(31,8%) bị khàn tiếng tạm thời sau mổ với 
thời gian hồi phục dưới 6 tuần. 7 trường hợp 
(15,9%) hạ calci máu tạm thời với thời gian bù 
calci nhỏ hơn 2 tuần. Thời gian nằm viện 
trung bình 2,7 ± 1,06 (1-7) ngày. Nồng độ 
thyroglobulin (Tg) sau mổ 1 tháng 2,4 ± 1,11 
(0,1-5) ng/ml. Điều trị I131 cho 41 trường hợp 
với liều khởi đầu 30mCi. Hiện tại tất cả bệnh 
nhân đều khoẻ mạnh chưa trường hợp nào 
phát hiện di căn. 
BÀN LUẬN 
Điều trị ung thư thể biệt hoá (DTC) hiện nay 
là sự kết hợp đa mô thức là sự phối hợp của 
phẫu thuật viên, bác sĩ nội tiết, bác sĩ y học hạt 
nhân và thỉnh thoảng có thể là những chuyên gia 
về xạ trị. Hiện nay, phẫu thuật trong DTC còn 
nhiều tranh cãi, đặc biệt là đối với ung thư kích 
thước nhỏ, chưa xâm lấn võ bao, u biệt hoá tốt, u 
có kích thước nhỏ hơn 1cm(14). 
Đối với khối u có đường kính lớn hơn 1cm 
được chẩn đoán trước mổ, hầu hết phẫu thuật 
viên được khuyến cáo cắt toàn bộ tuyến giáp(4). 
Phẫu thuật triệt để cắt toàn bộ tuyến giáp được 
dựa trên đặc tính sinh học và phương pháp điều 
trị hiện nay, Với DTC, đặc biệt là ung thư giáp 
dạng nhú (PTC), khuynh hướng phát triển là đa 
ổ, với hơn 80% bệnh nhân có nhiều khối u và 
hơn 60% u ở 2 bên khi thực hiện giải phẫu 
bệnh(23,17). Cắt giáp toàn phần là phương pháp 
điều trị dđầu tiên nhằm loại bỏ tất cả tế bào ung 
thư tránh tái phát, tiếp đến là phẫu thuật viên 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 61
phải giảm tối đa các biến chứng thần kinh và suy 
tuyến cận giáp vĩnh viễn với tỷ lệ ít hơn 2%(9,21). 
Điều trị Iod phóng xạ diệt tất cả tế bào giáp còn 
lại hầu hết rất hiệu quả. Đo TG và xạ hình toàn 
thân là cần thiết trong quá trình theo dõi và đánh 
giá tái phát(17,23). 
Hầu hết ung thư có nguy cơ thấp có tiên 
lượng tốt bất kể phạm vi phẫu thuật cắt bỏ tuyến 
giáp. Hiện nay, chưa có nghiên cứu tiền cứu 
ngẫu nhiên để so sánh hiệu quả của cắt giáp toàn 
phần (TT) hay cắt thuỳ (TL) ở nhóm bệnh nhân 
này. Thêm vào đó, Iod phóng xạ có tác dụng hạn 
chết trên những bệnh nhân nguy cơ thấp(22,23). Vì 
những lý do này nên cắt thuỳ tuyến giáp (là 
thích hợp nhất cho bệnh nhân nguy cơ thấp. 
Theo Shaha(15) báo cáo kết quả theo dõi 20 năm 
trên 465 bệnh nhân nguy cơ thấp DTC mặc dù 
nhóm cắt thuỳ có tái phát nhiều hơn so với 
nhóm cắt giáp toàn phần (4% so với 1%) tuy 
nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. 
Tương tự, những nhóm nghiên cứu khác cũng 
không chứng minh được bất kỳ hiệu quả nào 
trên tỷ lệ sống còn(19). Ngược lại, nhiều nghiên 
cứu hồi cứu cho thấy có sự cải thiện về tái phát ở 
nhóm TT so với TL. Theo nghiên cứu của 
Mazzaferri và cộng sự trên 1355 bệnh nhân được 
theo dõi trong 15,7 năm cho thấy tỷ lệ tái phát ở 
nhóm TT là 26% và ở nhóm TL là 40% sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê với p< 0,02, và tỷ lệ tử 
vong là 6% so với 9%, p=0,02(10). Những nghiên 
cứu gần đây vẫn khuyến cáo TT hoặc cắt gần 
toàn bộ cho những u có kích thước < 4cm, chỉ 
một u, u biệt hoá tốt, không có di căn hạch hoặc 
xâm lấn ra ngoài tuyến giáp(4). Chúng tôi lựa 
chọn những bệnh nhân không có di căn hạch 
hoặc chỉ di căn hạch nhóm VI dựa vào khám lâm 
sàng và siêu âm trước mổ. Tuy nhiêm chúng tôi 
vẫn nạo vét hạch trung tâm theo hướng dẫn của 
ATA 2015(6). Việc nạo vét hạch nhóm VI qua ngã 
nội soi cũng được thực hiện dễ dàng vì phẫu 
trường được phóng đại và rõ ràng. 
Một tranh luận nóng khác liên quan đến 
phạm vi nạo hạch của phẫu thuật lần đầu tiên 
trong DTC là vai trò của nạo phòng ngừa hạch 
cổ trung tâm. Mặc dù, hướng dẫn của ATA năm 
2006 nêu rõ nạo hạch cổ trung tâm phòng ngừa 
sẽ được cân nhắc trong DTC(3), nhưng hầu hết 
hướng dẫn gần đây đều sửa lại khuyến cáo rằng: 
“Nạo hạch cổ trung tâm phòng ngừa có thể được 
thực hiện đặc biệt đối với những khối u đã tiến 
triển” và “ cắt giáp toàn phần không nạo hạch 
phòng ngừa có thể áp dụng thích hợp cho bệnh 
nhân T1 và T2, không xâm lấn, bệnh nhân không 
có hạch trên lâm sàng”(4). Theo Shindo(16), nhóm 
hạch cổ trung tâm là những nhóm hạch được 
phân loại ở nhóm VI, bao gồm hạch cạnh khí 
quản, quanh tuyến giáp, hạch trước bó mạch 
cảnh. Những hạch này được tìm thấy phía sau 
thần kinh quặt ngược và xung quanh phía tuyến 
cận giáp dưới. Mặc dù trên đại thể hạch nhóm VI 
được tìm thấy khoảng 10% trường hợp nhưng 
khi nạo hạch phòng ngừa khoảng 32-69% bệnh 
nhân có di căn vi thể. Chúng tôi chọn giải pháp 
nạo hạch trung tâm thường qui dù trên lâm sàng 
có dấu hiệu của di căn hạch hay không, kết quả 
là sau mổ có 13 trường hợp có di căn hạch cổ 
mặc dù trên siêu âm trước mổ chỉ phát hiện 
được 9 trường hợp (20,5%) có hạch cổ. Điều này 
khẳng định nạo hạch trung tâm phòng ngừa 
trong DTC là rất cần thiết. Những người đề nghị 
nạo hạch phòng ngừa trung tâm cho rằng phẫu 
thuật lần đầu là thời gian an toàn nhất loại bỏ 
nhóm hạch trung tâm ngăn ngừa tái phát tại chỗ 
và những biến chứng liên quan đến lần mổ lại. 
Thật vậy, hạch cổ trung tâm khó đánh giá với 
siêu âm trước mổ khi tuyến giáp nằm ở vị trí của 
nó. Wada và cộng sự tìm thấy tỷ lệ tái phát ở 
bệnh nhân nạo hạch cổ điều trị là 21% trong khi 
những bệnh nhân trãi qua nạo hạch cổ phòng 
ngừa tỷ lệ tái phát thấp khoảng 0,65%. Quan 
trọng là những bệnh nhân không phát hiện hạch 
trên lâm sàng và cũng không được nạo hạch 
phòng ngừa thì tỷ lệ tái phát là 0,65%, sự khác 
biệt này là rất nhỏ(18). Một số nghiên cứu khác 
cũng ủng hộ khái niệm rằng những hạch cổ 
được phát hiện trên vi thể hiếm dẫn đến tái phát, 
đặc biệt là sau quá trình diệt giáp sau mổ(5,13). 
Thật vậy, việc tranh luận về nạo hạch phòng 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 62
ngừa có liên quan chặc chẽ đến việc sử dụng 
đồng vị phóng xạ. Nạo hạch cổ phòng ngừa 
trung tâm giảm đáng kể tỷ lệ tái phát, loại bỏ 
hoặc giảm sự cần thiết sử dụng Iod phóng xạ 
nhưng liên quan đến suy giáp sau mổ. 
Phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến giáp vẫn được 
thực hiện theo những bước cơ bản trong quá 
khứ, tuy nhiên gần đây có nhiều kỹ thuật mới 
mang tính thẫm mỹ hơn đã được áp dụng mà 
không làm tăng biến chứng cũng như đảm bảo 
được sự an toàn trong phẫu thuật ung thư như 
phẫu thuật nội soi, phẫu thuật robotCác 
phương tiện cầm máu cũng đã thay đổi tạo nên 
cuộc cách mạng trong phẫu thuật, trước đây 
thay vì cột, clip và cắt thì hiện tại có thể dùng 
thiết bị năng lượng để cầm máu như dao 
Harmonic, dao Ligasure, điều này làm giảm 
đáng kể chảy máu sau mổ và rút ngắn thời gian 
phẫu thuật đáng kể. Trong nghiên cứu, chúng tôi 
thực hiện phẫu thuật 100% qua đường tiếp cận 
từ 1 bên cho những bệnh nhân có ung thư giáp 1 
thuỳ và đơn nhân. Các trường hợp ung thư giáp 
có đa nhân 2 thuỳ chúng tôi chọn giải pháp tiếp 
cận từ 2 bên để đảm bảo lấy trọn được 2 thuỳ 
tuyến giáp. Việc tiếp cận 1 bên hay 2 bên không 
gặp nhiều khó khăn trong phẫu thuật. Tuy 
nhiên, tiếp cận từ 1 bên giúp thời gian mổ rút 
ngắn lại. Thời gian mổ chung của chúng tôi là 
64,5 ± 15,7 (42-110) phút là đương đương mổ mở. 
Nếu không chờ thời gian cắt lạnh chúng tôi nghĩ 
thời gian phẫu thuật sẽ còn ngắn hơn nhiều. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi không có 
trường hợp nào bị tai biến trong mổ. Có 14 
trường hợp(31,8%) bị khàn tiếng tạm thời sau 
mổ với thời gian hồi phục dưới 6 tuần, việc 
khàn tiếng sau mổ có nhiều nguyên nhân 
trong đó phải kể đến sự va chạm, thiếu máu, 
phù nề và sức nóng dao siêu âm trong quá 
trình phẫu thuật. Để khắc phục chúng tôi chọn 
giải pháp cắt ngoài bao, chú ý nạo hạch cành 
nóng của dao siêu âm phải xa thần kinh (ít 
nhất 3mm).Tuy nhiên, vì khi phẫu thuật 
chúng tôi luôn tuân thủ phải tìm thần kinh 
trước khi cắt tuyến giáp và nạo hạch, cho nên 
tất cà các trường hợp khàn tiếng này không 
đáng ngại. Chúng tôi chỉ điều trị nội khoa, tập 
vật lý trị liệu và tất cả bệnh nhân đều hồi phục 
trong thời gian 6 tuần. Có 7 trường hợp 
(15,9%) hạ calci máu tạm thời. Cùng với khàn 
tiếng, hạc calci máu thường xảy ra do tuyến 
cận giáp bi thiếu máu trong quá trình phẫu 
tích tuyến giáp và nạo vét hạch cổ. Theo kinh 
nghiệm của chúng tôi, việc phẫu thuật cắt toàn 
bộ tuyến giáp kèm nạo vét hạch cổ trung tâm, 
điều quan trọng là phải bảo tồn cho được 
tuyến cận giáp trước khi phẫu tích xa hơn. 
Chúng tôi cho rằng việc bảo tồn tuyến cận 
giáp còn quan trọng hơn bảo vệ thần kinh 
quặt ngược thanh quản vì tuyến cận giáp nhỏ, 
khó phân biệt với mô mỡ, rất dễ bị thiếu máu 
nuôi trong quá trình phẫu tích do nó được 
nuôi dưỡng bởi một nhánh động mạch rất nhỏ 
từ tuyến giáp. Trong nghiên cứu của chúng 
tôi, có 7 trường hợp bị thiếu calci có biểu hiện 
trên lâm sàng và được bù với thời gian bù 
calci trong 2 tuần. Tất cả sau đó đều trở về 
bình thường cả trên lâm sàng và sinh hoá. 
Thời gian nằm viện của chúng tôi Thời gian 
nằm viện trung bình 2,7 ±1,06 (1-7) ngày, lâu 
hơn trong phẫu thuật nội soi cắt tuyến giáp 
lành tính và tương đương với mổ mở(20). 
Nồng độ thyroglobulin(Tg) sau mổ 1 tháng 
2,4±1,11(0,1-5) ng/ml. Nồng độ Tg sau 1 tháng 
đều trong giới hạn bình thường, tất cả bệnh 
nhân đều được siêu âm cổ kiểm tra, không 
trường hợp nào phát hiện hạch cổ di căn. Có 
41 trường hợp được điều trị I131 với liều khởi 
đầu 30mCi. Tất cả bệnh nhân đều được theo 
dõi và tái khám định kỳ tại khoa y học hạt 
nhân. Hiện tại tất cả bệnh nhân đều khoẻ 
mạnh chưa trường hợp nào phát hiện di căn. 
KẾT LUẬN 
Tóm lại, việc phẫu thuật cắt tuyến giáp nội 
soi để điều trị ung thư tuyến giáp thể biệt hoá 
hoàn toàn có thể thực hiện dễ dàng, kết quả 
tương đương với phẫu thuật mở thường qui 
không những đáp ứng được giá trị thẫm mỹ cao 
cho bệnh nhân mà còn đáp ứng được về mặt kết 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ bản Tập 21 * Số 2 * 2017 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy năm 2017 63
quả ung thư học trong điều trị ung thư. Chúng 
tôi tin tưởng kỹ thuật này ngày càng phát triển 
trong tương lai. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Agate L, Lorusso L, Elisei R (2012). New and old knowledge 
on differentiated thyroid cancer epidemiology and risk 
factors. J Endocrinol Invest, 35, pp 3–9. 
2. Conzo G, Circelli L, Pasquali D, Sinisi A, Sabatino L, 
Accardo G (2012). Lessons to be learned from the clinical 
management of a MEN 2A patient bearing a novel 
634/640/700 triple mutation of the RET protooncogene. Clin 
Endocrinol. Vol77(6), pp 934–936. 
3. Cooper DS, Doherty GM, Haugen BR, Kloos RT, Lee SL, 
Mandel SJ (2006). Management guidelines for patients with 
thyroid nodules and differentiated thyroid cancer. Thyroid. 
16, pp 109–142. 
4. Doherty GM, Haugen BR, Kloos RT, Lee SL, Mandel SJ, 
Mazzaferri EL (2009). Revised American Thyroid 
Association management guidelines for patients with 
thyroid nodules and differentiated thyroid cancer. Thyroid. 
19, pp 1167–11214. 
5. Gemsenjager E, Perren A, Seifert B, Schuler G, Schweizer I, 
Heitz PU (2003). Lymph node surgery in papillary thyroid 
carcinoma. J Am Coll Surg. 197(2), pp 182–190. 
6. Haugen BR (2016). 2015 American Thyroid Association 
Management Guidelines for Adult Patients with Thyroid 
Nodules and Differentiated Thyroid Cancer. Thyroid, Vol 26, 
N(1), pp 1-133. 
7. Kim HJ, Sohn SY, Jang HW, Kim SW, Chung JH (2013). 
Multifocality, but not bilaterality, is a predictor of disease 
recurrence/persistence of papillary thyroid carcinoma. World 
J Surg. 37(2), pp 376–84. 
1. Lombardi CP, Raffaelli M, Princi P, De Crea C, Bellantone R 
(2007). Minimally invasive video-assisted functional lateral 
neck dissection for metastatic papillary thyroid carcinoma. 
American Journal of Surgery. Vol. 193(1), pp. 114–118. 
2. Mazeh H, Chen H (2011). Advances in surgical therapy for 
thyroid cancer. Nat Rev Endocrinol. 7, pp 581–588. 
3. Mazzaferri EL, Jhiang SM (1994). Long-term impact of initial 
surgical and medical therapy on papillary and follicular 
thyroid cancer. Am J Med. 97, pp 418–28. 
4. Miccoli P, Elisei R, Materazzi G, Capezzone M, Galleri D, 
Pacini F, Berti P, Pinchera A (2002). Minimally invasive 
video-assisted thyroidectomy for papillary carcinoma: a 
prospective study of its completeness. Surgery. Vol. 132(6), 
pp. 1070–1074. 
8. Pellegriti G, Frasca F, Regalbuto C, Squatrito S, Vigneri 
R(2013). Worldwide increasing incidence of thyroid cancer: 
update on epidemiology and risk factors. J Cancer Epidemiol. 
Vol 96, pp 55-62. 
9. Roh JL, Park JY, Park CI (2007). Total thyroidectomy plus 
neck dissection in differentiated papillary thyroid carcinoma 
patients: pattern of nodal metastasis, morbidity, recurrence, 
and postoperative levels of serum parathyroid hormone. 
Ann Surg. 245(4), pp 604–610. 
10. Schneider DF, Chen H (2013). New developments in the 
diagnosis and treatment of thyroid cancer. CA Cancer J Clin. 
63(6), pp 373–394. 
11. Shaha AR, Shah JP, Loree TR (1997). Low-risk differentiated 
thyroid cancer: the need for selective treatment. Ann Surg 
Oncol. 4(4), pp 328–33. 
12. Shindo M, Wu JC, Park EE, Tanzella F (2006). The 
importance of central compartment elective lymph node 
excision in the staging and treatment of papillary thyroid 
cancer. Arch Otolaryngol Head Neck Surg. 132(6), pp 650–654. 
13. Sippel RS, Chen H (2009). Controversies in the surgical 
management of newly diagnosed and recurrent/residual 
thyroid cancer. Thyroid. 19(12), pp 1373–1380. 
14. Wada N, Suganuma N, Nakayama H, Masudo K, Rino Y, 
Masuda M (2007). Microscopic regional lymph node status 
in papillary thyroid carcinoma with and without 
lymphadenopathy and its relation to outcomes. Langenbeck's 
Arch Surg. 392, pp 417–422. 
15. Wanebo H, Coburn M, Teates D, Cole B (1998). Total 
thyroidectomy does not enhance disease control or survival 
even in high-risk patients with differentiated thyroid cancer. 
Ann Surg. 227(6), pp 912–21. 
16. Wang YC, Zhu JQ, Liu K, Xiong JJ, Xing TF, Han QQ, Peng 
B (2015). Comparison of Conventional O pen 
Thyroidectomy and Endoscopic Thyroidectomy via Breast 
Approach for Papillary Thyroid Carcinoma. International 
Journal of Endocrinology, pp 1-5. 
17. Yip L, Stang MT, Carty SE (2011). Thyroid carcinoma: the 
surgeon's perspective. Radiol Clin North Am. 49(3), pp 463–
471. 
18. Yu XM, Wan Y, Sippel RS, Chen H (2011). Should all 
papillary thyroid microcarcinomas be aggressively treated? 
An analysis of 18,445 cases. Ann Surg. 254(4), pp 653–660. 
19. Zarebczan B, Chen H (2010). Multi-targeted approach in the 
treatment of thyroid cancer. Minerva Chir. 65(1), pp 59–69. 
Ngày nhận bài báo: 15/02/2017 
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 28/02/2017 
Ngày bài báo được đăng: 05/04/2017