Kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao khoa học công nghệ của viện cây lương thực và cây thực phẩm (2011 - 2013)

Tài liệu Kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao khoa học công nghệ của viện cây lương thực và cây thực phẩm (2011 - 2013): Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ nhất 69 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CHUYỂN GIAO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CỦA VIỆN CÂY LƯƠNG THỰC VÀ CÂY THỰC PHẨM (2011 - 2013) PGS.TS. Nguyễn Trí Hoàn1, ThS. Phạm Đình Phục2 1Viện trưởng 2Trưởng phòng Khoa học và Hợp tác Quốc tế SUMMARY Results of Scientific Research and Transferring Research Results of Field Crops Research Institute during 2011 - 2013 During 2011 - 2013, Field Crops Research Institute (FCRI) had been the executive institute conducted 13 projects governed by the State and 46 projects governed by the Ministry of Agricultural and Rural Development (MARD); 90 projects cooperated to conduct with other ministries, institutions and provinces; and 12 international cooperation projects. Most FCRI’s research results have supported significantly to agricultural development strategies in Red River Delta (RRD) and other regions in Vietnam. There were 38 new food crop varieties certified as the national...

pdf7 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 157 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao khoa học công nghệ của viện cây lương thực và cây thực phẩm (2011 - 2013), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ nhất 69 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CHUYỂN GIAO KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CỦA VIỆN CÂY LƯƠNG THỰC VÀ CÂY THỰC PHẨM (2011 - 2013) PGS.TS. Nguyễn Trí Hoàn1, ThS. Phạm Đình Phục2 1Viện trưởng 2Trưởng phòng Khoa học và Hợp tác Quốc tế SUMMARY Results of Scientific Research and Transferring Research Results of Field Crops Research Institute during 2011 - 2013 During 2011 - 2013, Field Crops Research Institute (FCRI) had been the executive institute conducted 13 projects governed by the State and 46 projects governed by the Ministry of Agricultural and Rural Development (MARD); 90 projects cooperated to conduct with other ministries, institutions and provinces; and 12 international cooperation projects. Most FCRI’s research results have supported significantly to agricultural development strategies in Red River Delta (RRD) and other regions in Vietnam. There were 38 new food crop varieties certified as the national varieties and released to production (10 rice varieties, 05 root-tuber varieties, 02 legume varieties and 02 fruit-vegetable varieties). In addition, the Institute also focused applied research to developing new technology such as research on reduce water input in rice production by using alternative wet and dry irrigation (AWD); Research on the possible negative impacts of the climate change on rice in Winter-Spring season in the North of Vietnam and find appropriate solutions to mitigate the impacts to secure the rice production in the RRD; Establishing cucumber production by using hi-tech systems..... With the priority of increase the production economic, the FCRI’s advanced technologies and new developed food crop varieties got high consideration from farmers and public awareness and gradually expanded in large scales. Besides that, the Institute produced and transferred to domestic production about 1.200tons of rice seed, 220 tons of groundnuts seed, 110tons of soybean seed, 750 tons of potato seed, 170 tons of sweet potato materials, 520kg of vegetable seed and thousand of fruit varieties... I. CÁC KẾT QUẢ NỔI BẬT TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 2011 - 2013 Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm được xác định là đơn vị có chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học về các lĩnh vực: Công nghệ sinh học, sinh lý, sinh hoá, di truyền chọn giống, nhân giống và biện pháp kỹ thuật canh tác cây lương thực và cây thực phẩm, chủ yếu là cây lúa, đậu đỗ và cây có củ, nghiên cứu về hệ thống nông nghiệp, cơ cấu cây trồng... Trong giai đoạn 2011 - 2013, Viện đã triển khai thực hiện 186 nhiệm vụ nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật (TBKT) vào sản xuất, tăng cường trang thiết bị để nâng cao năng lực nghiên cứu, trong đó có: - 13 ĐT/DA cấp Nhà nước; - 46 nhiệm vụ KHCN cấp Bộ; - 18 đề tài cấp cơ sở; - 90 nhiệm vụ hợp tác với đơn vị nghiên cứu khác và các địa phương; - 19 nhiệm vụ hợp tác Quốc tế. 1.1. Công tác nghiên cứu cơ bản Nghiên cứu cơ bản là hướng đi quan trọng được Viện đặc biệt quan tâm, nhất là việc ứng dụng công nghệ sinh học, ứng dụng các kết quả nghiên cứu về bảo vệ thực vật, sinh lý, sinh hoá trong việc đánh giá vật liệu khởi đầu và tập đoàn công tác... đã góp phần tích cực trong việc rút ngắn thời gian chọn tạo giống và nhân nhanh các giống CLT - CTP phục vụ sản xuất. Hàng năm Viện đã tiến hành duy trì, bảo tồn được hàng ngàn mẫu giống cây trồng các loại: Trên 1.000 mẫu giống lúa thuần, 750 mẫu giống lúa lai, 500 mẫu giống lạc, 650 mẫu giống đậu tương, 150 mẫu giống đậu xanh, 150 mẫu khoai tây, 270 mẫu giống khoai lang, 50 mẫu dong riềng, 100 mẫu sắn, 100 mẫu giống khoai sọ, củ từ và 200 mẫu giống cải các loại... Đã xác định được 08 chỉ thị phân tử có liên kết chặt với gen tương hợp rộng (WC), gen kháng bệnh bạc lá, rầy nâu, gen bất dục TGMS và gen phục hồi phục vụ công tác chọn tạo giống lúa lai siêu cao sản. VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 70 Xác định được 29 dòng bố mẹ mang gen tương hợp rộng (WC) bằng chỉ thị phân tử. Viện tập trung nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học (chỉ thị phân tử, phân tích DNA...) để xác định kiểu gen hỗ trợ trong nghiên cứu vật liệu, chọn tạo giống lúa mới. Đã xác định được một số mồi chỉ thị phân tử DNA: EAP; ESP; IFAP và INSP liên kết chặt với gen fgr tổng hợp chất 2AP qui định mùi thơm trong cây lúa; trên cơ sở đó nhằm xây dựng qui trình chọn tạo giống lúa thơm bằng phương pháp truyền thống kết hợp với chỉ thị phân tử DNA. Xây dựng được cơ sở dữ liệu kiểu hình và kiểu gen của tập đoàn vật liệu lúa kháng bệnh bạc lá vi khuẩn phục vụ cho công tác chọn tạo giống lúa kháng bệnh bạc lá. Nghiên cứu cơ sở khoa học chọn giống lúa có hàm lượng protein cao, chất lượng thương phẩm tốt, kết quả cho thấy: Tồn tại đồng thời hiệu quả trội không hoàn toàn và hiệu quả cộng tính. Về hệ số tương quan giữa hàm lượng protein và hàm lượng amylose là tương quan nghịch và tồn tại đáng tin cậy. Xác định được một số giống bố mẹ có khả năng kết hợp cao về hàm lượng protein, là cơ sở để bố trí các tổ hợp lai trong quá trình tạo các giống lúa có hàm lượng protein cao. Các công trình nghiên cứu đã tiến hành xây dựng cơ sở dữ liệu ADN về tính chịu hạn, lựa chọn được 52 chỉ thị cho đa hình cao giữa các giống lúa bố mẹ phục vụ cho công tác lập bản đồ QTL cho tính chịu hạn. Đã xác định được 05 chỉ thị SSR (RM5657, RM1896, RM1201, RM8148, RM3123) có liên kết chặt với một số QTL/gen quy định tính trạng liên quan đến khả năng chịu hạn ở lúa. Đã xác định được nguyên nhân xâm nhiễm của nấm Aspergillus flavus lên hạt lạc và bước đầu xây dựng được qui trình tạm thời phòng chống sự xâm nhiễm của nấm Aspergillus flavus nhằm giảm độc tố aflatoxin trên hạt lạc. Đã xác định được loài nấm gây bệnh phấn trắng trên đậu tương ở Việt Nam là Oidium sp. Xác định được 04 chỉ thị SSR có liên kết chặt với gen kháng bệnh phấn trắng hại đậu tương. Kết quả đã xác định được 20 dòng khoai tây có tính kháng bệnh mốc sương bằng chỉ thị phân tử. Kết quả bước đầu về nghiên cứu chọn tạo giống khoai lang có hàm lượng tinh bột cao bằng chỉ thị phân tử, đã xác định được 02 chỉ thị phân tử liên kết với QTL/gen quy định tính trạng liên quan đến hàm lượng tinh bột cao trong khoai lang. Nghiên cứu tạo giống mía năng suất cao và kháng bệnh than bằng kỹ thuật sinh học phân tử và công nghệ tế bào cho thấy: Kết quả đã nuôi cấy, phân lập, duy trì được nấm Ustilago scitaminea gây bệnh than trong điều kiện invitro và xác định được quá trình sinh trưởng từ bào tử, nẩy mầm, tạo sợi và bào tử nấm mới, nhận biết được 1 cặp mồi (M22) có băng 245bp liên quan đến khả năng kháng bệnh than và 1 cặp mồi (M12 ) có băng 165bp liên quan đến đặc tính hàm lượng đường cao. 1.2. Nghiên cứu ứng dụng Nghiên cứu ứng dụng nắm vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động nghiên cứu của Viện. Từ năm 2011 - 2013, Viện đã có hàng chục giống cây trồng các loại được công nhận phục vụ cho sản xuất, được thể hiện trên các lĩnh vực như sau: 1.2.1. Nghiên cứu chọn tạo giống lúa 1.2.1.1. Kết quả chọn tạo và phát triển giống lúa thuần Lúa thuần là một trong những đối tượng nghiên cứu chính của Viện trong nhiều năm qua, kế thừa kết quả nghiên cứu của những năm trước, từ năm 2011 đến 2013 đã có 10 giống lúa được công nhận (PC6, CH208, P376, P6ĐB, PĐ211, P9, HDT8, HT18, Trân Châu Hương - SH8 và Gia Lộc 102), trong đó có 03 giống công nhận chính thức (PC6, P6ĐB và P376) và 07 giống công nhận cho sản xuất thử. Ngoài ra Viện còn nhiều dòng, giống triển vọng khác đang đề nghị công nhận cho sản xuất thử vào năm 2014 như: LTh134, LTh131, HD5, CH16, Gia Lộc160... *Nhóm giống lúa có TGST cực ngắn ngày (<100 ngày): Đã nghiên cứu chọn tạo thành công giống lúa P6ĐB (P6 đột biến), có TGST 75 - 80 ngày (vụ Mùa) và 105 - 110 ngày (vụ Xuân muộn), năng suất đạt 50 - 55 tạ/ha, giống đã được phát triển mạnh ở một số tỉnh phía Bắc, góp phần tích cực cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở các tỉnh ĐBSH, né lũ tiểu mãn ở các tỉnh Bắc Trung Bộ và làm nguồn giống dự phòng. Diện tích gieo trồng giống P6ĐB năm 2012 đạt khoảng 3.000ha. Giống lúa Gia Lộc 102 (GL102) có TGST 80 - 85 ngày (vụ Mùa), năng suất đạt 50 - 58 tạ/ha, chất lượng tốt, giống hiện đang được Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ nhất 71 gieo trồng thử nghiệm hàng trăm hecta tại các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Nam. Giống lúa PC6 có TGST 90 - 95 ngày (vụ Mùa) và 125 - 130 ngày (vụ Xuân muộn), năng suất đạt 55 - 60 tạ/ha, rất thích hợp cho các tỉnh phía Bắc, đặc biệt là các vùng phát triển cây vụ Đông cực sớm vùng ĐBSH (Hải Dương, Thái Bình, Hưng Yên,...). Thu hoạch tránh lũ sớm trước 05/9 hàng năm tại một số tỉnh Bắc Trung Bộ (Quảng Bình, Hà Tĩnh,...). Diện tích giống lúa PC6 đạt từ 8.000 - 10.000 ha/năm. *Nhóm giống lúa chất lượng cao, thời gian sinh trưởng ngắn và trung ngày: HDT8, Trân Châu Hương - SH8, HDT7, PĐ211, HT9, T10,... Các giống lúa này đang có xu thế phát triển mạnh ở nhiều tỉnh phía Bắc, cho hiệu quả kinh tế cao hơn Q5 và KD18 từ 10 - 20% (tuỳ theo giống, mùa vụ và tiểu vùng sinh thái), thích hợp cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng 3 vụ ở ĐBSH. Riêng giống lúa T10 diện tích gieo cấy hàng năm tại Thái Bình từ 2.500 - 3.000ha, năng suất cao hơn BT7 từ 10 - 14%, đặc biệt giống lúa HDT8 (giống được công nhận cho sản xuất thử năm 2012) cho năng suất cao hơn BT7 từ 15 - 17%, chịu thâm canh, chống chịu với một số sâu - bệnh hại chính khá hơn BT7, giống đang được mở rộng diện tích ở các tỉnh ĐBSH và Bắc Trung Bộ, vụ Mùa 2013 đạt khoảng 300ha. *Nhóm giống lúa thâm canh có thời gian sinh trưởng tương đương Q5 và KD18, chất lượng khá hơn Q5 và KD18, chống chịu khá với một số loại sâu bệnh hại chính, năng suất cao (cao hơn KD18 từ 10 - 15%) như: SH14, XT27, X26, Gia Lộc 105 (GL105), HD5... riêng giống lúa SH14 diện tích gieo trồng năm 2012 ở các tỉnh ĐBSH đạt khoảng 3.000ha tại các tỉnh Hải Dương, Thái Bình, Hưng Yên, Bắc Ninh,... Giống GL105 cứng cây, chống chịu sâu bệnh khá hơn Q5, chịu thâm canh, năng suất 60 - 70 tạ/ha, chất lượng khá, được nhiều địa phương đánh giá cao, giống đang được mở rộng mô hình thử nghiệm hàng trăm hecta tại các tỉnh ĐBSH. *Nhóm giống lúa chống chịu với điều kiện bất thuận (hạn, úng, phèn mặn): Đã chọn tạo được một số giống lúa chịu hạn triển vọng, chủ yếu cho những vùng bấp bênh nước: Giống lúa chịu hạn CH207 và CH208 (công nhận cho sản xuất thử), năng suất 40 - 50 tạ/ha, chất lượng gạo khá, hiện đang được mở rộng mô hình tại một số tỉnh trung du và miền núi phía Bắc như Bắc Giang, Điện Biên, Lai Châu, Lạng Sơn,... Một số giống lúa chịu hạn triển vọng khác như CH16, CH19, CH22 đang được nhiều địa phương đánh giá cao. Giống lúa kháng rầy P376, TGST 113 - 118 ngày, chịu thâm canh, năng suất 60 - 65 tạ/ha thích hợp cho các vùng thâm canh ở các tỉnh phía Bắc, đặc biệt trên các chân đất 2 vụ lúa/năm hoặc những vùng chuyển đổi cơ cấu cây trồng 3 vụ/năm (trồng cây vụ Đông chính vụ). 1.2.1.2. Kết quả chọn tạo và phát triển giống lúa lai Nghiên cứu, chọn tạo giống lúa lai của Viện trong thời gian qua mặc dù gặp không ít khó khăn song đã đạt được một số kết quả nhất định: Đã làm chủ công nghệ chọn tạo giống lúa lai cũng như chọn thuần và nhân dòng bố mẹ lúa lai 2, 3 dòng, đặc biệt công nghệ lai tạo, gây đột biến, lai xa... để tạo ra các dòng bố mẹ CMS và TGMS mới. Nghiên cứu chọn tạo giống lúa lai siêu cao sản, đây là hướng nghiên cứu mới thuộc chương trình trọng điểm Quốc gia. Viện đã thu thập và đánh giá trên 300 dòng, giống lúa Indica và Japonica năng suất cao từ các nước: Hàn Quốc, Nhật Bản, Philippines... để phục vụ cho chọn tạo giống lúa lai siêu cao sản. Chọn lọc và làm thuần 125 dòng bố Indica/Japonica, 22 dòng bất dục kháng rầy nâu, chọn được 30 tổ hợp lai, năng suất đạt 9 - 11 tấn/ha đưa vào thí nghiêm so sánh sơ khởi. Kết quả bước đầu có 05 tổ hợp (D161s- 7Tr/RG33; 827s/M406; 827s/M386; D64s/R50 và D59s/R3) cho năng suất cao hơn đối chứng D.You 527 của Trung Quốc. Công tác chọn tạo các dòng bố, mẹ lúa lai: Đã hoàn thiện quy trình chọn dòng TGMS bằng phương pháp truyền thống kết hợp với CNSH, chọn tạo được các dòng TGMS từ việc chuyển gen TMS vào dòng duy trì bất dục đực TBC (như AMS34S, AMS35S...); các dòng TGMS có gen tương hợp rộng (WC) như D52S, D64S, D116S... Các dòng mẹ này có nhiều đặc tính quý và khả năng cho năng suất trên ruộng sản xuất hạt lai F1 từ 2,5 - 4,5 tấn/ha và đã chọn được 5 dòng phục hồi (dòng R) có gen WC. Lai tạo và chọn lọc thành công nhiều dòng mẹ TGMS mới từ các nguồn của Việt Nam, Trung Quốc và IRRI, các dòng này có tính bất dục ổn định như: AMS33S, AMS29S, AMS35S... Một số dòng bố mẹ có gen tương hợp rộng (WC) cho phép khai thác ưu thế lai khác loài phụ và chọn tạo giống lúa lai siêu cao sản. Đồng thời cũng đã lai tạo được các dòng CMS mới, các dòng này là vật liệu quan trọng trong chương trình chọn tạo giống lúa lai mới. VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 72 Đã chọn tạo được một số tổ hợp lúa lai mới, triển vọng: HYT106, HYT115, HYT124... có năng suất tương đương hoặc cao hơn so với các tổ hợp lúa lai Trung Quốc nhập nội, có khả năng chống chịu một số bệnh hại chính và chất lượng ăn nếm tốt hơn. Tổ hợp lúa lai được công nhận cho sản xuất HYT108 năng suất trung bình đạt 65 - 70 tạ/ha, năng suất cao đạt từ 77 - 80 tạ/ha. Các giống lúa này đang được mở rộng diện tích sản xuất thử tại các tỉnh ĐBSH và Bắc Trung Bộ. Đã làm chủ được Qui trình công nghệ sản xuất hạt lai F1 của các tổ hợp lúa lai 2; 3 dòng đang phổ biến ngoài sản xuất cũng như các tổ hợp hệ HYT được chọn tạo trong nước đạt năng suất hạt lai từ 2,0 - 2,5 tấn/ha, năng suất cao đạt 2,8 - 4,0 tấn/ha (tại Eakar - Đắk Lắk). Nghiên cứu, xác định vùng "tối ưu" cho sản xuất hạt giống lúa lai F1 tại Eakar - Đắk Lắk; Quảng Nam; Mường Lò - Yên Bái, năng suất hạt F1 tại các khu vực nêu trên có thể đạt từ 2,5 - 4,5 tấn/ha tùy từng tổ hợp. Xác định được thời vụ và vùng thích hợp cho nhân dòng mẹ tại Mộc Châu - Sơn La và đồng bằng sông Hồng. 1.2.2. Nghiên cứu chọn tạo và phát triển các giống đậu đỗ Hàng năm, công tác duy trì, đánh giá và lưu giữ hàng trăm mẫu giống đậu đỗ các loại,thể hiện sự đa dạng di truyền về nhiều đặc tính nông học quí như thời gian sinh trưởng (cực ngắn, ngắn, trung bình và dài), kích thước hạt đa dạng, kháng bệnh hại lá, sâu... phục vụ tích cực cho công tác lai tạo giống mới. Kết quả từ 2011 - 2013 đã có 04 giống đậu đỗ được công nhận, trong đó có 02 giống đậu tương (Đ8 được công chính thức và giống ĐT51 công nhận cho sản xuất thử) và 02 giống lạc (L26 và L17) được công nhận cho sản xuất thử. Về cây lạc: Tiếp tục nghiên cứu, chọn tạo các giống lạc mới bằng phương pháp lai hữu tính, theo hướng thâm canh; chống chịu với điều kiện bất thuận (chịu hạn), chống chịu với một số loại sâu, bệnh hại chính... Mở rộng diện tích trồng các giống lạc mới, có tiềm năng năng suất cao: Giống L23 có khả năng chịu hạn và cho năng suất khá, ổn định, trung bình đạt 35 - 40 tạ/ha. Giống lạc L26 chịu hạn khá, có tiềm năng năng suất khá cao (40 - 50 tạ/ha), tỷ lệ nhân/quả đạt 73%, vỏ lụa màu cánh sen..., đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, giống lạc L17 kháng khá với bệnh mốc vàng, năng suất đạt 40 - 42 tạ/ha đang được thử nghiệm và nhân rộng mô hình ở nhiều địa phương. Về cây đậu tương: Diện tích các giống đậu tương mới, triển vọng như Đ2101, ĐT12, Đ8, ĐT51... đang tiếp tục được mở rộng ở nhiều tỉnh ĐBSH và Trung du miền núi phía Bắc, năng suất đạt từ 21 - 25 tạ/ha, ở những nơi thâm canh tốt có thể đạt 26 - 28 tạ/ha, cao hơn các giống phổ biến tại địa phương từ 10 - 20%. Đặc biệt giống đậu tương có thời gian sinh trưởng ngắn 80 - 85 ngày, năng suất khá (giống Đ8), thích hợp cho vụ Hè Thu và Thu Đông, đang được mở rộng mô hình sản xuất ở nhiều địa phương, góp phần làm phong phú thêm bộ giống đậu đỗ trong sản xuất. Cây đậu đỗ khác: Kết quả nghiên cứu về cây đậu xanh đã có 2 giống triển vọng: ĐX11 và ĐX14, đang đề nghị công nhận giống cho sản xuất thử. Riêng giống đậu xanh ĐX14 có khả năng chịu hạn khá hơn các giống đậu xanh tại địa phương NghệAn, năng suấtđạt 12 - 14 tạ/ha. 1.2.3. Chọn tạo và phát triển các giống cây có củ Kết quả nghiên cứu và phát triển cây có củ trong thời gian qua, đã có 02 giống sắn được công nhận cho sản xuất thử, một số giống khoai tây và khoai lang, dong riềng triển vọng đang hoàn thiện hồ sơ đề nghị công nhận giống vào cuối năm 2013 và đầu 2014 (giống khoai tây số 19, khoai lang KLC3, KLC5, giống dong riềng số 49). Cây khoai tây: Đã tiến hành lai tạo được 11 tổ hợp hạt lai khoai tây tại Sa Pa. Gieo trồng 78 tổ hợp lai (tại Sa Pa và Đà Lạt) và 52 dòng, giống khoai tây nhập nội từ CIP (năm 2011). Đánh giá gần 2.000 dòng và chọn lọc được 250 dòng ưu tú (năm 2012). Giống khoai tây Sinora và Eben cho năng suất từ 20 - 30 tấn/ha đã được Viện chuyển giao đến một số tỉnh ở vùng ĐBSH. Đây là những giống có tiềm năng năng suất cao, thích hợp cho ăn tươi và chế biến, đang được mở rộng diện tích sản xuất tại các tỉnh phía Bắc. Cây khoai lang: Nghiên cứu, chọn tạo các giống khoai lang mới trong một số năm gần đây chủ yếu tập trung vào các giống khoai lang chất lượng cao, phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Kết quả đã chọn tạo được 03 giống khoai lang triển vọng: KLC3, KLC5 và VC682, năng suất ở các mô hình thử nghiệm tại Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Thanh hóa... đạt 19 - 20 tấn/ha, được các địa phương đánh giá cao và đề nghị mở rộng diện tích trong thời gian tới. Hiện nay khoảng 40 - 50% diện tích sản xuất khoai lang tại các tỉnh miền Trung: Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tĩnh đang được trồng bằng các giống KB1, K4(V15- 70), KL5, KLC266 do Viện lai tạo, chọn lọc. Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ nhất 73 Trong 3 năm qua, Viện đã cung ứng cho sản xuất 750 tấn giống khoai tây các loại và 170 tấn dây khoai lang giống cho một số tỉnh Bắc Trung Bộ, đồng bằng sông Hồng và miền núi phía Bắc, ngoài ra còn cung cấp hom giống sắn của 02 giống: SA06 và SA21-12 và giống dong riềng (số 49), để mở rộng diện tích hàng trăm hecta tại các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc. 1.2.4. Kết quả nghiên cứu và phát triển cây rau - quả Đã chọn tạo được 04 giống rau mới công nhận cho sản xuất thử: Giống dưa Thanh Lê, đậu đũa VC2, bí xanh Thiên Thanh 5 và cà tím lai số 1. Công tác nghiên cứu tập trung vào 2 loại rau chủ lực là cà chua và dưa chuột: Đã thu thập và đánh giá nguồn vật liệu cà chua phục vụ chọn tạo giống cà chua lai, bước đầu chọn lọc được 30 dòng cà chua thuần mang những tính trạng mong muốn phục vụ cho công tác chọn tạo giống cà chua lai ngoài đồng và 5 dòng phục vụ tạo giống cà chua trồng trong nhà lưới, trong đó 5 giống có khả năng kháng bệnh virus xoăn vàng lá. Xác định được 3 tổ hợp lai mới trồng trong điều kiện đồng ruộng cho năng suất đạt trên 60 tấn/ha và 1 tổ hợp lai cho năng suất đạt 85 tấn/ha trong điều kiện nhà lưới. Giống dưa chuột lai PC5, TGST 85 - 90 ngày, năng suất 45 - 50 tấn/ha (vụ Thu Đông) và 50 tấn/ha (vụ Xuân), chất lượng tốt, thích hợp cho ăn tươi và muối mặn xuất khẩu. Đã chọn lọc và phục tráng được 11 giống rau bản địa có độ thuần cao, chống chịu khá với một số loại sâu bệnh hại, năng suất, chất lượng tốt, đáp ứng được nhu cầu thị trường như: Cải bẹ xanh mào gà Vĩnh Tường, bí xanh Sặt... Các giống bí xanh do Viện chọn tạo: Bí xanh số 2 và Thiên Thanh 5 cho năng suất 40 - 50 tấn/ha, phục vụ tích cực cho chuyển đổi cơ cấu cây trồng, hiệu quả kinh tế cao, đã mở rộng diện tích hàng trăm hecta tại các tỉnh ĐBSH. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất một số loại rau (cà chua, dưa chuột, dưa thơm...) trong điều kiện nhà lưới, nhà kính, bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định: Đã xác định được bộ giống cà chua (dạng quả to và quả mini), 3 giống dưa thơm: Kim Cô Nương, Kim Hoàng Hậu và dưa xanh Vân lưới để trồng trong nhà lưới. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy trình sản xuất cây giống cà chua, dưa chuột, dưa thơm theo hướng sản xuất công nghệ cao. Xác định được hỗn hợp giá thể sản xuất cây giống tốt nhất: 80% hỗn hợp hữu cơ + 20% đất bột phù sa hoặc 80% xơ dừa mục + 20 % đất bột phù sa. Xác định dung dịch dinh dưỡng thích hợp cho các đối tượng cây trồng trong nhà lưới ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao... 1.2.5. Nghiên cứu về kỹ thuật canh tác tổng hợp đối với cây lương thực và cây thực phẩm Nghiên cứu tác động của các yếu tố khí hậu thời tiết đến sản xuất lúa Đông Xuân và các giải pháp đảm bảo sản xuất ổn định vụ lúa Đông Xuân tại vùng ĐBSH: Kết quả nghiên cứu thống kê từ năm 1961 đến nay cho thấy, sự thay đổi thời tiết trong vụ Đông Xuân rất đa dạng: Trong đó có 21,27% mùa đông ấm, 34,04% mùa đông rét và 44,68% trung bình. Ngày kết thúc rét hại với tần suất đảm bảo 80% vào trung tuần tháng 2, từ đó đã đề xuất biện pháp phòng trừ rét cho mạ nếu gieo vào đầu tháng 2, đã xác định được thời gian trỗ an toàn cho lúa Đông Xuân vào nửa đầu tháng 5. Từ kết quả nghiên cứu trên là cơ sở cho Viện xuất chuyển vụ sản xuất lúa Xuân sớm dài ngày sang lúa lai, lúa ngắn ngày trong vụ Xuân muộn. Với vụ Xuân muộn, lúa ngắn ngày cho năng suất cao ổn định ngay cả những năm qua nóng hoặc quá rét. Hiện lúa Xuân muộn ở đồng bằng sông Hồng cho năng suất cao ổn định chiếm hơn 90% diện tích lúa vụ Xuân. Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật xây dựng quy trình công nghệ canh tác dưa chuột ứng dụng công nghệ tiên tiến phục vụ nội tiêu và xuất khẩu. Kết quả bước đầu cho thấy, bón vôi cho lạc (bón lót và bón thúc giai đoạn đâm tia hoặc bón thúc giai đoạn đâm tia) đã làm hạn chế sự xâm nhiễm của nấm Aspergillus flavus và hàm lượng độc tố aflatoxin trên hạt lạc giai đoạn sau thu hoạch. Xác định biện pháp tưới nước khô ướt xen kẽ (AWD) cho năng suất lúa tương đương với phương pháp canh tác lúa truyền thống song đã tiết kiệm được 30 - 42% lượng nước tưới. Công ty cổ phần Giống cây trồng Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm đã xây dựng thành công mô hình cơ giới hoá đồng bộ trong sản xuất khoai tây (vụ Xuân năm 2013), trên quy mô 10ha tại Viện, đã góp phần tích cực trong việc hạ giá thành sản phẩm và giải phóng sức lao động. Mô hình chắc chắn sẽ được mở rộng tại các địa phương trong thời gian tới. 1.2.6. Kết quả nghiên cứu kinh tế - xã hội Nghiên cứu tổng hợp phát triển các chuỗi giá trị nông sản gắn liền với vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh, quản lý chất lượng sản phẩm, an VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 74 toàn thực phẩm và bảo hộ sở hữu trí tuệ, xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam. Các nghiên cứu đã kết hợp được cơ sở khoa học với mô hình phát triển, phát huy được lợi thế so sánh của tiểu vùng, nhằm tăng giá trị sản phẩm theo chuỗi giá trị, tăng thu nhập cho nông dân: - Phát triển vùng sản xuất, chuỗi giá trị và bảo hộ Chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm: Vải thiều Thanh Hà, chuối Ngự Đại Hoàng, bưởi Phúc Trạch, hồng không hạt Bắc Kạn, mật ong Bạc Hà Mèo Vạc, bưởi Luận Văn, gạo Tám xoan Hải Hậu, chả mực Hạ Long và cam Cao Phong - Phát triển vùng sản xuất, chuỗi giá trị và bảo hộ Nhãn hiệu chứng nhận cho các sản phẩm: Cam Bù Hương sơn, chè Hoàng Su Phì, gà Tiên Yên, tu hài Vân Đồn, miến dong Bình Liêu, chè Hải Hà, ghẹ Trà Cổ, rau Quảng Yên,.... - Phát triển vùng sản xuất, chuỗi giá trị và bảo hộ Nhãn hiệu tập thể cho các sản phẩm: Bò H’mông Cao Bằng; nếp cái Hoa Vàng Kinh Môn, Hải Dương; trứng gà Cường Thịnh; nếp cái Hoa Vàng Đông Triều; vải chín sớm Phương Nam; na dai Đông Triều; mía tím Quảng Ninh; mía Tím Hòa Bình. - Nghiên cứu các hình thức tổ chức sản xuất tập thể của hộ nông dân như tổ hợp tác, HTX chuyên ngành, hội/hiệp hội nghề nghiệp nhằm giúp nông dân hợp tác với doanh nghiệp (PPP) và tham gia chuỗi giá trị: Hiệp hội bò H'mông Cao Bằng, Hiệp hội Nếp cái Hoa Vàng Hải Dương, Đông Triều, HTX chăn nuôi lợn Thống Nhất Hà Tĩnh, HTX rau an toàn Tiền Lệ Hoài Đức,... II. KẾT QUẢ CHUYỂN GIAO CÁC TBKT VÀO SẢN XUẤT VÀ THƯƠNG MẠI HOÁ SẢN PHẨM 2.1. Kết quả chuyển giao các TBKT vào sản xuất Công tác nghiên cứu, chọn tạo giống cây lương thực và cây thực phẩm của Viện trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, 19 giống cây trồng các loại được công nhận, trong đó có: - 10 giống lúa (09 giống lúa thuần, 01 giống lúa lai). - 02 giống đậu đỗ (01 giống lạc và 01 giống đậu tương). - 05 giống cây có củ (01 giống khoai tây, 02 giống khoai lang và 02 giống sắn). - 02 giống rau (giống đậu đũa VC2 và giống bí xanh Thiên Thanh 5). Công tác chuyển giao các TBKT của Viện phục vụ sản xuất, trong 3 năm qua đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Viện đã cung cấp cho sản xuất hàng ngàn tấn giống lúa các loại, 250 tấn giống lạc, 110 tấn giống đậu tương, 750 tấn khoai tây giống, 170 tấn dây khoai lang giống, 520kg hạt giống rau (dưa chuột, bí xanh, cà chua) và hàng ngàn cây ăn quả các loại... thông qua các dự án sản xuất thử nghiệm, mô hình trình diễn các TBKT mới của các đề tài/dự án (thuộc chương trình giống cây trồng, vật nuôi và dự án SXTN), chương trình khuyến nông, công tác sản xuất các giống cây lương thực và cây thực phẩm tại Viện. Nhiều mô hình giống cây trồng mới cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao như: Giống lúa P6ĐB, đã phát triển hàng ngàn hecta tại các tỉnh ĐBSH và Quảng Bình, góp phần tích cực cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vùng ĐBSH, né lũ sớm ở các tỉnh Bắc Trung Bộ và làm nguồn giống dự phòng. Giống lúa PC6 TGST ngắn 85 - 90 ngày, năng suất 55 - 60 tạ/ha, phát triển mạnh ở các tỉnh Bắc Trung Bộ và ĐBSH, giống lúa lai 2 dòng HYT108 cho năng suất 75 - 80 tạ/ha, năng suất hạt lai cao, được nhiều địa phương đánh giá cao. Giống lạc L18 cho năng suất 50 - 55 tạ/ha trên quy mô hàng chục hecta tại Nam Định... 2.2. Thương mại hoá sản phẩm Công tác thương mại hoá các sản phẩm nghiên cứu (chuyển nhượng bản quyền tác giả) là một trong những hướng đi cần thiết, nhằm nhanh chóng mở rộng diện tích các giống cây trồng mới phục vụ sản xuất, góp phần tích cực trong việc tự chủ theo tinh thần Nghị định 115 của Chính phủ, từ năm 2008 - 2013, Viện đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng bản quyền tác giả cho các công ty giống cây trồng Trung ương và địa phương tổng số 12 giống cây trồng các loại (11 giống lúa và 01 giống lạc). Riêng từ 2011 - 2013 có 03 giống lúa thuần (N100, HDT8 và LTh134) và 01 giống lạc (L26) được chuyển nhượng. Đồng thời với việc chuyển nhượng bản quyền tác giả, Viện còn có hình thức hợp tác “uỷ quyền” cho một số Công ty Giống cây trồng địa phương cùng với Công ty cổ phần Giống cây trồng của Viện phối hợp sản xuất và chuyển giao một số giống cây trồng mới phục vụ sản xuất như: Công ty cổ phần Giống cây trồng Quảng Nam phối hợp sản xuất giống lúa HDT8, Công ty cổ phần Tổng công ty Giống cây trồng và Con nuôi Ninh Bình cùng sản xuất giống lúa HT9, HDT8 và Gia Lộc 105 để phục vụ cho các tỉnh miền Trung. Lợi ích của việc chuyển nhượng bản quyền tác giả và việc uỷ quyền sản xuất giống lúa cho Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ nhất 75 một số công ty đã huy động được nguồn lực của xã hội vào việc chuyển giao nhanh các TBKT phục vụ sản xuất, đặc biệt là việc mở rộng diện tích gieo trồng các giống mới trong sản xuất và đem lại nguồn thu nhập cho đơn vị và cá nhân. III. CÔNG TÁC HỢP TÁC QUỐC TẾ Hợp tác Quốc tế là nhiệm vụ quan trọng, góp phần tích cực trong việc đào tạo nguồn nhân lực KHCN, tăng cường trang thiết bị, trao đổi thông tin và chia sẻ kinh nghiệm nghiên cứu với các chuyên gia nghiên cứu của các tổ chức Quốc tế. Kết quả từ 2011 - 2013, Viện đã và đang phối hợp thực hiện 19 nhiệm vụ HTQT với các đối tác (01 đề tài HTQT theo nghị định thư và 18 nhiệm vụ phối hợp), với tổng kinh phí khoảng 4.741 triệu đồng, 714.323AUD và 138.070USD. Dự án HTQT theo nghị định thư: “Hợp tác nghiên cứu kỹ thuật trồng tăng năng suất lạc ở vùng nước trời” đã chọn được 3 giống lạc triển vọng thích hợp cho vùng nước trời: Giống lạc L22, ĐBĐ0401.8 và ĐBĐ0305.2, năng suất 26,3 - 33,5 tạ/ha. Xây dựng thành công 3 mô hình sản xuất lạc cho vùng nước trời (Nghệ An, Hà Nội và Bắc Giang), năng suất 28,2 - 31,4 tạ/ha và hiệu quả tăng 16 - 28% so với giống địa phương. Kết quả nghiên cứu đã được áp dụng cho các vùng trồng lạc nước trời ở Bắc Trung Bộ, đồng bằng sông Hồng và trung du miền núi phía Bắc. Dự án “Cải thiện liên kết thị trường và người sản xuất rau trái vụ vùng Tây Bắc Việt Nam”, nhằm xác định nhu cầu của thị trường về rau trái vụ (tập trung vào các loại rau chính: Cà chua, xà lách xoăn, ớt ngọt, cải bắp) và cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ các nhóm kỹ thuật phát triển rau trái vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng... Viện đã xây dựng thành công chương trình hợp tác với với bang Manue thuộc Cộng hoà Nigeria về chương trình đào tạo 25 học viên nông nghiệp (tại Viện), hợp tác chuyên gia, thử nghiệm và phát triển các giống lúa mới và một số loại cây lương thực & cây thực phẩm khác tại Nigeria từ 2013 - 2016, chương trình sẽ thực thi vào cuối năm 2013. Hàng năm, Viện đã tổ chức, đón tiếp nhiều đoàn khách Quốc tế, các đoàn chuyên gia đến thăm, làm việc và hợp tác với Viện, như: Hàn Quốc, Trung Quốc, Cuba, Môzambic, Indonesia, Nigeria, Myanmar, Ấn Độ... Viện đã có sự hợp tác chặt chẽ với IRRI trong việc trao đổi vật liệu Inger, nghiên cứu về tưới nước tiết kiệm trong sản xuất lúa. IV. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất của Viện trong hơn hai năm qua (2011 - 2013) đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận, Viện đã hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, số lượng nhiệm vụ KHCN các cấp và nguồn kinh phí đầu tư phục vụ nghiên cứu và chuyển giao công nghệ ngày càng gia tăng, số lượng ĐT/DA và nguồn kinh phí thuộc lĩnh vực nghiên cứu cơ bản ngày càng được nâng cao, các kết quả nghiên cứu ứng dụng của Viện đã đáp ứng tốt nhu cầu của sản xuất. Kế thừa thành quả nghiên cứu của giai đoạn 2006 - 2010, từ 2011 đến nay, Viện đã chuyển giao cho sản xuất 19 giống cây trồng mới các loại, làm lợi cho sản xuất hàng trăm tỷ đồng, góp phần tích cực cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ cấu kinh tế cho vùng ĐBSH và nhiều vùng, miền khác trong cả nước. Công tác thương mại hoá sản phẩm nghiên cứu cũng là hướng đi tích cực, chủ yếu tập trung vào một số giống lúa mới và giống đậu đỗ, từ năm 2011 Viện đã tiếp tục chuyển giao bản quyền tác giả 3 giống lúa (N100, HDT8 và LTh134) và 01 giống lạc (L26) cho các công ty giống cây trồng Trung ương và địa phương, các giống cây trồng nêu trên đang nhanh chóng được mở rộng diện tích phục vụ sản xuất, tăng thêm nguồn thu cho đơn vị và cá nhân... Các thành quả nêu trên là động lực thúc đẩy, giúp cho việc chuyển đổi nhanh chóng các hoạt động của Viện theo Nghị định 115 của Chính phủ trong giai đoạn tới. Để đáp ứng nhiệm vụ chính trị được giao và yêu cầu của sản xuất những năm tiếp theo, Viện tiếp tục tăng cường, đẩy mạnh hàm lượng nghiên cứu cơ bản có định hướng, phục vụ cho công tác chọn tạo giống và kỹ thuật thâm canh CLT - CTP phù hợp với biến đổi khí hậu và đặc biệt là hướng nghiên cứu ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbai_viet_47_4083_2130134.pdf
Tài liệu liên quan