Tài liệu Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của ẩm độ đất và tưới nước đến sản xuất chè vụ đông xuân tại Phú Thọ: Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 
1107 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA ẨM ĐỘ ĐẤT VÀ TƯỚI NƯỚC 
ĐẾN SẢN XUẤT CHÈ VỤ ĐÔNG XUÂN TẠI PHÚ THỌ 
Phan Chí Nghĩa1, Nguyễn Văn Toàn2 
1 Khoa Nông - Lâm - Ngư, Trường Đại học Hùng Vương 
2 Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc 
TÓM TẮT 
Sản xuất chè Đông Xuân giúp nâng cao thu nhập cho người dân đang là một xu thế. Tuy nhiên, 
sản lượng chè Đông Xuân rất thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường. Nghiên 
cứu này đã xác định quan hệ tuyến tính giữa lượng mưa và ẩm độ đất với năng suất theo tháng của 
cây chè, theo đó ở những tháng có lượng mưa ít, ẩm độ đất thấp dưới 30% thì năng suất của cây chè 
sẽ giảm xuống dưới 3 tạ/ha (thấp nhất 0,14 tạ/ha). Như vậy, lượng mưa từ tháng 9 đến tháng 2 hàng 
năm tại Phú Thọ sẽ không đảm bảo đủ ẩm độ đất cho cây chè để đạt sản lượng tốt. Để có thể sản 
xuất chè Đông Xuân hiệu quả cần phải tưới nước bổ sung, nâng cao ẩm độ đất. Tưới nước bổ sung 
...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 417 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của ẩm độ đất và tưới nước đến sản xuất chè vụ đông xuân tại Phú Thọ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 
1107 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA ẨM ĐỘ ĐẤT VÀ TƯỚI NƯỚC 
ĐẾN SẢN XUẤT CHÈ VỤ ĐÔNG XUÂN TẠI PHÚ THỌ 
Phan Chí Nghĩa1, Nguyễn Văn Toàn2 
1 Khoa Nông - Lâm - Ngư, Trường Đại học Hùng Vương 
2 Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc 
TÓM TẮT 
Sản xuất chè Đông Xuân giúp nâng cao thu nhập cho người dân đang là một xu thế. Tuy nhiên, 
sản lượng chè Đông Xuân rất thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường. Nghiên 
cứu này đã xác định quan hệ tuyến tính giữa lượng mưa và ẩm độ đất với năng suất theo tháng của 
cây chè, theo đó ở những tháng có lượng mưa ít, ẩm độ đất thấp dưới 30% thì năng suất của cây chè 
sẽ giảm xuống dưới 3 tạ/ha (thấp nhất 0,14 tạ/ha). Như vậy, lượng mưa từ tháng 9 đến tháng 2 hàng 
năm tại Phú Thọ sẽ không đảm bảo đủ ẩm độ đất cho cây chè để đạt sản lượng tốt. Để có thể sản 
xuất chè Đông Xuân hiệu quả cần phải tưới nước bổ sung, nâng cao ẩm độ đất. Tưới nước bổ sung 
đã làm tăng số lứa hái chè vụ Đông Xuân, tăng tổng sản lượng/vụ lên 300 - 500%, đồng thời đảm bảo 
được phẩm cấp chè nguyên liệu. Sản xuất chè vụ Đông Xuân làm suy giảm tổng sản lượng hàng năm 
của chè từ 6.230 kg/ha/năm xuống 5.540 kg/ha/năm, tuy nhiên lại làm tăng lãi thuần 41.100.000 
đồng/ha/năm so với sản xuất chè xanh truyền thống. 
Từ khóa: Chè, Đông Xuân, tưới nước bổ sung, tỉnh Phú Thọ. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Cây chè là loại cây có xuất xứ từ rừng 
nhiệt đới, yêu cầu về lượng mưa hàng năm 
thích hợp cho cây chè là 1.500 – 2.400 mm, 
hàng tháng là trên 100 mm. Tuy nhiên, khí hậu 
đặc thù ở miền Bắc nước ta có đặc điểm nóng 
ẩm vào vụ Hè Thu và hanh khô ở vụ Đông 
Xuân, điều này làm cho việc canh tác cây chè 
chỉ diễn ra vào các tháng vụ Hè Thu là chủ yếu. 
Những nghiên cứu của Lê Tất Khương (1997) 
nhận thấy việc tưới nước cho chè và kết hợp 
giữa tưới nước và tủ giữ ẩm cho chè trong các 
tháng mùa đông (tháng 10 - tháng 12) làm tăng 
năng suất chè vụ Đông từ 88,2% đến 110,7%. 
Điều này mở ra triển vọng nghiên cứu các kỹ 
thuật làm tăng năng suất chè vụ Đông Xuân, 
giúp rải vụ thu hoạch, giảm tải sức ép về việc 
thiếu nguyên liệu và sản phẩm phục vụ chè nội 
tiêu trong những tháng Đông Xuân. 
Trong các kỹ thuật áp dụng, việc xác 
định lượng nước tưới bổ sung mà cây cần trong 
các tháng thiếu nước là rất quan trọng. Xuất 
phát từ thực tế đó đề tài nghiên cứu “Ảnh 
hưởng của ẩm độ đất và tưới nước đến việc 
sản xuất chè xanh vụ Đông Xuân” đã được đã 
tiến hành. 
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm 
Thí nghiệm 1: Theo dõi ẩm độ đất tại khu thí 
nghiệm trồng giống chè Kim Tuyên. 
Bố trí diện tích toàn ô thí nghiệm 
100 m2. Theo dõi liên tục trong 1 năm từ tháng 
1/2014 đến tháng 12/2014. Mẫu đất phân tích 
được lấy độ sâu 0 - 30 cm theo cách lấy mẫu 
hỗn hợp (TCVN 5297:1995) mỗi tháng lấy 
mẫu 1 lần, lấy vào những ngày khô ráo (sau 
ngày mưa ít nhất 7 ngày). 
Phương pháp: lấy mẫu đất, sau đó sấy 
khô cho đến khi khối lượng không thay đổi, 
sáu đó tính ẩm độ theo công thức: 
Ẩm độ đất H (%) = { (M1 – M2)/M1} x 
100. 
M1: khối lượng đất trước khi sấy. 
M2: khối lượng đất sau khi đã sấy khô 
kiệt. 
H: ẩm độ đất (%). 
Thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của 
lượng nước tưới đến sinh trưởng, năng suất, 
chất lượng sản xuất chè Đông Xuân của giống 
Kim Tuyên. 
Bố trí thí nghiệm theo kiểu khối ngẫu 
nhiên đầy đủ, 3 lần nhắc lại. Thí nghiệm có 4 
công thức, mỗi ô thí nghiệm có diện tích 50 m2. 
Bắt đầu tưới tháng 11 đến tháng 2 năm sau, 
trong đó mỗi ô gồm 5 hàng chè: hàng cách 
hàng là 1,4 m, chiều dài 1 ô 7,2 m. 
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 
1108 
Công thức thí nghiệm: 
MT0: Không tưới (đối chứng) 
MT2: Tưới 2 m3/50 m2/tháng 
MT3: Tưới 3 m3/50 m2/tháng 
MT4: Tưới 4 m3/50 m2/tháng 
Thí nghiệm 3: Đánh giá hiệu quả của sản xuất 
chè vụ Đông Xuân và sản xuất chè xanh truyền 
thống. 
Bố trí thí nghiệm theo kiểu khối ngẫu 
nhiên đầy đủ, 3 lần nhắc lại. Thí nghiệm có 2 
công thức, mỗi ô thí nghiệm có diện tích 50 m2. 
Bắt đầu tưới tháng 11 đến tháng 2 năm sau. 
Trong đó mỗi ô gồm 5 hàng chè: hàng 
cách hàng là 1,4 m, chiều dài 1 ô là 7,2 m. 
Công thức thí nghiệm: 
CT1: Sản xuất chè xanh theo phương 
thức truyền thống (theo 10 TCN 745:2006). 
CT2: Sản xuất chè vụ Đông Xuân bằng 
phương pháp tưới bổ sung. 
2.2. Các chỉ tiêu theo dõi 
+ Năng suất và các yếu tố cấu thành 
năng suất: mật độ búp (búp/m2), chiều dài búp 1 
tôm 3 lá (cm), khối lượng búp 1 tôm 3 lá 
(g/búp). 
+ Chất lượng: 
- Phẩm cấp chè nguyên liệu: theo 
TCVN 1054 - 86; TCVN 2843-79. 
- Phân tích thành phần sinh hóa chính 
(đọt chè 1 tôm 2 lá): lấy 200 gam mẫu búp tôm 
2 lá non xử lý bằng hơi nước sôi trong 4 phút, 
để nguội, sau đó sấy khô để phân tích. 
- Thử nếm cảm quan: Chè xanh được chế 
biến thủ công, đánh giá kết quả thử nếm cảm 
quan theo TCVN 3218 - 1993. 
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Quan hệ của lượng mưa, ẩm độ đất đến 
năng suất của giống chè Kim Tuyên 
Chúng tôi đã theo dõi biến động lượng 
mưa và ẩm độ đất được đo tại tầng đất 0 - 30 cm 
tại Phú Hộ, Phú Thọ trong năm 2014 và nhận 
thấy: lượng mưa phân bố rõ rệt thành mùa Đông 
Xuân bắt đầu từ tháng 11 kết thúc vào tháng 2 
với lượng mưa rất thấp (18,2 - 77,7 mm). Điều 
này không đảm bảo lượng mưa tối thiểu theo yêu 
cầu sinh thái của cây chè (<100 mm). 
Mùa Hè Thu đánh dấu bằng trận mưa rào 
đầu tiên vào ngày 5/4/2014 sau đó kéo dài đến 
tháng 10. Ở thời điểm này lượng mưa luôn 
được duy trì ở mức cao (97,4 - 333,5 mm). 
Trong thời gian này, cây chè tại Phú Hộ cho 
sản lượng cao nhất và duy trì liên tục các lứa 
hái. Chúng tôi còn nhận thấy quan hệ mật thiết 
của lượng mưa với độ ẩm đất tại xã Phú Hộ. 
Lượng mưa cao duy trì một nền ẩm độ đất >30% 
từ tháng 4 đến tháng 9, sau đó là một chu kỳ 
giảm lượng mưa kéo theo ẩm độ đất chỉ nằm 
trong khoảng 22,0 - 23,6%. 
Hình 1. Lượng mưa, ẩm độ đất tại Phú Hộ năm 2014 
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 
1109 
Tuy nhiên, việc lượng mưa và ẩm độ đất 
ảnh hưởng như thế nào đến sinh trưởng và phát 
triển giống chè Kim Tuyên cần được làm rõ. 
Chúng tôi tiếp tục theo dõi các số liệu về năng 
suất theo tháng của chè Kim Tuyên trong năm 
2014, kèm theo đó là sự so sánh tỷ lệ % năng 
suất các tháng với tổng sản lượng năm 2014 để 
có được cái nhìn khách quan hơn. 
Bảng 1. Năng suất các tháng của chè Kim Tuyên trong năm 2014 
Chỉ tiêu 
Tháng 
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 
Ẩm độ đất 
tầng 0 - 30 cm 
(%) 
22,2 21,6 23,4 31,4 34,6 36,6 37,0 36,0 34,4 23,6 22,0 20,6
Năng suất 
theo tháng 
(tạ/ha) 
0,20 0,14 3,40 4,08 7,00 10,00 11,29 8,98 11,22 7,21 2,45 2,04
% năng suất 
tháng/sản 
lượng 
0,3 0,2 5,0 6,0 10,3 14,7 16,6 13,2 16,5 10,6 3,6 3,0 
Năng suất chè trung bình trong năm 2014 
của giống Kim Tuyên là 4,92 tạ/ha nhưng phân 
bố không đều qua các tháng. Năng suất tháng 
của chè Kim Tuyên dao động 0,14 - 11,29 
tạ/tháng/ha. Các tháng có năng suất tháng cao 
nhất là tháng 6 và tháng 7, các tháng có năng 
suất thấp nhất là tháng 1 và tháng 2. Chúng tôi 
đã mô tả mối quan hệ giữa năng suất theo 
tháng của chè Kim Tuyên với ẩm độ đất tại 
Phú Hộ năm 2014 và nhận thấy chúng có tương 
quan thuận với nhau (r = 0,87) ở độ tin cậy 
95%. Do đó chúng tôi kết luận trong canh tác 
cần tạo điều kiện tối đa nâng cao độ ẩm đất, độ 
ẩm đất càng cao thì càng có lợi cho năng suất 
chè Kim Tuyên tại Phú Thọ. 
Chúng tôi cũng đã thiết lập được phương 
trình hồi quy giữa năng suất theo tháng của chè 
Kim Tuyên với ẩm độ đất là y = 0,52x - 9,30. 
Từ phương trình này có thể dự báo năng suất chè 
Kim Tuyên dựa theo số liệu về độ ẩm đất tại các 
địa điểm khác ngoài Phú Thọ. 
Qua theo dõi lượng mưa và ẩm độ đất tại 
Phú Thọ trong năm 2014 chúng tôi nhận thấy 
muốn sản xuất chè Kim Tuyên trong vụ đông 
xuân tại Phú Thọ đạt hiệu quả cần có các biện 
pháp nâng cao độ ẩm đất, tối thiểu cần nâng 
cao độ ẩm lên >30%. Điều này đồng nghĩa với 
việc cần đảm bảo lượng tưới xấp xỉ lượng mưa 
từ tháng 4 đến tháng 9 (các tháng có độ ẩm đất 
>30%). 
Hình 2. Tương quan giữa năng suất theo tháng của chè Kim Tuyên 
và ẩm độ đất tại Phú Hộ năm 2014 
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 
1110 
Phương pháp nâng cao độ ẩm đất tối ứu 
chính là tưới nước bổ sung bằng hệ thống tưới 
nước phun mưa cố định. Đây là giải pháp cung 
cấp nước dưới dạng hạt mưa thông qua hệ thống 
đường ống dẫn nước, vòi phun được lắp đặt cố 
định trên diện tích khu tưới. Khi áp dụng hệ 
thống tưới này chúng ta sẽ tính toán lượng nước 
tưới để có thể bổ sung được lượng nước thiếu 
hụt đủ để tạo lượng nước tương đương lượng 
mưa từ tháng 4 đến tháng 9. Chính vì vậy, 
chúng tôi tiếp tục nghiên cứu nội dung thứ hai. 
3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của lượng nước 
tưới đến sinh trưởng, năng suất, chất lượng 
sản xuất chè Đông Xuân trên giống Kim 
Tuyên 
3.2.1. Ảnh hưởng của lượng nước tưới đến 
năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất 
của giống chè Kim Tuyên vụ Đông Xuân 
Chúng tôi đã tiến hành xây dựng ba công 
thức tưới để đảm bảo nâng cao độ ẩm đất lên 
>30% và sau đó đánh giá các chỉ tiêu cấu thành 
năng suất của thí nghiệm và so sánh với đối 
chứng là việc canh tác không tưới nước. Kết 
quả được thể hiện ở bảng 2. 
Bảng 2. Ảnh hưởng của lượng nước tưới đến các yếu tố cấu thành năng suất của giống chè Kim 
Tuyên vụ Đông Xuân 
Công thức Mật độ búp (búp/m2) 
Khối lượng búp 1 
tôm 3 lá (gam/búp) 
Chiều dài 1 tôm 
3 lá (cm) 
Tỷ lệ búp có tôm 
(%) 
Không tưới (đối chứng) 58,50 0,53 4,4 50,3 
Tưới 2 m3/50 m2/tháng 173,64 0,55 4,7 72,13 
Tưới 3 m3/50 m2/tháng 177,58 0,57 5,1 80,27 
Tưới 4 m3/50 m2/tháng 188,13 0,57 5,0 83,46 
CV (%) 10,2 4,3 6,7 13,3 
LSD.05 5,7 0,02 0,2 7,3 
Các chỉ tiêu như mật độ búp, tỷ lệ búp có 
tôm công thức tưới 4 m3/50 m2/tháng cho hiệu 
quả cao nhất. Mức tưới này làm tăng mật độ 
búp thêm 129,62 búp/m2 so với không tưới 
nước và làm tăng 14,49 búp/m2 (~8,3%) so với 
mức tưới 2 m3/50 m2/tháng. Ngoài ra, mức tưới 
4 m3/50 m2/tháng cũng tăng tỷ lệ búp có tôm 
thêm 33,16% so với đối chứng. 
Ở hai chỉ tiêu còn lại, sự sai khác của các 
công thức không nhiều, khối lượng búp của ở 
cả ba công thức có tưới nước tương đương 
nhau, 0,55 - 0,77 gam/búp, nhưng cao hơn rõ 
rệt so với công thức không tưới nước. Chiều 
dài búp có sự sai khác giữa hai mức tưới 3 & 4 
m3/50 m2/tháng với mức tưới 2 m3/50 m2/tháng 
và đối chứng. Cao nhất ở mức tưới 3 m3/50 
m2/tháng và đạt chiều dài búp 5,1 cm. 
Bảng 3. Ảnh hưởng của lượng nước tưới đến năng suất của giống chè Kim Tuyên vụ Đông Xuân 
Công thức Năng suất TB lứa hái (tạ/ha) 
Số lứa 
(lứa) 
Tổng SL vụ 
(tạ/ha) 
So với đối chứng 
(%) 
Không tưới (đối chứng) 1,5 2 3,0 - 
Tưới 2 m3/50 m2/tháng 8,7 2 17,4 480 
Tưới 3 m3/50 m2/tháng 8,1 3 24,3 710 
Tưới 4 m3/50 m2/tháng 8,3 3 24,9 730 
CV (%) 5,4 8,4 
LSD.05 0,3 3,3 
Khi theo dõi năng suất trung bình lứa hái 
của các mức tưới cùng với tổng sản lượng ta 
thấy năng suất trung bình lứa khi tưới ở mức 3 
& 4 m3/50 m2/tháng tương đương nhau và thấp 
hơn mức 2 m3/50 m2/tháng, chỉ đạt 8,1 - 8,3 
tạ/ha. Tuy nhiên, tổng sản lượng của vụ còn 
phụ thuộc rất nhiều vào số lứa hái được trong 
vụ Đông Xuân. Tuy mức tưới 2 m3/50 
m2/tháng có năng suất lứa cao nhất nhưng cùng 
với đối chứng chỉ có thể thu được 2 lứa trong 
vụ này. Hai công thức tưới bổ sung 3 & 4 
m3/50 m2/tháng đều có thể cho thu hoạch 3 lứa 
 1110 
 VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 
1111 
chè dẫn đến tổng sản lượng của các công thức 
này rất cao, lần lượt đạt 24,3 - 24,9 tạ/ha. Điều 
này còn chứng tỏ tưới bổ sung từ 3 m3/50 
m2/tháng trở lên có thể tăng sản lượng chè vụ 
Đông Xuân thêm >700% so với không tưới và 
đem lại hiệu quả sản xuất mong muốn. 
3.2.2. Ảnh hưởng của lượng tưới đến chất 
lượng giống chè Kim Tuyên vụ Đông Xuân 
* Phẩm cấp chè nguyên liệu 
Chất lượng nguyên liệu chè thu hái được 
quy định theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 
1054-86. Theo tiêu chuẩn này nguyên liệu chè 
được phân ra thành 4 cấp A, B, C, D. 
 Bảng 4. Ảnh hưởng của lượng nước tưới đến phẩm cấp chè nguyên liệu 
Công thức Chè A (%) 
Chè B 
(%) Chè A+B (%) 
So với đối 
chứng 
Không tưới (đối chứng) 8,58 6,80 15,38 - 
Tưới 2 m3/50 m2/tháng 27,10 50,53 77,63 62,2 
Tưới 3 m3/50 m2/tháng 32,03 52,88 84,91 69,5 
Tưới 4 m3/50 m2/tháng 30,77 54,50 85,27 69,8 
Do hai mức tưới 3 & 4 m3/50 m2/tháng 
nhiều hơn đối chứng một lứa hái nên ảnh 
hưởng rất lớn đến phẩm cấp của chè. Chè thu 
được từ hai công thức này có tỷ lệ chè A, B cao 
hơn đối chứng 7,28 - 7,63%. Điều này càng 
khẳng định nếu trong vụ Đông Xuân có thể 
tưới nước bổ sung và làm dày thêm số lứa chè 
thì phẩm cấp chè nguyên liệu sẽ càng được 
nâng cao hơn. 
* Thành phần sinh hóa búp chè 
Phẩm chất của chè thành phẩm được 
quyết định bởi những thành phần hóa học của 
nguyên liệu và kỹ thuật chế biến. Chúng tôi 
tiến hành phân tích các thành phần sinh hóa 
trong nguyên liệu chè và kết quả được trình 
bảy ở bảng 5. 
Bảng 5. Ảnh hưởng của lượng nước tưới đến thành phần sinh hóa búp 
Công thức Tanin (%) 
Chất hòa tan 
(%) 
Đường khử 
(%) 
Axit amin 
(%) 
Không tưới (đối chứng) 34,27 42,67 2,43 1,58 
Tưới 2 m3/50 m2/tháng 32,75 42,10 2,15 1,58 
Tưới 3 m3/50 m2/tháng 33,03 41,37 2,33 1,60 
Tưới 4 m3/50 m2/tháng 32,94 42,42 2,40 1,58 
Thành phần sinh hóa trong búp chè ở các 
mức tưới không thay đổi nhiều. 
Tanin: dao động trong khoảng 32,75 - 
33,03%, các mức tưới 3 & 4 m3/50 m2/tháng 
cho hàm lượng tanin cao hơn (~1%) so với 3 
m3/50 m2/tháng. Nhưng hàm lượng tanin trong 
búp chè không tưới vẫn cao nhất, đạt 34,27%. 
Điều này chứng tỏ việc không được bổ sung 
nước trong vụ Đông Xuân làm búp chè tích lũy 
tanin nhiều hơn và gây vị chát. 
Chất hòa tan: dao động trong khoảng 
41,37 - 42,67%, trong đó chè được tưới ở mức 
tưới 4 m3/50 m2/tháng cho hàm lượng chất hòa 
tan tương đương đối chứng. 
Hàm lượng đường khử: hàm lượng 
đường khử ở mức tưới 4 m3/50 m2/tháng đạt 
2,40%, cao nhất trong các công thức có tưới 
nhưng vẫn ít hơn so với công thức đối chứng 
không tưới, đạt 2,53%. 
 Axít amin: Ở mức tưới 2 & 4 m3/50 
m2/tháng chỉ số axit amin như nhau và tương 
đương đối chứng (1,58%), ở mức tưới 3 m3/50 
m2/tháng chỉ số axit amin cao hơn có cao hơn, 
đạt 1,60%. 
Như vậy: Các chỉ tiêu có lợi nhất cho sản 
xuất chè xanh như: hàm lượng các chất hòa tan 
và đường khử đều đạt yêu cầu. Búp chè ở các 
mức tưới đều có thể là những nguyên liệu tốt 
để cung cấp nguyên liệu chất lượng cao cho 
sản xuất chè xanh trong vụ Đông Xuân. 
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 
1112 
3.3. Hiệu quả kinh tế của việc tưới nước bổ sung cho chè vụ Đông Xuân 
Bảng 6. Hiệu quả kinh tế của việc tưới nước bổ sung cho chè vụ Đông Xuân 
(Đơn vị: đồng/ha/vụ) 
Công thức Tổng thu Tổng chi Lãi thuần So với đối chứng 
Không tưới (đ/c) 19.090.909 26.000.000 -6.909.091 - 
Tưới 2 m3/50 m2/tháng 110.727.237 57.000.000 53.727.273 60.636.364
Tưới 3 m3/50 m2/tháng 154.636.364 65.000.000 89.636.364 96.545.455
Tưới 4 m3/50 m2/tháng 158.454.545 72.000.000 86.454.545 93.363.636
Canh tác theo phương thức thông thường 
ở những tháng vụ Đông Xuân sẽ rất ít cho thu 
hoạch và đây là những tháng đốn tỉa để cây 
phục hồi để cho năng suất ở vụ sau. Chính vì 
vậy công thức không tưới không những không 
có lãi mà còn lỗ 6.909.091 đ/ha/vụ. 
Các công thức còn lại có đầu tư hệ thống 
tưới nước phun mưa với giá 60.000.000 đ/ha 
nhưng có thể sử dụng tốt trong 3 năm, khi hoạch 
toán sơ bộ chúng tôi nhận thấy ở công thức tưới 
2 m3/50 m2/tháng tuy lãi thuần có cao hơn công 
thức đối chứng nhưng lượng nước chưa đủ để 
tăng số lứa hái, chính vì vậy hiệu quả kinh tế 
không cao so với hai công thức còn lại. 
Trong hai công thức còn lại, công thức 
tưới 3 m3/50 m2/tháng cho hiệu quả kinh tế cao 
nhất, đạt 89.636.364 đ/ha/vụ vì tăng được số 
lứa hái nhưng không tốn tiền chi phí cho điện 
nước và công lao động cao như công thức tưới 
4 m3/50 m2/tháng chỉ đạt lãi thuần 86.454.545 
đ/ha/vụ. 
3.4. Hiệu quả sản xuất chè vụ Đông Xuân 
 Để đánh giá hiệu quả sản xuất chè vụ 
Đông Xuân, chúng tôi tiến hành so sánh sản 
lượng và hiệu quả kinh tế của phương pháp sản 
xuất chè vụ đông xuân với phương pháp truyền 
thống. 
Bảng 7. Hiệu quả kinh tế của sản xuất chè vụ Đông Xuân 
Công thức Sản lượng (kg/ha/năm) 
Tổng thu 
(đồng/ha/năm)
Tổng chi 
(đồng/ha/năm) 
Lãi thuần 
(đồng/ha/năm) 
Sản xuất truyền thống 
(đối chứng) 6230 186.900.000 39.000.000 147.900.000 
Sản xuất chè Đông Xuân bằng 
phương pháp tưới nước bổ 
sung 
5540 277.000.000 88.000.000 189.000.000 
Chúng tôi nhận thấy việc sản xuất chè vụ 
Đông Xuân làm suy giảm tổng sản lượng hàng 
năm của chè từ 6.230 kg/ha/năm xuống 5.540 
kg/ha/năm. Điều này là do cây chè không được 
đốn tỉa tạo tán đúng thời kỳ ngủ nghỉ, dẫn đến 
năng suất chè vụ Hè Thu giảm. 
Khi so sánh hiệu quả kinh tế của hai 
công thức, giá bán chè trong vụ Đông Xuân 
cao hơn chè trung bình cả năm làm cho lãi 
thuần ở công thức sản xuất chè Đông Xuân 
bằng phương pháp tưới nước bổ sung có ưu thế 
rõ rệt, lãi thuần đạt 189.000.000 đồng/ha/năm 
và cao hơn phương pháp sản xuất truyền thống 
41.100.000 đồng đồng/ha/năm. 
Những kết quả trên càng khẳng định việc 
đầu tư hệ thống tưới nước phun mưa để sản 
xuất chè xanh Đông Xuân tại Phú Thọ có hiệu 
quả, vừa nâng cao thu nhập cho người dân và 
vừa giúp rải vụ thu hoạch, giảm tải sức ép cho 
các nhà máy sản xuất chè. 
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 
4.1. Kết luận 
Lượng mưa và ẩm độ đất tại Phú Thọ có 
quan hệ tuyến tính với năng suất theo tháng 
của giống chè Kim Tuyên, đây là tương quan 
thuận (r = 0,87) và rất chặt chẽ, mối quan hệ 
này còn thiết lập được phương trình hồi quy y 
= 0,52x - 9,30 để có thể dự báo năng suất tháng 
theo ẩm độ đất. 
Tưới nước bổ sung từ 3 m3/50 m2/tháng 
trở lên làm tăng số lứa hái chè Kim Tuyên 
 1112 
 VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 
1113 
trong vụ Đông Xuân lên 3 lứa, tăng tổng sản 
lượng vụ Đông Xuân lên 400 - 700% so với 
không tưới nước, đồng thời đảm bảo được 
phẩm cấp chè nguyên liệu và không làm thay 
đổi các thành phần sinh hóa đảm bảo cho việc 
chế biến chè xanh chất lượng cao trong vụ 
Đông Xuân. 
Sản xuất chè vụ Đông Xuân làm suy 
giảm tổng sản lượng hàng năm của chè từ 
6.230 kg/ha/năm xuống 5.540 kg/ha/năm, tuy 
nhiên lại làm tăng lãi thuần thêm 41.100.000 
đồng/ha/năm so với sản xuất chè xanh truyền 
thống. 
4.2. Đề nghị 
 Tiếp tục nghiên cứu thêm kỹ thuật bón 
phân và đốn tỉa phù hợp với việc sản xuất chè 
xanh vụ Đông Xuân tại Phú Thọ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Djemukhatze, 1981. Cây chè miền Bắc Việt 
Nam. NXB Nông nghiệp. 
2. Lê Tất Khương, 1997. Nghiên cứu đặc điểm 
của một số giống chè mới trong điều kiện Bắc 
Thái và những biện pháp kỹ thuật canh tác 
hợp lý cho những giống chè có triển vọng. 
Luận án phó tiến sỹ khoa học nông nghiệp. 
3. Hiệp hội Chè Nhật Bản, 1995. Chè xanh sức 
khoẻ con người. Hà Nội. 
4. Hiệp hội Chè Việt Nam, 2002, 2003. Tạp chí 
người làm chè các số 12, 13, 16, 17, 18. 
ABSTRACT 
Effect of rainfall and soil moisture to winter-spring tea production in Phu Tho 
Dong Xuan tea production can help farmers improve their income better. However, winter-spring 
tea often obtained too low yield to meet the demand of consumer markets. The study of relationship 
between rainfall and soil moisture could clarify monthly tea productivity. At that moment, little rainfall 
and low soil moisture (<30%) made tea yield downed 3 quitals/ha (minimum of 0.14 quintals/ha). Thus, 
annual rainfall from September to February at Phu Tho does not ensure sufficient soil moisture for tea 
growing up and getting good yield. In case of winter-spring tea; it is necessary to additionally irrigate 
water for soil moisture improvement. Accordingly, additional watering practice has increased the 
volume of tea picking, increased total yield of 300% - 500%, and ensuring commercial tea quality. 
Keywords: additional watering, Phu Tho province, tea, winter-spring. 
Người phản biện: TS. Bùi Huy Hiền 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 bai_viet_109_8526_2130196.pdf bai_viet_109_8526_2130196.pdf