Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 
1151 
KẾT QUẢ CHIẾT XUẤT VÀ ĐỊNH DANH CHẤT ĐỐI KHÁNG CỎ DẠI 
N-trans-CINNAMOYLTYRAMINE TỪ GIỐNG LÚA OM 5930 
Hồ Lệ Thia*, Chung-Ho Linb, Reid J. Smedac, Nathan D. Leighd, 
Wei G. Wycoffd và Felix B. Fritschic 
*Email: 
[email protected]; Số điện thoại: 0944.376.329 
a Phòng Thí nghiệm Trung tâm, Viện Lúa ĐBSCL, Cần Thơ, Việt Nam. 
b Khoa Khoa học Cây Trồng, Đại học Missouri, Columbia, MO 65.211, Hoa Kỳ 
c Trường Tài nguyên Thiên nhiên, Đại học Missouri, Columbia, MO 65.211, Hoa Kỳ 
d Khoa Hóa Sinh, Đại học Missouri, Columbia, MO 65.211, Hoa Kỳ 
TÓM TẮT 
Trên cơ sở phát hiện khả năng hạn chế sinh trưởng đối với hai loài cỏ dại gây hại quan trọng 
nhất trên ruộng lúa nước ở Việt Nam và châu Á là cỏ lồng vực nước (Echinochloa crus-galli L.) và cỏ 
đuôi phụng (Leptochloa chinensis L.) của giống lúa OM5930, nghiên cứu này đã chiết xuất, phân tích 
và xác định được chất N-trans-cinnamoyltyramine chứa trong giống lúa OM 5930 bằng kỹ thuật sắc ký 
lỏng cao áp (HPLC), sắc ký lỏng khối phổ (LCMS/MS) như là một chất đối kháng cỏ dại. Kết quả đánh 
giá sinh học cho thấy N-trans-cinnamoyltyramine có khả năng ức chế sự tăng trưởng của cỏ lồng vực 
và cỏ đuôi phụng ở nồng độ 0,24µM. ED50 (Effective dose - nồng độ cần thiết để ức chế 50% quần 
thể cỏ dại) của N-trans-cinnamoyltyramine đối với cỏ lồng vực và cỏ đuôi phụng lần lượt là 1,6 và 
1,09 µM. Kết quả này cho thấy N-trans-cinnamoyltyramine có thể được sử dụng như một chất hóa 
sinh triển vọng để phát triển sản phẩm thuốc trừ cỏ sinh học ứng dụng trong hệ thống canh tác lúa 
bền vững. 
Từ khóa: Chất đối kháng cỏ dại, N-trans-cinnamoyltyramine, giống lúa OM5930, thuốc trừ cỏ 
sinh học, cỏ lồng vực nước, cỏ đuôi phụng. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Allelopathy là một cơ chế đối kháng của 
thực vật thông qua việc sản sinh ra chất hóa 
sinh được gọi là chất đối kháng (CĐK-
allelochemicals) để hạn chế sinh trưởng, phát 
triển hay tiêu diệt một loài khác sống trong 
cùng hệ sinh thái với nó. Lợi dụng cơ chế này, 
các nhà khoa học đã nghiên cứu khả năng đối 
kháng của các loài cây trồng đối với cỏ dại 
cũng như xác định các CĐK thực vật để phát 
triển chế phẩm đối kháng nhằm ứng dụng trong 
phòng trừ cỏ dại. 
Nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới 
đã công bố có nhiều giống lúa có khả năng 
phát triển lấn át cỏ dại bằng cách tiết ra những 
CĐK để ức chế sự nảy mầm, sinh trưởng và 
phát triển của chúng, giúp cho các biện pháp 
khác phát huy tác dụng tốt hơn, giảm sử dụng 
thuốc trừ cỏ, góp phần giảm ô nhiễm môi 
trường và nguy cơ kháng thuốc của cỏ dại 
(Busi và ctv., 2013). Nhiều CĐK cỏ dại khác 
nhau từ cây lúa cũng đã được chiết xuất và xác 
định công thức hóa học như phenolic acid, 
phenylalkanoid acid, fatty acid, diterphenoid, 
indoles, cytokynins, flavones, phenol, 
momilactone A, B (Khánh và ctv., 2009 ; Kato 
và ctv., 2010). Châu và ctv. (2008) đã tiến hành 
một thí nghiệm tại Viện Lúa ĐBSCL để đánh 
giá khả năng cạnh tranh thực vật của 19 giống 
lúa được trồng phổ biến nhất ở ĐBSCL. Kết 
quả đã chỉ ra 8 giống lúa OM 5930, OM 4900, 
OM 5900, OM 3536, OM 4498, OM 4059, OM 
2395, OM 4887 có triển vọng đối kháng và khả 
năng ức chế cao đối với sự phát triển chiều dài 
thân và rễ của rau diếp (Lactuca sativa), cải 
xoăn (Brassica oleracea) và lúa cỏ (Oryza 
sativa). Thi và ctv. (2014) đã xác định được 
giống lúa OM 5930 có khả năng ức chế cỏ lồng 
vực nước mạnh nhất. Nghiên cứu này nhằm 
xác định được CĐK cỏ dại nào chứa trong 
giống OM 5930 để tạo lập cơ sở cho việc phát 
triển thuốc trừ cỏ sinh học, góp phần giảm sử 
dụng thuốc hóa học trong phòng trừ cỏ dại. 
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1. Vật liệu nghiên cứu 
Hạt giống lúa OM 5930 thu được từ Viện 
Lúa ĐBSCL và được trồng trong nhà kính tại 
Đại học Missouri, Hoa Kỳ. Thân, lá và rễ lúa 
được thu hoạch vào 59 ngày sau gieo hạt, sơ 
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 
1152 
chế sạch, cân thành từng gói có trọng lượng 
100 g/ gói và trữ trong tủ lạnh sâu âm 80°C. 
Hạt cỏ lồng vực và cỏ đuôi phụng được mua từ 
Công ty Bamert Seed, Muleshoe, TX 79.347, 
Hoa Kỳ và trữ trong tủ lạnh ở nhiệt độ 4-5 °C. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
2.2.1. Phương pháp chiết xuất CĐK từ giống 
lúa OM 5930 bằng dung môi MeOH 
Mô lúa tươi (100 g) đã được chiết xuất 
với dung môi MeOH: H2O (1,5 L, 80:20, v / v). 
Phần chiết xuất được thu thập bằng phương 
pháp lọc sử dụng phễu Buchner sứ 320 ml 
Fisherbrand ™ và giấy lọc Whatman™ (đường 
kính 90 mm); sau đó phần dư được chiết xuất 
tiếp tục với MeOH (1 L). Cả hai phần dịch 
chiết xuất (2,5 L) được hỗn hợp chung và làm 
bay hơi dung môi MeOH ở 40°C bằng thiết bị 
Buchi (Brinkmann, Cantiague Road, Westbury, 
NY 11590, USA) để có được 300 ml dịch chiết 
chỉ có nước và CĐK. 30ml dịch chiết này 
(tương ứng với 10 g mô lúa tươi) được sử dụng 
thử nghiệm khả năng ức chế cỏ lồng vực nước 
ở các nồng độ 0,01, 0,03, 0,1, 0,3, 0,5 và 1,0 
g/ml (tương đương với trọng lượng tươi của 
cây lúa). 
2.2.2. Phương pháp tách CĐK ra khỏi dịch 
chiết thu được từ phương pháp 2.2.1 
Sử dụng phương pháp tách lỏng/lỏng 
(Liquid/liquid extraction) để tách các CĐK ra 
khỏi 270 ml dịch chiết (tương ứng với 90 g mô 
lúa tươi) bên trên với hàm lượng H2O: CHCl3 
(nước: chloroform) là 1: 2 cho mỗi lần chiết 
với tổng cộng 3 lần chiết giống nhau để tách 
thành hai pha chiết là pha chứa chloroform và 
pha dịch nước. Tiếp theo, pha chứa chloroform 
được dùng để tách các CĐK bằng kỹ thuật 
chiết pha rắn (Solid Phase Extraction - SPE) 
như sau: Phần chiết chứa chloroform được bốc 
hơi đến khô (785 mg), trộn với 5,0 g C18 
(Bondesil™ C18; Varian Inc 3100 Hansen 
Way Palo Alto, CA94.304, Hoa Kỳ) và hòa tan 
trong MeOH (6,0 ml) để đạt được lượng mẫu 
đồng nhất trong C18. Sau đó, được đặt trong tủ 
hút ở nhiệt độ phòng trong 12h để loại bỏ 
MeOH. Lượng mẫu này được đưa vào cột SPE 
(dài x rộng = 150 x 28 mm; 40 g C18), rửa với 
một gradient dung môi gồm 25%: 75%, 50%: 
50%, 75%: 25% và 100%: 0,0% của CH3CN: 
H2O (v/v). Hoạt tính ức chế cỏ dại được xác 
định trong phần chiết với 50%: 50% H2O: 
CH3CN (v/v) (186 mg) và được tinh sạch hơn 
nữa bằng cột HPLC C18 (150 mm x 4,6 mm, 
Kinetex 2.6u C8 100A; Công ty Phenomenex 
6390 Joyce Drive, Suite 100, Golden, CO 
80.403, Mỹ), trên một hệ thống sắc ký 
Shimadzu CBM-20A, kết hợp với bơm 
Shimadzu LC-20AT, đầu dò SPD-20AV 
UV/VIS, lò cột CTO-20A và LC-20AT. Điều 
kiện sắc ký bao gồm: Tốc độ dòng chảy 
1.0 ml min-1, khối lượng mẫu tiêm cho mỗi lần 
là 10.0 µl, với hỗn hợp gradient của hai giai 
đoạn di động H2O: CH3CN là 20: 30: 55: 20 
(v/v). Một CĐK được phân lập tại phút 14,3 ở 
cả hai bước sóng 220 nm và 254 nm. 
2.2.3. Phương pháp thử nghiệm sinh học 
Dịch chiết thu được sau mỗi lần chiết 
bằng MeOH, phương pháp lỏng/lỏng, phương 
pháp chiết pha rắn SPE hay HPLC được thử 
nghiệm khả năng đối kháng của các CĐK chứa 
trong dịch chiết bằng cách cho dịch chiết vào 
đĩa Petri (đường kính 35 mm) có lót giấy lọc, 
đặt các đĩa Petri vào trong tủ hút ở nhiệt độ 
phòng cho đến khi dung môi trong dịch chiết 
được bốc hơi hoàn toàn (khoảng 1 giờ 30 
phút). Lúc này, dịch chiết vẫn là hỗn hợp của 
nhiều chất trong đó có CĐK cần phân lập nên 
tính nồng độ của dịch chiết là dựa trên trọng 
lượng tươi của cây lúa (0,01, 0,03, 0,1, 0,3, 0,5 
và 1,0 g/mL). Sau đó, các giấy lọc khô trong 
đĩa Petri đã được làm ẩm với nước khử ion (1,0 
ml). Đặt 10 hạt cỏ lồng vực nước hoặc cỏ đuôi 
phụng đã được ngâm ủ cho nứt nanh (ngâm 
trong nước cất 24 giờ, vớt ra rửa sạch và ủ 
trong đều kiện tối ở 25°C trong vòng 48 giờ) 
trên giấy lọc đã được làm ẩm trên, đậy nắp đĩa 
Petri, bao kín lại bằng giấy parafin và ủ trong 
tủ ấm có nhiệt độ 25°C. Đối với nghiệm thức 
đối chứng, hạt cỏ lồng vực nước nảy mầm 
được đặt lên giấy lọc ẩm không thấm vào các 
loại dịch chiết. Chiều dài thân và rễ của hai loài 
cỏ được đo sau 48h ủ tối ở 25 °C. 
Thử nghiệm sinh học trên CĐK đã được 
tinh khiết sẽ được tính bằng nồng độ micro 
phân tử (0,024 ; 0,048 ; 0,24 ; 0,48 ; 0,96 ; 2,4 
và 4,8 µM) và được thực hiện theo các bước 
giống như trên. 
2.2.4. Phân tích thống kê 
Tất cả các thí nghiệm thử nghiệm sinh 
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 
1153 
học đã được tiến hành trong 2 đợt, các công 
thức được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với bốn 
lần nhắc lại. Tính tỷ lệ % ức chế thông qua số 
liệu về chiều dài thân, rễ theo công thức sau: 
% ức chế I = (L1- L2)/L1 x 100% 
Trong đó I là tỷ lệ % ức chế, L1 là chiều 
dài trung bình của rễ hoặc thân mầm của cây 
đối chứng và L2 là chiều dài trung bình của rễ 
hoặc thân mầm của cây được xử lý. Dữ liệu 
được phân tích bằng phân tích phương sai sử 
dụng thủ tục mô hình tuyến tính tổng quát 
trong SAS (PROC GLM , SAS 9.1) để kiểm tra 
các tương tác và ý nghĩa tác động chính lên sự 
ức chế giữa nồng độ và các phần chiết. Phân 
tích hồi quy phi tuyến tính cũng được thực hiện 
để tìm hiểu rõ mối quan hệ giữa nồng độ chiết 
xuất và tỷ lệ ức chế. Điều này được mô hình 
hóa bởi Ritz và Streibig (2005). Sử dụng ký 
hiệu chữ để so sánh sự khác nhau giữa kết quả 
trung bình của tất cả các nghiệm thức qua phép 
thử Duncan (Duncan Multiple Range Test). 
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1. Hoạt động đối kháng cỏ dại của giống 
lúa OM 5930 thông qua các chiết xuất sử 
dụng MeOH: 
Trong quá trình thử nghiệm tính đối 
kháng cỏ dại bằng cách sử dụng dịch chiết 
MeOH từ cây lúa, chúng tôi nhận thấy sự tăng 
trưởng của rễ cũng như sự phát triển của thân 
cỏ lồng vực nước bị ức chế ở nồng độ 
0,01 g ml -1, và sự ức chế gia tăng ở các nồng 
độ chiết xuất cao hơn (hình 1). Phần chiết được 
từ 0,5 g trọng lượng tươi của cây lúa OM 5930 
ức chế 100% sự tăng trưởng rễ và 87,8% sự 
tăng trưởng thân mầm của cỏ lồng vực nước. 
Tỉ lệ ED50 của rễ và thân mầm trong thử 
nghiệm, như được xác định bởi một phân tích 
hồi quy tuyến tính, là 0,052 và 0,114 g ml-1 cho 
cỏ lồng vực nước (hình 1). Cả mô rễ và thân 
đều có các biểu hiện bị còi cọc và bị sưng 
phồng (hình 1), triệu chứng này tương tự như 
triệu chứng diệt cỏ được gây ra bởi một số 
thuốc diệt cỏ tổng hợp bằng cách phá vỡ sự 
phân bào trong mô cây cỏ (Vaughn và Lehnen 
Jr., 1991) và được sử dụng để quản lý cỏ dại 
trong nhiều hệ thống cây trồng. Như vậy, CĐK 
trích từ OM 5930 có thể có cơ chế diệt cỏ 
tương tự như thuốc diệt cỏ tổng hợp. 
Hình 1. Ảnh hưởng của dịch chiết N-trans-cinnamoyltyramine trong MeOH ở các nồng độ 
khác nhau đến sinh trưởng của cây cỏ lồng vực 
Ghi chú: Các điểm tương ứng với số liệu % ức chế; các điểm có cùng chữ cái trên cùng một đồ thị thể 
hiện sự khác biệt không ý nghĩa thống kê theo phép thử Duncan ở mức xác suất P≤0.0001. 
3.2. Phân lập CĐK bằng kỹ thuật chiết pha 
rắn và hệ thống sắc ký lỏng cao áp 
Các phần chiết bằng chloroform đã được 
phân lập và tinh chế bằng kỹ thuật SPE và 
HPLC như miêu tả trong phần 2.2.2, trong đó 
phần chiết số 9 tách từ SPE (số liệu không trình 
bày) đã được xác định có khả năng diệt cỏ lồng 
vực nước và cỏ đuôi phụng cao nhất. Một CĐK 
được phân lập từ phần chiết này ở thời gian 
giữa 14,3 và 14,7 phút (hình 2A), với hàm 
lượng là 4,2 mg và là một hợp chất không màu. 
Các kết quả phân tích trên máy quang 
phổ khối phân giải cao LC MS/MS và kết quả 
phân tích cộng hưởng từ hạt nhân (NMR - 
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 
1154 
Nuclear Magnetic Resonance) đã xác định 
được CĐK này là 2 (E) N- [2 (4-
hydroxyphenyl) ethyl] -3-phenylprop-2-
enamide hay N-trans-cinnamoyltyramine 
(Công thức phân tử của hợp chất hoạt động đã 
được xác định là C17H17O2N bởi độ phân giải 
cao ESI MS (m / z 268.13320 [M + H]+ ; MW: 
267.3; Hình 1B), đây là một β-
phenylethylamine. Cấu trúc phân tử của nó đã 
được xác định lại bằng cách so sánh với các 
quang phổ NMR với kết quả xác định của Park 
và ctv. (2013); Yang và ctv, (2002) và đều 
khẳng định cấu trúc hóa học của CĐK phân lập 
từ giống lúa OM 5930 như trong hình 2B. 
OH
4
3
5
2
6
1
7
8
NH 9
O
10
11
15
14
16
13
17
12
 (A) (B) 
Hình 2. (A) Sắc ký đồ HPLC của chất ức chế cỏ dại N-trans-cinnamoyltyramine chiết xuất từ 
giống lúa OM 5930 tại bước sóng 254 nm và bước sóng 220 nm. Phát hiện ở cả hai bước sóng sẽ 
giúp xác nhận rằng không có đồng chất lẫn tạp trong phần tách. 
(B) Cấu trúc phân tử của N-trans-cinnamoyltyramine. 
3.3. Khả năng ức chế cỏ dại của N-trans-
cinnamoyltyramine 
Kết quả thử nghiệm với N-trans-
cinnamoyltyramine tinh khiết sau khi tách khỏi 
dung môi MeOH cho thấy chất này có thể ức 
chế sự tăng trưởng của thân, rễ của cỏ lồng vực 
nước và cỏ đuôi phụng ở nồng độ lớn hơn 
0,24 µM (hình 3). Tại nồng độ 2,4 µM, N-
trans-cinnamoyltyramine ức chế 81,6% sự tăng 
trưởng của mầm và rễ của cỏ lồng vực nước 
(hình 3A) và 75,9% sự tăng trưởng của cỏ đuôi 
phụng (hình 3B). Sự tăng trưởng của cỏ lồng 
vực nước ít bị ức chế bởi N-trans-
cinnamoyltyramine ở các nồng độ thấp hơn 
0,48 µM (≤ 28%). Tuy nhiên, sự ức chế tăng 
mạnh ở nồng độ lớn hơn 0,96 µM, và đạt 
73,6% trên thân và 89,5% trên rễ ở nồng độ 
2,4 µM (hình 3A). Kết quả nghiên cứu cũng 
cho thấy, khả năng ức chế của N-trans-
cinnamoyltyramine trên rễ cao hơn với thân đối 
với cả 2 loài cỏ (hình 3). 
Qua phân tích tuyến tính cho thấy tỷ lệ 
ED50 đối với rễ và thân mầm của cỏ đuôi phụng 
là 0,75 và 1,43 µM (hình 3B); cỏ lồng vực 
nước là 1,35 và 1,85 µM (hình 3A). Nghiên 
cứu của Kato-Noguchi và ctv. (2010) cũng cho 
biết ED50 của CĐK momilactone A đối với 
thân mầm và rễ của cỏ lồng vực nước là 146,0 
và 91,0 µM và của CĐK momilactone B là 6,5 
và 6,9 µM. Trong nghiên cứu này, hiệu quả của 
N-trans-cinnamoyltyramine trên cỏ lồng vực 
nước là cao hơn khoảng từ 4 lần so với 
momilactone A và 100 lần so với momilactone 
B. Như vậy, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng N-
trans-cinnamoyltyramine là một chất ức chế 
mạnh trên mô phân sinh của cả thân và rễ cả 
hai loài cỏ ở nồng độ micro phân tử, tương tự 
như nồng độ diệt cỏ của một số thuốc diệt cỏ 
hóa học. Ví dụ, nghiên cứu của Smeda et al. 
(1992) cho thấy nồng độ ức chế 50% sinh 
trưởng của quần thể cỏ dại (ED50) của thuốc trừ 
cỏ hoá học Pendimethalin đối với cỏ may 
(Setaria viridis L. Beauv.) là 0,4 µM trong theo 
kết quả nghiên cứu này thì tính trung bình, N-
trans-cinnamoyltyramine có thể ức chế 50% cỏ 
lồng vực nước ở nồng độ 1,6 µM và cỏ đuôi 
phụng ở nồng độ 1,09 µM. 
Với kết quả thí nghiệm trên cho thấy với 
90 g trọng lượng tươi của cây lúa OM 5930 sẽ 
chiết xuất được 4,2 mg N-trans-
cinnamoyltyramine tinh khiết. Như vậy, cứ 1,0 
kg lúa tươi sẽ chứa khoảng 47,0 mg. Ngoài ra, 
có 4,2 mg N-trans-cinnamoyltyramine được 
Thời gian duy trì (phút)
14,3-14,7 min 
Đ
ộ 
hấ
p 
th
ụ 
(n
m
) 
Hội thảo Quốc gia về Khoa học Cây trồng lần thứ hai 
1155 
chiết từ 270 ml dịch trích, vậy 1000 ml dịch 
trích sẽ chứa khoảng 15,6 mg N-trans-
cinnamoyltyramine. 1,0 M của N-trans-
cinnamoyltyramine tương đương với 267,3 
g/L, vậy 15,6 mg N-trans-cinnamoyltyramine/ 
L sẽ tương ứng với 58,4 µM N-trans-
cinnamoyltyramine. Tóm lại, theo nghiên cứu 
này sẽ có khoảng 64,8 µM N-trans-
cinnamoyltyramine sẽ được bài tiết từ 100 g 
mô lúa tươi ra 1 lít nước trong đất tại 59 ngày 
sau khi gieo hạt, hoặc bởi dịch rỉ từ rễ hoặc từ 
sự phân hủy của thân rễ lúa. Với một ngưỡng 
ức chế của N-trans-cinnamoyltyramine trên sự 
tăng trưởng của cỏ lồng vực nước và cỏ đuôi 
phụng là tại nồng độ 2,4 µM, nồng độ 64,8 µM 
của N-trans-cinnamoyltyramine trong nước và 
đất lúa cho thấy vượt xa ngưỡng ức chế tăng 
trưởng cỏ dại cần thiết. 
Hình 3. Hiệu quả ức chế sinh trưởng của cỏ lồng vực nước (A) và cỏ đuôi phụng (B) 
của N-trans-cinnamoyltyramine 
Ghi chú: Các điểm tương ứng với số liệu % ức chế; các điểm có cùng chữ cái trên cùng một đồ thị thể 
hiện sự khác biệt không ý nghĩa thống kê theo phép thử Duncan ở mức xác suất P≤0.0001. 
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 
4.1. Kết luận 
 1. Giống lúa OM5930 có chứa chất đối 
kháng N-trans-cinnamoyltyramine là một CĐK 
cỏ dại rất có triển vọng, có công thức cấu tạo 
C17H17O2N. Hàm lượng N-trans-
cinnamoyltyramine chứa trong 1.000 g cây lúa 
tươi là 47,0 mg. 
 2. Khả năng ức chế của N-trans-
cinnamoyltyramine với cỏ lồng vực và cỏ đuôi 
phụng khá cao. Dịch chiết bằng dung môi 
MeOH có thể ức chế cỏ lồng vực ngay ở nồng 
độ 0,01 g/ml. Mức độ ức chế gia tăng khi tăng 
nồng độ N-trans-cinnamoyltyramine trong dịch 
chiết. Phần chiết được từ 0,5 g trọng lượng tươi 
của cây lúa ức chế 100% sự tăng trưởng rễ và 
87,8% sự tăng trưởng thân mầm của cỏ lồng 
vực nước. 
3. N-trans-cinnamoyltyramine tinh khiết 
có thể ức chế sự tăng trưởng của thân, rễ của cỏ 
lồng vực nước và cỏ đuôi phụng ở nồng độ lớn 
hơn 0,24 µM. Khi tăng nồng độ lên 0,96 µM 
hiệu quả ức chế tăng lên rõ rệt và đạt cao nhất 
tới 89,5% trên rễ. Nồng độ ức chế 50% cỏ lồng 
vực nước là 1,6 µM và cỏ đuôi phụng là 1,09 
µM, gần tương đương so với thuốc trừ cỏ hóa 
học Pendimethalin (0,4 µM) nhưng cao gấp 4 
lần so với Momilactone A và 100 lần so với 
momilactone B. 
4.2. Đề nghị 
Cần tiếp tục nghiên cứu xác định hàm 
lượng chất đối kháng N-trans-
cinnamoyltyramine trong các bộ phận khác 
nhau của cây lúa, đồng thời nghiên cứu kỹ 
thuật tạo dạng thuốc để có thể phát triển thành 
sản phẩm thương mại phục vụ sản xuất. 
LỜI CẢM ƠN 
Các tác giả xin chân thành cảm ơn Quỹ 
Giáo dục Việt Nam (VEF) và Hiệp hội Phụ nữ 
các trường Đại học Mỹ (AAUW) đã hỗ trợ cho 
cho nghiên cứu này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Busi, Roberto, Vila-Aiub, Martin M., Beckie, 
Hugh John, Gaines, Todd A., Goggin, Danica 
E., Kaundun, Shiv S., Lacoste, Myrtille, Neve, 
Paul, Nissen, Scott Jay, Norsworthy, Jason 
K., Renton, M., Shaner, Dale L., Tranel, 
(A) (B) 
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 
1156 
Patrick J., Wright, Terry R., Yu, 
Qin and Powles, Stephen B. 2013. Herbicide-
resistant weeds: from research and knowledge 
to future needs. Evolutionary Applications. 6 
(8), 1218-1221. 
2. Chau D.P.M., Kieu T.T. and Chin D.V. 2008. 
Allelopathic effects of Vietnamese rice 
varieties. J. Allelopathy 22, 409–412. 
3. Kato-Noguchi, H., Hasegawa, M., Ino, T., 
Ota, K., Kujime, H., 2010. Contribution of 
momilactone A and B to rice allelopathy. J. 
Plant Physiol. 167, 787–791. 
4. Khanh T.D., Cong L.C., Chung I.M., Xuan 
T.D. and Shinkichi T.2009. Variation of 
weed-suppressing potential of Vietnamese 
ricecultivars against barnyardgrass 
(Echinochloa crus-galli) in laboratory, 
greenhouse and field screenings. J. Plant 
Interact. 3, 209–218. 
5. Macias, F.A., Molinillo, J.M., Varela, R.M., 
Galindo, J.C., 2007. Allelopathy—a 
naturalalternative for weed control. Pest 
Manag. Sci. 63, 327–348. 
6. Maneechote, C., Samanwong, S., Zhang, X.-
Q., Powles, S.B., 2005. Resistance to 
ACCase-inhibiting herbicides in sprangletop 
(Leptochloa chinensis). Weed Sci. 53, 290–
295. 
7. Park, J.-H., Fu, Y.-Y., Chung, I.S., Hahn, T.-
R., Cho, M.-H., 2013. Cytotoxic property 
ofultraviolet-induced rice phytoalexins to 
human colon carcinoma HCT-116 cells. J. 
Korean Soc. Appl. Biol. Chem. 56, 237–241. 
8. Ritz, C., Streibig, J.C., 2005. Bioassay 
analysis using R. J. Stat. Softw. 12, 1–22. 
9. Smeda, R.J., Vaughn, K.C., Morrison, I.N., 
1992. A novel pattern of herbicide 
crossresistance in a trifluralin-resistant 
biotype of green foxtail [Setaria viridis (L.) 
beauv.]. Pestic. Biochem. Physiol. 42, 227–
241. 
11. Thi L. Ho, Chung-Ho Lin, Reid J. Smeda and 
Felix B. Fritschi. 2014. Allelopathic Potential 
of Vietnamese Rice Cultivars - Exploration of 
an Allelochemical. Weed Biology and 
Management. 14: 221-231. 
12. Vaughn, K.C., Lehnen Jr., L.P., 1991. Mitotic 
disrupter herbicides. Weed Sci., 450–457. 
13. Yang, G., Zhao, S., Li, Y., 2002. Studies on 
the chemical constituents of Lycianthes 
biflora. Yao Xue Xue Bao 37, 437–439. 
ABSTRACT 
Isolation and detemination of an allelopathic n-trans-cinnamoyltyraminefrom 
Oryza sativa L.cv. OM 5930 
 In order to find out the allelopathic effects of OM 5930 rice variety on the early growth of the two 
invasive weeds in wet-seeded rice fields as barnyardgrass (Echinochloa crus-galli L.) and red spranletop 
(Leptochloa chinensis L.), we extracted, analyzed and identified an allelopathic substance N-trans-
cinnamoyltyramine in OM 5930 rice by high performance liquid chromatography (HPLC), liquid 
chromatography mass spectrometry (LC MS/MS) as an allelochemical. Bioassay results showed N-trans-
cinnamoyltyramine enable to inhibit the growth ofbarnyardgrass and red sprandletop at the concentration 
as low as 0.24µM. ED50 (Efective dose - the concentration requires for 50 % of weed growth inhibition) of 
N-trans-cinnamoyltyramine on barnyardgrass and red sprandletop are 1.6 và 1.09 µM, respectively. This 
result shows that N-trans-cinnamoyltyramine may be used as a potent allelochemical for product 
development of biological herbicide to apply in sustainable rice cultivation system. 
Keywords: Biological controls of weeds, N-trans-cinnamoyltyramine, allelochemical, 
barnyardgrass, red sprangletop. 
Người phản biện: GS. TS. Nguyễn Hồng Sơn