Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 121
KẾT QUẢ CẮT DẠ DÀY NỘI SOI 
VỚI PHỤC HỒI LƯU THÔNG HOÀN TOÀN TRONG Ổ BỤNG 
Ngô Quang Duy*, Lê Huy Lưu**, Nguyễn Tuấn Anh**, Huỳnh Văn Nghĩa*, Vũ Ngọc Sơn*, 
Nguyễn Văn Hải** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi (PTNS) điều trị ung thư dạ dày giai đoạn sớm đã được thực hiện một cách 
rộng rãi. Tuy nhiên PTNS điều trị ung thư dạ dày với việc tái lập lưu thông đường tiêu hóa bằng PTNS hoàn 
toàn trong ổ bụng được các phẫu thuật viên lựa chọn khoảng 10 năm trở lại đây. Phương pháp này ngày càng 
được nhiều lựa chọn của PTV và có được những kết quả báo cáo ban đầu khả quan.Chúng tôi thực hiện nghiên 
cứu này nhằm xác định tỷ lệ thành công và kết quả sớm của PTNS hoàn toàn. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán carcinoma tuyến dạ dày 
được chỉ định PTNS cắt dạ dày toàn phần hoặc bán phần nạo hạch D2 được thực hiện từ 1/2014 đến 5/2018. 
Chúng tôi sử dụng tiêu chuẩn lâm sàng và bệnh học theo Hiệp hội ung thư thế giới (UICC) để đánh giá. Thu 
thập và phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0. 
Kết quả: Có 44 trường hợp carcinoma tuyến dạ dày được chỉ định PTNS hoàn toàn, gồm có 11 trường hợp 
được chỉ định cắt toàn bộ dạ dày, 33 trường hợp được chỉ định cắt bán phần dưới dạ dày, độ tuổi trung bình 
55,45 ± 9,11 (27 bệnh nhân nam và 17 bệnh nữ, tỷ lệ nam:nữ là 1,5:1).Tỷ lệ PTNS hoàn toàn, PTNS hoàn toàn 
chuyển mổ mở nhỏ và chuyển mổ mở lần lượt là 70,5%, 20.5% và 9,1%. Thực hiện tái lập lưu thông đường tiêu 
hóa theo phương pháp Roux‐en –Y là 10 trường hợp(22,7%), Billroth II 72,7%, miệng nối Omega có làm chân 
Braun 2,3% và Billroth I là 2,3%.Về giai đoạn u theo IUCC: giai đoạn I (IA, IB) chiếm 31,8%, giai đoạn II chiếm 
22,7%, giai đoạn III ( IIIA, IIIB, IIIC) chiếm 45,5%.Không có tai biến trong mổ, thời gian mổ trung bình cho 
nhóm cắt toàn bộ dạ dày là 303,18 ± 75,54 phút và nhóm cắt bán phần dưới dạ dày 261,76 ± 58,326, máu mất 
trong mổ trung bình khoảng 100ml. Biến chứng sau mổ có 9 trường hợp trong đó 5 trường hợp chiếm 11,4% là 
chảy máu/tụ dịch ổ bụng, 2 (4,5%)trường hợp liệt/ bán tắc ruột sau mổ, 1(2,3%) trường hợp rò mỏm tá tràng và 
1 (2,3%) trường hợp biến chứng viêm phổi. Thời gian hậu phẫu trung bình 7,86 ± 2,96 ngày, thời gian cho ăn ăn 
cháo trở lại và thời gian trung tiện trở lại sau mổ lần lượt là 4,18 ± 1,41 ngày và 3,27 ± 1,08 ngày. 
Kết luận: PTNS hoàn toàn cắt dạ dày carcinoma tuyến nạo hạch D2 có thể thực hiện được an toàn, không 
có tai biến, ít biến chứng sau mổ. Thời gian hồi phục và nằm viện được rút gắn. 
Từ khoá: Ung thư dạ dày; Phẫu thuật nội soi; Khâu nối trong ổ bụng. 
ABSTRACT 
RESULT OF LAPAROSCOPY GASTRECTOMY WITH INTRACORPOREAL ANASTOMOSIS 
Ngo Quang Duy, Le Huy Luu, Nguyen Tuan Anh, Huynh Van Nghia, Vu Ngoc Son, Nguyen Van Hai 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 22 - No 6 - 2018: 121 - 126 
Background: Laparoscopy‐assisted gastrectomy (LAG) with lymph node dissection for ealy gastric cancer is 
accepeted. However, total laparoscopy gastrectomy(TLG) with lymph node dissection and reconstrution GI is still 
controversial and is not common.Because this technique is difficluty and newly.This study was performed to 
verify the technical feasibility, safety and oncologic efficacy of TLG with extended lymphadectomy for cacinoma of 
gastric cancer. 
* Khoa Ngoại Tiêu Hóa - Bệnh viện Nhân Dân Gia Định 
Tác giả liên lạc: BS.CKI. Ngô Quang Duy ĐT: 0905995079 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 122
Materials and methods: From 1/2014 ‐ 5/2015, 44 patients were performed TLG with D2 lymph nodes 
dissection for gastric cancer. 
Result: 11 patients total gastrectomy, and 33 patients distal gastrectomy, the mean ages 55.45 ± 9.11, with 
70.5% TLG, 20.5% LAG and 9% converter open laparotomy gastrectomy. The mean operating time was 303.18 
± 75.54 min for total gastrectomy and 261.76 ± 58.326 min for distal gastrectomy, the mean blood loss was 100 
ml, and the average length of post‐operative was 7.86 ± 2.96 days. There are no significant differences in the 
operation time, estimated blood loss, time to first flatus, length of hospital stay, overall, and anastomosis‐related 
complications the group of TLG and LAG and convert open laparotomy gastrectomy. 
Conlusions: Total laparoscopy gastrectomy with extended lymphadenectomy for gastric cancer appears to be 
a feasible and safe procedure. Patients have faster recovery and shorter hospital stay. 
Keywords: Gastric cancer, Laparoscopy, Intracorporeal anastomosis. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
PTNS cắt dạ dày để điều trị ung thư dạ dày 
giai đoạn sớm đã được thực hiện môt cách rộng 
rãi tại các nước trên thế giới. Vai trò của PTNS 
trong cắt dạ dày đã được chứng minh và có 
nhiều thuận lợi hơn so với mổ mở. 
Tuy nhiên, thời gian đầu thực hiện, đa số các 
tác giả sau khi thực hiện PTNS cắt dạ dày kèm 
nạo hạch thì phải cần mở một vết mổ nhỏ ở 
đường giữa trên rốn (khoảng 5cm) để thực hiện 
miệng nối phục hồi lưu thông ống tiêu hoá. Việc 
này có thể gặp những khó khăn, nhất là ở bệnh 
nhân béo phì, thành bụng dày, phẫu trường sâu 
hay vị trí u nằm ở 1/2 trên dạ dày gây khó khăn 
trong thực hiện miệng nối cũng như kéo căng 
các miệng nối khi thực hiện khâu nối, thời gian 
tiếp xúc giữa lòng ống tiêu hóa với vết mổ thành 
bụng dài hơn có thể gây nhiễm trùng vết mổ và 
cũng không tránh khỏi việc banh kéo thành 
bụng nhiều gây đau đớn sau mổ. 
Gần đây, nhiều tác giả trên thế giới đã sử 
dụng các máy cắt nối thẳng để thực hiện miệng 
mối tái lập lưu thông đường tiêu hóa mà không 
phải mở vết mổ nhỏ vùng thượng vị và được 
thực hiện hoàn toàn qua nội soi. Một số báo cáo 
về PTNS hoàn toàn cắt dạ dày, tái lập đường 
tiêu hóa bên trong ổ bụng được cho thấy dần 
tính an toàn, dễ thực hiện đối với nhiều phẫu 
thuật viên. 
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm 
báo cáo lại kết quả thực hiện phẫu thuật điều trị 
ung thư dạ dày thiết lập lại đường tiêu hóa bằng 
PTNS hoàn toàn. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu hồi cứu mô tả. 
Đối tượng 
Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán ung dạ 
dày carcinoma tuyến được chỉ định phẫu thuật 
nội soi từ 1/2014 đến tháng 05/2018. Chúng tôi sử 
dụng các tiêu chuẩn lâm sàng và bệnh học theo 
hiệp hôi ung thư thế giới. 
Bệnh nhân: Chúng tôi nghiên cứu hồi cứu 44 
bệnh nhân được chẩn đoán ung thư dạ dày 
carcinoma tuyến được phẫu thuật bao gồm ung 
thư tất cả các vị trí của dạ dày 
Kỹ thuật 
Chúng tôi cho bệnh nhân nằm ngửa, không 
cần dạng chân sau khi đã được mê nội khí quản. 
Màn hình phẫu thuật được đặt phía trên bên trái 
vai của bệnh nhân. Phẫu thuật viên và người 
cầm camera đứng bên phải của bệnh nhân, 
người phụ đứng phía bên trại bệnh nhân. Chúng 
tôi có 5 troca: 10 ở rốn để dùng cho camera, 12 
cạnh phải rốn, 5 cạnh trái rốn và dưới sườn phải 
và trái để tạo hình bán nguyệt của nữa bụng 
trên. Đối với cắt dạ dày toàn bộ chúng tôi thay 
troca 5 cạnh trái rốn bằng troca 12. Duy trì áp lực 
ổ bụng khoảng 10 - 12mm H20, treo gan trái lên 
thành bụng. Sau khi đánh giá tình trạng khối u, 
sự di căn ổ bụng chúng tôi tiến hành nạo hạch 
D2 tiêu chuẩn. Chúng tôi dùng stapler thẳng để 
thực hiện cắt và tái lập lưu thông đường tiêu 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 123
hóa. Đối với cắt bán phần dưới dạ dày chúng tôi 
thực hiện kiểu nối Billroth I hoặc II, đối với cắt 
toàn bộ chúng tôi thực hiện kiểu nối Roux-en –Y. 
Thu thập và phân tích số liệu 
Chúng tôi thu thập các dữ kiện về tuổi, giới 
tính, chỉ số khối(BMI), các dấu hiệu lâm sàng, kết 
quả nội soi, CT scanner ổ bụng, giải phẫu bệnh 
sau mổ, ghi nhận trong mổ và diễn tiến hậu 
phẫu, các biến chứng sớm, tình trạng tái nhập 
viện trong vòng 30 ngày sau mổCác số liệu 
được xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0. 
KẾT QUẢ 
Từ 1/2014 đến 5/2018 có 44 trường hợp ung 
thư dạ dày carcinoma tuyến được chỉ định PTNS 
hoàn toàn nạo hạch D2. Trong số 44 trường hợp 
có 27 trường hợp nam (61,4%) và 17 trường hợp 
nữ (38,6%), tỷ lệ nam:nữ là 1,5:1 với độ tuổi 
trung bình 55,45 ± 9,11. Nhóm mắc bệnh cao 
nhất là 40 - 60 tuổi chiếm 68,2%. 
Tiền sử có 50% tiền sử viêm loét dạ dày, 6,8% 
trường hợp có tiền căn ung thư ngoài dạ dày. 
Về dấu chứng lâm sàng thì đa số nhập viện 
vì đau vùng thượng vị chiếm 86,4%, chỉ có 2 
trường hợp là sờ được u ổ bụng. 
Trên các xét nghiệm huyết học, có 19 trường 
hợp (432%) có biểu hiện thiếu máu (Hb < 120 
g/dL), có 7 trường hợp (15,9%) Albumin dưới 
35g/L. Kết quả nội soi dạ dày tá tràng và CT scan 
ổ bụng chủ yếu u nằm vùng hang môn vị với tỷ 
lệ lần lượt là 72,7% và 68,2%. Trong đó có 7 
trường hợp (15,9%) trên CT scanner không ghi 
nhân u, còn trên nội soi đều phát hiện được u. 
Chúng tôi có 11trường hợp được chỉ định cắt 
toàn bộ dạ dày và 33trường hợp cắt bán phần 
dưới dạ dày. Có 9 trường hợp phải chuyển mổ 
mở nhỏ chiếm 20,5% (6 trường hợp nhóm cắt 
toàn bộ dạ dày và 3 trường hợp nhóm cắt bán 
phần dưới) và 4trường hợp phải chuyển sang 
mổ mở chiếm 9,1% (3 trường hợpnhóm cắt toàn 
bộ dạ dày và 1trường hợp cắt bán phần dưới). 
Có 5 trường hợp cắt thêm các tạng khác kèm 
theo: 2trường hợp cắt túi mật do sỏi, 1 trường 
hợp cắt ĐT phải vì chuẩn đoán ban đầu nghi 
ngờ u dạ dày có kèm u manh tràng và 2 trường 
hợp cắt đại tràng ngang do u xâm lấn mạc treo 
đại tràng (Bảng 1). 
Trong 44 trường hợp được phẫu thuật chúng 
tôi thưc hiện miệng nối Billroth II 32 trường hợp 
(72,7%), 10 trường hợp (22,7%) kiểu nối Roux- en 
–Y, 1 trường hợp hợp nối có chân braun và 1 
trường hợp nối Billroth I. 
Chúng tôi không ghi nhận có trường hợp 
nào bị tai biến trong mổ, máu mất trong mổ 
trung bình khoảng 100ml. Thời gian mổ cho 
nhóm cắt toàn bộ 303,18 ± 75,54 phút và cho 
nhóm cắt bán phần dưới 261,76 ± 58,32 phút. 
Về đặc điểm hậu phẫu,thời gian nằm viện 
trung bình đối với nhóm PTNS hoàn toàn 7,77 ± 
3,08 ngày trong khi 2 nhóm còn lại 8,08 ± 2,75 
ngày. Trong nghiên cứu của chúng tôi trường 
hợp hậu phẫu ngắn nhất là 3 ngày đã được xuất 
viện. Thời gian trung tiện lần đầu, thời gian bắt 
đầu ăn loãng, hay thời gian rút ống sonde mũi 
dạ dày giữa 2 nhóm không có sự khác biệt (Bảng 2). 
Có 9 trường hợp có biến chứng sớm sau mổ 
bao gồm 5trường hợp chảy máu/tụ dịch ổ bụng, 
2trường hợp liệt/bán tắc ruột sớm sau mổ, 1 
trường hợp rò mỏm tá tràng và 1trường hợp có 
biến chứng liên quan đến nội khoa. Không ghi 
nhân trường hợp nào tử vong (Bảng 3). 
Xử lý biến chứng, chỉ có 1 trường hợp chảy 
máu ổ bụng được mổ lại vào hậu phẫu ngày thứ 
nhất, 6 trường hợp được điều trị nội khoa và 2 
trường hợp được chọc dịch ổ bụng dẫn lưu dưới 
siêu âm. Có 2 trường hợp phải nhập viện lại 
trong vòng 30 ngày sau mổ, 1 trường hợp phát 
hiện áp xe tồn lưu vào ngày hậu phẫu thứ 17 sau 
đó được chọc dẫn lưu ổ áp xe và xuất viện sau 
đó 7 ngày, 1 trường hợp khác do bán tắc ruột do 
dính vào ngày hậu phẫu thứ 21 và được điều trị 
nội khoa sau 9 ngày thì xuất viện (Bảng 4). 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 124
Bảng 1. Chuyển đổi phương pháp mổ 
Phương pháp mổ Cắt toàn phần Cắt bán phần dưới Tổng P 
Nội soi hoàn toàn 2 18,2% 29 87,9% 31 70,45% 
<0,001 
Nội soi hoàn toàn chuyển mở nhỏ 6 54,5% 3 9,1% 9 20,45% 
Nội soi chuyển mổ mở 3 27,3% 1 3,0% 4 9,1% 
Tổng 11 100 33 100 44 100 
Bảng 2: Đặc điểm hậu phẫu 
 Nội soi hoàn toàn Nội soi chuyển mở nhỏ + mổ mở Chung p 
Số ngày hậu phẫu 7,77 ± 3,08 8,08 ± 2,75 7,86 ± 2,96 0,761 
Số ngày điều trị 15,45 ± 6,36 17,62 ± 4,73 16,09 ± 5,96 0,277 
Ngày trung tiện lần đầu 3,29 ± 0,94 3,23 ± 1,42 3,27 ± 1,09 0,87 
Ngày bắt đầu ăn cháo loãng 4,06 ± 1,12 4,46 ± 1,98 4,18 ± 1,42 0,403 
Này rút sonde mũi dạ dày 1,00 (1,00 - 2,00) 1,00 (1,00 - 2,50) 1,00 (1,00 - 2,00) 0,571 
Bảng 3. Các biến chứng sau mổ 
Loại tai biến, biến chứng, Tử vong phẫu thuật Nội soi hoàn toàn Nội soi chuyển mở nhỏ + mổ mở Tổng Tỷ lệ 
Tử vong chu phẫu 0 0 0 0,0% 
Nhiễm trùng vết mổ 0 0 0 0,0% 
Chảy máu vết mổ 0 0 0 0,0% 
Xì dò miệng nối 1 0 1 2,3% 
Tắc miệng nối 0 0 0 0,0 
Chảy máu miệng nối 0 0 0 0,0% 
Chảy máu/ tụ dịch ổ bụng 2 3 5 11,4% 
Liệt/ bán tắc ruột sau mổ 2 0 2 4,5% 
Biến chứng nội khoa 0 1 1 2,3% 
Tổng 5 4 9 20,45 
Bảng 4: Các phương pháp xử lý biến chứng sau mổ 
Xử lý 
Nội soi chuyển mở nhỏ + mổ mở Nội soi hoàn toàn 
Tổng Tỷ lệ 
N Tỷ lệ N Tỷ lệ 
Điều trị nội khoa 3 75% 3 60,% 6 66,7% 
Chọc DL 0 0,0% 2 40% 2 22,2% 
Mổ lại 1 25% 0 0,0% 1 11,1% 
Tổng 4 100% 5 100% 9 100% 
BÀN LUẬN 
PTNS điều trị ung thư dạ dày giai đoạn sớm 
đã được chấp nhận rộng rãi, tuy nhiên đối với 
ung thư dạ dày giai đoạn tiến triển vẫn còn bàn 
cải(2).Phẫu thuật nội soi điều trị ung thư dạ dày 
với việc tái lập lưu thông đường tiêu hóa hoàn 
toàn trong ổ bụng cũng chưa được thực hiện 
rộng rãi ở các bệnh viện Việt Nam. Một số 
nghiên cứu của các tác giả trên thế giới như 
Hirokazu Noshiro và cộng sự, Sang-Woong Lee 
và cộng sự, Jianjun Du và cộng sự, và Jin-Jo Kim 
và cộng sự đều cho thấy rằng đây là phẫu thuật 
có thể áp dụng cho các giai đoạn ung thư dạ 
dày(5,12). Phẫu thuật nội soi có những thuận lợi 
hơn so với mổ mở đã có nhiều nghiên cứu được 
chứng minh, tuy nhiên viện tái lập lưu thông 
đường tiêu hóa trong ổ bụng đòi hỏi kỹ năng 
của phẫu thuật viên và được đào tạo kỹ lưỡng 
nhằm tránh các biến chứng của cuộc mổ. 
Độ tuổi trung bình trong nghiên cứu của 
chúng tôi 55,45 ± 9,11, cao nất là 76 tuổi và thấp 
nhất là 39 tuổi, cũng không khác biệt so với 
nghiên cứu của nhiều tác giả(4,11). Điều này cũng 
cho thấy phẫu thuật nội soi hoàn toàn có thể áp 
dụng đối với những bệnh nhân lớn tuổi(6). 
Nghiên cứu của chúng tôi có 19 bệnh nhân 
có biểu hiện thiếu máu với Hb < 120 g/dL chiếm 
43,2% trường hợp mổ và có 7 bệnh nhân chiếm 
15,9% tỷ lệ Albumin dưới 35g/L. Tuy nhiên với 
những hỗ trợ về dinh dưỡng quanh cuộc mổ 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 125
cũng như truyền máu trước và sau mổ thì 
những trường hợp này vẫn có thể thực hiện 
phẫu thuật nội soi. Một vấn đề nữa là việc mất 
máu trong mổ trong nghiên cứu của chúng tôi 
trung bình khoảng 100ml, đây là số lượng máu 
mất tương đối ít nên không gây ảnh hưởng đến 
việc phải truyền máu cho mệt nhân sau mổ và ít 
tác động đến việc hồi phục của bệnh nhân. Theo 
nghiên cứu của nhiều tác giả thì số lượng máu 
mất cũng thay đổi khá nhiều, theo tác giả Ejii 
Oki với 118 bệnh nhân thì lượng máu mất 
khoảng 121,7 ± 146,09, một số tác giả khác có 
lượng máu mất trong mổ trung bình trên 
100ml(1,2,11,16). 
Trong 44 trường hợp được chỉ định PTNS 
hoàn toàn điều trị ung thư dạ dày chúng tôi có 4 
trường hợp phải chuyển sang mổ mở chiếm 
9,1% trong đó có 3 trường hợp là chỉ định cắt 
toàn bộ dạ dày và 1 trường hợp cắt bán phần 
dưới dạ dày. Điều này liên quan đến giai đoạn u 
xâm lấn vào mạc treo đại tràng hay u xâm lấn 
vào trụ hoành và 1 trường hợp do tình trạng gan 
xơ. Một số nghiên cứu của tác giả trước như 
Nguyễn Minh Hải ghi nhận trong 44 trường hợp 
cắt dạ dày nội soi hỗ trợ có 1 trường hợp phải 
chuyển sang mổ hở, còn theo nghiên cứu của tác 
giả Lê Mạnh Hà có 14/68 trường hợp chuyển 
sang mổ hở chiếm 21%(9,18). 
Hiện nay, PTNS hỗ trợ vẫn còn được thực 
hiện nhiều hơn so với PTNS hoàn toàn bởi vì 
phẫu thuật nội soi hoàn toàn thực hiện kỹ thuật 
tái lập lưu thông đường tiêu hóa trong ổ bụng 
đòi hỏi kỹ thuật khó hơn(6,15,17). Tuy nhiên đối với 
những trường hợp cắt toàn bộ dạ dày cần phải 
thực hiện miệng nối thực quản – ruột non, hay 
những trường hợp có thành bụng dày, hay béo 
phì thì việc mở bụng nhỏ hay chuyển sang mổ 
mở để thực hiện sẽ gặp nhiều khó khăn, trong 
khi đó đối với phẫu thuật nội soi hoàn toàn thì 
việc thực hiện nạo vét hạch hay thực hiện miệng 
nối được quan sát rỏ và thực hiện tương đối dễ 
dàng. Theo tác giả Đỗ Minh Hùng khi nghiên 
cứu 37 trường hợp được phẫu thuật cắt bán 
phần dạ dày với nội soi hỗ trợ nạo hạch D2 thì 
thời gian mổ 226,95 ± 17,534 phút, tác giả 
Nguyễn Minh Hải là 240 phút, tác giả Lê Mạnh 
Hà 240 phút. Đối với cắt dạ dày PTNS hoàn toàn 
thì tác giả Jin-Jo Kim là 314 ± 79 phút được thực 
hiện ở 41 trường hợp, tác giả Eiji OKI là 318,46 ± 
66,3 phút trên 118 trường hợp dưới 75 tuổi. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian mổ 
trung bình cho phẫu thuật cắt bán phần dưới 
261,76 ± 58,32 phút và cho cắt toàn bộ là 303,18 ± 
75,54 phút không khác biệt so với các tác giả 
khác(6,7,8,9,18). 
Chúng tôi thực hiện kiểu nối Billroth II là 
chủ yếu, điều này có thể giải thích vì số lượng 
cắt bán phần dưới dạ dày chiếm 33 trường hợp, 
và kiểu nối Billroth II dễ thực hiện. Một nghiên 
cứu của tác giả Jin-Jo Kim được thực hiện trên 45 
trường hợp với PTNS hoàn toàn cắt bán phần 
hoặc toàn bộ dạ dày trong điều trị ung thư dạ 
dày với nhiều kiểu nối khác nhau thì thời gian 
thực hiện miệng nối trung bình là 41 ± 22 phút 
và thời gian chung của cuộc mổ 314 ± 79 phút, 
tuy nhiên cũng không có sự khác biệt về biến 
chứng và tỷ lệ tử vong(8). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 9 trường 
hợp có biến chứng sau mổ với 5 trường hợp 
chảy máu/ tụ dịch ổ bụng chỉ có 1 trường hợp 
được mổ lại cầm máu vào ngày hậu phẫu thứ 
nhất, còn 4 trường hợp còn lại chỉ chọc dẫn lưu ổ 
tụ dịch dưới hướng dẫn siêu âm. Trường hợp 
chảy máu sau mổ thuộc nhóm cắt toàn bộ dạ 
dày và được chuyển mổ hở do u xâm lấn vào trụ 
hoành, khi phẫu thuật lần 2 để cầm máu chúng 
tôi ghi nhận màu chảy rỉ rả ở vùng rốn lách, đây 
cũng là một sự khó khăn trong quá trình mổ mở 
vì phẫu trường sâu, quan sát phẫu trường sẽ bị 
hạn chế. Có 1 trường hợp bị rò mỏm tá tràng sau 
mổ, qua theo dõi chúng tôi nhận thấy cung 
lượng rò ngày càng giảm, sinh hiệu ổn và tình 
trạng bụng không có biểu hiện viêm phúc mạc 
nên chúng tôi đã quyết định điều trị nội khoa và 
sau đó bệnh nhân ổn định và xuất viện. Có 1 
trường hợp bán tắc ruột sau mổ vào ngày hậu 
phẫu thứ 3, chúng tôi chụp CT scan bụng lại 
kiểm tra và phát hiện nguyên nhân gây bán tắc 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 22 * Số 6 * 2018
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Nhân Dân Gia Định 2018 126
ruột do ống dẫn lưu chèn vào đại tràng ngang 
gây bán tắc ruột, trường hợp này chúng tôi cho 
rút ống dẫn lưu ngay sau đó và bệnh nhân trung 
tiện trở lại, điều trị nội tiếp tục và ổn định xuất 
viện.Trường hợp này theo y văn thế giới cũng có 
ghi nhận nhưng với tỷ lệ thấp.Khi so sánh biến 
chứng sau mổ của PTNS với mổ mở theo nghiên 
cứu của nhiều tác giả vẫn cho kết quả các loại 
biến chứng vẫn xãy ở cả 2 nhóm mổ nội soi và 
mổ mở mà không có sự khác biệt có ý nghĩa(13). 
Theo tác giả M. Goto và cộng sự thì biến chứng 
chung sau mổ khoảng 15,3%, theo tác giả Triệu 
Triều Dương thì tỷ lệ biến chứng là 9,6% đối với 
nhóm phẫu thuật nội soi(3). 
KẾT LUẬN 
PTNS hoàn toàn điều trị ung thư dạ dày nạo 
hạch D2 cho kết quả khả quan, tỷ lệ biến chứng 
sau mổ thấp và có thể thực hiện an toàn giúp 
bệnh nhân sớm hồi phục. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Chen K et al (2016), "Totally laparoscopic versus laparoscopic-
assisted total gastrectomy for upper and middle gastric cancer: a 
single-unit experience of 253 cases with meta-analysis", World J 
Surg Oncol. 14, pp.96. 
2. Cianchi F et al (2013), "Totally laparoscopic versus open 
gastrectomy for gastric cancer: a matched cohort study", J 
Laparoendosc Adv Surg Tech A. 23 (2), pp. 117-122. 
3. Đỗ Minh Hùng et al (2014), "Kết quả phẫu thuật cắt dạ dày bán 
phần dưới với nội soi hỗ trợ nạo vét hạch D2 điều trị ung thư dạ 
dày tiến triển. ", Y Học TP. Hồ Chí Minh. 18 (1): 129-136. 
4. Đỗ Trường Sơn et al (2015), "Kết quả sau 10 năm ứng dụng 
PTNS điều trị ung thư biểu mô dạ dày tại khoa PTTH- bệnh 
viện Hữu nghị Việt Đức", Tạp chí Ngoại Khoa. 66 (4): 12-20 
5. Du J et al (2012), "Totally laparoscopic Billroth II gastrectomy 
with a novel, safe, simple, and time-saving anastomosis by only 
stapling devices", J Gastrointest Surg. 16 (4), pp. 738-743. 
6. Goto M et al (2016), "Short-Term Outcomes of Laparoscopic 
Distal Gastrectomy for Advanced Gastric Cancer", The Journal of 
Medical Investigation. pp. 68-73. 
7. Hồ Hữu An et al (2011), "Mổ nội soi cắt rộng dạ dày vét hạch D2 
điều trị ung thư dạ dày tại khoa ngoại nhân dân, bệnh viện 
TWQĐ 108", Tạp chí Y dược học quân sự số chuyên đề ngoại bụng. 
8. Kim JJ et al (2008), "Totally laparoscopic gastrectomy with 
various types of intracorporeal anastomosis using laparoscopic 
linear staplers: preliminary experience", Surg Endosc. 22 (2), pp. 
436-442. 
9. Lê Mạnh Hà (2013), "Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật cắt dạ 
dày nội soi trong điều trị ung thư dạ dày ", Y Học Thực Hành. 5: 
37-1. 
10. Lee SW et al (2010), "Intracorporeal stapled anastomosis 
following laparoscopic segmental gastrectomy for gastric 
cancer: technical report and surgical outcomes", Surg Endosc. 24 
(7), pp. 1774-1780. 
11. Nguyễn Minh Hải (2009), "Cắt dạ dày nội soi hỗ trợ: nhân 46 
trường hợp", Tạp chí Y học TP. Hồ Chí Minh, tr. 182-186. 
12. Noshiro H et al (2011), "An additional suture secures against 
pitfalls in delta-shaped gastroduodenostomy after laparoscopic 
distal gastrectomy", Gastric Cancer. 14(4), pp. 385-389. 
13. Noshiro H et al (2011), "An additional suture secures against 
pitfalls in delta-shaped gastroduodenostomy after laparoscopic 
distal gastrectomy", Gastric Cancer. 14(4), pp. 385-389. 
14. Ong KY et al (2008), "Is totally laparoscopic gastrectomy less 
invasive than laparoscopy-assisted gastrectomy?: prospective, 
multicenter study", J Gastrointest Surg. 12 (6), pp. 1015-1021. 
15. Pugliese R et al (2007), "Total and subtotal laparoscopic 
gastrectomy for adenocarcinoma", Surg Endosc. 21 (1), pp. 21-27. 
16. Roukos DH et al (2010), "Totally intracorporeal laparoscopic 
gastrectomy for gastric cancer", Surg Endosc. 24 (12), pp. 3247-
3248; author reply 3249-3250. 
17. So KO et al (2011), "Totally laparoscopic total gastrectomy using 
intracorporeally hand-sewn esophagojejunostomy", J Gastric 
Cancer. 11 (4), pp. 206-211. 
18. Triệu Triều Dương (2008), "Nghiên cứu kỹ thuật cắt dạ dày, vét 
hạch D2 bằng phẫu thuật nội soi tại bệnh viện 108", Y Học TP. 
Hồ Chí Minh. 12 (4): 204-208. 
Ngày nhận bài báo: 15/07/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 07/08/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/11/2018