79 
HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0030 
Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 4, pp. 79-85 
This paper is available online at  
JATAKA TRONG VĂN HỌC MỘT SỐ NƯỚC ĐÔNG NAM Á LỤC ĐỊA 
NHÌN TỪ LÍ THUYẾT TIẾP NHẬN CỦA N.KONRAT 
Hà Đan và Hoàng Thị Mỹ Nhị 
Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam 
Tóm tắt. Sự ra đời của một tác phẩm văn học bất kì bao giờ cũng là một quá trình. Quá trình 
đó liên quan đến nhiều vấn đề trong đó có vấn đề tiếp nhận văn học. Tiếp nhận văn học theo 
quan điểm của nhà đông phương học N. Konrat là lí thuyết mà chúng tôi sử dụng để giải mã 
sự ảnh hưởng của tác phẩm kinh điển Phật giáo Jataka trong văn học một số nước Đông Nam 
Á lục địa như Campuchia. Myanmar và Lào. Không thể phủ nhận rằng, hầu hết ba quốc gia 
này đều vay mượn cốt truyện, kết cấu, motip từ Jataka để tạo ra những văn phẩm của mình, 
bao gồm cả văn học viết lẫn văn học dân gian. Nhưng bằng những con đường khác nhau như 
truyền giáo, dịch thuật, phóng tác... Jataka của Ấn Độ đã dần dần được bản địa hóa và trở 
thành giá trị văn học riêng của một quốc gia. Mục đích của bài viết này là đề cập tới ảnh 
hưởng của Jataka ở một số nước Đông Nam Á lục địa trên một số phương diện. Từ đó sẽ góp 
phần bổ sung lí luận về các quan hệ văn học - một vấn đề rất được quan tâm trong bối cảnh 
thế giới đang hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay. 
Từ khóa: Jataka truyện kể, tiếp nhận văn học, văn học Đông Nam Á. 
1. Mở đầu 
Ấn Độ là quốc gia có nền văn minh vĩ đại từng lan tỏa sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới, 
trong đó có các nước thuộc khu vực Đông Nam Á. Trong lịch sử, Đông Nam Á và Ấn Độ có hàng 
chục thế kỉ giao thương, tiếp xúc, quan hệ qua lại với nhau nên văn hóa Ấn Độ đã để lại những 
dấu ấn đậm nét trong nền văn hóa Đông Nam Á, đặc biệt là Phật giáo. Phật giáo nói chung, văn 
học Phật giáo Ấn Độ nói riêng đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tiến trình phát triển văn học Đông 
Nam Á trong suốt chiều dài lịch sử. Tiếp biến tập truyện cổ Jataka Ấn Độ - một hiện tượng cụ thể 
của tương tác văn hóa Ấn Độ - Đông Nam Á do vậy đã thu hút sự quan tâm của rất nhiều học giả 
trong và ngoài nước. Ở nước ngoài, phải kể đến Ven Sengpan Pannyawansa với công trình A 
critical study of the Vessantara - Jataka and its influence on Kengtung Buddism, Eastern Shan 
State, Burma (2007) [15]. Trong 7 chương sách, tác giả dành hẳn 1 chương nói về văn học 
Phật giáo và ảnh hưởng của Jataka lên các nước theo Phật giáo tiểu thừa. Tác giả đã nhắc 
đến sự tồn tại của Dasa Jataka (10 Jataka cuối cùng) trong văn học một số nước Đông 
Nam Á lục địa, đặc biệt là câu chuyện về Hoàng tử Vessandor - do rất được yêu thích.Tiếp 
đến là công trình Buddhist Ethics in the Pannàsa Jàtaka (Đạo đức Phật giáo trong Pannàsa Jàtaka) 
của nhà nghiên cứu Bunnary. Công trình này nhấn mạnh vào khía cạnh đạo đức của tác phẩm 
trong việc thực hiện các lời dạy của Đức Phật. Tác giả coi đó là tác phẩm ngụy kinh, kinh phóng 
tác, nghĩa là vẫn vay mượn từ tập truyện Jataka của Ấn Độ nhưng biên soạn lại theo ngôn ngữ và 
tinh thần dân tộc giúp trở nên gần gũi và dễ hiểu đối với quần chúng. 
Ngày nhận bài: 1/2/2018. Ngày sửa bài: 9/3/2018. Ngày nhận đăng: 5/4/2018. 
Tác giả liên hệ: Hoàng Thị Mỹ Nhị. Địa chỉ e-mail: 
[email protected] 
Hà Đan và Hoàng Thị Mỹ Nhị 
80 
Cùng với Jataka chính thống, 50 Jataka bản địa đã ảnh hưởng lớn đến đời sống người dân 
Myanmar, Campuchia, Lào ở phương diện đạo đức, hành vi, ứng xử Còn ở Việt Nam, thực tế 
trên cho thấy việc nghiên cứu Jataka ở nước ta chưa nhiều. Một vài nhận định về văn phầm này 
lúc đầu chỉ xuất hiện ở lời giới thiệu của Thích Minh Châu khi dịch tập truyện này ra tiếng Việt 
với cách tiếp cận chủ yếu từ tôn giáo học. Sau đó, có xuất hiện thêm vài công trình nghiên cứu 
nhưng hầu hết là các bài viết lẻ tẻ trong các giáo trình về văn học Đông Nam Á. Bài viết Phương 
diện kết cấu trong nghệ thuật kể chuyện - thuyết pháp của Jataka của tác giả Phan Thu Hiền [8] trên Tạp chí 
Nghiên cứu văn học số tháng 8/2008 có thể coi là bài viết khá công phu về tác phẩm này nhưng cách tiếp cận 
lại chỉ là một phương diện thuộc về hình thức tác phẩm: đó là kết cấu. Theo tác giả, Jataka có 4 loại kết 
cấu: kết cấu chuỗi (chain narrative), kết cấu truyện trong truyện), kết cấu đồng hiện đan xen giữa 
quá khứ và hiện tại (tow - tier story), kết cấu đan xen giữa truyện kể và thi kệ. 
Như vậy, điểm qua vài nét về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về vấn đề nghiên cứu, 
chúng tôi nhận thấy chưa có nghiên cứu nào thật đồ sộ về tập truyện Jataka nói chung và quá trình 
tiếp biến văn phẩm này ở Đông Nam Á nói riêng. Với những lí do trên, chúng tôi nhận thấy việc 
nghiên cứu ảnh hưởng của Jataka trong đời sống văn học một số nước Đông Nam Á lục địa 
không những cho chúng ta những hiểu biết về mối quan hệ văn hóa lịch sử Ấn Độ - Đông Nam Á 
mà còn góp phần bổ sung thêm tư liệu cho các học giả, các nhà nghiên cứu quan tâm đến văn hóa 
- văn học Đông Nam Á nói chung và ảnh hưởng của Jataka lên văn học các nước Đông Nam Á 
lục địa nói riêng. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Lí thuyết tiếp nhận của N. Konrat 
Đề cập đến vấn đề quan hệ văn học, thực chất chúng ta muốn nói đến mối quan hệ, tác động 
qua lại giữa nhà văn, tác phẩm với các nền/khu vực văn học... Quan hệ văn học là một phạm trù 
mang tính lịch sử và trong quá trình tương tác, sẽ nảy sinh vấn đề ảnh hưởng văn học ở các mức 
độ đậm nhạt khác nhau. Do ảnh hưởng văn học “chỉ xảy ra trong điều kiện có tiếp nhận và sáng 
tạo, làm ra tác phẩm mới” [7; tr.9] nên khi bàn đến quan hệ văn học, không thể không nói tới vấn 
đề tiếp nhận: Ai tiếp nhận, tiếp nhận cái gì và tiếp nhận bằng cách/như thế nào ? sao lại tiếp 
nhận ?... Điều đó có nghĩa, một tác phẩm văn học từ dạng thức ban đầu nếu có sự lan tỏa tới các 
vùng, miền, quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau đương nhiên do nhiều yếu tố. Ngoài yếu tố địa 
lí thì bối cảnh văn hóa, lịch sử và đặc điểm tâm lí, tính cách dân tộc là những căn cứ chúng ta có 
thể dựa vào để lí giải mức độ cũng như sự tương đồng, khác biệt trong khi cùng tiếp nhận một tác 
phẩm văn học ở những quốc gia khác nhau như trường hợp Jataka, Ramayana của Ấn Độ; Kim 
Vân Kiều truyện của Trung Quốc 
Chúng ta đều biết, trong dòng chảy văn chương nhân loại xưa nay, hiện tượng di chuyển văn 
bản tác phẩm từ quốc gia này sang quốc gia khác khá phổ biến. Đây là điều thú vị, thu hút sự quan 
tâm của nhiều học giả. Tùy từng góc độ, hướng tiếp cận mà người ta có những cách lí giải khác 
nhau. Tuy nhiên, chúng tôi đồng ý với cách lí giải của nhà Đông phương học N. Konrat. Ông gọi 
những nhân tố giúp văn học từ nước này di chuyển sang nước khác là “kẻ môi giới văn học”. 
Trong bài viết Về vấn đề quan hệ văn học, N. Konrat đã có phân biệt sự tiếp nhận văn học ngoại 
lai gồm 6 hình thức (cũng chính là cách thức, con đường tiếp nhận văn học): 
Hình thức thứ 1: Tiếp nhận tác phẩm trực tiếp từ văn bản gốc; 
Hình thức thứ 2: Tiếp nhận văn phẩm thông qua dịch thuật (nội dung và hình thức tác phẩm 
gốc giữ nguyên, chỉ chuyển thể ngôn ngữ gốc sang ngôn ngữ đích); 
Hình thức thứ 3: Phác họa lại nguyên tác (phần lớn nội dung nguyên tác và chất liệu của nó được giữ 
lại, chỉ thêm bớt ít nhiều theo nhãn quan cá nhân của tác giả); 
Jataka trong văn học một số nước Đông Nam Á lục địa nhìn từ lí thuyết tiếp nhận của N.Konrat 
81 
Hình thức thứ 4: Thích nghi dân tộc (mô phỏng theo đề tài, cốt truyện, nhân vật... trong tác 
phẩm nguyên tác nhưng ít nhiều biến đổi cho phù hợp với tâm lí, tính cách và bản sắc văn hóa dân 
tộc); 
Hình thức thứ 5: Phóng họa thể loại (đây không phải là mô phỏng lại tác phẩm ngoại lai mà là 
phóng họa lại thể loại của nguyên tác theo một hình mẫu được xác định nghiêm ngặt). Ví dụ như trường 
hợp truyện Thủy Hử của Nhật Bản là phóng họa lại thể loại “tiểu thuyết lục lâm” mang tính quốc tế dù có 
nguồn gốc từ Trung Quốc; 
Hình thức thứ 6: Vay mượn một số motif, đề tài, chi tiết, cốt truyện, kết cấu, hình thức... của 
nguyên tác rồi tái tạo lại văn phẩm của dân tộc [10; tr. 260 - 277]. 
Khi xem xét 6 hình thức trên, dẫu cách diễn đạt có thể không giống nhau cả “trăm phần trăm”, 
chúng tôi vẫn thấy có nhiều hình thức trùng với quá trình tiếp nhận Jataka Ấn Độ ở các nước 
Đông Nam Á lục địa để tạo ra các văn phẩm mang màu sắc riêng. 
2.2. Các phương thức du nhập vào một số nước Đông Nam Á lục địa của Jataka 
Như đã đề cập ở phần giới thuyết, Jataka là kinh điển Phật giáo của Ấn Độ, được viết bằng 
tiếng Sanskrit. Do vậy, thoạt kì thủy, những người tiếp cận được nó phải biết ngôn ngữ này. Ở các 
nước Đông Nam Á nói chung, đó chỉ có thể là các nhà sư. Thiên niên kỉ thứ nhất sau công nguyên, 
phần lớn các nước Đông Nam Á chưa có chữ viết. Vì thế, tiếng Sanskrit, Pali đóng vai trò ngôn 
ngữ truyền giáo (Ấn Độ giáo hoặc Phật giáo). Tầng lớp trí thức ở thời kì này chủ yếu là các nhà sư. 
Họ đã tiếp nhận Phật giáo Ấn Độ, sau đó phổ biến rộng rãi trong dân chúng. Con đường của các 
văn phẩm Ấn Độ (trong đó có Jataka) tới Đông Nam Á cũng không thể khác. Theo luận điểm của 
N. Konrat, nghĩa là quá trình tiếp biến Jataka của Ấn Độ ở Đông Nam Á bắt đầu bằng phương 
thức 1: Tiếp nhận tác phẩm trực tiếp từ văn bản gốc mà những người tiếp nhận là các nhà sư. 
Dần dà, để Phật giáo cũng như kinh điển nhà Phật (trong đó có Jataka) phổ biến hơn trong 
dân chúng thì buộc phải có lớp người dịch văn phẩm này ra ngôn ngữ bản địa Các nhà sư một 
lần nữa lại là những người thực hiện quá trình này. Họ có vai trò rất lớn - không chỉ vì am hiểu mà 
còn để thuận lợi cho việc giảng kinh và truyền bá giáo lí nhà Phật. Một mặt, các nhà sư dịch văn 
phẩm Jataka theo tiếng bản địa; mặt khác, họ làm công việc biên soạn, phóng tác thậm chí, một 
số người còn dựa theo đề tài, cốt truyện, nhân vật trong Jataka để viết thành văn phẩm mới theo 
nhãn quan của mình. Con đường này chính là con đường bác học và theo các luận điểm của 
N.Konrat thì quá trình này thuộc hình thức 2, 3, 4, 5. 
Sau một thời gian, khi đạo Phật đã đi sâu vào đời sống nhân dân và có chỗ đứng nhất định 
trong xã hội, số người hướng tới và tin theo Phật giáo càng nhiều. Phật giáo do vậy không chỉ đến 
với tầng lớp trên của xã hội mà có sự lan tỏa sâu rộng trong quần chúng. Từ đây, Jataka dần thoát 
ra khỏi phạm vi chùa chiền, gia nhập vào dòng chảy văn học các nước Đông Nam Á lục địa và 
đến một lúc nào đó, Jataka Ấn Độ tìm thấy quê hương thứ hai của mình. 
Dưới đây, chúng tôi cụ thể hóa sự xuất hiện các văn phẩm Jataka ở một số nước Đông Nam 
Á lục địa thông qua quá trình tiếp biến văn phẩm này tại Myanmar, Campuchia, Lào. 
2.2.1. Jataka trong văn học viết 
Theo nhà nghiên cứu Vũ Oanh thì văn học viết Myanmar bắt đầu vào thế kỉ XI dưới triều đại 
Pangan. Lúc bấy giờ, văn học chủ yếu lấy cảm hứng từ Phật giáo và các câu chuyện trong Jataka. 
Tác giả cho rằng, thời điểm ấy, “ngoài văn bia thì phổ biến hơn cả là những truyện Jataka (những 
truyện kể về tiền kiếp Phật. Biết được nhiều nhất là truyện về Wethandaya (Vessantra), Jataka 
cuối cùng trong chuỗi 547 truyện, kể về kiếp cuối cùng của Đức Phật”[5; tr. 276]. Tác phẩm 
này, đến thế kỉ XIV - XV dưới triều đại Ava (1364 - 1555) một lần nữa được tái sinh ở dạng thơ 
nhờ tài năng nghệ thuật của thi sĩ Shin Aggasamadhi, sinh năm 1479 tại Kanbya, phía Đông 
Tabayin. Ông cũng đã viết những câu chuyện Jataka bằng thơ về Đức Phật.Cho đến các giai đoạn 
sau (thế kỉ XVIII - XIX), dưới triều đại Konbaung (1752 - 1819), Jataka vẫn luôn là nguồn cảm 
Hà Đan và Hoàng Thị Mỹ Nhị 
82 
hứng dạt dào cho văn học viết. Rất nhiều cây bút coi Jataka là “cội nguồn cảm hứng” cho các 
sáng tác của mình - như nhà sư U Obhasa đã viết các Jataka ở dạng thức văn xuôi. Cũng chính U 
Obhasa là người đầu tiên dịch 10 truyện Jataka từ tiếng Pali sang dạng văn xuôi đơn giản của 
Myanmar. Ông muốn mọi người dân đều hiểu và đánh giá cao các Jataka. Tuy nhiên, ông mới chỉ 
dịch được 8 truyện trong đó: Temi (Muga-pakkha)-jātaka(538), Mahā-janaka-jātaka (539), Nemi-
jātaka (541), Mahosada-jātaka (542), Candakumāra-jātaka (544), Nārada-jātaka (545), 
Vidhūra-jātaka (546), Vessantara-jātaka (547). Hai truyện Jataka còn lại là Suvannasāma-jātaka 
(540) và Bhūridatta-jātaka (543) cũng được viết ở thể văn xuôi do 2 nhà sư khác là Shin 
Nandamedha và Shin Paggātikkha chấp bút [15]. 
Giống như Myanmar, trong nền văn học viết Campuchia cũng có một dòng văn chương Phật 
giáo in đậm dấu ấn của Jataka. Theo nhà nghiên cứu Vũ Tuyết Loan: “Các Jataka đã có một ảnh 
hưởng lớn đối với sáng tác của người Khơme và đã mang vào đó đạo đức tôn giáo của Phật giáo. 
Những mẩu chuyện trong Jataka được dùng làm cái cốt cho những sáng tạo mới. Xu hướng 
Jataka hóa biểu hiện trong tác phẩm ở chỗ các nhân vật chính diện là hiện thân của Phật tổ”[5. 
tr.134]. Quả đúng như vậy, khi nhìn lại văn học Campuchia ở nguồn mạch này, ngoài Truyện 
Vessandor là biến thể của Jataka 547 thì rất nhiều cây bút đã mượn câu chuyện về tiền kiếp Đức 
Phật làm “tiền đề” cho sáng tác của mình như Kosa Thipspaday Kao với truyện thơ Cơrông 
Xôphẹ Mứt (1798), Phhiecseday Acsa Tân với tác phẩm Truyện Sabba siddhi (1899) [13; tr. 120]. 
Ở Lào, sau khi vua Phạ Ngừm thống nhất các mương Lào, thành lập quốc gia thống nhất Lạn 
Xạng (thế kỉ XIV - XVII), nền văn học viết trên đất Triệu Voi cũng hình thành và phát triển. 
Trong quá trình xây dựng nền văn học viết truyền thống, bên cạnh việc tiếp nhận các kinh kệ, giáo 
lí đạo Phật, người Lào tiếp nhận cả đề tài, cốt truyện, hình tượng nhân vật trong Jataka. Một số 
văn phẩm tiêu biểu như: Phạ - vệt - xẳn - đon, Cham - pa - xi - thon; Nang Tan Tay, Xiêu - xa-vạt, 
Lan - xỏn - pù, Pù -xỏa - lan, Thạo Hùng Thạo Chương, xỉn - xay, Xu - li - vông, Ka - la - kết, 
Nang - Tèn - on...[11. tr. 25]. 
Những phân tích trên đây cho thấy, văn học viết ở một số nước Đông Nam Á lục địa như 
Myanmar, Campuchia, Lào... chịu ảnh hưởng sâu sắc của Jataka. Từ văn học viết, nó lại đi vào 
đời sống dân chúng và trở thành nguồn sáng tạo vô tận của các tầng lớp nhân dân. Người ta vay 
mượn cốt truyện, motif, hình tượng, kết cấu... để hình thành nên những truyện kể dân gian của 
riêng dân tộc mình. 
2.2.2. Jataka trong văn học dân gian 
Vay mượn cốt truyện: 
Rất nhiều cốt truyện được tác giả dân gian Myanmar, Lào, Campuchia vay mượn để tạo nên 
những văn phẩm mang tính bản địa hóa của quốc gia mình. Chẳng hạn như trong Truyện cổ Lào, 
các truyện “Sự tích hình thỏ trên mặt trăng” và “Sự tích của rượu” vốn bắt nguồn từ các 
truyệnTiền thân Sasa (Jataka 316) và Tiền thân Kumbha (Jataka 512) [3]. Trong Truyện cổ 
Campuchia, chùm truyện “Thỏ Phéa làm vua”, “Thỏ kết bạn với voi”, “Thỏ lừa cá sấu” dựa trên 
truyện Tiền thân Daddabha (Jataka 322)[4]. 
Vay mượn motif: Như đã đề cập đến trong phần giới thuyết chung về Jataka - những câu 
chuyện kể về kiếp trước của Đức Phật, trước khi trở thành Đức Phật, Ngài đã trải qua biết bao 
nhiêu kiếp sống: Khi là người, khi động vật, lúc cỏ cây, thần linh Truyện Myanmar vay mượn 
motif này. Trong nhiều truyện kể ở Myanmar, thời gian được đẩy lùi về thời quá khứ với kiếp 
trước của Đức Phật như: “Đã lâu lắm, vào thời Đức Phật Thumana thứ 13, có một người Bà la 
môn tên là Anmanđa ở xứ Jikama” (Anh Bà la môn và con chó đá) hay như lời dẫn vào truyện 
Viên hồng ngọc bị mất cắp: “Thời Đức Phật Tanengara thứ nhất, có một người Bà la môn rất 
giàu”. Ở truyện Lòng biết ơn của súc vật thì: “Ngày xưa, ở nước Tekatho, dưới thời Đức Phật thứ 
25, có bốn chàng cùng học trong một tu viện”(14). Truyện Campuchia cũng không là ngoại lệ. Có 
Jataka trong văn học một số nước Đông Nam Á lục địa nhìn từ lí thuyết tiếp nhận của N.Konrat 
83 
điều, thời gian trong các tác phẩm ấy được đẩy lùi về quá khứ kiểu: “Trong thời kì Đức Phật 
Thích Ca hành đạo, tại xứ sở Savathay có một vị phú hộ tên là...” (Nàng Visakha) hay như lời dẫn 
vào truyện Sự tích ngày lễ Phchum -ben: “Thuở Đức Thích Ca còn tại thế, một hôm vào lúc đêm 
vắng, tại hoàng cung của vua Binbisara bỗng nổi lên tiếng gào khóc thảm thiết hòa lẫn tiếng kêu 
vang”. Tương tự là truyện Một kiếp luân hồi: “Thuở ấy, Đức Phật trụ trì trên dãy Hy Mã Lạp 
sơn, nhìn thấy vua Assaka trong cơn thất vọng, Đức Phật bèn cưỡi mây đến”[9]. 
Vay mượn hình tượng nhân vật: Trong Kinh Bổn Sinh, Đức Phật là hình tượng xuyên suốt tác 
phẩm. Trong 547 truyện thì mỗi câu chuyện là một tiền kiếp của Ngài. Dù là người hay động vật, 
Ngài đều hiện lên với các tính chất sau: Một bậc thầy giáo hóa chúng sinh, dẫn loài người đến 
miền an lạc; một vị thần công lí bênh vực người khổ nạn, trừng trị kẻ ác; một hiệp sĩ trên con 
đường đạt tới chân lí vĩnh cửu. 
Có lẽ, trong tâm thức người dân Campuchia, hình tượng Đức Phật đã là một hằng số về 
những gì cao đẹp đến mức họ muốn ca ngợi ai như người anh hùng dân tộc, nhà thông thái thì 
viện ngay đến Đức Phật và cho là hóa kiếp của Ngài. Tiêu biểu là truyện Hoàng tử và cô gái thổi 
tiêu. Ở Lào, đó là truyện Hoàng tử Vet - xanh - đon thành Phật... 
Vay mượn kết cấu: Jataka là tập hợp 547 truyện trong một truyện lớn nên kết cấu truyện 
thuộc kiểu kết cấu truyện chuỗi, truyện khung, truyện lồng trong truyện. Khi di chuyển vào một số 
nước Đông Nam Á, kết cấu này được lặp lại. Ví dụ như truyện Lòng biết ơn của súc vật ở 
Myanmar, chùm truyện về con Thỏ ở Campuchia, truyện Xiêu Xa Vạt ở Lào 
2.3. Đôi điều rút ra 
Có thể nói, quá trình tạo ra các biến thể Jataka ở Myanmar, Campuchia, Lào là hiện tượng 
mang tính tất yếu của quá trình giao thoa, tiếp biến văn hóa giữa các nước trong khu vực Đông 
Nam Á với Ấn Độ. Ba quốc gia Myanmar, Campuchia, Lào đã tiếp thu tinh hoa văn hóa của một 
trong vài nền văn minh cổ xưa rực rỡ nhất, đồng thời biết sáng tạo để các tác phẩm văn học của 
mình đậm đà hơn tinh thần dân tộc. Và từ các nội dung đã trình bày ở trên, chúng tôi bước đầu rút 
ra một số quy luật về quá trình ấy như sau: 
2.3.1. Về nguyên tắc lựa chọn và tiếp thu hệ thống cốt truyện, hình thức kể chuyện thuyết 
pháp, kết cấu từ Jataka. 
Nhìn chung, các quốc gia không mô phỏng, sao chép, bắt chước hoàn toàn các yếu tố từ bên 
ngoài mà tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo những tinh hoa của nền văn minh Ấn huy hoàng, rực rỡ để 
“đứng trên vai một người khổng lồ”. Toàn bộ Kinh Bổn Sinh vốn là tập đại thành gồm 547 truyện 
song người dân ba nước chỉ tiếp thu một số lượng truyện. Ban đầu là 50 truyện (Panasa Jataka) [2] 
sau đó các tác giả dân gian chọn 10 truyện minh họa cho 10 hạnh của Phật pháp (Dasa Jataka). 
Cuối cùng, chỉ còn lại một truyện được nhân dân ba nước nồng nhiệt đón nhận. Theo chúng tôi, có 
hiện tượng này vì trước hết, đó là những câu chuyện hay và cảm động trong Jataka. Khi lan tỏa, 
nó có sức hấp dẫn hơn các truyện khác trong toàn bộ hệ thống truyện. Song lí do chính vẫn từ phía 
các nước tiếp nhận. Trong Jataka, câu chuyện 547 nói đến hạnh bố thí. Ba nước Myanmar, 
Campuchia, Lào theo Phật giáo tiểu thừa. Trong kinh điển của dòng Phật giáo này, hạnh bố thí 
được đặt lên hàng đầu trong 10 hạnh Ba - la - mật, gồm: Bố thí, Trì giới, Xuất gia, Trí tuệ, Tinh 
tấn, Kiên nhẫn, Chân thật, Chí nguyện, Từ tâm và Xả ly 
2.3.2. Về những biến thể Jataka trong truyện cổ dân gian Đông Nam Á 
Trong quá trình tạo ra các biến thể, 3 nước đều vay mượn cốt truyện là chủ yếu. Ở đây, nhân 
dân 3 nước chỉ mượn cái “lõi” của Jataka để thổi vào đó hồn cốt của dân tộc mình. Bởi vậy, người 
ta thấy phía sau những câu chuyện được coi là các biến thể của Jataka, đậm đà nét văn hóa riêng 
của từng nước. Không phải ngẫu nhiên mà có những cốt truyện đều được nhân dân 3 nước yêu 
thích như: Sự tích hình thỏ trên mặt trăng, Chuyện tiếng động mạnh, Hoàng tử Vessandor, 
Chuyện con thỏ nhát gan... Đặc biệt, người dân ba nước rất hứng thú với câu chuyện về Hoàng tử 
Hà Đan và Hoàng Thị Mỹ Nhị 
84 
Vessandor, vị Bồ Tát hoàn thành sứ mệnh cuối cùng của mình dưới trần thế. Do đó, cuộc đời của 
hoàng tử là một lí tưởng cho lòng tin. Người dân thích nghe kể về cuộc đời của ông, vì lòng từ bi 
hỉ xả hiếm có của ông đã làm họ vô cùng xúc động. 
Về kết cấu, nếu trong Jataka, kết cấu mỗi truyện đều có 4 phần (phần kết là thi kệ) thì khi di 
chuyển vào Myanmar, Campuchia và Lào, các biến thể đều không có thi kệ. Với Jataka, những 
bài kệ chính là linh hồn tác phẩm. Nội dung của mỗi bài kệ thâu tóm giáo lí Đức Phật muốn truyền 
tải hoặc tóm tắt tư tưởng sau những lần thuyết pháp để dạy cho các đệ tử. Tương truyền, ban đầu, 
Jataka chỉ gồm 20 bài kệ, được sắp xếp theo số lượng những câu thơ tăng dần nhưng cùng với 
thời gian, các Tỳ kheo thêm vào không ít bình luận - là những câu chuyện liên quan đến Đức Phật 
có thêm phần giải thích cho phong phú và lồng vào những câu chuyện dân gian, phù hợp với nội 
dung Phật giáo, được lưu truyền bằng phương thức truyền miệng nhằm giáo hóa chúng sinh. 
3. Kết luận 
Như vậy, bằng nhiều con đường khác nhau, Jataka đã du nhập vào Myanmar, Campuchia, 
Lào. Dẫu không thể phủ nhận sự ảnh hưởng của kinh điển Phật giáo này trong dòng chảy văn học 
một số Đông Nam Á thì hồn cốt mỗi dân tộc vẫn là điều người đọc có thể cảm nhận được trong 
hàng chục văn phẩm được coi là biến thể này. Điều đó giải thích tại sao đến hôm nay, những câu 
chuyện có gốc gác từ Jataka vẫn còn nguyên giá trị và được coi là thứ tài sản văn hóa phi vật thể 
quý báu trong dòng chảy văn hóa ở mỗi nước. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Thích Minh Châu, Nguyên Tâm, Trần Phương Lan (dịch), 2015. Đại Tạng Kinh Việt Nam/Kinh 
Tiểu Bộ (tập III, IV, V, VI). Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 
[2] Chea Bunnary, 2004. Buddhist Ethics in the Pannàsa Jàtaka (Apocryphal Birth-
Stories). Royal University of Phnom Penh. 
[3] Ngô Văn Doanh, 2008. Truyện cổ Lào. Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 
[4] Ngô Văn Doanh, 2008. Truyện cổ Campuchia, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 
[5] Nguyễn Tấn Đắc (Chủ biên), 1983. Văn học các nước Đông Nam Á. Viện nghiên cứu Đông Nam 
Á, Hà Nội. 
[6] Nguyễn Tấn Đắc, 2003.Văn hóa Đông Nam Á. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
[7] Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên, 2007): Từ điển thuật ngữ văn 
học. Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
[8] Phan Thu Hiền, 2008. “Phương diện kết cấu trong nghệ thuật kể chuyện - thuyết pháp của 
Jataka”. Tạp chí Nghiên cứu Văn học (8). 
[9] Lê Hương, 1963. Truyện cổ Cao Miên (tập 2). Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn. 
[10] N. Konrat, 1997. Phương Đông và Phương Tây (Trịnh Bá Đĩnh dịch). Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
[11] Đức Ninh - Trần Thúc Việt, 2007. Diện mạo văn học cận hiện đại Lào. Nxb Khoa học Xã hội, Hà 
Nội. 
[12] Phạm Xuân Nguyên, 1994. Truyện cổ Mianma. Nxb Văn học, Hà Nội. 
[13] Vũ Tuyết Loan, 2003. Tuyển tập văn học Campuchia. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
[14] Vũ Quang Thiện, 2005. Lịch sử Myanma. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
[15] Ven Sengpan Pannyawansa, 2007. A critical study of the Vessantara - Jataka and its influence on 
Kengtung Buddism, Eastern Shan State, Burma, www.khamkoo.com/. 
Jataka trong văn học một số nước Đông Nam Á lục địa nhìn từ lí thuyết tiếp nhận của N.Konrat 
85 
ABSTRACT 
Influence of Jataka on Literature of some Southeast Asian Nations Viewed 
from N.Konrat's Reception theory 
Ha Dan và Hoang Thi My Nhi 
Institute for Southeast Asian Studies, Vietnam Academy of Social Sciences 
The appearance of any certain literary work is always a process. This process is a complex of 
matters in which recieved literature. The theory of literature from view’s the Orient researchers, N. 
Konrat is that we apply to uncode the influnce of Jataka (Buddhist canon) on literature of some 
continent Southeast Asian nations such as Cambodia, Laos and Myanmar. It is undeniable that 
three countries borrow pilot, structure, motif from Jataka then they create both popular literature 
and academy literatue. However, by many diference ways like missionary activities, translation, 
adaption..., India’s Jataka has been gradually located and become unique work of every nation. 
The paper tries to find out how Jātaka impacted on literary those nations through some aspects. 
On that basic, the paper will contribute to theory about literary relations – which has been 
attactived in the intergrated world context at the present. 
Keywords: Jataka tales, received literature, Southeast Asian literature.