Học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ

Tài liệu Học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ: KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 5 S Ố 0 2 N Ă M 2 0 19 làm chủ và dân là chủ. Trong nước dân chủ thì địa vị cao nhất là dân, dân là quý nhất, lực lượng nhân dân là mạnh nhất. Phát huy dân chủ là phát huy tài dân. Muốn vậy, thì phải chịu khó nghe dân, gặp dân, hiểu dân, học dân, hỏi dân. Học hỏi dân để lãnh đạo dân. Theo Hồ Chí Minh “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân” [3, tr.432]. Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng và ban hành bản Hiến pháp mới. Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân dân. Điều đó thể hiện rõ ở Chương II Hiến pháp năm 1946 gồm 18 điều quy định về nghĩa vụ và quyền lợi công dân, Điều 6 ghi rõ: “Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Tất cả ...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 393 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 5 S Ố 0 2 N Ă M 2 0 19 làm chủ và dân là chủ. Trong nước dân chủ thì địa vị cao nhất là dân, dân là quý nhất, lực lượng nhân dân là mạnh nhất. Phát huy dân chủ là phát huy tài dân. Muốn vậy, thì phải chịu khó nghe dân, gặp dân, hiểu dân, học dân, hỏi dân. Học hỏi dân để lãnh đạo dân. Theo Hồ Chí Minh “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân” [3, tr.432]. Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng và ban hành bản Hiến pháp mới. Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân dân. Điều đó thể hiện rõ ở Chương II Hiến pháp năm 1946 gồm 18 điều quy định về nghĩa vụ và quyền lợi công dân, Điều 6 ghi rõ: “Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ Học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ ThS. LÊ ĐỨC THỌ Trường Cao đẳng Nghề Đà Nẵng Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ có một vị trí đặc biệt nổi bật. Người chẳng những để lại cho chúng ta một hệ thống các quan niệm, quan điểm sâu sắc và hiện đại về dân chủ - xét về mặt lý luận - mà còn nêu gương mẫu mực thực hành dân chủ - xét về mặt thực tiễn - cho chúng ta noi theo, đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh. Phát huy dân chủ là một khía cạnh biểu hiện ý thức tôn trọng nhân dân. Từ chỗ đánh giá cao vai trò của dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm sao cho họ có năng lực làm chủ, biết hưởng, dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm. 1. Tư tưởng về phát huy dân chủ Ngay từ năm 1941, trong Chương trình của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), Hồ Chí Minh đã "thiết kế" một chế độ dân chủ cộng hòa cho nước ta sau khi cuộc cách mạng do nhân dân thực hiện thắng lợi. Đó là chương trình thực hiện mục tiêu dân chủ, xác định rõ quyền và trách nhiệm của nhân dân trước vận mệnh của nước nhà; gắn độc lập, tự do của Tổ quốc với quyền lợi của từng người dân. Dân chủ được Người giải thích ngắn gọn, súc tích là dân KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN6 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G nhân dân”. Trong việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chú trọng tới việc xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội. Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Xây dựng mặt trận với vai trò là liên minh chính trị tự nguyện của tất cả các tổ chức chính trị - xã hội vì mục tiêu chung của sự phát triển đất nước; xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi khác của nhân dân. Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là có bảo đảm và phát huy dân chủ ở trong Đảng thì mới bảo đảm được dân chủ của toàn xã hội. Quyền lãnh đạo của Đảng được xuất phát từ sự ủy quyền của giai cấp công nhân, của dân tộc và của nhân dân. Đảng trở thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội là nhân tố tiên quyết để bảo đảm tính chất dân chủ của xã hội. Dân chủ trong Đảng trở thành yếu tố quyết định tới trình độ dân chủ của toàn xã hội. 2. Đạo đức Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ Từ chỗ nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức, năng lực làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích Nhân dân tham gia vào công việc của Đảng, Chính phủ, thì một điều quan trọng là tạo điều kiện cho dân “dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”. Nhận thức khoa học và giải quyết tốt mối quan hệ giữa cán bộ, lãnh đạo với Nhân dân trong chế độ dân chủ là một nội dung trọng yếu của đạo đức trong phát huy dân chủ. Sự vi phạm đạo đức về mặt dân chủ có nhiều nguyên nhân, trong đó nổi lên là nhận thức không đúng về vai trò của cán bộ lãnh đạo, dẫn đến độc quyền, mệnh lệnh, áp đặt kiểu “quan chủ”. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nắm chắc quan điểm giai cấp, theo đúng đường lối nhân dân, thành tâm học hỏi quần chúng, kiên quyết dựa vào quần chúng, phát động quần chúng thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Phải khiêm tốn, gần gũi quần chúng, không được kiêu ngạo; phải thực sự cầu thị, không được chủ quan. Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ: “Làm cán bộ tức là suốt đời làm đầy tớ trung thành của nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được”, về tư cách người đảng viên, lãnh đạo, Người cho rằng: “Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: Mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân. Bác nhấn mạnh: "Làm đày tớ nhân dân chứ không phải làm “quan” nhân dân" không ra lệnh, ra oai, không làm quan cách mạng. Quan điểm mỗi đảng viên và cán bộ “phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” cần được hiểu đích cuối cùng là phục vụ Nhân dân. Bởi vì, “Lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và phải làm cho tốt”. Hồ Chí Minh giải thích chế độ dân chủ và Đảng lãnh đạo rất rõ ràng: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ Trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Trong khi đề cao đạo đức về ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh. Bởi vì nguyên nhân của bệnh ấy là do cán bộ ta xa nhân dân nên không hiểu biết tâm lý, nguyện vọng của nhân dân “cho dân là dốt không biết gì, mình là thông thái tài giỏi”. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân là phát huy quyền của người dân về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, chăm sóc sức khỏe...; phải quan tâm phát triển năng lực, tiềm năng của mỗi người dân. Không thèm bàn bạc với dân chúng. Sợ nhân dân, khi có sai lầm, khuyết điểm thì sợ nhân dân phê bình mình. KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 7 S Ố 0 2 N Ă M 2 0 19 Không tin cậy nhân dân, họ quên rằng không có lực lượng nhân dân thì việc nhỏ mấy, dễ mấy làm cũng không xong, có lực lượng nhân dân thì việc khó mấy, to mấy làm cũng được. Không hiểu biết nhân dân, họ quên rằng nhân dân cần trông thấy lợi ích thiết thực, không thể lý luận suông, chính trị suông. Không yêu thương nhân dân, họ chỉ biết đòi hỏi nhân dân, không thiết thực giúp đỡ nhân dân, có nơi bệnh quan liêu, mệnh lệnh trầm trọng đến nỗi cán bộ lừa phỉnh dân, dọa nạt dân. Theo Bác, đó là một sự sai lầm nguy hiểm lắm, phải mau mau chữa bệnh nguy hiểm ấy. 3. Phong cách Hồ Chí Minh trong phát huy dân chủ Phong cách Hồ Chí Minh trong phát huy dân chủ xuất phát từ chỗ tôn trọng nhân dân, đề cao vai trò, vị trí của nhân dân. Dù bận rất nhiều công việc đối nội, đối ngoại, nhưng về với dân, đến với quần chúng, để học dân, hỏi dân, hiểu dân, nghe dân nói, thấy dân làm, để nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý là nhu cầu thường trực của Bác. Người ra thao trường cùng bộ đội, “chống gậy lên non xem trận địa”, đến nhà máy, công trường, hầm mỏ, nông trường, hợp tác xã, trường học, bệnh viện. Người đến nhà giữ trẻ, lớp mẫu giáo, ra đồng ruộng, thăm nhà ở công nhân, cán bộ bình thường,... Hàng trăm lần Hồ Chí Minh đi về cơ sở không đơn thuần chỉ là tác phong quần chúng, mà chứa đựng trong đó là phong cách phát huy dân chủ. Bởi vì Người đến với quần chúng là để lắng nghe và thấu hiểu, thấu cảm cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân miền ngược, miền xuôi, nông thôn, thành thị. Người muốn nghe được tiếng dân, đi vào lòng nhân dân, hiểu được nhịp đập của cuộc sống xung quanh. Phong cách ấy làm cho lãnh tụ và quần chúng gần gũi, đồng cảm sâu sắc nhất, từ đó mọi người có thể nói hết những suy nghĩ trăn trở của mình, còn Người thấu hiểu và có cơ sở để giải quyết nguyện vọng, kiến nghị chính đáng của Nhân dân. Người nói: “Cán bộ đi về hợp tác xã không phải chỉ vào nhà chủ nhiệm để có chỗ ở sạch sẽ và có cơm nước đàng hoàng mà phải đi vào nhân dân”, phải “ba cùng”. Phê bình thói “quan trên về làng”, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Phải làm sao cho cán bộ mỗi khi KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN8 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G về làng, nhân dân niềm nở vỗ vai, mời “anh” uống nước mới tốt. Nếu cán bộ về mà dân trải chiếu hoa, bắt gà làm cơm là không được. Bao giờ dân coi cán bộ là người của dân, đối với cán bộ không còn “lạy cụ ạ” thì dân mới dám nói, mới dám phê bình”. Cù n g vớ i t h ự c h i ệ n nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong nội bộ Đảng với cách làm việc tập thể, dân chủ, tôn trọng tập thể, phát huy sức mạnh, cái thông minh của tập thể, phong cách phát huy ý thức dân chủ của Hồ Chí Minh còn thể hiện rất rõ đối với quần chúng, phát huy tinh thần làm chủ tập thể của mọi người. Khi bàn cách làm và xuất bản loại sách “’Người tốt, việc tốt” với một số cán bộ, Ngưòi nói: “Bác muốn bàn luận dân chủ, các chú có ý kiến gì trái với Bác thì cứ cãi, nhất trí rồi về làm mới tốt được. Không nên: Bác nói gì, chú cũng cứ ghi vào sổ mà trong bụng chưa thật rõ, rồi các chú không làm, hay làm một cách qua loa”. Trên cơ sở nhận thức dân ta rất khôn khéo, hăng hái, rất anh hùng, Hồ Chí Minh căn dặn mỗi cán bộ khi thực hiên phong cách phát huy dân chủ phải bắt đầu từ mỗi một khẩu hiệu, mỗi một công việc, mỗi một chính sách, đều phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng, phải nghe theo nguyện vọng của dân chúng. Muốn hiểu biết, học hỏi dân chúng thì phong cách của ngưòi cán bộ phải thể hiện sự nhiệt thành, quyết tâm, khiêm tốn, chịu khó. Để thực hiện phong cách dân chủ, cần phải hiểu: “Nếu quần chúng nói mười điều mà chỉ có một vài điều xây dựng, như thế vẫn là quý báu và bổ ích,... Uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ mạnh dạn thực hiện tự phê bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng, sửa chữa khuyết điểm, để đưa công việc ngày càng tiến bộ chứ không phải ở chỗ giấu giếm khuyết điểm và e sợ quần chúng phê bình”. Một trong những kinh nghiệm quý trong thực hiện phong cách phát huy dân chủ là: “Cơ quan nào mà trong lúc khai hội, cấp trên để cho mọi người có gì nói hết, cái đúng thì nghe, cái không đúng thì giải thích, sửa chữa, ở những KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN 9 S Ố 0 2 N Ă M 2 0 19cơ quan đó mọi người đều hoạt bát mà bệnh “thì thầm thì thào” cũng hết”. Người chỉ rõ: “Để phát triển ưu điểm, điều quan trọng nhất là để cho dân nói. Dân biết nhiều việc mà các các lãnh đạo không biết. Việc gì cũng bàn với dân; dân sẽ có ý kiến hay”. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó có quan hệ chặt chẽ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái và người khác cũng học theo. 4. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách phát huy dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Người để lại cho dân tộc ta. Nghiên cứu học tập và vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách dân chủ Hồ Chí Minh có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Thực tiễn đang vận động nhanh chóng, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng đòi hỏi trong quá trình vận dụng người cán bộ lãnh đạo, quản lý cần phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ, toàn diện về phong cách dân chủ Hồ Chí Minh trong điều kiện mới và cần lưu ý một số điểm sau: i) Lắng nghe dân nhưng không “theo đuôi” dân. Thực hành phong cách dân chủ, người cán bộ phải biết phân biệt đúng, sai; tránh lợi ích cá nhân, cục bộ. Bác dạy: “không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo”. Vì, “dân chúng trông thấy từ dưới lên. Nên sự trông thấy cũng có hạn” [2, tr.326]. Hơn nữa “dân chúng không nhất luật như nhau. Trong dân chúng có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp tiên tiến, có lớp lừng chừng, có lớp lạc hậu” [2, tr.336]. Bởi vậy, cũng có ý kiến đúng, có ý kiến sai. Người căn dặn: “Chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng” [2, tr.338];  ii) Dân chủ nhưng phải quyết đoán, chịu trách nhiệm cá nhân. Phong cách làm việc của người cán bộ lãnh đạo, quản lý đúng đắn là phải kết hợp thống nhất giữa cách làm việc dân chủ, tập thể với tính quyết đoán, dám chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, kịp thời đưa ra những quyết định đúng, tránh “cha chung không ai khóc”, đổ lỗi cho tập thể. Trong những thời điểm quyết định, người lãnh đạo, quản lý phải dám nghĩ, dám làm, dám quyết, khi đã thấy đúng thì phải quyết liệt thực hiện cho kỳ được. Điều đó còn liên quan trực tiếp đến việc tận dụng được thời cơ nhất là trong điều kiện bùng nổ thông tin như hiện nay. Bác từng dạy: “Lạc nước hai xe đành bỏ phí. Gặp thời một tốt cũng thành công”. iii)“Công bằng” nhưng không phải “cào bằng” trong đánh giá, ghi nhận sự tham gia, cống hiến của từng cá nhân trong tập thể, có như vậy mới có thể phát huy được “trí dân”, “tài dân” và “sức dân”. Mọi sự biểu hiện của sự cào bằng, tất yếu đều dẫn đến mất dân chủ, thui chột sức mạnh tập thể. Để thực hiện được ba điều đó, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải: Một là, bao quát nhưng sâu sát, cụ thể. Cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có tư duy, tầm nhìn bao quát những vấn đề chung của tập thể, song phong cách dân chủ đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải quan tâm sâu sát, cụ thể rõ từng người, rõ từng việc  phải đi tận nơi, rõ tận việc, thường xuyên kiểm tra, kịp thời giải quyết. Hai là, phụng sự, kiến tạo trong điều kiện người dân phải thực sự KHOA HOÏC XAÕ HOÄI - NHAÂN VAÊN10 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G phát huy vai trò là chủ và làm chủ của mình. Ba là, phê bình phải đi đôi với tự phê bình và phê bình phải gắn liền với sửa chữa, với biểu dương, khen thưởng. Nếu chỉ phê bình người khác mà không tự phê bình thì chẳng khác nào “thầy thuốc chỉ đi chữa bệnh người khác mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa”. Đây là phương thức tốt nhất để phát huy dân chủ, thực hành dân chủ. Phong cách dân chủ không phải là cái có sẵn, không phải là bẩm sinh. Phong cách dân chủ là nét đặc sắc, đặc trưng riêng và là sự sáng tạo của mỗi cá nhân. Nét đặc sắc đó, sự sáng tạo đó, chỉ có được thông qua quá trình học tập và rèn luyện thực sự nghiêm túc và trách nhiệm của mỗi cá nhân. Theo đó, người cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ có phong cách lãnh đạo, quản lý dân chủ, trên cơ sở thái độ cầu thị, trách nhiệm cao đối với bản thân, với Đảng với nhân dân; trên cơ sở sự chuyển hóa từ nhận thức đến hành động, thấm sâu giữa lời nói với việc làm, sự thống nhất giữa cách nghĩ, cách làm và cách sống. Bởi vậy, để xây dựng phong cách dân chủ người cán bộ lãnh đạo, quản lý cần: i) Nghiêm túc học tập và rèn luyện thông qua trường lớp để cập nhật kiến thức mới, phương pháp mới; ii) Tự học tập, rèn luyện ngay từ tổng kết thực tiễn công việc hàng ngày, học từ sự góp ý của đồng chí, đồng nghiệp và của nhân dân. Đó chính là trường học rộng lớn mà người cán bộ phải vừa lăn lộn chỉ đạo thực tiễn vừa đúc rút những kinh nghiệm quý cho chính mình, thực tiễn là người thầy nghiêm khắc nhất rèn luyện phong cách dân chủ; iii) Cán bộ, đảng viên nhất là người đứng đầu phải đề cao tính gương mẫu “thực hành trước”, “làm trước”, “làm mẫu” về phong cách dân chủ trên tinh thần thương yêu đồng chí  từ đó hướng dẫn để cán bộ cấp dưới và quần chúng noi theo. Cùng với việc học tập, rèn luyện, phong cách dân chủ của người cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ được hình thành trong môi trường (gia đình, cơ quan, đơn vị) giàu động lực, theo đó cần: i) Xây dựng, hoàn thiện thể chế: các quy chế, quy định, nhất là tiêu chí đánh giá phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý để tập thể, người dân có thể tham gia giám sát và đánh giá; ii) Hoàn thiện các thiết chế: quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, hệ thống hóa hồ sơ công khai, minh bạch: việc đăng ký, cam kết; kết quả rèn luyện; nhận xét đánh giá của tổ chức và nhân dân về quá trình rèn luyện của cán bộ lãnh đạo, quản lý; iii) Xây dựng hệ thống các giá trị chuẩn mực về phong cách dân chủ, như: Tôn trọng quần chúng, lắng nghe quần chúng, yêu thương quần chúng, học hỏi quần chúng,... Từ đó tạo cơ sở, tiêu chí, động lực thi đua xây dựng phong cách làm việc dân chủ của mỗi cán bộ và tập thể cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trong điều kiện Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền, Đảng phải lãnh đạo thực hiện dân chủ hóa trong toàn xã hội mà trước hết, Đảng phải là tấm gương thực hành dân chủ; tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung 4 Khóa XI về những vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay; thực hiện Chỉ thị 05 của Ban Bí thư TW Đảng ngày 15 tháng 5 năm 2016 về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hành dân chủ, một mặt khẳng định hơn nữa quyền làm chủ của đảng viên và nhân dân lao động, mặt khác tạo điều kiện khắc phục những hạn chế, vi phạm dân chủ, phát huy sức sáng tạo của cá nhân và tập trung được trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, vì mục tiêu xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh./. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội [2]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội [3]. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf49_7227_2207555.pdf