17
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 204- Tháng 5. 2019
Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát vốn Nhà nước 
đầu tư vào các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ 
Lương Thanh Bình
Ngày nhận: 19/04/2019 Ngày nhận bản sửa: 23/04/2019 Ngày duyệt đăng: 26/04/2019
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt 
Nam, doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ đạo và đóng góp lớn 
vào sự phát triển của nền kinh tế. Trong các doanh nghiệp có vốn 
Nhà nước nói chung, đặc biệt doanh nghiệp trong các lĩnh vực then 
chốt của Việt Nam, Nhà nước đóng vai trò là nhà đầu tư lớn, đồng 
thời tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp được tiếp cận dễ dàng 
hơn với các nguồn lực khác nhau, góp phần giúp doanh nghiệp hoạt 
động hiệu quả và phát triển. Tuy nhiên, cũng có nhiều doanh nghiệp 
đã bộc lộ những yếu kém, hạn chế nhất định trong việc khai thác và 
sử dụng nguồn vốn Nhà nước cũng như các nguồn lực của doanh 
nghiệp, dẫn đến đầu tư phân tán và kém hiệu quả. Ngoài những 
nguyên nhân chủ quan của các nhà quản lý doanh nghiệp Nhà nước, 
quy định pháp lý về hoạt động kiểm soát vốn đầu tư của Nhà nước 
tại doanh nghiệp là một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến hiện 
trạng yếu kém trên. Bài viết phân tích những bất cập trong các qui 
định của pháp luật hiện hành ở Việt Nam về kiểm soát vốn Nhà nước 
đầu tư vào các doanh nghiệp, đồng thời đề xuất những kiến nghị 
nhằm khắc phục những bất cập này, hướng tới hoàn thiện pháp luật 
về kiểm soát vốn Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp ở Việt Nam 
hiện nay.
Từ khóa: Kiểm soát; vốn Nhà nước; Doanh nghiệp Nhà nước
1. Khái quát về kiểm soát 
vốn Nhà nước đầu tư vào 
các doanh nghiệp
1.1. Khái niệm vốn Nhà nước 
đầu tư vào các doanh nghiệp
iện nay, thuật 
ngữ ‘vốn Nhà 
nước’ nói 
chung và ‘vốn 
Nhà nước 
đầu tư vào các doanh nghiệp’ 
nói riêng được quy định trong 
khá nhiều văn bản khác nhau 
như: Luật Đầu tư 2005, Luật 
Đấu thầu 2013, Luật Đầu tư 
công 2014 và Luật Quản lý, 
sử dụng vốn Nhà nước đầu tư 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
18 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019
vào sản xuất, kinh doanh tại 
doanh nghiệp 2014. Các định 
nghĩa này không hoàn toàn 
thống nhất với nhau. Dưới đây 
là một số định nghĩa tiêu biểu:
Tại Khoản 10, Điều 3, Luật 
Đầu tư 2005 đưa ra cách hiểu 
về vốn Nhà nước như sau: 
“Vốn Nhà nước là vốn đầu tư 
phát triển từ ngân sách Nhà 
nước, vốn tín dụng do Nhà 
nước bảo lãnh, vốn tín dụng 
đầu tư phát triển của Nhà 
nước và vốn đầu tư khác của 
Nhà nước”.
Theo Khoản 44, Điều 4, Luật 
Đấu thầu 2013, vốn Nhà nước 
bao gồm: “Vốn ngân sách 
Nhà nước; công trái quốc 
gia, trái phiếu Chính phủ, 
trái phiếu chính quyền địa 
phương; vốn hỗ trợ phát triển 
chính thức, vốn vay ưu đãi 
của các nhà tài trợ; vốn từ 
quỹ phát triển hoạt động sự 
nghiệp; vốn tín dụng đầu tư 
phát triển của Nhà nước; vốn 
tín dụng do Chính phủ bảo 
lãnh; vốn vay được bảo đảm 
bằng tài sản của Nhà nước; 
vốn đầu tư phát triển của 
DNNN; giá trị quyền sử dụng 
đất”.
Theo qui định tại Khoản 21, 
Điều 4, Luật Đầu tư công 
2014, vốn đầu tư công gồm: 
“Vốn ngân sách Nhà nước, 
vốn công trái quốc gia, vốn 
trái phiếu Chính phủ, vốn 
trái phiếu chính quyền địa 
phương, vốn hỗ trợ phát triển 
chính thức (ODA) và vốn vay 
ưu đãi của các nhà tài trợ 
nước ngoài, vốn tín dụng đầu 
tư phát triển của Nhà nước, 
vốn từ nguồn thu để lại cho 
đầu tư nhưng chưa đưa vào 
cân đối ngân sách Nhà nước, 
các khoản vốn vay khác của 
ngân sách địa phương để đầu 
tư”.
Trong Luật Quản lý, sử dụng 
vốn Nhà nước đầu tư vào sản 
xuất, kinh doanh tại doanh 
nghiệp năm 2014 đưa ra khái 
niệm vốn của Nhà nước tại 
doanh nghiệp bao gồm vốn từ 
ngân sách Nhà nước, vốn tiếp 
nhận có nguồn gốc từ ngân 
sách Nhà nước; vốn từ quỹ 
đầu tư phát triển tại doanh 
nghiệp, quỹ hỗ trợ sắp xếp 
doanh nghiệp; vốn tín dụng 
do Chính phủ bảo lãnh, vốn 
tín dụng đầu tư phát triển của 
Nhà nước và vốn khác được 
Nhà nước đầu tư tại doanh 
nghiệp.
Việc chỉ rõ khái niệm “vốn 
Nhà nước tại doanh nghiệp” 
theo quy định tại Luật Quản 
lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu 
tư vào sản xuất kinh doanh 
tại doanh nghiệp năm 2014 
là hợp lý vì nó đã chỉ rõ các 
nguồn vốn mà Nhà nước đã 
đầu tư ban đầu cho doanh 
nghiệp, bổ sung cho doanh 
nghiệp trong quá trình hoạt 
động sản xuất hay nguồn hình 
thành từ lợi nhuận sau thuế 
của doanh nghiệp.
Hiện nay, vốn Nhà nước đầu 
tư vào doanh nghiệp bao gồm 
vốn Nhà nước đầu tư để thành 
lập doanh nghiệp Nhà nước 
(DNNN) và vốn Nhà nước 
đầu tư vào các công ty cổ 
phần, công ty trách nhiệm hữu 
hạn khác1. Trong đó, những 
doanh nghiệp có 100% vốn 
góp của Nhà nước được gọi 
1 Xem thêm Mục 1,2,3 Chương 2 Luật 
Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu 
tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh 
nghiệp 2014
là các DNNN2. Đối với những 
công ty cổ phần, công ty trách 
nhiệm hữu hạn có cổ phần của 
Nhà nước và có phần vốn góp 
của Nhà nước sẽ được hiểu là 
những doanh nghiệp có phần 
vốn góp của Nhà nước.
1.2. Khái niệm kiểm soát vốn 
Nhà nước đầu tư vào các 
doanh nghiệp
Khi Nhà nước đưa vốn đầu tư 
vào doanh nghiệp thì doanh 
nghiệp đó sẽ có quyền chiếm 
hữu, sử dụng, định đoạt tài 
sản mà Nhà nước đã giao. 
Do đó, để tài sản của mình 
được sử dụng đúng mục đích, 
có hiệu quả kinh tế cao, Nhà 
nước phải sử dụng các biện 
pháp khác nhau, từ các biện 
pháp hành chính, pháp lý cho 
đến các biện pháp kinh tế, để 
kiểm soát nguồn vốn mà Nhà 
nước đã đầu tư vào các doanh 
nghiệp. Kiểm soát là hoạt 
động cần thiết đối với mọi nhà 
quản lý, bởi hoạt động này sẽ 
bảo đảm cho sự tồn tại cũng 
như duy trì được tính hiệu quả 
của mỗi một thực thể, cho dù 
thực thể đó là cá nhân hay tổ 
chức. 
Theo nghĩa chung nhất, kiểm 
soát chính là hoạt động xem 
xét để phát hiện, ngăn chặn 
những gì trái quy định và đặt 
trong phạm vi quyền hành 
của mình (Viện Ngôn ngữ 
học, 2003). Như vậy, kiểm 
soát vốn Nhà nước đầu tư 
vào doanh nghiệp sẽ bao gồm 
các hoạt động xem xét, phát 
hiện, và ngăn chặn những vấn 
đề bất thường, trái với quy 
2 Xem thêm Khoản 8 Điều 4 Luật 
Doanh nghiệp 2014
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
19Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019
định được đặt trong phạm vi 
quyền hành của chủ thể kiểm 
soát, nhằm đảm bảo các hoạt 
động quản lý, sử dụng vốn 
Nhà nước được thực hiện theo 
đúng như kế hoạch đã đặt ra. 
Kiểm soát vốn Nhà nước là 
một trong số các chức năng 
của quản lý vốn Nhà nước, 
chức năng này sẽ giúp cho các 
chủ sở hữu có thể điều chỉnh 
các hoạt động thực tế diễn ra 
theo kế hoạch và thực hiện 
được những mục tiêu đã được 
xác định từ trước.
2. Thực trạng pháp luật 
điều chỉnh hoạt động kiểm 
soát vốn Nhà nước đầu tư 
vào các doanh nghiệp ở Việt 
Nam 
Mặc dù luật pháp Việt Nam 
hiện nay đã có những qui 
định pháp lý điều chỉnh hoạt 
động kiểm soát vốn Nhà nước 
đầu tư vào các doanh nghiệp, 
nhưng trong quá trình thực 
hiện đã phát sinh không ít 
vướng mắc, gây khó khăn cho 
hoạt động kiểm soát vốn Nhà 
nước. 
Thứ nhất, có quá nhiều Cơ 
quan đại diện chủ sở hữu vốn 
Nhà nước
Chủ thể đóng vai trò quan 
trọng trong việc quyết định 
sự thành bại của các doanh 
nghiệp có vốn Nhà nước chính 
là Cơ quan đại diện cho chủ 
sở hữu. Cơ quan đại diện chủ 
sở hữu không chỉ đóng vai trò 
đầu tư, quản lý vốn Nhà nước 
mà còn phải thực hiện kiểm 
soát vốn Nhà nước trong các 
doanh nghiệp. Theo quy định 
tại Khoản 1 Điều 3 Luật Quản 
lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu 
tư vào sản xuất, kinh doanh 
tại doanh nghiệp 2014: Cơ 
quan đại diện chủ sở hữu được 
hiểu là cơ quan, tổ chức được 
Chính phủ giao thực hiện 
quyền, trách nhiệm của đại 
diện chủ sở hữu Nhà nước 
đối với doanh nghiệp do mình 
quyết định thành lập hoặc 
được giao quản lý và thực 
hiện quyền, trách nhiệm đối 
với phần vốn Nhà nước đầu tư 
tại công ty cổ phần, công ty 
trách nhiệm hữu hạn hai thành 
viên trở lên. Cơ quan đại diện 
chủ sở hữu sẽ là thực thể giúp 
cho chủ sở hữu thực hiện 
quyền và nghĩa vụ của chủ 
sở hữu tại các doanh nghiệp 
nhằm thực hiện các mục tiêu 
chiến lược đã được đặt ra. 
Hiện nay, theo qui định tại 
Điều 4 Nghị định Số 10/2019/
NĐ-CP về thực hiện quyền, 
trách nhiệm của đại diện chủ 
sở hữu Nhà nước thì Cơ quan 
đại diện chủ sở hữu bao gồm 
ba nhóm sau: (i) Ủy ban Quản 
lý vốn Nhà nước tại doanh 
nghiệp (CMSC); (ii) Bộ, cơ 
quan ngang bộ, cơ quan thuộc 
Chính phủ, Ủy ban nhân dân 
cấp tỉnh; (iii) Tổng công ty 
Đầu tư và Kinh doanh vốn 
Nhà nước (SCIC). Theo đó, 
quyền chi phối và kiểm soát 
của các Cơ quan đại diện chủ 
sở hữu nêu trên được thể hiện 
cụ thể như Bảng 1.
Với việc phân chia và thừa 
nhận quá nhiều cơ quan, tổ 
Bảng 1. Qui định quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu Nhà nước tại Nghị định 10/2019/
NĐ-CP
Cơ quan đại diện chủ sở hữu Doanh nghiệp
Ủy ban quản lý vốn Nhà nước 
tại doanh nghiệp
- Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và phần vốn 
nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp 
Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ 
quan thuộc Chính phủ, Ủy 
ban nhân dân cấp tỉnh
- Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và phần vốn 
góp nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp do Bộ, Ủy ban nhân dân cấp 
tỉnh quyết định thành lập hoặc được giao quản lý và không thuộc đối 
tượng chuyển giao về Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và 
Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước.
- Doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ và phần vốn 
Nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp thuộc đối tượng chuyển giao về 
Ủy ban quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và Tổng công ty Đầu tư 
và Kinh doanh vốn Nhà nước trong thời gian chưa chuyển giao.
Tổng công ty Đầu tư và Kinh 
doanh vốn Nhà nước
- Các doanh nghiệp được chuyển giao từ các Bộ, Ủy ban nhân dân cấp 
tỉnh.
Nguồn: Nghị định Số 10/2019/NĐ-CP về thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu Nhà nước
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
20 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019
chức đóng vai trò là Cơ quan 
đại diện chủ sở hữu vốn Nhà 
nước như qui định trên sẽ 
dẫn tới tình trạng khó xác 
định được đầu mối chịu trách 
nhiệm khi có những sai phạm 
trong hoạt động quản lý vốn 
Nhà nước xảy ra, bởi một 
doanh nghiệp có thể chịu sự 
quản lý, kiểm soát và chi phối 
của nhiều cơ quan, tổ chức 
khác nhau. Thực tế qui định 
của pháp luật hiện hành trong 
việc phân công, phân cấp thực 
hiện chức năng chủ sở hữu đối 
với các doanh nghiệp có vốn 
Nhà nước ở thời điểm hiện tại 
vẫn chưa đạt được yêu cầu về 
đổi mới quản trị doanh nghiệp 
theo hướng hạn chế tối đa 
các đầu mối trung gian và các 
tầng nấc trong phân cấp. 
Việc cho ra đời Ủy ban Quản 
lý vốn Nhà nước tại doanh 
nghiệp theo Nghị Quyết Số 
09/2018/NQ-CP về thành lập 
Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước 
tại doanh nghiệp là một sự nỗ 
lực của các nhà làm luật trong 
hoạt động kiểm soát vốn Nhà 
nước. Tuy nhiên, nỗ lực này 
lại càng làm phức tạp vấn đề 
khi cùng với Ủy ban Quản 
lý vốn Nhà nước tại doanh 
nghiệp vẫn tồn tại quá nhiều 
Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh 
đóng vai trò là Cơ quan đại 
diện chủ sở hữu. Mặt khác, Ủy 
ban Quản lý vốn Nhà nước tại 
doanh nghiệp cũng vẫn là một 
cơ quan hành chính Nhà nước 
trực thuộc Chính phủ và hoạt 
động mang nặng tính hành 
chính, nên bản chất không có 
quá nhiều sự khác biệt đối với 
các Bộ chủ quản3.
3 Xem thêm Điều 1 , 4, 5, 6, 7 Nghị 
định Số 131/2018/NĐ-CP Quy định 
chức năng, hiệm vụ, quyền hạn và cơ 
Thứ hai, chưa tách bạch chức 
năng quản lý Nhà nước và 
chức năng đại diện của Cơ 
quan đại diện chủ sở hữu
Hiện nay, theo qui định tại 
Nghị định số 10/2019/NĐ-
CP về thực hiện quyền, trách 
nhiệm của đại diện chủ sở 
hữu Nhà nước, bên cạnh Ủy 
ban quản lý vốn Nhà nước tại 
doanh nghiệp và Tổng công 
ty Đầu tư và Kinh doanh vốn 
Nhà nước, đại diện chủ sở 
hữu vốn Nhà nước tại các 
DNNN và các doanh nghiệp 
có vốn góp của Nhà nước như 
Tập đoàn Bảo Việt, Công ty 
TNHH hãng kiểm toán AASC, 
Công ty Xổ số điện toán Việt 
Nam vẫn là các Bộ chủ 
quản, các UBND cấp tỉnh4. Về 
bản chất, đây chính là những 
cơ quan quản lý Nhà nước. 
Do đó, những thực thể này sẽ 
phải đồng thời vừa thực hiện 
chức năng quản lý Nhà nước 
đối với doanh nghiệp, vừa 
thực hiện chức năng chủ sở 
hữu vốn Nhà nước tại doanh 
nghiệp. 
Quản lý Nhà nước đối với 
doanh nghiệp và quản lý của 
chủ sở hữu đối với vốn Nhà 
nước đầu tư tại doanh nghiệp 
là những hoạt động có sự khác 
biệt về chất. Trong khi quản 
lý Nhà nước đối với doanh 
nghiệp là sử dụng quyền lực 
Nhà nước điều chỉnh hoạt 
động của doanh nghiệp theo 
mục tiêu của Nhà nước thì 
quản lý của chủ sở hữu Nhà 
nước đối với vốn Nhà nước tại 
cấu tổ chức của Ủy ban quản lý vốn 
Nhà nước tại doanh nghiệp
4 Xem thêm Điều 4 Nghị định số 
10/2019 NĐ-CP về thực hiện quyền, 
trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu 
Nhà nước
doanh nghiệp lại mang những 
đặc trưng của hoạt động đầu 
tư nhằm đạt được các lợi ích 
khác nhau, trong đó mục tiêu 
kinh tế là quan trọng hàng 
đầu. Việc một Bộ vừa quản lý 
ngành lại vừa ban hành chính 
sách, vừa đóng vai trò chủ sở 
hữu doanh nghiệp thuộc ngành 
đó sẽ dẫn đến những xung 
đột thị trường và gây ra hiện 
tượng lợi ích nhóm, khiến cho 
các chính sách mà cơ quan 
đó đưa ra sẽ mang khuynh 
hướng có lợi cho ngành và 
doanh nghiệp của mình, làm 
mất đi tính cạnh tranh vốn có 
của thị trường, mất đi sự bình 
đẳng giữa các doanh nghiệp 
nắm giữ vốn Nhà nước và các 
doanh nghiệp thuộc các thành 
phần kinh tế khác. 
Thứ ba, chưa có cơ chế xây 
dựng bộ máy và đội ngũ 
người đại diện vốn chủ sở hữu 
chuyên nghiệp
Theo qui định tại Khoản 4, 
5, 6 Điều 3 Luật Quản lý, sử 
dụng vốn Nhà nước đầu tư 
vào sản xuất, kinh doanh tại 
doanh nghiệp 2014, người 
đại diện vốn chủ sở hữu là 
cá nhân được cơ quan Nhà 
nước có thẩm quyền bổ nhiệm 
vào Hội đồng thành viên, 
Chủ tịch công ty để thực hiện 
quyền, trách nhiệm của đại 
diện chủ sở hữu Nhà nước tại 
doanh nghiệp hoặc là cá nhân 
được Nhà nước/ DNNN ủy 
quyền bằng văn bản để thực 
hiện quyền, trách nhiệm của 
đại diện chủ sở hữu/ DNNN 
đối với phần vốn Nhà nước/ 
doanh nghiệp đầu tư tại công 
ty cổ phần, công ty trách 
nhiệm hữu hạn hai thành viên 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
21Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019
trở lên5.
Như vậy, việc thực hiện đại 
diện chủ sở hữu vốn Nhà nước 
đầu tư vào các doanh nghiệp 
hiện nay chủ yếu theo cơ 
chế “bổ nhiệm”, “cử” và “ủy 
quyền” mà không thông qua 
thi tuyển, nên các vị trí đại 
diện này sẽ do chính các cán 
bộ, công chức trong cơ quan 
Nhà nước tiến hành đại diện. 
Điều này sẽ gây khó khăn cho 
hoạt động quản lý và kiểm 
soát vốn Nhà nước khi họ là 
những người đang thực hành 
công vụ. Việc cán bộ, công 
chức được cử, bổ nhiệm làm 
người đại diện sẽ dẫn đến hiệu 
quả công việc không thể tốt, 
như một nhà đầu tư chuyên 
nghiệp, xuất phát từ những 
nguyên nhân cơ bản sau đây: 
(i) Những người đại diện kiêm 
cán bộ, công chức trong cơ 
quan Nhà nước sẽ thiếu kiến 
thức quản trị kinh doanh, quản 
lý tài chính; (ii) họ thực hiện 
công việc vẫn mang nặng tư 
duy hành chính, quan liêu, 
thiếu động lực, trông chờ 
vào tập thể; (iii) họ thiếu khả 
năng và phẩm chất nhạy bén 
của một nhà đầu tư chuyên 
nghiệp. Bên cạnh đó, việc 
người đại diện được cử hay 
bổ nhiệm từ các cán bộ, công 
chức đang tham gia hoạt động 
quản lý Nhà nước có thể dẫn 
tới những hệ lụy không đáng 
có như tham nhũng, lợi ích 
nhóm 
Thứ tư, còn thiếu sót những 
quy định về giám sát và đánh 
giá hiệu quả hoạt động của 
5 Xem thêm Khoản 4,5 và 6 Điều 3 
Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước 
đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại 
doanh nghiệp 2014
các doanh nghiệp có vốn đầu 
tư của Nhà nước 
Nghị định 87/2015/NĐ-CP 
về giám sát đầu tư vốn Nhà 
nước vào doanh nghiệp; giám 
sát tài chính, đánh giá hiệu 
quả hoạt động và công khai 
thông tin tài chính của DNNN 
và doanh nghiệp có vốn Nhà 
nước được Chính phủ ban 
hành năm 2015, đã cung cấp 
hành lang pháp lý cho Nhà 
nước, cơ quan đại diện chủ sở 
hữu có thể phát hiện ra những 
sai phạm, yếu kém trong hoạt 
động sản xuất kinh doanh 
của doanh nghiệp một cách 
kịp thời. Từ đó, đưa ra những 
cảnh báo và các biện pháp 
khắc phục, nâng cao trách 
nhiệm của doanh nghiệp trong 
việc chấp hành các qui định 
của pháp luật. 
Cụ thể theo qui định tại Điều 
28, 30 Nghị định 87/2015/ 
NĐ-CP, việc đánh giá hiệu 
quả hoạt động các doanh 
nghiệp đều dựa trên yếu tố 
lợi nhuận6. Trong khi đó, 
những doanh nghiệp có vốn 
Nhà nước (đặc biệt là các 
DNNN) lại được Nhà nước 
giao thực hiện các mục tiêu 
an ninh, chính trị, xã hội khác 
bên cạnh mục tiêu lợi nhuận. 
Vì vậy, hiệu quả hoạt động 
của những doanh nghiệp này 
không chỉ thể hiện ở lợi nhuận 
mà còn thể hiện ở những mục 
tiêu khác của doanh nghiệp. 
Nếu cứ áp dụng cứng qui định 
đánh giá nói trên thì không thể 
6 Xem thêm Khoản 1 Điều 28 và Điểm 
a, Khoản 3 Điều 30 Nghị định 87/2015 
NĐ-CP về giám sát đầu tư vốn Nhà 
nước vào doanh nghiệp; giám sát tài 
chính, đánh giá hiệu quả hoạt động 
và công khai thông tin tài chính của 
doanh nghiệp Nhà nước và doanh 
nghiệp có vốn Nhà nước
đánh giá được hiệu quả hoạt 
động của các doanh nghiệp 
một cách khách quan và chuẩn 
xác. 
Mặt khác, hiện nay chưa có 
qui định cụ thể về các tiêu 
chí giám sát tài chính tại các 
doanh nghiệp có vốn đầu tư 
của Nhà nước. Theo qui định 
tại điểm d, Khoản 1, Điều 12 
Nghị định 87/2015/NĐ-CP, 
Cơ quan đại diện chủ sở hữu 
xác định chỉ tiêu giám sát tài 
chính đặc thù (nếu có) đối với 
từng doanh nghiệp trong từng 
thời kỳ phù hợp với hoạt động 
kinh doanh và tình hình tài 
chính của doanh nghiệp7. Điều 
này đồng nghĩa với việc chưa 
có qui định chung để giám sát 
tài chính các doanh nghiệp có 
vốn đầu tư của Nhà nước mà 
những giám sát này sẽ được 
xác định theo tình hình tài 
chính của doanh nghiệp và 
tùy vào từng thời kỳ. Qui định 
như vậy sẽ tạo ra sự không 
thống nhất cho hoạt động 
giám sát tài chính của các 
doanh nghiệp hiện nay. 
Như vậy, các qui định nêu 
trên của Nghị định 87/2015/ 
NĐ-CP về hoạt động giám 
sát và đánh giá hiệu quả hoạt 
động của các doanh nghiệp 
vẫn chưa phù hợp và không 
có sự thống nhất với những 
văn bản pháp luật khác có liên 
quan.
Qui định về công khai Báo 
cáo tài chính là một công 
cụ giám sát hiệu quả hoạt 
động của doanh nghiệp. Theo 
7 Xem thêm Mục 1 Chương III Nghị 
định 87/2015/NĐ-CP về giám sát đầu 
tư vốn Nhà nước vào doanh nghiệp; 
giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả 
hoạt động và công khai thông tin tài 
chính của doanh nghiệp Nhà nước và 
doanh nghiệp có vốn Nhà nước
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
22 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019
Nghị định 87/2015/NĐ-CP 
thì doanh nghiệp phải công 
khai báo cáo tài chính giữa 
năm trước ngày 15/8, nhưng 
Luật Doanh nghiệp 2014 lại 
qui định thời hạn công bố là 
trước ngày 31/7 hàng năm8. 
Sự không thống nhất trong 
qui định của những văn bản 
pháp luật này về cùng một vấn 
đề sẽ gây khó khăn cho các 
doanh nghiệp khi thực hiện 
nghĩa vụ công khai báo cáo tài 
chính. 
3. Một số kiến nghị hoàn 
thiện pháp luật về kiểm soát 
vốn Nhà nước đầu tư vào 
các doanh nghiệp ở Việt 
Nam
Thứ nhất, xóa bỏ hoàn toàn 
cơ chế Bộ chủ quản, xây dựng 
doanh nghiệp chuyên trách 
đại diện kinh doanh vốn Nhà 
nước
Như đã trình bày ở trên, việc 
có quá nhiều Cơ quan đại diện 
chủ sở hữu và sự kiêm nhiệm 
về chức năng hoạt động của 
những chủ thể này là những 
nhân tố gây khó khăn cho 
hoạt động quản lý, kiểm soát 
vốn Nhà nước đầu tư vào các 
doanh nghiệp. Chính vì vậy, 
tác giả đề xuất xóa bỏ cơ chế 
Bộ chủ quản, đưa các cơ quan 
quản lý Nhà nước về với đúng 
chức năng và nhiệm vụ vốn có 
của chúng là thực hiện quản 
lý Nhà nước; cơ quan đại diện 
8 Xem thêm Khoản 3 Điều 39 Nghị 
Định 87/2015 NĐ-CP về giám sát đầu 
tư vốn Nhà nước vào doanh nghiệp; 
giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả 
hoạt động và công khai thông tin tài 
chính của doanh nghiệp Nhà nước và 
doanh nghiệp có vốn Nhà nước; và 
Khoản 1 Điều 108 Luật Doanh nghiệp 
2014
chủ sở hữu là Ủy ban quản 
lý vốn Nhà nước tại doanh 
nghiệp và Tổng công ty Đầu 
tư và Kinh doanh vốn Nhà 
nước. Theo đó, phân định rõ 
chức năng và nhiệm vụ của 
Ủy ban quản lý vốn Nhà nước 
tại doanh nghiệp và Tổng 
công ty Đầu tư và Kinh doanh 
vốn Nhà nước như sau: 
(i) Ủy ban quản lý vốn Nhà 
nước sẽ đầu tư, quản lý và 
kiểm soát vốn Nhà nước trong 
những DNNN; 
(ii) Tổng công ty Đầu tư và 
Kinh doanh vốn Nhà nước sẽ 
đầu tư, quản lý và kiểm soát 
vốn Nhà nước trong những 
doanh nghiệp có phần vốn góp 
của Nhà nước. Bên cạnh đó, 
xây dựng mô hình của Ủy ban 
quản lý vốn Nhà nước theo 
mô hình một doanh nghiệp 
chuyên đầu tư và kiểm soát 
vốn Nhà nước tại các doanh 
nghiệp mà không phải là cơ 
quan hành chính Nhà nước. 
Việc sửa đổi các qui định của 
pháp luật hướng tới sự tách 
bạch hoàn toàn giữa chức 
năng chủ sở hữu vốn Nhà 
nước và chức năng quản lý 
Nhà nước sẽ tránh được hiện 
tượng “vừa đá bóng, vừa thổi 
còi” trong hoạt động của các 
cơ quan Nhà nước. Các Bộ, 
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh 
không còn chức năng đại 
diện chủ sở hữu của mình và 
chuyển các DNNN mình đang 
nắm giữ cho một cơ quan đại 
diện chuyên nghiệp để quản 
lý. Nhà nước sẽ không còn là 
người chủ của doanh nghiệp 
theo kiểu mệnh lệnh hành 
chính, thay vào đó là cơ quan 
đại diện chủ sở hữu có chuyên 
môn quản trị doanh nghiệp, 
quản trị doanh nghiệp tuân thủ 
theo nguyên tắc của cơ chế thị 
trường.
Thứ hai, xây dựng cơ chế 
tuyển dụng, đào tạo người đại 
diện vốn Nhà nước chuyên 
nghiệp
Người đại diện vốn Nhà nước 
tại doanh nghiệp sẽ đóng 
vai trò quan trọng đối với 
việc thành bại của các doanh 
nghiệp đó. Từ đó mà tính 
chuyên nghiệp trong hoạt 
động tuyển dụng người đại 
diện vốn Nhà nước cũng phải 
được đặt lên hàng đầu. Từ 
quan điểm này, tác giả đề xuất 
bổ sung những qui định pháp 
lý về tuyển dụng người đại 
diện vốn Nhà nước thông qua 
hoạt động thi tuyển công khai, 
nhằm lựa chọn được những 
người thực sự có năng lực. 
Theo đó, cần ban hành những 
qui định tuyển dụng vị trí 
Người đại diện vốn Nhà nước 
với những tiêu chí về trình độ, 
năng lực, kỹ năng, đặc biệt 
là những kĩ năng về kế hoạch 
ngân sách, phân tích rủi ro, 
thay đổi chiến lược, khả năng 
đánh giá và ra quyết định 
với vị trí lãnh đạo doanh 
nghiệp hay chủ tịch hội đồng 
quản trị. Bên cạnh đó, phải 
xây dựng những chương trình 
đào tạo để đào tạo những nhà 
quản lý chuyên nghiệp. Những 
người trúng tuyển và tham gia 
chương trình đào tạo này sẽ 
được đào tạo nâng cao kiến 
thức quản lý, kĩ năng, năng 
lực chuyên môn phù hợp 
với vị trí người đại diện vốn 
nhà nước tại doanh nghiệp của 
họ.
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
23Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019
Thứ ba, sửa đổi và bổ sung 
quy định về tiêu chí, căn cứ 
đánh giá hiệu quả hoạt động 
của các doanh nghiệp có vốn 
đầu tư của Nhà nước, đặc biệt 
là các DNNN.
DNNN và các doanh nghiệp 
có vốn đầu tư của Nhà nước 
nói chung là những chủ thể 
kinh doanh đặc biệt, bởi bên 
cạnh mục tiêu thông thường 
là kinh doanh vì lợi nhuận, 
những doanh nghiệp này còn 
thực thi những trọng trách 
khác nữa là phải bảo đảm các 
mục tiêu an ninh, chính trị, 
xã hội... Vì vậy, việc đánh 
giá hiệu quả sử dụng vốn Nhà 
nước của những doanh nghiệp 
này, ngoài lợi nhuận cần phải 
được xem xét trên cả tiêu chí 
về việc hoàn thành những 
nhiệm vụ khác của doanh 
nghiệp đã được nhà nước 
giao. 
Mặt khác, cần tiếp tục bổ sung 
những qui định cụ thể điều 
chỉnh các tiêu chí giám sát tài 
chính tại các doanh nghiệp 
nhằm đảm bảo tính thống 
nhất, bình đẳng giữa các 
doanh nghiệp thuộc đối tượng 
giám sát, tránh tình trạng 
xác định chỉ tiêu giám sát 
tài chính đối với từng doanh 
nghiệp tùy vào từng thời kỳ 
và tình hình tài chính của 
doanh nghiệp như hiện nay. 
Bên cạnh đó, Chính phủ cần 
sửa đổi qui định về Báo cáo 
tài chính giữa kỳ tại Nghị định 
87/2015 NĐ-CP cho phù hợp 
với qui định của Luật Doanh 
nghiệp 2014, đặc biệt là về 
thời gian thực hiện công khai 
Báo cáo tài chính, qua đó đảm 
bảo tính thống nhất chung 
Tài liệu tham khảo
1. Chính Phủ (2018), Nghị định số 131/2018 NĐ-CP Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban 
quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. 
2. Chính phủ (2019), Nghị định số 10/2019/NĐ-CP về thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu Nhà nước
3. Chính phủ (2015), Nghị định số 87/2015 NĐ-CP về giám sát đầu tư vốn Nhà nước vào doanh nghiệp; giám sát tài chính, 
đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính của doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn Nhà nước
4. Chính phủ (2018), Nghị quyết số 09/NQ-CP về thành lập Ủy ban quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp
5. Quốc hội (2005), Luật Đầu tư 2005
6. Quốc hội (2013), Luật Đấu thầu 2013
7. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư công 2014
8. Quốc hội (2014), Luật quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014. 
9. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
Thông tin tác giả
Lương Thanh Bình, Thạc sĩ
Khoa Luật, Học viện Ngân hàng 
Email: 
[email protected]
Summary
Improving the law on controlling State capital invested in enterprises in Vietnam
In the socialist-oriented market economy in Vietnam, state-owned enterprises play a key role and contribute 
significantly to the development of the economy. In general, among enterprises with state capital, especially 
the ones in key areas of Vietnam, the State is seen as a large investor, while creating favorable conditions for 
businesses to access different resources more easily and contributing to help businesses operate effectively and 
develop. However, there are also many enterprises that have revealed certain weaknesses and limitations in the 
utilization of state capital as well as their resources and this result in their scattered and ineffective investment. 
Apart from the subjective causes from state-owned managers, the legal provisions on controlling state investment 
in enterprises are also one of the major reasons leading to the above statement. The paper analyzes the 
shortcomings in the current laws of Vietnam on the control of state capital invested in businesses, and proposes 
recommendations to overcome them, aiming at completing improving the law on controlling State capital invested 
in enterprises in Vietnam these days.
Key- words: Control; State capital; State enterprises
Binh Thanh Luong, LLM.
Faculty of Law, Banking Academy of Vietnam
xem tiếp trang 33
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
33Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019
vững ■Thanh Kim Huệ, Thạc sĩ
Học viện Ngân hàng, Phân viện Bắc Ninh 
Email: 
[email protected]
Vương Thị Minh Đức, Tiến sĩ
Học viện Ngân hàng, Phân viện Bắc Ninh 
Email: 
[email protected]
Summary
Factors affecting the level of access to credit by individuals doing commercial activities in rural areas of 
Bac Ninh province
Bac Ninh is a northern gateway province of Hanoi capital and is one of eight provinces in the Northern key 
economic region. From a purely agricultural province, Bac Ninh economy has developed in the direction of 
reducing the proportion of agriculture, increasing the proportion of industry-handicraft and trade villages, and 
developing agricultural production towards high-tech applications in order to improve added value and sustainable 
development. Contributing to that change has an important role of credit capital. However, in Bac Ninh, there is 
still a part of individual commercial customers in rural areas who have not yet access to formal credit, which is 
one of the major challenges in rural economic development. Therefore, the research team had a questionnaire 
survey for 250 individuals with commercial activities in rural areas in the districts of Bac Ninh province to assess 
the factors affecting the level of access to credit of these customers, on that basis, propose solutions to enhance 
access to finance, contributing to promoting sustainable rural economic development.
Key words: individuals doing commercial activities, access to credit, Bac Ninh
Hue Kim Thanh, MEc.
Duc Thi Minh Vuong, PhD.
Organization of all: Banking Academy of Vietnam, Bacninh Campus
trong toàn hệ thống pháp luật.
4. Kết luận
Không thể phủ nhận sự cần 
thiết của sự ra đời Luật Quản 
lý, sử dụng vốn Nhà nước 
đầu tư vào sản xuất, kinh 
doanh tại doanh nghiệp 2014 
và một số văn bản hướng 
dẫn thi hành như Nghị định 
số 87/2015 NĐ-CP về giám 
sát đầu tư vốn Nhà nước vào 
doanh nghiệp; giám sát tài 
chính, đánh giá hiệu quả hoạt 
động và công khai thông tin 
tài chính của doanh nghiệp 
Nhà nước và doanh nghiệp có 
vốn Nhà nước; Nghị định số 
10/2019/NĐ-CP về thực hiện 
quyền, trách nhiệm của đại 
diện chủ sở hữu Nhà nước đã 
góp phần tạo nên một hành 
tiếp theo trang 23
lang pháp lý tương đối chuẩn 
mực, đảm bảo những điều 
kiện cần thiết cho hoạt động 
kiểm soát vốn Nhà nước đầu 
tư vào các doanh nghiệp ở 
Việt Nam. Tuy nhiên, qua 
quá trình áp dụng trên thực 
tế, những qui định điều chỉnh 
hoạt động kiểm soát vốn Nhà 
nước trong các doanh nghiệp 
cho thấy vẫn còn những điểm 
chưa hợp lý và không phù 
hợp với điều kiện hiện nay. 
Do đó những qui định này cần 
phải được tiếp tục hoàn thiện. 
Bài viết này dừng lại ở việc 
nêu một vài những bất cập 
đó (theo quan điểm cá nhân 
của tác giả) nhằm giúp các cơ 
quan Nhà nước có thẩm quyền 
có cái nhìn toàn diện hơn về 
khung pháp luật điều chỉnh 
hoạt động kiểm soát vốn Nhà 
nước đầu tư vào các doanh 
nghiệp ở Việt Nam hiện nay, 
đồng thời đề xuất những kiến 
nghị để giải quyết những bất 
cập này ■
nhanh và bền vững. Do đó, 
các nỗ lực tái cấu trúc kinh tế 
hiện nay, đặt trọng tâm vào 
cải cách thể chế, phải được 
tiến hành một cách mạnh mẽ 
và dứt khoát hơn nếu muốn 
thoát khỏi mối lo đổ vỡ của 
bong bóng nợ công và cả mối 
nguy của bẫy thu nhập trung 
bình mà Việt Nam có thể sẽ 
mắc phải ■
tiếp theo trang 9