35KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
 “Thủy Hử”(水浒传)là một trong những bộ tiểu 
thuyết trường thiên lớn nhất nằm trong “Minh đại tứ 
đại kỳ thư” (bốn pho sách lớn, lạ kỳ đời Minh Trung 
Quốc), chữ “kỳ” ở đây chỉ sự mới lạ không những về 
nội dung và nghệ thuật, mà còn chỉ sự khẳng định 
đối với những sáng tạo của tác phẩm. “Thủy Hử” 
cũng là cuốn tiểu thuyết trường thiên đầu tiên của 
văn học cổ đại Trung Quốc nói về khởi nghĩa nông 
dân với quy mô lớn. Toàn bộ câu chuyện phát triển 
xoay quanh tình tiết “quan ép dân phản”, miêu tả một 
nhóm những anh hùng hảo hán, do không chịu nổi 
cảnh áp bức, đàn áp của quan lại nên dựng cờ khởi 
nghĩa tại Lương Sơn Bạc, cuối cùng khép lại thất bại 
với màn chiêu an của triều đình. Tiểu thuyết cũng 
phô bày bộ mặt thật xấu xa của tập đoàn thống trị 
phong kiến bạo ngược thối nát, làm cho người dân 
sống cảnh lầm than, đồng thời cũng lột tả mâu thuẫn 
TS. ĐỖ TIẾN QUÂN1; ThS. NGUYỄN THỊ HOÀI MỸ2
1 Học viện Khoa học Quân sự ✉
[email protected]
2 Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Hà Nội ✉
[email protected]
Ngày nhận: 28/10/2016; Ngày hoàn thiện: 18/11/2016; Ngày duyệt đăng: 30/11/2016
Phản biện khoa học: PGS.TS. PHẠM NGỌC HÀM
HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ
TRONG “THỦY HỬ” CỦA THI NẠI AM
TÓM TẮT
 Trong tiểu thuyết “Thủy Hử” của Thi Nại Am, hình tượng nhân vật nữ được hiện ra một cách tương 
đối tiêu cực, mang tính chất lạc hậu. Bằng việc phân tích ba loại hình nhân vật nữ trong tiểu thuyết, 
bài viết làm rõ những ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng tông pháp phong kiến trong văn hóa truyền 
thống Trung Hoa đối với tác giả, đây cũng là nguyên nhân chính làm cho tiêu chuẩn đánh giá và giá 
trị của nhân vật nữ trở nên hết sức khác biệt khi so sánh với những nam anh hùng trong tác phẩm, 
và cũng là điểm độc đáo góp phần đem lại sự đa dạng trong phong cách sáng tác của nhà văn.
Từ khóa: “Thủy Hử”, hình tượng, nhân vật nữ, tư tưởng tông pháp.
giai cấp sâu sắc của xã hội đương thời. Với ngòi bút 
nghệ thuật sâu sắc, óc quan sát tinh tế cùng khả năng 
sáng tạo của tác giả, “Thủy Hử” xứng đáng được đứng 
trong hàng ngũ “Tứ đại danh tác” của văn học cổ đại 
Trung Quốc.
Tuy nhiên, ý kiến nhận định về giá trị tác phẩm này mà 
thực chất là đánh giá về các nhân vật anh hùng hết 
sức phức tạp, thậm chí nhiều khi trái ngược nhau. Các 
nhân vật nam anh hùng trong tiểu thuyết đa phần 
được miêu tả một cách hết sức sinh động, nhưng hình 
tượng nhân vật nữ được hiện ra một cách tương đối 
tiêu cực, mang tính chất lạc hậu, phong kiến, hoặc đầy 
thói hư tật xấu. Nhiếp Cám Nỗ(聂绀弩)cho rằng: 
Toàn bộ “Thủy Hử” là câu chuyện về sự khinh miệt phụ 
nữ, đây đều là phong kiến chứ không phải là phản 
phong kiến (胡邦炜, 1982). Tôn Thọ Vĩ(孙寿玮)
cũng nhận xét: Về mặt khắc họa hình tượng nhân vật 
nữ, “Thủy Hử” đã không đạt được thành công, chủ yếu 
36 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
bởi vì nó xuất phát từ tư tưởng phong kiến của tác 
giả (孙寿玮, 1984). Hoàng Nhất Hải(黄一海)chỉ ra: 
“Thủy Hử” là một thiên anh hùng ca, nhưng một số 
nhân vật anh hùng lại được tạo dựng trên cơ sở sự hi 
sinh, kỳ thị, tổn hại phụ nữ, đây là sự thu nhỏ của xã 
hội trọng nam khinh nữ, cũng là sự phản ánh thế giới 
quan của tác giả (黄一海, 2003). Thế nhưng, Lý Hiến 
Phương (李献芳) lại cho rằng: “Thủy Hử” đã mạnh dạn 
khắc họa hình tượng ba vị nữ anh hùng thông minh 
tài trí, phản ánh quan niệm lịch sử tiến bộ và lý tưởng 
xã hội của tác giả (李献芳, 2002). Đã qua 5 thế kỷ, việc 
thẩm định và tiếp nhận tác phẩm cũng như đánh giá 
các nhân vật trong Thủy Hử vẫn còn chưa thống nhất. 
Sở dĩ có sự khác nhau đó vì các ý kiến đã tiếp cận tác 
phẩm từ các góc nhìn khác nhau, nên việc lý giải nhân 
vật cũng không giống nhau. Tìm hiểu về hình tượng 
nhân vật nữ, đặc biệt bằng việc phân tích quy loại 
ba loại hình nhân vật nữ trong tiểu thuyết, bài viết 
làm rõ những ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng tông 
pháp phong kiến trong văn hóa truyền thống Trung 
Hoa đối với tác giả và tác phẩm, từ đó cung cấp một 
góc nhìn đa dạng hơn về giá trị của tác phẩm lớn này 
trong dòng văn học cổ đại Trung Quốc thời Minh. 
2. HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ TRONG TIỂU 
THUYẾT “THỦY HỬ”
Theo thống kê, “Thủy Hử” có tổng cộng 780 nhân vật, 
các nhân vật có họ tên cụ thể là 577 người, trong đó 
có 76 nhân vật nữ, có 47 nhân vật nữ được đề cập đến 
nhưng không miêu tả nhiều, còn 29 nhân vật nữ được 
miêu tả tương đối cụ thể. Mỗi nhân vật nữ có cá tính 
và đặc điểm số phận khác nhau, nhưng có thể thấy, 
về cơ bản các nhân vật nữ trong “Thủy Hử” được chia 
thành ba loại như sau:
 2.1. Nhân vật chính diện: Cố Đại Tẩu, Tôn Nhị Nương, 
Hỗ Tam Nương
“Thủy Hử” miêu tả về Cố Đại Tẩu, biệt danh “Mẫu 
Đại Trùng” (Cọp cái) như sau: “Lông mày thô, mắt to, 
mặt béo, lưng tokhi tức giận thường lấy thanh gỗ 
to đánh chồng; khi bực dọc, thường lấy dùi đá để 
đâm thủng đùi khách”1. Còn về “Mẫu Dạ Xoa” Tôn 
Nhị Nương được xuất hiện như sau: “Lông mày dựng 
đầy sát khí, mắt lộ hung quang, da trát một lớp phấn 
dầymặc lớp áo đỏ giống như quỷ Dạ Xoa trong 
đêm”. Xét từ ngoại hình và biệt hiệu, có thể thấy hai 
nhân vật nữ này đầy chất hung thần ác sát, vô cùng 
thô tục. Xét từ hành vi, họ cũng là người tương đối tàn 
nhẫn: Cố Đại Tẩu “rút ra hai thanh đao, chạy thẳng vào 
trong phòng, cứ một đao là một mạng, giết hết phụ 
nữ trong phòng”. Tôn Nhị Nương và chồng là Trương 
Thanh mở hắc điếm bán bánh bao dùng nhân thịt 
người, Trương Thanh khi giết người còn tuân theo ba 
nguyên tắc: Một là không giết tăng đạo, hai là không 
giết kỹ nữ, con hát, ba là không giết tù nhân, còn Tôn 
Nhị Nương thì cứ có cơ hội gặp khách hàng là giết.
Có người nói tàn nhẫn, khát máu, giết người là giấc 
mơ mà bất kỳ nam nhi hảo hán nào cũng đã trải qua 
trong thời loạn lạc đó, hiển nhiên, tác giả đã miêu tả 
Cố Đại Tẩu, Tôn Nhị Nương như những nhân vật nam 
mà không có sự khác biệt, điều này ngược lại với văn 
hóa truyền thống của Trung Quốc. Xét theo tổng quan 
lịch sử văn học cổ đại Trung Quốc, các mỹ nữ cho dù 
không nhất định là người tốt, nhưng người tốt thì 
nhất định không phải là người có dung mạo xấu xa, 
do đó, ngoại trừ trường hợp đặc biệt, nhân vật nữ có 
dung mạo xấu luôn làm cho độc giả có cảm giác, hoặc 
liên tưởng đến cái ác, trong Thủy Hử cũng vậy, tác giả 
dường như rất tán thành quan niệm truyền thống đó, 
cho dù hai nhân vật nữ này thuộc loại nhân vật nữ 
chính diện. Ngoài ra, nếu trong tiểu thuyết, các nhân 
vật nam khi giết người đều được miêu tả rõ lý do, căn 
nguyên hoặc giải thích đầy đủ, thế nhưng khi miêu tả 
tính khí hung tàn của Cố Đại Tẩu và Tôn Nhị Nương, 
tác giả lại không có một lời giải thích nào cả, điều này 
thực sự tạo thành nét tương phản lớn đối với hình 
tượng nhân vật nam trong truyện, đồng thời cũng 
làm cho hình ảnh của họ kém đi nét đặc sắc rất nhiều.
Lại ví dụ như Hỗ Tam Nương, đây là nhân vật được tác 
giả yêu thích hơn cả, bởi vì cô xinh đẹp hơn hai nhân 
vật nữ anh hùng kia rất nhiều, trong Hồi thứ 47, tác giả 
viết: “Có một nhân vật nữ là anh hùng hơn cả, hiệu là 
Nhất Trượng Thanh Hỗn Tam Nương, sử một đôi nhật 
nguyệt song đao, thuật cưỡi ngựa thì không ai bì kịp”. 
Thế nhưng những khiếm khuyết của nhân vật này lại 
được tác giả cố ý lộ rõ: Lần đầu khi giao đấu với Vương 
Anh, Hỗn Tam Nương mắng thầm: “Cái đồnày”, sau 
này khi bị bắt sống, biết cả gia đình đã bị thảm sát, 
cô cũng không hề có biểu lộ gì khác lạ, thậm chí khi 
bị Tống Giang coi làm quà tặng cho Vương Anh, một 
nhân vật lùn tịt, xấu trai, háo sắc, biệt hiệu “Hổ chân 
ngắn”, cô cũng không phản bác, mà ngược lại: “Thấy 
Tống Giang đầy nghĩa khí như vậy, cũng không thoái 
thác được, đành phải vái tạ nhận lời”. Hồi thứ 98, khi 
Vương Anh bị Quỳnh Anh đâm bị thương, Hỗn Tam 
Nương liền quát: “Tiểu dâm phụ đê tiện kia, chớ có vô 
lễ”. Sự thực là, Vương Anh bị đánh do nổi tà tâm, hơn 
37KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
nữa khi hai bên giao chiến, chắc chắn phải có bên bị 
thương hoặc bị giết, vậy mà Hỗn Tam Nương lại mắng 
đối phương là “dâm phụ”, “vô lễ”, “đê tiện”. Dưới góc độ 
chủ nghĩa nữ quyền, đây có thể nói là tự sự của phái 
mạnh; dưới góc độ chủ nghĩa hiện thực, có thể nói tư 
tưởng của phụ nữ trong thời cổ đại Trung Quốc cũng 
bị ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa phụ quyền2, do đó 
Hỗn Tam Nương ngang ngược mắng kẻ làm chồng 
mình bị thương là “dâm phụ”, cho dù chồng mình 
đáng bị như vậy.
Ngoài ra, cho dù Hỗn Tam Nương nhiều lần làm đại 
tướng dẫn quân xung trận, giành được nhiều chiến 
tích lẫy lừng, nhưng chỉ xếp vị trí thứ 23 trong Địa sát, 
còn người từng bị cô bắt sống tại trận tiền là Bành 
Như lại xếp hàng thứ 7 trong danh sách Địa sát, hay 
ngay cả chồng là Vương Anh – một nhân vật háo sắc 
và được coi là kém nhất trong 108 vị anh hùng Lương 
Sơn cũng được xếp thứ 22, trên cô 1 bậc. Đồng thời, 
tác giả còn cho nhân vật này chết một cách đột ngột, 
không để lại ấn tượng gì sâu sắc: Hồi thứ 117, khi đi 
đánh quân Phương Lạp, Vương Anh bị Trịnh Ma Quân 
đâm chết, Hỗn Tam Nương “vội giục ngựa chạy đến 
báo thù, chỉ thấy Trịnh Ma Quân chuyển mình, một 
hòn đá bay vọt ra nhằm vào mặt Hỗn Tam Nương, 
Hỗn Tam Nương rớt xuống ngựa mà chết”. Có thể 
nhận ra, cho dù “Thủy Hử” có dùng bao nhiêu giấy 
mực để miêu tả về sự anh dũng của Hỗn Tam Nương 
đi chăng nữa, thì đây cũng chỉ là một nhân vật không 
có tính cách nổi trội với hình tượng nghệ thuật tương 
đối đơn điệu.
Từ những phân tích trên có thể thấy rằng, ba vị nữ 
anh hùng trong truyện được xuất hiện trong hàng 
ngũ nam nhi hảo hán, nhưng với mô típ miêu tả nữ 
anh hùng đầy chất nam nhi đó, dễ dàng nhận ra, dù 
là nhân vật nữ nhưng trong cốt cách lại không tìm 
thấy chút nữ tính nào, mà ngược lại, tính khí nam nhi 
lại đầy rẫy trong con người họ, điều này cũng giống 
như nhận xét của nhà nghiên cứu Ngụy Sùng Tân: “Về 
bản chất, họ không khác biệt với nam giới, số phận 
của họ chỉ có thể dùng chữ “bi ai” để giải thích”(魏崇
新, 1997). Chúng tôi cho rằng, đây là cũng biểu hiện 
rõ nét của tinh thần trọng nam khinh nữ đã được tác 
giả khéo léo bộc lộ một cách tài tình.
2.2. Nhân vật phản diện: Diêm Bà Tích, Phan Xảo Vân
Đối với Diêm Bà Tích, nếu chỉ xét ở hai góc độ: Thái độ 
đối với tình cảm, tình yêu của nhân vật này khi so sánh 
với Tống Giang, cùng với số phận của con người, thì 
Diêm Bà Tích là một nhân vật nhỏ bé rất đáng thương. 
Mẹ là Diêm Bà gả cô cho Tống Giang, không phải vì 
hạnh phúc của con gái, mà nhằm mục đích có nơi 
chốn dưỡng già cho bản thân. Tống Giang biết rất rõ 
điều đó nhưng vẫn bằng lòng, thế rồi, chỉ được “một 
thời gian đầu, tối nào Tống Giang cũng ngủ với Diêm 
Bà Tích”, “rồi sau đó thưa dần”, “thì ra Tống Giang là 
một tay hảo hán, chỉ thích cầm thương múa gậy, cũng 
không quan trọng quá chuyện nữ sắc. Diêm Bà Tích 
lại phơi phới, trẻ hơn so với tuổi, mà tuổi thật cũng 
chỉ có mười tám, mười chín, do đó Tống Giang không 
được cô ta vừa lòng”. Nhưng điều cần chỉ ra rằng, nếu 
Tống Giang không ham mê nữ sắc, thì ngay từ đầu đã 
có thể dùng tiền để đẩy Diêm Tích Bà đi cho xong, và 
tại sao lúc đầu luôn ngủ chung, về sau lại thưa dần? 
Chỉ có thể là do Tống Giang khi đã tỏ đường đi lối về 
thì không muốn gần Diêm Tích Bà mà thôi.
Sau này, khi nghe chuyện đồn đại về chuyện tình cảm 
giữa Diêm Tích Bà và Trương Văn Viễn, Tống Giang lại 
tự nhủ: “Cô ta không phải là thê thiếp do cha mẹ hỏi 
cưới cho ta, nên nay nếu không thích ta thì ta không 
cần đến mua cái bực mình làm gì, chỉ cần không đến 
với cô ta nữa là được rồi”. Cũng trong truyện, khi biết 
chuyện Phan Kim Liên với Tây Môn Khánh, Võ Đại 
Lang lập tức muốn bắt quả tang, bởi vì Võ Đại Lang 
coi Phan Kim Liên là vợ của mình, còn ở đây, khi biết 
chuyện tình của Diêm Tích Bà với Trương Văn Viễn, 
Tống Giang không buồn hỏi han, chẳng qua là bởi vì 
Diêm Tích Bà không có vị trí gì, hoặc chí ít là có cũng 
như không trong tim ông ta. Vì thế, trong truyện, dù 
Tống Giang luôn được miêu tả như người có nghĩa 
khí, nhưng trong chuyện tình cảm với Diêm Tích Bà, 
ông không bộc lộ được điều này, vì nếu là người có 
nghĩa khí, lại không có tình cảm với Diêm Tích Bà, tại 
sao lại không bỏ cô ta để giúp Diêm Tích Bà đến với 
Trương Văn Viễn? Trên thực tế, Tống Giang cũng chưa 
bao giờ có dự định như thế, thậm chí, khi được Diêm 
Bà mời đi ăn bữa tối cuối cùng với Diêm Tích Bà, ông 
ta vẫn nghĩ: “Thử ngủ với cô ta, xem tình ý của cô ta 
đêm nay với mình thế nào”, “hi vọng cô ta đối với mình 
như trước, trước hết ngồi sát chuyện trò, rồi sau đó cố 
gắng bên nhau một lúc xem sao”. Có thể thấy rõ, nếu 
đã không thương tiếc Diêm Tích Bà, thì Tống Giang 
còn muốn thấy tình cảm giả dối của cô ta với mình 
làm gì nữa? Khi đã biết chắc chắn Diêm Tích Bà không 
thèm để ý đến mình nữa, Tống Giang bèn chửi mắng 
không tiếc lời. Kỳ thực, hai bên đều rất rõ là đã không 
còn tình cảm với nhau, nhưng Tống Giang vẫn tỏ ra vẻ 
đạo mạo tự nhiên, còn Diêm Tích Bà thì lại yêu ghét rõ 
38 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
ràng, nhưng từ đầu đến cuối, tác giả luôn ca ngợi vẻ 
anh dũng trung liệt của Tống Giang, còn Diêm Tích Bà 
lại bị miêu tả như một dâm phụ, cố nhiên, “dâm phụ” 
phải bị kết thúc số phận – chết một cách thê thảm. 
Hiển nhiên, tiêu chuẩn kép khi đánh giá nam nữ của 
tác giả ở đây đã được bộc lộ rõ hơn bao giờ hết.
Nếu như cái chết của Diêm Tích Bà ở một chừng mực 
nhất định là do tự mình gây nên, thì cái chết của Phan 
Xảo Vân lại là hoàn toàn do ý muốn chủ quan của tác 
giả. Trong Hồi 44, sự khinh bỉ, coi rẻ của tác giả đối với 
Phan Xảo Vân được thể hiện rõ qua lời của Thạch Tú 
khi chê cô ta không chịu làm tiết phụ: “Tẩu tẩu nhìn 
thấy ta may những quần áo như thế này, chắc chắn sẽ 
nói xấu sau lưng, lại thấy ta hai ngày không quay về, 
rồi sẽ lời ra tiếng vàongười xưa đã nói, làm gì có kẻ 
kiên trung tiết hạnh”, rồi sau khi nhìn thấy cửa hàng 
đóng cửa, Thạch Tú lập tức nghi ngờ do có bàn tay 
ngầm của Phan Xảo Vân, ngay cả khi mối nghi ngờ 
đó được giải tỏa, Thạch Tú cũng không hề có chút hối 
hận nào, vì từ đầu đến cuối, anh ta luôn cho rằng Phan 
Xảo Vân là người phụ nữ không nết na, hiền thục.
Khi sự việc giữa Phan Xảo Vân và Bùi Như Hải bị lộ, 
Thạch Tú lại ra sức kích động Dương Hùng giết Phan 
Xảo Vân: “Hôm nay ba mặt một lời phải nói cho rõ 
ràng, rồi tùy ca ca quyết định xử lý”, để rồi sau đó 
Dương Hùng quyết định ra tay giết người: “Đồ tiện 
nhân dâm phụ kia, ta nhất thời bị nhầm lẫn, chút nữa 
thì bị mi lừa, một là làm hỏng tình huynh đệ giữa ta 
và Thạch Tú, hai là sau này mi sẽ hại đến tính mạng 
của ta”, thế rồi: “Một nhát đao đâm thẳng vào tim 
rồi rạch xuống bụng, lôi cả tim gan ngũ tạng ra treo 
trên cành cây tùng.”
Trên thực tế, Phan Xảo Vân có đáng bị tử hình bằng 
cách tàn khốc như vậy? Nếu xét theo luật lệ thời bấy 
giờ, cô ta cũng chỉ đáng bị đuổi khỏi nhà, nhưng lại 
chịu kiếp vận như thế, rõ ràng rằng, từ những câu chữ 
trong tiểu thuyết, có thể thấy, cái chết của Phan Xảo 
Vân cũng chỉ để Thạch Tú chứng minh sự trong sạch 
của bản thân, và để Dương Hùng bù đắp tình cảm, 
sửa chữa sai lầm do sự hoài nghi thuở ban đầu đối với 
Thạch Tú mà thôi. Buồn thay, Phan Xảo Vân cũng chỉ 
là vật hi sinh để chứng minh cho tình cảm của huynh 
đệ họ, chứ không phải là một con người. Nhưng cũng 
qua nhân vật này, có thể thấy tư tưởng và thái độ đậm 
chất phong kiến, thành kiến của tác giả đối với việc 
tình cảm ngoài hôn nhân trong lễ giáo phong kiến, 
một sự chán ghét đến tiêu cực được đưa lên một cấp 
độ cao nhất, mà chỉ có cái chết mới gột rửa được tội 
lỗi của những người như Phan Xảo Vân.
2.3. Nhân vật bên lề: Kim Thúy Liên, Lý Sư Sư
Hồi thứ 3 giới thiệu sự xuất hiện của Kim Thúy Liên với 
lời tự sự như sau: “Tôi vốn là người Đông Kinh, cùng 
cha mẹ đến Vị Châu để nhờ cậy họ hàng, không ngờ, 
người họ hàng đó lại đã chuyển đi Nam Kinh, mẹ bị 
mắc bệnh nặng rồi chết, hai cha con lưu lạc tại đất Vị 
Châu mưu sinh, có một tài chủ, tên là Trấn Quan Tây 
Trịnh đại quan nhân thấy vậy, bèn nhờ mai mối ép 
gả làm thiếp, bắt viết văn tự bán tôi cho ông ta với 
giá 3000 quan, mà thực tế không có đồng tiền nào 
cả, chưa được ba tháng sau, vợ cả ghen tuông quá 
đỗi, đuổi tôi đi, rồi lại đem văn tự ra đòi lại tiền, cha 
tôi già yếu không có cách gì chống lại, may mà ngày 
xưa tôi được cha dạy cho vài bài hát, nên bất đắc dĩ 
phải đến quán rượu để quanh co hát xướng, tiền kiếm 
được trong ngày phải trả cho Trấn Quan Tây hơn một 
nửa, mấy ngày nay khách hàng thưa vắng, sợ đến hẹn 
không có tiền trả nên khóc than.” Nghe qua, không 
một ai không đồng cảm chia sẻ với nàng, một số phận 
đen bạc của người lao động nghèo khổ dưới đáy xã 
hội. Thế nhưng, chỉ đến Hồi thứ 4, sự đồng cảm của 
độc giả đối với nhân vật này chợt tan biến, khi nghe 
thấy cô ta chỉ trỏ ra lệnh cho a hoàn sắp xếp vị trí chỗ 
ngồi như phu nhân chính thất, cho dù cô chỉ là phận 
làm lẽ, lúc này tác giả làm cho độc giả chợt bừng tỉnh, 
hiểu ra rằng, lúc trước, cô ta không vừa lòng với Trịnh 
Đồ, chỉ bởi vì Trịnh Đồ đã không cho cô ta một nơi để 
ở, và nếu giả dụ Trịnh Đồ cho cô ta một nơi dung thân, 
thì chắc chắn độc giả sẽ không có cơ hội thưởng thức 
cảnh Lỗ Đạt đánh Trịnh Đồ đến chết như vậy, từ đó, 
mất đi sự đồng cảm với hình ảnh của nhân vật Kim 
Thúy Liên, đồng thời, nảy sinh sự chán ghét với bản 
tính của người phụ nữ này.
Sự khinh bỉ, coi rẻ nhân cách người phụ nữ cũng được 
tác giả thể hiện ở nhân vật Lý Sư Sư, người được coi 
là có tài mạo song toàn nhất so với các nhân vật nữ 
khác trong truyện. Lý Sư Sư xuất hiện ở Hồi thứ 72 với 
vẻ đẹp nguyệt thẹn hoa nhường và sự trượng nghĩa 
hiếm có, khi Tống Giang muốn thông qua Lý Sư Sư để 
thiết lập quan hệ và bày tỏ nguyện vọng được chiêu 
an với triều đình, cùng với Yến Thanh đi đến Đông 
Kinh, quả nhiên, sau khi trình bày hoàn cảnh, nàng 
cũng sẵn sàng giúp đỡ: “Không cần nói gì thêm nữa, 
tôi đã nghe đại danh nghĩa sĩ của các vị đã lâu, chỉ 
là do không có người tốt giới thiệu để hợp tác, nên 
39KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
đành phải để cho các vị cứ phải khuất mình ở chốn 
Lương Sơn mãi”. Xét trong hoàn cảnh thực tế lúc bấy 
giờ, và trong lời nói, ánh mắt, cử chỉ, Lý Sư Sư quyết 
định như vậy dường như chỉ bởi vì cô muốn giúp Yến 
Thanh, một anh hùng hảo hán anh tuấn, phong nhã. 
Một người tài sắc vẹn toàn như vậy, nảy sinh tình cảm 
ái mộ khi gặp được Lãng tử Yến Thanh, một người 
phong độ tuyệt luân cũng là điều thường tình, hơn 
nữa, ngay cả Tống Giang cũng cảm thấy rung động 
trước nàng, vậy mà tác giả lại cho rằng, việc Lý Sư 
Sư rung động trước Yến Thanh là “tà niệm”, đòi Yến 
Thanh phải níu chặt con tim mình lại, hành lễ 8 bái 
đối với nàng, sự hành lễ đó thể hiện thái độ rõ ràng, 
làm cho Lý Sư Sư hiểu rõ mình không thể nào đến 
với Yến Thanh được, đồng thời, tác giả cũng bắt Yến 
Thanh phải tỏ lòng quyết tâm trước Đới Tông: “ Đại 
trượng phu xử thế, nếu vì tửu sắc mà quên gốc, khác 
nào cầm thú, nếu Yến Thanh có lòng như thế, nguyện 
chết dưới ngàn mũi kiếm”. Có thể thấy, tác giả một 
mặt hết lời ca ngợi vẻ đẹp của Lý Sư Sư, một mặt lại 
miêu tả ý chí sắt đá của Yến Thanh, dường như ông 
cho rằng, việc Yến Thanh động lòng trước Lý Sư Sư sẽ 
ngăn cản nhân vật này trở thành anh hùng hảo hán.
Còn một số nhân vật nữ khác, tác giả cũng đều dùng 
thái độ chán ghét nữ giới để miêu tả, ví dụ như nàng 
ca kỹ trong tửu lâu bị Lý Quỳ đánh đến ngất đi, nhân 
vật trong lầu xanh quen biết Sử Tiến rất lâu nhưng lại 
vong ân bội nghĩa
Từ những điểm trên, có thể thấy, các nhân vật nữ trong 
truyện đa số hiện ra với các sắc thái, hình ảnh tiêu cực, 
hoặc là dâm phụ, hoặc là người tâm địa ác độc, ngay 
cả những nhân vật nữ anh hùng cũng khó đem lại 
cảm giác gần gũi cho độc giả. Thông qua việc miêu 
tả hình tượng nhân vật nữ một cách cực đoan như 
thế, có thể nhận thấy ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng 
tông pháp phong kiến trong văn hóa truyền thống 
Trung Quốc đối với phong cách tác giả, từ đó làm cho 
tiêu chuẩn kép trong đánh giá giá trị con người trong 
tác phẩm trở thành phổ biến, xét cho cùng, nguyên 
nhân sâu xa đó được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất là, quan niệm “Nữ giới họa thủy” – người phụ 
nữ là nguyên nhân của mọi kiếp họa
Dưới ngòi bút của các tác giả Trung Hoa thời cổ đại, 
phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ đẹp, luôn là nguyên nhân 
của mọi kiếp họa, như Đát Kỷ làm nhà Thương sụp đổ, 
Bao Tự làm Chu U Vương mất nước, Dương Quý Phi 
làm cho nhà Đường chịu nạn loạn An Lộc SửTrước 
những “bằng chứng” đanh thép đó, người anh hùng 
muốn giành được thắng lợi trên chiến trường bèn 
nhất loạt xuống đao với người phụ nữ của họ, giống 
như đại tướng Lưu Tông Mẫn, để xua tan mối hoài 
nghi của chủ tướng Lý Tự Thành và bày tỏ quyết tâm 
giành thắng lợi khi phá vòng vây, ông đã tự tay giết 
chết hai bà vợ của mình, các tướng lĩnh khác cũng lần 
lượt làm theo để tỏ lòng trung với chủ tướng, có thể 
thấy, trong mắt những anh hùng hảo hán này, việc 
giết phụ nữ giống như giẫm đạp lên cành cây, ngọn 
cỏ không hơn không kém và nếu muốn làm anh hùng 
thì phải rũ bỏ gánh nặng về phụ nữ này. Tương tự như 
vậy, trong “Thủy Hử”, về cơ bản, hình tượng người phụ 
nữ đều hiện ra một cách xấu xa, họ dâm loạn, ác độc, 
là “họa thủy”, là nguồn gốc tai ương cho người đàn 
ông, thậm chí là tai ương của cả quốc gia, dân tộc. 
Trên thực tế, quan niệm này bắt nguồn từ thước đo 
của văn hóa phụ hệ, và thước đo đó xét về bản chất 
đã không đặt người phụ nữ và người đàn ông ở một 
vị trí bình đẳng, giống như Lỗ Tấn từng nói: “Tôi từ 
trước đến nay đều không tin rằng, Vương Chiêu Quân 
xuất giá đến Hung Nô có thể đem đến hòa bình cho 
triều Hán, Hoa Mộc Lan tòng quân có thể giữ được 
nước Tùy, cũng không tin những câu truyện cổ như 
Đát Kỷ làm nhà Thương diệt vong, Dương Quý Phi 
làm loạn nhà Đường. Tôi cho rằng, trong xã hội nam 
quyền, phụ nữ không thể có được quyền lực lớn như 
vậy. Việc hưng vong của quốc gia từ trước đến nay 
đều là trách nhiệm của đàn ông. Thế nhưng các tác 
giả nam từ thời cổ đại đến nay đa số đều đẩy trách 
nhiệm thất bại, mất nước về phía người phụ nữ” (鲁
迅, 2013). Ở một góc độ nhất định, có thể mượn lời 
của Lỗ Tấn như trên để giải thích cho thái độ của Thi 
Nại Am đối với nhân vật nữ trong truyện.
Thứ hai là, trọng nam khinh nữ
Mô hình gia tộc truyền thống của Trung Quốc là chế 
độ nam giới thừa kế và phụ quyền, sự sùng bái tổ tiên 
trong gia đình vẫn căn cứ vào phụ hệ, vị thế của phụ 
nữ luôn thấp hơn một bậc so với đàn ông trong nhà, 
điều này xuất phát từ tư tưởng Nho giáo cổ đại, chính 
Khổng Tử cũng từng nói: “Chỉ có nữ giới và tiểu nhân 
là khó nuôi dạy”, Mạnh Tử cũng luận giải về vấn đề 
này như sau: “Nam nữ thụ thụ bất thân, đó chính là 
Lễ”, đến đời Hán, Đổng Trọng Thư dùng thuyết âm 
dương trong “Dịch truyện” để đưa ra lý luận về giáo 
điều đạo đức của tư tưởng trọng nam khinh nữ và 
quan hệ giữa hai giới này “dương quý mà âm tiện”.3
40 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
Đến thời Tống, quan niệm này được các nhà Trình 
Chu lý học phát triển lên đỉnh cao mới. Trình Chu lý 
học coi trật tự cao thấp, sang hèn, trên dưới là “thiên 
lý”, danh phận tức là mệnh phận, quan hệ giữa quan 
với vua, con đối với cha, vợ đối với chồng, vĩnh viễn 
là quan hệ phục tùng tuyệt đối. Ngoài ra, trường 
phái này còn nhấn mạnh về tiết trinh và thủ tiết của 
người phụ nữ ở một cấp độ cao hơn, thậm chí, yêu 
cầu phụ nữ ngoài “Tam tòng” còn phải “Thất xuất”, 
nhưng nam giới lại không bị sự ước thúc bởi những 
quy định này. Có thể nói gọn rằng, nữ giới luôn luôn 
có vị trí thấp hơn nam giới, luôn luôn phải phục tùng 
nam giới. Trong “Thủy Hử” cũng như vậy, khi Lục Ngu 
Hầu lừa vợ Lâm Xung là Trương Thị đến nhà để Cao 
Nha Nội cưỡng hiếp thì Lâm Xung đến kịp, câu đầu 
tiên Lâm Xung nói với vợ là: “Nàng đã bị hắn làm ô 
nhục chưa?”, có thể thấy, một người yêu vợ như Lâm 
Xung cũng không thể vượt qua sự kìm kẹp của lễ giáo 
phong kiến về tiết hạnh. Thi Nại Am cho rằng, chỉ có 
thể không bị kẻ khác làm nhục, Trương Thị mới đủ tư 
cách để Lâm Xung yêu chiều. Còn đối với những nhân 
vật nữ không màng đến danh tiết khác, tác giả nhất 
loạt dùng quan niệm “không tha một ai”, giết tất cả 
bằng thủ đoạn hết sức tàn nhẫn làm cho độc giả cũng 
cảm thấy lạnh tóc gáy, giống như cảnh Lư Tuấn Nghĩa 
giết Giả Thị, Lý Quỳ giết con gái của Địch Thái Công
Chỉ có ba vị nữ anh hùng đều không bị chết thảm do 
tả xung hữu đột giết người trên chiến trường, và ngay 
cả ba vị này, chúng ta cũng khó tìm thấy nét yểu điệu 
thục nữ sau lớp chiến bào.
Thứ ba là, sự mâu thuẫn giữa “thiên lý” và “nhân dục”
Đời Tống, “Lễ” dần lớn mạnh và trở thành một đỉnh 
cao trong sự phát triển của lễ giáo phong kiến, trong 
đó, Trình Chu lý học có ảnh hưởng lớn nhất, phái này 
cho rằng, sở dĩ con người được gọi là người, bởi vì 
do có “thiên lý”, nhưng “nhân dục” (dục vọng của con 
người) lại mâu thuẫn với “thiên lý”, và phàm những 
hành vi ngược với quy phạm của thiên lý đều thuộc về 
“nhân dục”. Do đó, ý nghĩa cơ bản của việc làm người 
là có khả năng giữ được “thiên lý”, diệt “nhân dục” hay 
không. Trong các thời đại trước đó, người Trung Quốc 
hay có thói quen đánh đồng “nhân dục” với tình dục, 
thậm chí coi nữ giới như biểu tượng của “nhân dục”, 
coi việc hám dục như một tội tày đình trong thiên hạ. 
Chủ yếu là bởi vì, họ cho rằng, tình cảm huyết thống 
và lý trí là quan trọng nhất trong xã hội tông pháp 
Trung Quốc. Lý trí là yêu cầu cơ bản của văn hóa phụ 
hệ đối với giá trị của nam giới, và đây cũng là điều mà 
người đàn ông lấy làm tự hào. Thế nhưng trong văn 
học cổ đại Trung Quốc, lý trí thường thất bại khi đối 
mặt với các loại dục vọng của con người, giống như 
việc các anh hùng hảo hán trong “Tô Vũ chăn dê”4, 
Bá Di, Thúc Tề không ăn thóc nhà Chu5luôn có thể 
chống lại đói rét, bệnh tật, cường quyền, tra tấnđể 
giữ lòng kiên trung của mình, nhưng lại khó có thể 
chống lại nữ sắc “anh hùng khó qua ải mỹ nhân”. Vì 
thế, để giữ gìn danh dự của mình, nam giới thường 
dùng thái độ tránh né đối với nữ sắc, ví dụ như trong 
“Tây Du ký”, khi Đường Tăng đối mặt với sự lả lơi, khêu 
gợi của các yêu nữ xinh đẹp, thường có thái độ không 
khuất phục, cũng không chống lại một cách rõ ràng. 
Ngoài ra, trong quan niệm truyền thống về dưỡng 
sinh của Trung Quốc, họ luôn cho rằng, nếu quan hệ 
nam nữ quá độ, sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, thậm chí 
là mất đi tính mạng, cho nên, việc nam giới đam mê 
nữ sắc là một điều đại cấm kỵ. Trong bối cảnh như vậy, 
các nhân vật nam trong “Thủy Hử” muốn trở thành 
anh hùng hảo hán thì nhất định phải không gần nữ 
sắc, thậm chí là thù hận nữ sắc, do đó, việc “cấm dục” 
đã trở thành một điều quan trọng trong tâm niệm 
của anh hùng Lương Sơn, và dường như cũng là một 
thử thách duy nhất đối với ý chí của họ. Vì thế, các đầu 
lĩnh làm phản khác không cùng đường với anh hùng 
Lương Sơn như Điền Hổ, Vương Khánh, Phương Lạp 
và rất nhiều những nhân vật phụ khác đều được khắc 
họa như những kẻ hoang dâm háo sắc, còn anh hùng 
Lương Sơn, trừ Vương Anh, thì lại dường như luôn 
không có chút động lòng nào trước cái đẹp của phụ 
nữ. Do đó, nguyên nhân làm cho các “dâm phụ” trong 
truyện bị giết không chỉ bởi vì họ không chung thủy, 
hoặc tâm địa, thủ đoạn ác độc, mà chủ yếu do những 
anh hùng hảo hán Lương Sơn đều là người theo chủ 
nghĩa “cấm dục”, trong khi đó những “dâm phụ” này 
lại có khát vọng mãnh liệt về hoan lạc của cuộc sống, 
khát vọng đó hoàn toàn đi ngược lại với những anh 
hùng luôn coi sắc dục làm kẻ thù lớn của mình. Từ đó, 
những anh hùng hảo hán Lương Sơn trở nên người 
thù hận nữ giới một cách vô ý thức, cho rằng sự tồn 
tại của những “dâm phụ” này là sự cười nhạo vào lòng 
tin của họ, cho nên, họ dễ dàng xuống tay đem cái 
chết tàn khốc đến với những người đàn bà bất hạnh 
này cũng là điều dễ hiểu.
3. KẾT LUẬN
Có thể thấy, nhân vật nữ trong “Thủy Hử” cả cuộc đời 
đều sống dưới bóng của người đàn ông, sự tồn tại 
của họ chỉ để làm nổi bật quyền uy tuyệt đối và địa vị 
thống trị của nam giới trong xã hội, số phận bi thảm 
của họ xoay theo quỹ đạo dường như không thể thay 
41KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
đổi. Có thể nói, cùng với việc khắc họa những nhân 
vật anh hùng, những tính cách điển hình, những hình 
tượng nghệ thuật độc đáo đem lại thành công cho 
tác phẩm, Thi Nại Am còn có hạn chế nhất định khi 
xây dựng hình tượng nhân vật nữ tương đối lạc hậu 
với tiêu chuẩn kép trong đánh giá giá trị của hình 
tượng nhân vật nam và nữ, suy cho cùng chính là do 
xuất phát từ những định kiến và tư tưởng phong kiến 
sâu sắc ảnh hưởng từ tư tưởng tông pháp trong văn 
hóa truyền thống Trung Hoa. Vì thế, xét theo góc độ 
chủ nghĩa hiện thực, đây lại trở thành điểm độc đáo, 
góp phần đem lại sự đa dạng trong phong cách sáng 
tác của nhà văn./.
 Chú thích:
1. Các trích dẫn từ tác phẩm “Thủy Hử” là lời dịch từ 
nguyên tác của tác giả bài viết.
2. (父权文化) còn gọi là văn hóa nam quyền, trong 
đó người đàn ông có đặc quyền chi phối trong gia 
đình và xã hội.
3. Quan niệm này cho rằng, vua, cha, chồng là dương; 
thần, con, vợ là âm, vì thế quan hệ vua tôi, cha con, 
chồng vợ là quan hệ chủ tớ. 
4. Tô Vũ chăn dê (苏武牧羊): Năm Thiên Hán thứ 
nhất (năm 100 trước công nguyên), quan Trung Lang 
Tướng triều Hán là Tô Vũ phụng mệnh hoàng đế đi 
sứ Hung Nô, bị Hung Nô giữ lại, dùng đủ mọi cách 
để mua chuộc nhằm làm ông đầu hàng nhưng không 
được, sau đó đày ông đi vùng Bắc Hải để chăn dê, 
tuyên bố chỉ khi nào dê đực đẻ con thì mới thả ông về 
nước. Tô Vũ kiên cường chịu đựng gian khổ trong 19 
năm, cuối cùng được thả về nước, sau khi chết, Hán 
Vũ đế phong ông làm 1 trong 11 công thần trong Kỳ 
Lân Các, người đời sau dùng truyện “Tô Vũ chăn dê” 
để nói về tiết tháo của bậc anh hùng.
5. Bá Di(伯夷)và Thúc Tề(叔齐)là con vua Á Vi 
nước Cô Trúc (chư hầu của vua Trụ nhà Thương). Khi 
Cơ Phát mang quân đánh Trụ, giành chiến thắng và 
lên ngôi thiên tử, lập ra nhà Chu, tức là Chu Vũ Vương. 
Bá Di và Thúc Tề xấu hổ vì đã can ngăn Cơ Phát diệt 
Trụ, nên thề không ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi Thú 
Dương ở ẩn, hái rau vi ăn. Có người bảo rau vi cũng 
mọc trên đất nhà Chu, hai ông bèn nhịn đói chịu chết 
trên núi Thú Dương. Văn học dùng hình tượng Bá Di, 
Thúc Tề để nói tới việc ở ẩn; và dùng hình tượng rau vi 
để nói tới tiết tháo của kẻ sĩ.
Tài liệu tham khảo:
1. 胡邦炜(1982),论潘金莲,长江文艺出版社,
武汉,第201页。
2. 黄一海(2003),““水浒”里的女人”,当代
矿工,2003年第1期。
3. 李献芳(2002),“水浒传中三位英雄女性说
略”,山东教育学院学报,2002年第5期。
4. 刘德清、邓声国(2009),文化视野下的古代文
学研究,国家图书馆出版社,北京。
5. 鲁迅(2013),鲁迅散文精选,二十一世纪出版
社,南昌,第215页。
6. 孙寿玮(1984),漫谈“水浒”里的人物形象,
长江文艺出版社,武汉,第417页。
7. 魏崇新(1997),“水浒传:一个反女性的文
本”,明清小说研究,1997年第4期。
8. 许结(2006),中国古代文学研究导引,南京大
学出版社,南京。
9. 杨庆存(2016),中国古代文学研究,中华书
局,北京。
PORTRAITS OF FEMALE CHARACTERS IN 
“ALL MEN ARE BROTHERS” BY SHI NAI’AN
DO TIEN QUAN, NGUYEN THI HOAI MY
Abstract: In the novel “All men are brothers” 
by Shi Nai’An, the icons of female characters 
appear in a relatively negative, with backward 
feature. By analyzing three types of female 
characters in the novel, the article makes clear 
the profound influence of feudal patriarchal 
ideology in traditional Chinese culture to the 
author. This is also the main reason why the 
evaluation criteria and the value of female 
characters become very different when 
compared to the male heroes in the novel, and 
also the unique features contributing to the 
diversity in the style of the writer.
Keywords: “All men are brothers”, portraits, 
female characters, feudal patriarchal ideology.