Hiệu ứng của chính sách tiền tệ và chính sách an toàn vĩ mô đến sự ổn định tài chính tại Việt Nam

Tài liệu Hiệu ứng của chính sách tiền tệ và chính sách an toàn vĩ mô đến sự ổn định tài chính tại Việt Nam: 16 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật TÓM TẮT Bài nghiên cứu đánh giá các nhân tố tác động đến tĕng trưởng tín dụng của 21 ngân hàng thương mại (NHTM) trong giai đoạn 2008 – 2015. Trên cơ sở cĕn cứ vào một số nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước, nghiên cứu xây dựng lại mô hình các nhân tố tác động – đại diện cho chính sách tiền tệ (CSTT) và chính sách an toàn vĩ mô (ATVM) đến tĕng trưởng tín dụng, qua đó đánh giá ảnh hưởng của các công cụ điều hành đến sự ổn định tài chính tại Việt Nam. Theo Wooldrige (2002), phương pháp để xây dựng mô hình nghiên cứu là phương pháp bình phương bé nhất tổng quát khả thi (Feasible General Least Square – FGLS) nhằm khắc phục hiện tượng tự tương quan, phương sai sai số thay đổi nhằm đảm bảo ước lượng thu được vững và hiệu quả. Kết quả nghiên cứu cho thấy các công cụ của CSTT tại Việt Nam có tác động mạnh hơn so với các công cụ đại diện cho chính sách ATVM đến tĕng trưởng tín dụng. Từ khóa: tĕng trưởng tín dụng, ổ...

pdf16 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 266 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu ứng của chính sách tiền tệ và chính sách an toàn vĩ mô đến sự ổn định tài chính tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
16 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật TÓM TẮT Bài nghiên cứu đánh giá các nhân tố tác động đến tĕng trưởng tín dụng của 21 ngân hàng thương mại (NHTM) trong giai đoạn 2008 – 2015. Trên cơ sở cĕn cứ vào một số nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước, nghiên cứu xây dựng lại mô hình các nhân tố tác động – đại diện cho chính sách tiền tệ (CSTT) và chính sách an toàn vĩ mô (ATVM) đến tĕng trưởng tín dụng, qua đó đánh giá ảnh hưởng của các công cụ điều hành đến sự ổn định tài chính tại Việt Nam. Theo Wooldrige (2002), phương pháp để xây dựng mô hình nghiên cứu là phương pháp bình phương bé nhất tổng quát khả thi (Feasible General Least Square – FGLS) nhằm khắc phục hiện tượng tự tương quan, phương sai sai số thay đổi nhằm đảm bảo ước lượng thu được vững và hiệu quả. Kết quả nghiên cứu cho thấy các công cụ của CSTT tại Việt Nam có tác động mạnh hơn so với các công cụ đại diện cho chính sách ATVM đến tĕng trưởng tín dụng. Từ khóa: tĕng trưởng tín dụng, ổn định tài chính, chính sách an toàn vĩ mô, chính sách tiền tệ, FGLS. HIỆU ỨNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH AN TOÀN VĨ MÔ ĐẾN SỰ ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM Nguyễn Hoàng Chung* THE EFFECT OF MONETARY POLICY AND MACROPRUDENTIAL POLICY TO FINANCIAL STABILITY IN VIETNAM ABSTRACT This paper analyses the factors affecting credit growth of 21 commercial banks in the period 2008-2015. Based on some previous research hypothesis, empirical evidences, this study contributes regression model with some impact factors which representing monetary policy and macroprudential policy to credit growth, thereby assessing the impact of operating tools to inancial stability in Vietnam. According to Wooldrige (2002), we suggest regression model with Feasible General Least Square (FGLS) method to correct the auto-correlation and heteroskedasticity to ensure stable, reliable results. This result shows that monetary tools have stronger effects than macroprudential tools to inancial stability. Keywords: credit growth, inancial stability, macroprudential policy, monetary policy, FGLS. * ThS. GV. Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương. NCS.Trường Đại học Ngân hang Tp. Hồ Chí Minh, ĐT: 0906.672.58 17 Hiệu ứng của chính sách tiền tệ ... 1. GIỚI THIỆU Khủng hoảng tài chính toàn cầu (global inancial crisis) cơ bản đã qua đi, nhưng hậu quả để lại sẽ còn kéo dài trong nhiều nĕm. Cuộc khủng hoảng này đã khiến nhiều ngân hàng trung ương (NHTW) trên thế giới nhận thấy mục tiêu ổn định giá cả hay kiểm soát lạm phát (price stability) không đủ để đảm bảo ổn định tài chính (William R. White (2006)). Vì vậy các NHTW cần phải thực hiện các biện pháp, chính sách hướng tới mục tiêu ổn định tài chính (inancial stability). Hay nói cách khác ổn định tài chính, an toàn kinh tế vĩ mô đang được xem là mục tiêu trọng yếu của nhiều quốc gia bên cạnh mục tiêu ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát. Đây có thể được xem là chính sách mới được áp dụng sau các cuộc khủng hoảng gần đây, được chính phủ các nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương cũng vì thế mà tĕng cường sử dụng các công cụ điều tiết vĩ mô thận trọng (macroprudential tools) nhằm mục tiêu ổn định tài chính trong khu vực. Đây cũng chính là khu vực thực thi chính sách an toàn vĩ mô (macroprudential policy) thông qua việc sử dụng các công cụ an toàn vĩ mô (ATVM) nhiều nhất trong suốt 20 nĕm qua so sánh với các khu vực địa lý khác trên thế giới như Châu Âu, Châu Mỹ La tinh, Trung Đông, Châu Phi và Bắc Mỹ (Soyoung Kim & Aaron Mehrotra 2015). Vì vậy bài nghiên cứu dự kiến đánh giá tác động cụ thể của chính sách tiền tệ (CSTT) (monetary policy) và chính sách ATVM (macroprudential policy) tại Việt Nam đến sự ổn định tài chính nhằm làm rõ vai trò của chính sách ATVM đến sự ổn định tài chính của một quốc gia mà Việt Nam là một trường hợp áp dụng. Ngoài ra bài nghiên cứu cũng nhấn mạnh mục tiêu quan trọng của từng chính sách: CSTT hướng đến mục tiêu chính là ổn định giá cả và chính sách ATVM hướng đến mục tiêu chính là ổn định tài chính, cách thiết lập như vậy cũng phù hợp với quy tắc Tinbergen1 (Tinbergen, J (1952); William A. Knudson (2008)). Cuối cùng cả hai chính sách này đều hướng đến mục tiêu cuối cùng ổn định nền kinh tế của một quốc gia. 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM 2.1. Nền tảng lý thuyết về vấn đề nghiên cứu 2.1.1. Ổn định tài chính Mỗi quốc gia có một cách định nghĩa đi cùng với sự điều hành hướng tới các mục tiêu ổn định tài chính khác nhau. Theo NHTW Thụy Sĩ thì ổn định hệ thống tài chính nghĩa là một hệ thống tài chính mà trong đó các chủ thể tài chính bao gồm: trung gian tài chính, thị trường tài chính và hạ tầng tài chính thực hiện tốt các chức nĕng của mình và có khả nĕng chống đỡ được các cú sốc tiềm ẩn. NHTW Đức định nghĩa ổn định tài chính là khả nĕng vận hành tốt các chức nĕng chính của hệ thống tài chính, kể cả trong thời kỳ kinh tế cĕng thẳng và thời kỳ điều chỉnh cơ cấu nhằm giúp phân bổ một cách có hiệu quả các nguồn lực và rủi ro tài chính cũng như tạo nền tảng hạ tầng tài chính hiệu quả. NHTW Úc cho rằng ổn định hệ thống tài chính là một trạng thái mà trong đó các trung gian tài chính, thị trường và hạ tầng tài chính phân bổ tốt các luồng vốn giữa tiết kiệm và đầu tư, nhờ đó thúc đẩy tĕng trưởng kinh tế. Và NHTW Anh khẳng định ổn định tài chính 1. Quy tắc Tinbergen cho rằng đối với mỗi mục tiêu chính sách phải có ít nhất một công cụ chính sách. Nếu có ít công cụ thực thi mục tiêu chính sách thì một số mục tiêu này sẽ không đạt được. Hoặc một số công cụ giúp đạt được mục tiêu, và một số công cụ khác trong khi đáp ứng một số mục tiêu lại làm cho các mục tiêu khác trở nên khó khĕn hơn. 18 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật hàm ý việc xác định rủi ro trong hệ thống tài chính và hành động để giảm thiểu chúng. Tuy vậy, có thể thống nhất quan điểm về nội hàm của thuật ngữ này như sau: Ổn định tài chính là một trạng thái trong đó hệ thống tài chính gồm các trung gian tài chính, thị trường và hạ tầng tài chính có khả nĕng chống đỡ được các cú sốc và những rủi ro do sự mất cân đối tài chính gây ra từ đó làm giảm bớt khả nĕng sụp đổ của các trung gian tài chính vốn sẵn có tác động tiêu cực đối với việc phân bổ tiết kiệm và đầu tư (NHTW Châu Âu). Cuối cùng, có thể nhận thấy tất cả đều có chung một nhận định là chính sách an toàn vĩ mô có vai trò hết sức quan trọng đối với ổn định tài chính, sự mất ổn định tài chính sẽ tác động đến môi trường kinh tế vĩ mô, các hoạt động kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền và quá trình truyền dẫn CSTT (Ủy Ban Giám Sát Tài Chính Quốc Gia Việt Nam). 2.1.2. Chính sách ATVM Theo Hội đồng ổn định tài chính (FSB), Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho rằng chính sách ATVM là chính sách sử dụng các công cụ an toàn để hạn chế các rủi ro mang tính hệ thống và/hoặc các rủi ro đối với tổng thể hệ thống tài chính (inancial system) nhằm giảm thiểu khả nĕng đổ vỡ của hệ thống tài chính thông qua việc ngĕn ngừa các dịch vụ tài chính có thể gây hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế thực (real economy) (IMF, 2013a). Điều này có thể được thực thi thông qua việc tĕng cường sự bền vững của toàn bộ hệ thống tài chính đối với các cú sốc thông qua việc chủ động hạn chế tích tụ rủi ro. Đối tượng điều chỉnh của chính sách ATVM (macroprudential policy) là rủi ro hệ thống (systemic risks) với mục tiêu ổn định tài chính (inancial stability), bao gồm: (i) phát hiện và ngĕn ngừa nguy cơ xảy ra khủng hoảng tài chính (inancial crisis) làm sụt giảm tổng sản phẩm quốc nội (domestic output), và (ii) giảm thiểu các rủi ro lan truyền từ hệ thống tài chính đến khu vực tài chính thực; và (iii) thực hiện xử lý khủng hoảng (Đỗ Việt Hùng và cộng sự, 2014). Cuối cùng bên cạnh chính sách tiền tệ (monetary policy) và chính sách tài khóa (iscal policy) thì chính sách ATVM giúp NHTW tạo nên bộ ba quan trọng trong điều hành kinh tế vĩ mô, đã và đang được áp dụng để chứng minh sự hiệu quả tại các nước phát triển và thị trường mới nổi (emerging market economies (EMEs). 2.1.3. Chính sách tiền tệ CSTT quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra (Lý Hoàng Ánh, Lê Thị Mận và các cộng sự, 2012). Chính sách tiền tệ là một phần đặc biệt quan trọng trong chính sách kinh tế vĩ mô, bao gồm các quan điểm, chủ trương, đường lối để quản lý, kiểm soát để điều tiết tiền tệ trong nền kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng với vai trò chủ đạo là Ngân hàng Nhà Nước, được cụ thể hóa trong các cơ chế, giải pháp, biện pháp và công cụ điều hành lượng tiền cung ứng, các hoạt động tiền tệ nhằm bảo đảm đạt được các mục tiêu cơ bản của nền kinh tế như: ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy phát triển và tĕng trưởng kinh tế (Lê Quốc Lý, 2013). Hay CSTT còn được xem là các hành động của NHTW nhằm thay đổi cung tiền hoặc lãi suất chính sách để hướng đến mục tiêu ổn định lạm phát, tĕng trưởng kinh tế, toàn dụng lao động và ổn định tỷ giá hối đoái (Araújo, 2015; Drakos and Kouretas, 2015; Sánchez, 2012). 19 Hiệu ứng của chính sách tiền tệ ... Kênh dẫn truyền chủ yếu của CSTT đến nền kinh tế thường là thông qua hệ thống tài chính, trong đó quan trọng nhất là hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM). 2.1.4. Cơ sở lý thuyết về cung tiền và lạm phát Theo lý thuyết về lượng tiền của Milton Friedman, mối quan hệ giữa cung tiền và lạm phát được thể hiện qua phương trình định lượng: MV=PY. Trong đó: M là lượng tiền, V là vòng quay của tiền, P là giá cả, Y là sản lượng (GDP thực tế). Phương trình định lượng có thể viết dưới dạng phần trĕm như sau: % thay đổi của M + % thay đổi của V = % thay đổi của P + % thay đổi của Y (1) Hay: % thay đổi của M = %thay đổi của P + % thay đổi của Y - % thay đổi của V (2) Công thức trên cho thấy mối quan hệ qua lại giữa các biến động của yếu tố cung tiền, vòng quay của tiền, giá cả và GDP thực tế. Thông thường, vòng quay của tiền hay còn gọi là tốc độ chu chuyển của tiền V không thay đổi nhiều qua từng nĕm. Giả sử V không thay đổi, khi đó tốc độ tĕng của cung tiền bằng tốc độ tĕng của giá cả cộng (+) tốc độ tĕng của GDP thực tế. Bên cạnh đó, tại Việt Nam thì cung tiền trong nền kinh tế chủ yếu bởi hệ thống NHTM thông qua kênh cho vay (). Như vậy, phương trình (2) cho thấy tốc độ tĕng trưởng kinh tế thực và tỷ lệ lạm phát sẽ quyết định tỷ lệ tĕng trưởng tín dụng trong nền kinh tế. 2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây về vấn đề liên quan đến bài viết 2.2.1. Các nghiên cứu nước ngoài liên quan đến bài viết Cĕn cứ theo nghiên cứu của Cesa – Bianchi và Rebucci (2013) thì CSTT sẽ chịu trách nhiệm với mục tiêu ổn định giá cả còn các chính sách ATVM sẽ chịu trách nhiệm với mục tiêu ổn định tài chính (inancial stability). Theo đó trong thời gian gần đây, vấn đề sử dụng chính sách ATVM nhằm đảm bảo ổn định tài chính cũng như môi trường kinh tế vĩ mô tại mỗi quốc gia là một trong những nội dung quan trọng và đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới. Các phân tích, đánh giá và mô hình đã được xây dựng nhằm xác định mức độ hiệu quả của các công cụ ATVM và công cụ thực thi CSTT tại nhiều quốc gia và khu vực. Một số kết quả, nhận định được đưa ra từ các nghiên cứu này như sau: Cesa - Bianchi & Rebucci 2013 – Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đã tạo động lực cho các học giả trên thế giới nghiên cứu sâu thêm về việc tích hợp mục tiêu ổn định tài chính và các chính sách ATVM (macroprudential policy) vào các mô hình kinh tế vĩ mô cùng với CSTT (monetary policy). Công cụ ATVM và công cụ CSTT có thể giải quyết cả hai biến dạng gây ra bởi lực cản tài chính (inancial friction) và lực cản kinh tế vĩ mô (macroeconomic friction). Bài nghiên cứu có liên quan đến một số nghiên cứu, với đại diện của trường phái New Keynesian là các lực cản tài chính (inancial friction) và quy tắc Taylor (Angelini, Neri, and Panetta (2011), Beau, Clerc, and Mojon (2012), Kannan, Rabanal, and Scott (2012)). Những bài nghiên cứu này cho rằng công cụ lãi suất tĕng cường và công cụ ATVM (macroprudential tools) tĕng cường như là tĕng trưởng tín dụng (credit growth), giá tài sản (asset price), LTV (loan to value ratio) tạo ra một sự kết hợp giữa lãi suất và quy tắc ATVM để chính sách tiền tệ có thể nương theo chiều gió (lean against the wind). Shin 2015 – Bài nghiên cứu là sự so sánh giữa chính sách ATVM và CSTT. Trong một 20 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật vài khía cạnh cụ thể, chính sách ATVM được sử dụng bởi nhiều nền kinh tế phát triển trước nĕm 1970. Trong khi đó CSTT ảnh hưởng đến khả nĕng chấp nhận rủi ro, tác động cả hệ thống tài chính trong nước và lan truyền sang các nền kinh tế khác. Bên cạnh đó, các nghiên cứu thực nghiệm được nêu trong bài cho rằng tương quan giữa CSTT và chính sách ATVM là bổ sung, thông qua kết quả của một vài cú sốc khác nhau. Đó có thể là tương quan cùng chiều (pull in the same direction) (Bruno & Shim 2015). Các công cụ ATVM thường được sử dụng thông qua các NHTM. Bài nghiên cứu cho rằng việc thay đổi tỷ lệ của mức chi trả nợ trên thu nhập (Debt service to income ratio – DSTI) hoặc tỷ lệ tín dụng trên giá trị (Loan to value ratio – LTV) sẽ hoạt động theo một cơ chế như CSTT. Cụ thể, sự biến động của hai chỉ số trên sẽ ảnh hưởng tới chi phí và mức độ sẵn có của tín dụng cho các hộ gia đình và doanh nghiệp, qua đó tác động tới các quyết định đẩy mạnh hoặc trì hoãn tiêu dùng. Kuttner và Shim 2013 – Nghiên cứu thực nghiệm là phần mở rộng của chính sách ATVM, với mục tiêu hạn chế các rủi ro hệ thống trong hệ thống tài chính (IMF-BIS-FSB (2011)). Mục tiêu đầu tiên của chính sách này là chứng minh được khả nĕng phục hồi của hệ thống tài chính bằng cách thực thi tính thanh khoản, vốn và tài sản thế chấp. Thứ hai là thu hẹp lại các sự mất cân bằng về tài chính bằng tín dụng và kênh giá tài sản. Mục tiêu của bài nghiên cứu này là cung cấp những đánh giá về sự hiệu quả của tín dụng và chính sách thuế liên quan đến kênh cho vay nhà ở và giá nhà. Bài nghiên cứu chỉ rõ tác động của sự suy giảm tỷ lệ mức chi trả nợ trên thu nhập (DSTI) và tỷ lệ cho vay (LTV) tới việc tổng cầu và tiêu dùng cuối cùng giảm thông qua cho vay nhà ở và giá nhà. Nghiên cứu thực nghiệm cũng thống kê lại việc sử dụng các công cụ chính sách khác ngoài lãi suất để đảm bảo sự ổn định tài chính kể từ nĕm 2000. So sánh giữa các khu vực địa lý, tác giả chỉ ra rằng nền kinh tế Châu Á Thái Bình Dương sử dụng các công cụ ATVM nhiều nhất trong hơn 20 nĕm qua. Trong các nước áp dụng lạm phát mục tiêu, Hàn Quốc là quốc gia thực hiện nhiều biện pháp can thiệp nhất với hơn 26 biện pháp ATVM, cụ thể là 21 biện pháp thắt chặt và chỉ 6 biện pháp là nới lỏng. Tác giả còn rút ra kết luận quan trọng là các biện pháp ATVM được sử dụng nhiều hơn trong một số nền kinh tế sau khi NHTW ban hành mục tiêu ổn định tài chính (Thái Lan, Malaysia). Kim, S & Mehrotra, A (2016) – Bài nghiên cứu về vấn đề đánh đổi chính sách giữa mục tiêu kiểm soát lạm phát và duy trì ổn định tài chính. Nghiên cứu được thực hiện trong khuôn khổ các nước tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương áp dụng khuôn khổ chính sách lạm phát mục tiêu, đồng thời cũng thực thi chính sách ATVM. Thông qua ước lượng mô hình hệ phương trình tự hồi quy dạng cấu trúc (SVAR) cho các nước thực thi chính sách lạm phát mục tiêu, bài nghiên cứu xây dựng mô hình nhận diện các cú sốc của CSTT và các chính sách ATVM, đồng thời mô hình hóa được mối quan hệ giữa các biến đại diện cho các chính sách như lãi suất chính sách (policy rate) đại diện cho CSTT và biến ATVM (prudential variables) đại diện cho chính sách ATVM. Bài nghiên cứu này sử dụng 5 biến nội sinh (endogenous variables), trong đó có hai biến công cụ chính sách (policy instruments) – lãi suất chính sách (R) và biến chính sách ATVM (PP) (Shim et al, 2013). Ngoài ra, bài nghiên cứu sử dụng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đại diện cho biến mục tiêu của CSTT, tổng tín dụng cho khu vực tư nhân (CRD) được sử dụng như mục tiêu của chính sách ATVM. GDP thực (RGDP) cũng 21 Hiệu ứng của chính sách tiền tệ ... được đưa vào mô hình để phản ánh các hoạt động kinh tế phát sinh. Mô hình trong bài nghiên cứu được xem là mô hình mở rộng từ mô hình xác định các cú sốc CSTT của Christiano và cộng sự (1999). Thông qua trọng tâm nghiên cứu là đánh giá phản ứng của 5 biến nội sinh trước các cú sốc về CSTT và chính sách ATVM cho thấy khi cả hai cú sốc theo hướng thắt chặt: PP tĕng trước cú sốc chính sách ATVM và R tĕng trước cú sốc về CSTT. Cả hai cú sốc này đều dẫn đến sự sụt giảm có ý nghĩa thống kê của CPI và CRD. Điều đó có nghĩa là CSTT thắt chặt không chỉ làm giảm mức giá mà còn là giảm cả khối lượng tín dụng. Tương tự, chính sách ATVM thắt chặt cũng làm giảm không chỉ tín dụng mà cả mức giá, qua đó tác động đáng kể đến lạm phát. Angelini & cộng sự 2014 – Bài nghiên cứu đã chứng minh được lợi ích của việc phối hợp giữa CSTT và chính sách ATVM trong bối cảnh thị trường tài chính có nhiều biến động. Trong đó, NHTW sẽ góp phần ổn định sản lượng và tỷ lệ tín dụng trên GDP (credit to GDP), đây cũng là mục tiêu của nhà điều hành chính sách ATVM tuy nhiên sẽ bị đánh đổi bằng việc lạm phát cao hơn và lãi suất chính sách biến động mạnh hơn. Ueda & Valencia 2014 – Bài nghiên cứu chỉ ra rằng khi NHTW chịu trách nhiệm ổn định giá cả và ổn định tài chính, sẽ tồn tại vấn đề không nhất quán thời gian (time inconsistency problem) trong mô hình thực nghiệm. Cụ thể sau khủng hoảng, CSTT thường có xu hướng tạo ra mức lạm phát cao hơn, mức lạm phát tối ưu (the social optimal level of inlation) để làm giảm gánh nặng từ các khoản nợ (private debt) do các chính sách ATVM không thể được sử dụng để làm giảm khối lượng nợ. Do các cơ quan hoạch định chính sách ATVM biết NHTW có thể làm giảm gánh nặng nợ thông qua lạm phát nên cơ quan này có thể cho phép nền kinh tế tích lũy một khối lượng nợ lớn hơn, từ đó tạo ra khuynh hướng lạm phát (inlation bias). Lim & cộng sự (2011) – Bài nghiên cứu chỉ ra rằng các công cụ ATVM như LTV, DTI, hạn mức tín dụng, dự trữ bắt buộc (DTBB) và dự phòng rủi ro (Loan Loss Provisioning) thực sự hiệu quả trong việc làm giảm các biến động rủi ro chu kỳ (counter-cyclical) của tín dụng và đòn bẩy tài chính (inancial leverage). Crowe và cộng sự (2011) - đã chứng minh được mối quan hệ giữa chính sách ATVM và chu kỳ bất động sản. LTV là công cụ tốt nhất để hấp thụ và giảm thiểu các rủi ro tín dụng do sự bùng nổ bất động sản. Các công cụ với mục tiêu làm gia tĕng sức chống đỡ cho hệ thống ngân hàng (như dự phòng linh hoạt) mặc dù không hiệu quả trong việc chấm dứt tình trạng bùng nổ nhưng lại rất có hữu dụng trong việc xử lý tình trạng vỡ bong bóng tín dụng bất động sản. Vandenbussche, Vogel, và Detragiache (2012) - Trong nghiên cứu của mình tại các quốc gia ở châu Âu đã nhận định rằng, các công cụ an toàn vốn (CAR) và công cụ như DTBB ký quỹ đối với các khoản vốn ngoại tệ hoặc DTBB ký quỹ kết hợp với tĕng trưởng tín dụng giúp hạ nhiệt giá bất động sản. Hay các công cụ giới hạn tĕng trưởng tín dụng trong ngành như LTV, DTI và các công cụ kiểm soát vốn như dự trữ bắt buộc (DTBB) giúp gia tĕng sức mạnh cho hệ thống tài chính quốc gia (Gabriele Galati, 2015). Claessens và các cộng sự (2012) - Chỉ ra rằng cấu trúc, tổ chức và đặc điểm của hệ thống tài chính (dựa vào ngân hàng hay dựa vào thị trường) có tác động làm khuyếch trương chu kỳ tài chính và chu kỳ kinh tế thực, vì thế đây là yếu tố quan trọng nhất mà cơ quan giám 22 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật sát cần phải xem xét khi lựa chọn áp dụng công cụ ATVM. Ví dụ như, đối với các quốc gia có hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng thì các nhà chính sách nên sử dụng các công cụ có liên quan đến hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính và ngược lại. Điều kiện chính sách tài khóa và tiền tệ đang được áp dụng cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn công cụ. Tiếp theo việc sử dụng các công cụ ATVM tại các quốc gia có sự khác biệt; các quốc gia phát triển ưu tiên sử dụng các công cụ làm giảm tĕng trưởng tín dụng, trong khi đó các quốc gia đang phát triển lại sử dụng kết hợp nhiều công cụ với nhau, kiểm soát vốn, thanh khoản và tĕng trưởng tín dụng. Valla và Escorbiac (2006) – Bài nghiên cứu tập trung vào một số yếu tố nội tại và vĩ mô ảnh hưởng đến khả nĕng thanh khoản của các ngân hàng ở Anh như nghiên cứu của nhóm tác giả Aspachs và cộng sự (2005). Kết quả nghiên cứu cho rằng tỷ lệ thanh khoản của các ngân hàng Anh phụ thuộc đồng biến vào tĕng trưởng tín dụng, GDP, lãi suất ngắn hạn và nghịch biến với lợi nhuận ngân hàng. 2.2.2. Các nghiên cứu trong nước liên quan đến bài viết So với nhiều nghiên cứu nước ngoài thì các nghiên cứu trong nước có phần hạn chế hơn, các bài báo, nghiên cứu chủ yếu xoay quanh việc làm rõ nội dung của chính sách ATVM, về khái niệm, về các công cụ an toàn vĩ mô theo thông tư 36/2014/TT-NHNN và các vĕn bản sửa đổi, bổ sung đính kèm, các công cụ này liên quan đến tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỷ số thanh khoản, tỷ lệ cho vay trên tổng vốn huy động các bài nghiên cứu đánh giá tác động của các biến số này đến các biến số đại diện cho chính sách an toàn vĩ mô và chính sách tiền tệ nhằm đánh giá tác động của các công cụ điều hành đến sự ổn định vĩ mô. Bên cạnh đó là một số nghiên cứu liên quan đến các biến số vĩ mô (GDP, CPI) tác động đến tĕn trưởng tín dụng, cụ thể: Nguyễn Thị Thu Hương & Nguyễn Khánh Linh (2014) – Bài nghiên cứu thống kê Việt Nam đang áp dụng 6 biện pháp cơ bản nhằm đảm bảo an toàn cho kinh tế vĩ mô, bao gồm: tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (Captial Adequacy Requirement – CAR), tỷ lệ khả nĕng chi trả (Liquidity ratio - LIQ), tỷ lệ cho vay trên tổng vốn huy động (Loan deposits ratio - LDR), giới hạn cho vay ngoại tệ, trạng thái ngoại tệ và trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Tuy nhiên hiện nay chưa thể đánh giá được hiệu quả của các công cụ này tại Việt Nam nên bài nghiên cứu chỉ dừng lại dưới góc độ lượng hóa tác động của các công cụ này đối với vấn đề hiệu quả thực thi chính sách. Vũ Hải Yến & Trần Thanh Ngân (2016) – Trong bài nghiên cứu đã lựa chọn mô hình dữ liệu bảng với tác động cố định (Panel ixed-effects model) để đánh giá tác động của các chính sách ATVM (Macroprudential policy effects) đến sự ổn định của hệ thống tài chính (Financial stability) giai đoạn 2007 – 2014. Biến phụ thuộc là tốc độ tĕng trưởng tín dụng (Credit Growth) và chỉ số giá chứng khoán (VN Index) được lựa chọn để phản ánh sự ổn định tài chính. Biến độc lập bao gồm: các công cụ của CSTT như tỷ lệ dự trữ bắt buộc (RRR), lãi suất tái chiết khấu (Rediscount rate - DR), hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR), tỷ lệ dự trữ thanh khoản (Liquidity ratio), tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi (LDR). Ngoài ra, tác giả sử dụng các biến kiểm soát tĕng trưởng kinh tế (GDP) và tốc độ lạm phát (CPI) để giảm tác động gây nhiễu của các biến bị bỏ sót và hiện tượng hệ số ước lượng không đáng tin cậy (mô hình không vững, hệ số ước lượng không có ý nghĩa thống kê). Kết quả thực nghiệm đánh giá hiệu quả chính sách đối với 23 Hiệu ứng của chính sách tiền tệ ... tĕng trưởng tín dụng cho rằng hệ số CAR, tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi (LDR) và tĕng trưởng tín dụng (CRD) tương quan đồng biến (+), tiếp đó sự thay đổi lãi suất tái chiết khấu (DR) tác động ngược chiều (-) đến tĕng trưởng tín dụng. Về hiệu quả chính sách đối với chỉ số giá chứng khoán thì cho rằng CAR tác động cùng chiều, tỷ lệ dự trữ thanh khoản tại các ngân hàng có tác động tích cực (+) nhưng lãi suất chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì tác động ngược chiều (-) với chỉ số giá chứng khoán. Lê Tấn Phước (2016) – Trong bài nghiên cứu đã lựa chọn mô hình OLS để đánh giá các yếu tố tác động đến tĕng trưởng tín dụng của NHTM tại Việt Nam. Theo kết quả nghiên cứu thì các NHTM có tỷ lệ tài sản thanh khoản cao sẽ đặt mục tiêu tĕng trưởng tín dụng vì mục tiêu lợi nhuận. Cùng với đó, bài nghiên cứu còn tìm ra được mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và GDP tĕng lên sẽ khiến tĕng trưởng tín dụng tại ngân hàng tĕng lên. Bài nghiên cứu dừng lại ở việc xây dựng mô hình hồi quy nghiên cứu OLS. Kết quả nghiên cứu cho thấy các NHTM có khoản vốn chủ sở hữu lớn, tỷ lệ tài sản thanh khoản cao sẽ đặt mục tiêu tĕng trưởng tín dụng vì lợi nhuận. Cùng với đó, bài nghiên cứu còn tìm thấy mối quan hệ cùng chiều (+) giữa tĕng trưởng GDP với tĕng trưởng tín dụng ngân hàng. Lê Thị Mận và các cộng sự (2016) – Bài nghiên cứu phân tích mối quan hệ dài hạn giữa tĕng trưởng tín dụng ngân hàng và tĕng trưởng kinh tế tại VN trong giai đoạn 1992 – 2014 thông qua mô hình VECM cùng với hàm phản ứng đẩy và phân rã phương sai kết hợp bộ lọc HP để kiểm định tốc độ tĕng trưởng tín dụng ngân hàng tại VN. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa tĕng trưởng tín dụng ngân hàng đến tĕng trưởng kinh tế VN. 3. SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Số liệu và lấy mẫu Số liệu được lấy từ 21 Ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam giai đoạn 2008 – 2015, trong đó có một số ngân hàng đang niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TPHCM (HOSE) và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX). 3.2. Phương pháp nghiên cứu Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng (panel data) theo ba phương pháp Pool Regression, REM (Random Effect Model) và FEM (Fix Effect Model). Sau đó sử dụng các kiểm định Hausman Test, F – Test, Lagrange Multiplier Test (LM Test) để lựa chọn ra mô hình phù hợp. Nếu mô hình được lựa chọn này vi phạm các giả thuyết kinh tế lượng như tự tương quan và phương sai sai số thay đổi sẽ làm cho các ước lượng thu được bằng các phương pháp hồi quy thông thường trên dữ liệu bảng (OLS, FEM, REM) không hiệu quả, các kiểm định hệ số hồi quy không còn đáng tin cậy. Vì vậy theo Wooldrige (2002), tác giả áp dụng phương pháp bình phương bé nhất tổng quát khả thi - Feasible General Least Square (FGLS) để khắc phục hiện tượng tự tương quan, phương sai sai số thay đổi nhằm đảm bảo ước lượng thu được vững và hiệu quả. 3.3. Mô hình nghiên cứu Mô hình dữ liệu được lựa chọn để đánh giá tác động của chính sách bảo đảm ATVM và CSTT đến sự ổn định của hệ thống tài chính trong khoảng thời gian từ 2008 – 2015 dự kiến: CRD = β0 + β1∆ RRR + β2∆ DR + β3CAR + β4LIQ + β5∆ LDR + β6GDP + β7CPI + εt 24 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 3.4. Cách thức đo lường các biến Biến phụ thuộc là tĕng trưởng tín dụng (CRD) được đo lường bằng tỷ lệ biến động dư nợ cuối kỳ qua các nĕm. Tốc độ tĕng trưởng tín dụng được lựa chọn là biến phụ thuộc để phản ánh sự ổn định của hệ thống tài chính. Theo IMF (2011), những thay đổi bất thường trong tín dụng và giá tài sản là hai tín hiệu quan trọng của rủi ro hệ thống, được sử dụng để làm chỉ số cảnh báo sớm (Early Warning Index - EWI). Kết quả nghiên cứu của Soyoung Kim & Aaron Mehrotra (2015) cho thấy các chính sách ATVM có tác động tới tĕng trưởng tín dụng, đồng thời cũng có ảnh hưởng đáng kể đến lạm phát. Cụ thể là các chính sách ATVM thắt chặt sẽ góp phần làm gia tĕng áp lực từ lạm phát thấp. Tĕng trưởng tín dụng của các ngân hàng thường có xu hướng tĕng nhanh khi chính sách tiền tệ và tài khóa theo hướng mở rộng, đi kèm với sự nới lỏng các chính sách và quy định cấp tín dụng. Mở rộng tín dụng đồng nghĩa với sự gia tĕng rủi ro tín dụng. Trong trường hợp rủi ro xảy ra, nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của một ngân hàng mà còn có khả nĕng gây mất ổn định toàn hệ thống. Thực tế tại Việt Nam, giai đoạn tín dụng tĕng trưởng quá nóng 2007 - 2010 (tỷ lệ tĕng trưởng dư nợ luôn trên mức 25%) đã kéo theo hệ quả tỷ lệ nợ xấu tĕng cao trong giai đoạn 2011 - 2013, những ngân hàng yếu kém lâm vào tình trạng mất khả nĕng thanh khoản và khiến cho hoạt động toàn hệ thống kém ổn định. Như vậy, chỉ số tĕng trưởng tín dụng (CRD) có thể phản ánh mức độ rủi ro mà các ngân hàng gánh chịu, từ đó biểu thị khả nĕng phát triển bền vững và lành mạnh của hệ thống tài chính trong tương lai. Theo Vũ Hải Yến (2016), biến độc lập được chia thành 03 nhóm biến; trong đó: (i) Nhóm biến đại diện cho chính sách tiền tệ bao gồm tỷ lệ dự trữ bắt buộc (RRR) được đo bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng cho tiền gửi VNĐ không kỳ hạn và dưới 12 tháng; lãi suất tái chiết khấu (Rediscount rate – DR) là lãi suất bình quân áp dụng cho nghiệp vụ tái chiết khấu giấy tờ có giá. (ii) Nhóm biến đại diện cho chính sách an toàn vĩ mô phải kể đến bao gồm: Hệ số an toàn vốn (CAR) được đo lường bằng tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản có rủi ro; tỷ lệ dự trữ thanh khoản (Liquidity ratio – LIQ) được đo lường bằng tài sản có tính thanh khoản cao so với tổng nợ phải trả; Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi (Loan to Deposit Ratio – LDR) được đo lường bằng tổng dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi. (iii) và nhóm biến đại diện cho các biến số vĩ mô bao gồm tĕng trưởng kinh tế (GDP) và tốc độ lạm phát (CPI) chỉ số phản ánh mức thay đổi tương đối của một nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng theo thời gian. Các biến số nêu trên được thu thập dữ liệu từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán của các ngân hàng TMCP, NHNN Việt Nam và Tổng Cục Thống Kê. Trong đó, do tác động của chính sách thường có độ trễ nhất định nên mô hình sử dụng biến trễ, lấy sai phân bậc 1 (irst diffrence) của tỷ lệ DTBB (∆RRR hay DRRR), lãi suất tái chiết khấu (∆DR hay DDR). Về phía chính sách an toàn vĩ mô, các chỉ tiêu được sử dụng trong mô hình đều thuộc các quy định Thông tư số 36/TT/NHNN về tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động của ngân hàng, bao gồm: Hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR), tỷ lệ dự trữ thanh khoản (LIQ) và biến trễ của tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi (∆LDR hay DLDR). 25 Hiệu ứng của chính sách tiền tệ ... 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1. Thống kê mô tả Bảng 1: Mô tả các biến STT Chỉ tiêu Giá trị trung bình Giá trị lớn nhất Giá trị nhỏ nhất 1 Tĕng trưởng tín dụng (CRD) 34,5% 423% (31%) 2 Dự trữ bắt buộc (RRR) 3,7% 8% 3% 3 Lãi suất tái chiết khấu (DDR) 6,8% 13% 4,5% 4 Lãi suất tái chiết khấubq (DR) 7,3% 12,5% 4,5% 5 Hệ số an toàn vốn (CAR) 11,7% 45,89% - 6 Tỷ số thanh khoản (LIQ) 25,54% 64,5% 6% 7 Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR) 63,57% 108,4% - 8 Tĕng trưởng GDP (GDP) 5,9% 6,78% 5,25% 9 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 9% 19,8% 0,6% 10 Số quan sát 168 Nguồn: Thu thập dữ liệu từ SBV, Tổng Cục Thống Kê, Báo cáo của các NHTM và tính toán của tác giả từ phần mềm thống kê Stata 12 4.2. Kết quả ước lượng 4.2.1. Ma trận tương quan giữa các biến Bảng 2: Ma trận tương quan giữa các biến CRD DRRR DDR CAR LIQ DLDR GDP CPI CRD 1,0000 DRRR -0,3923 1,0000 DDR -0,2195 0,2979 1,0000 CAR -0,1465 0,0648 -0,0224 1,0000 LIQ 0,2014 -0,2797 0,0784 -0,1144 1,0000 DLDR 0,2972 -0,1267 -0,0981 0,0121 -0,2319 1,0000 GDP 0,0130 0,5187 0,4960 -0,1026 -0,1424 -0,1145 1,0000 CPI -0,0194 -0,0113 0,6843 0,0683 0,3419 -0,1139 -0,0081 1,0000 Nguồn: Thu thập dữ liệu từ SBV, Tổng Cục Thống Kê, Báo cáo của các NHTM và tính toán của tác giả từ phần mềm thống kê Stata 12 Dựa vào bảng phân tích tương quan nêu trên, ta có thể nhận xét như sau: CRD tương quan nghịch biến (-) với DTBB (DRRR) và lãi suất tái chiết khấu (DDR) (2 biến có trễ - hàm ý độ trễ chính sách), hệ số an toàn vốn (CAR) và lạm phát (CPI). Tuy nhiên, CRD 26 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật tương quan đồng biến (+) với chỉ tiêu thanh khoản (LIQ), chỉ tiêu cho vay trên tiền gửi (LDR), GDP (tĕng trưởng kinh tế). 4.2.2. Xác định các yếu tố tác động đến tĕng trưởng tín dụng (CRD) • Lựa chọn mô hình Pooled OLS hoặc FEM Bài nghiên cứu sử dụng kiểm định F để lựa chọn giữa mô hình FEM và Pool OLS, với giả thiết H0 là không có tương quan giữa các biến giải thích và thành phần ngẫu nhiên (Mô hình Pool OLS là phù hợp). Và giả thiết đối H1: có tương quan giữa các biến giải thích và thành phần ngẫu nhiên (Mô hình FEM là phù hợp). Thông qua kiểm định F – test, với mức ý nghĩa 10%; ta có Prob > F = 0,082 < 10% nên bác bỏ giả thuyết H0 đồng nghĩa với việc chọn mô hình FEM.• Lựa chọn mô hình FEM hoặc REM Bài nghiên cứu sử dụng kiểm định Hausman để lựa chọn mô hình với giả thiết H0 là không có tương quan giữa các biến giải thích và thành phần ngẫu nhiên (mô hình REM là phù hợp). Và giả thiết đối H1: có tương quan giữa các biến giải thích và thành phần ngẫu nhiên (mô hình FEM là phù hợp). Ta có: Prob > chi2 = 0,9778 nên chưa đủ cơ sở để bác bỏ H0 hay lựa chọn mô hình REM.• Lựa chọn mô hình REM và OLS Bài nghiên cứu sử dụng kiểm định Lagrangian multiplier với giả thiết H0 là lựa chọn mô hình Pool OLS và giả thiết đối là H1: lựa chọn mô hình REM. Với mức ý nghĩa 10%, ta có Prob > chibar2 = 0,082 < 10% nên bác bỏ H0 đồng nghĩa với việc chọn mô hình REM. 4.2.3. Kiểm tra hiện tượng tự tương quan, phương sai thay đổi và đa cộng tuyến• Kiểm định đa cộng tuyến Cĕn cứ theo bảng 4 trong bài nghiên cứu này thì mô hình hồi quy lựa chọn như trên không có hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng do các hệ số tương quan có giá trị lớn nhất là 0,68 vẫn nhỏ hơn 0,8 (chuẩn so sánh theo Farrar & Glauber (1967)).• Kiểm định phương sai thay đổi Đối với mô hình lựa chọn là REM nên trên, bài nghiên cứu sử dụng kiểm định Lagrange multiplier (Breusch, T., và A. Pagan. 1980) cho mô hình REM. Kết quả kiểm định như sau: Bảng 3: Kiểm định phương sai thay đổi Kết quả kiểm định Diễn giải Random Effects, One Sided ALM(Var(u)=0) = -0.05 Pr>N(0,1) = 0.5180 Chưa đủ cơ sở để bác bỏ H0. Kết luận mô hình không bị phương sai sai số thay đổi. Serial Correlation ALM(lambda=0) = 5.14 Pr>chi2(1) = 0.0233 < 5% Bác bỏ H0 với mức ý nghĩa 5%. Kết luận mô hình bị tự tương quan. Nguồn: Thu thập dữ liệu từ SBV, Tổng Cục Thống Kê, Báo cáo của các NHTM và tính toán của tác giả từ phần mềm thống kê Stata 12 27 Hiệu ứng của chính sách tiền tệ ... 4.2.4. Kết quả mô hình nghiên cứu Bảng 4: Mô hình hồi quy FGLS Hồi quy bằng phương pháp FGLS Với biến phụ thuộc là CRD, sau khi sử dụng phương pháp FGLS để khắc phục hiện tượng tự tương quan và hiện tượng phương sai thay đổi, mô hình có ý nghĩa ở mức ý nghĩa 1% (do Prob = 0,0000) nên kết quả mô hình phù hợp. CRD Coef. Std. Err z P>|z|∆RRR -6,5454 0,9019 -7,26*** 0,000∆DR -4,2704 0,6512 -6,56*** 0,000 CAR -0,4402 0,1619 -2,72*** 0,007 LIQ 0,7301 0,1785 4,09*** 0,000∆LDR 0,7408 0,0760 9,74*** 0,000 GDP 27,3354 3,1862 8,58*** 0,000 CPI 1,4979 0,4380 3,42*** 0,001 Hệ số chặn -1,6629 0,2163 -7,69*** 0,000 Các ký hiệu ***, **, * tương ứng là mức ý nghĩa 1%, 5%, 10% Nguồn: Thu thập dữ liệu từ SBV, Tổng Cục Thống Kê, Báo cáo của các NHTM và tính toán của tác giả từ phần mềm thống kê Stata 12 Vậy, kết quả mô hình nghiên cứu có phương trình như sau: CRD = –1,66 – 6,545*∆RRR – 4,27*∆ DR – 0,44*CAR + 0,730*LIQ + 0,741*∆ LDR + 27,335*GDP + 1,498*CPI + εit 4.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu Mô hình đánh giá sự tác động của các chính sách đối với tĕng trưởng tín dụng CRD = – 1,67 – 6,55*∆RRR – 4,27*∆DR – 0,44* CAR + 0,73*LIQ + 0,74*∆ LDR + 27,34*GDP + 1,49*CPI + εit Thứ nhất, tác động của tĕng trưởng kinh tế (GDP), chỉ tiêu lạm phát (CPI) có tác động cùng chiều đến tĕng trưởng tín dụng (CRD) với mức ý nghĩa thống kê 1%. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm phù hợp với cơ sở lý thuyết về cung tiền và lạm phát (Milton Friedman). Về mặt lý thuyết cung tiền và lạm phát tĕng trưởng kinh tế đã chứng minh rằng trong dài hạn, GDP thực tĕng trưởng như là kết quả của các nhân tố bên cung trong nền kinh tế, như tiến bộ kỹ thuật, tích lũy vốn, và mức độ và chất lượng của lực lượng lao động. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cho thấy lạm phát gia tĕng là hệ quả của tĕng trưởng kinh tế có tác động ngược trở lại đối với cung tín dụng.Tĕng trưởng kinh tế kéo theo sự gia tĕng của lạm phát đã tác động đến tĕng trưởng tín dụng tại các NHTM (Lê Tấn Phước, 2016). Kết quả nghiên cứu cho thấy tĕng trưởng kinh tế có tác động đến tĕng trưởng tín dụng tương đồng với kết quả nghiên cứu của Lê Thị Mận và cộng sự (2012) và Nguyễn Minh Sáng (2014). Thứ hai, DTBB (RRR), lãi suất tái chiết khấu (DR) và tĕng trưởng tín dụng (CRD) có tác động ngược chiều nhau với mức ý nghĩa thống kê 1%. Về chính sách tiền tệ, tỷ lệ DTBB (RRR) 28 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật và lãi suất tái chiết khấu (DR) là những công cụ được lựa chọn để phản ánh tác động của chính sách đến sự ổn định tài chính. Theo Federico và cộng sự (2012), tỷ lệ DTBB là một công cụ đặc biệt hữu ích trong chính sách “phản chu kỳ”1 tại các quốc gia đang phát triển trong trường hợp những quốc gia này thường không sẵn sàng sử dụng công cụ lãi suất do lo ngại những tác động của công cụ này đến sự ổn định tỷ giá và dòng vốn đầu tư. Ngoài ra đây cũng là biện pháp có tác động mạnh nên thường được sử dụng để ổn định thị trường trong những tình huống cấp thiết. Trong giai đoạn 2007 - 2010, NHNN Việt Nam đã sử dụng rất linh hoạt công cụ này để kiềm chế lạm phát và ngĕn ngừa cuộc chạy đua tín dụng trong hệ thống NHTM. Bên cạnh tỷ lệ DTBB, lãi suất tái chiết khấu (DR) cũng đã được NHNN Việt Nam sử dụng tối đa, liên tục điều chỉnh với chiều hướng mạnh và quyết liệt trong khoảng thời gian tín dụng tĕng trưởng nóng và lạm phát leo thang, việc thay đổi lãi suất điều hành của NHNN sẽ tác động đến sản lượng và giá cả theo bốn kênh chủ yếu: lãi suất thị trường, tín dụng, giá tài sản và tỷ giá (Trần Thị Thùy Anh, (2014)). Về mặt lý thuyết, khi tĕng DTBB các NHTM bị thắt chặt lượng vốn tín dụng cung ứng ra thị trường. Đối với công cụ lãi suất tái chiết khấu khi tĕng lãi suất lên, các NHTM không thể vay NHTW một cách dễ dàng, buộc họ phải giảm bớt khả nĕng cung ứng tín dụng. Hơn nữa, khi chi phí đi vay tại NHTW tĕng lên, các NHTM sẽ dần dần tĕng lãi suất cho vay, dẫn đến nhu cầu tín dụng giảm xuống. Như vậy, hai công cụ này cũng đã phát huy được hiệu quả trong việc hạn chế tĕng trưởng tín dụng nóng và khuyến khích tính tự chủ 1 Chính sách phả chu kỳ (counter-cyclical policy) là những chính sách vận động ngược chiều với chu kỳ chung của nền kinh tế, điển hình như thắt chặt tài khóa và tiền tệ trong điều kiện nền kinh tế đang tĕng trưởng quá nóng và nới lỏng khi nền kinh tế suy thoái. của các NHTM trong việc huy động. Do tác động của chính sách thường có độ trễ nhất định nên mô hình sử dụng biến trễ của tỷ lệ DTBB và lãi suất tái chiết khấu bằng cách lấy sai phân bậc 1 (irst difference). Thứ ba, hệ số an toàn vốn (CAR) và tĕng trưởng tín dụng (CRD) có mối quan hệ nghịch biến với mức ý nghĩa thống kê 1%. Hệ số CAR phản ánh nĕng lực tài chính và khả nĕng xử lý các loại rủi ro mà NHTM có thể gặp phải trong quá trình hoạt động. Vì vậy các NHTM đều nỗ lực cải thiện hệ số này để gia tĕng chất lượng quản trị rủi ro và vị thế trên thị trường. Những ngân hàng bảo đảm hệ số CAR ở mức cao sẽ tạo ra một tấm đệm chống đỡ trước những cú sốc tài chính, có khả nĕng bảo đảm an toàn hoạt động cũng như bảo vệ cho người gửi tiền. Tuy nhiên thực chất tấm đệm chống đỡ này không thực sự bảo vệ người gửi tiền trước các rủi ro đổ vỡ của ngân hàng hay hệ số CAR không có ý nghĩa nhiều trong thời điểm hiện nay (Nguyễn Đức Trung và nhóm nghiên cứu, 2012). Trong thực tế giai đoạn 2008 – 2015 cho thấy nhóm NHTM Nhà Nước (chiếm hơn 46% thị phần tín dụng) phải triển khai nhiều chương trình, chính sách của Chính Phủ, ưu đãi về mặt lãi suất nên khả nĕng sinh lời thấp, từ đó thiếu nguồn lực để tĕng vốn. Thêm vào đó là tình trạng thâm hụt ngân sách buộc các NHTM Nhà nước phải nộp cổ tức phần vốn Nhà nước về Ngân sách dẫn đến tiềm lực về tĕng vốn càng trở nên nan giải (Nguyễn Trí Hiếu, 2016). Một nguyên nhân nữa là trong bối cảnh hiện nay các ngân hàng trên thế giới và trong khu vực đang hướng đến các tiêu chuẩn Basel III, theo đó các NHTM Việt Nam cũng đang tiệm cận với Basel II, tiến hành áp dụng nhiều biện pháp (Thông tư 02, Thông tư 09 nhằm phản ánh nợ và trích lập dự phòng rõ ràng hơn, thúc đẩy quá trình xử 29 Hiệu ứng của chính sách tiền tệ ... lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng; Thông tư 36/2014/TT-NHNN quy định các tiêu chuẩn về an toàn hoạt động của hệ thống tiến gần hơn với thông lệ quốc tế) nên vừa làm giảm vốn tự có và làm tĕng tài sản có rủi ro từ đó tác động tiêu cực đến CAR (Trần Bắc Hà, 2016). Trong khi đó theo Thông tư số 06/2016/TT – NHNN, điểm dừng hiện tại cho hoạt động giám sát ngân hàng hướng đến chuẩn mực Basel II mà NHNN đang theo đuổi (Châu Đình Linh, 2016) thì hệ số CAR trước áp lực tĕng vốn buộc phải nâng tử số (vốn tự có) nhưng không được để mẫu số (tài sản “có” rủi ro) tĕng theo. Sự khác biệt giữa chính sách và thực tế thực hiện làm cho hệ số CAR ít có ý nghĩa áp dụng tại Việt Nam. Thứ tư, tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi (LDR) có tác động cùng chiều (+) đến tĕng trưởng tín dụng với mức ý nghĩa thống kê 1%. Kết quả này cho thấy những ngân hàng có LDR cao là những ngân hàng tĕng trưởng tín dụng mạnh. Mục đích LDR được sử dụng là để giới hạn mức tĕng trưởng tín dụng dựa trên nguồn vốn huy động, hạn chế sự chênh lệch giữa kỳ hạn của tài sản và nguồn vốn, qua đó tĕng cường các điều kiện bảo đảm an toàn hoạt động. Tuy nhiên, khi quy định về LDR tối đa 80% bắt đầu được áp dụng từ thông tư số 13/2010/TT-NHNN, nhiều NHTM đã gặp khó khĕn trong việc duy trì lợi nhuận và khai thông dòng vốn do sự gia tĕng của nguồn vốn dư thừa không có khả nĕng sinh lời. Bên cạnh đó, quy định này cũng gây nhiều tranh cãi về một cách thức tính toán thống nhất chung cho hệ thống. Chính vì vậy, NHNN đã phải bãi bỏ quy định này trong Thông tư số 22/2011/TT- NHNN và mới áp dụng trở lại trong Thông tư số 36/2014/TT-NHNN. Thực tế giai đoạn 2007-2014 cũng cho thấy nhiều NHTM có LDR cao hơn mức 80%, trong đó những NHTM cổ phần là nhóm thường vi phạm với những thời điểm LDR lên đến hơn 100% đi kèm với mở rộng tín dụng 30% - 40%/nĕm. Như vậy, LDR chưa thực sự là một chỉ tiêu hiệu quả để thúc đẩy các ngân hàng nâng cao chất lượng quản trị rủi ro nhằm bảo đảm an toàn sử dụng vốn. Dư nợ tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục tài sản của ngân hàng, hoạt động này thường chiếm khoảng 60% - 80% tổng tài sản của NHTM, cho nên thu nhập từ tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu nhập của các NHTM. Tốc độ tĕng trưởng tín dụng của các NHTM có chiều hướng sụt giảm so với giai đoạn trước 2012 và tĕng trở lại trong nĕm 2015, khoản mục cho vay của các NHTM chiếm tỷ trọng cao chủ yếu là bất động sản có nguy cơ gây rủi ro thanh khoản cho ngân hàng. Thứ nĕm, tác động của tỷ lệ dự trữ thanh khoản (LIQ) và tĕng trưởng tín dụng (CRD) là cùng chiều với mức ý nghĩa thống kê 1%. Về mặt lý thuyết, các ngân hàng có tỷ lệ dự trữ thanh khoản cao đồng nghĩa với việc các ngân hàng nắm giữ nhiều tài sản có tính lỏng cao để có thể nhanh chóng chuyển đổi sang tiền mặt khi cần thiết, tạo một khoản đệm vốn tốt đảm bảo cho các NHTM trước các rủi ro tín dụng. Điều này đồng nghĩa với việc các NHTM có tỷ lệ tài sản thanh khoản cao sẽ đặt mục tiêu tĕng trưởng tín dụng vì mục tiêu lợi nhuận (Lê Tấn Phước (2016)). 5. KẾT LUẬN Đầu tiên, mô hình cho thấy công cụ tỷ lệ DTBB (RRR) và lãi suất tái chiết khấu (DR) đã phát huy hiệu quả trong việc hạn chế tĕng trưởng tín dụng góp phần vào sự ổn định tài chính. Thứ hai, công cụ tỷ lệ dự trữ thanh khoản (LIQ) chưa tác động hiệu quả đối với 30 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật biến phụ thuộc (CRD), mặc dù thông tư số 36/2014/TT – NHNN được ban hành, sửa đổi bởi thông tư 06/2016/TT – NHNN quy định chi tiết hơn cách thức tính toán và đo lường đối với chỉ tiêu này nhưng tình hình thực tế áp dụng tại một số NHTM chưa triệt để tiềm ẩn nguy cơ rủi ro trong hệ thống ngân hàng. Đặc biệt theo Nguyễn Vĕn Tiến (2010), nguyên nhân khiến cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro thanh khoản thường xuyên là huy động và đi vay vốn thời gian ngắn, sử dụng phương thức tuần hoàn để cho vay dài hơn nhưng có thể xảy ra rủi ro không trùng khớp về kỳ hạn đến hạn giữa tài sản có và tài sản nợ. Điều này đã được hạn chế khi gần đây thông tư 39/2016/TT-NHNN có hiệu lực đã ban hành các quy định cho vay chặt chẽ hơn và có điều kiện khi áp dụng. Thứ ba, tỷ lệ cho vay trên huy động tiền gửi ngắn hạn (LDR) với nguồn vốn huy động ngắn hạn bao gồm tiền gửi khách hàng và tiền huy động được từ các tổ chức tín dụng hay trên thị trường tài chính, tỷ số này càng lớn chứng tỏ ngân hàng cho vay cao hơn nhiều so với nguồn vốn huy động được. Tương quan đồng biến giữa biến số này và tĕng trưởng tín dụng đã phản ánh phần nào sự bất ổn định tài chính khi các cơ quan giám sát ngân hàng không theo dõi chặt chẽ việc tuân thủ các chỉ số an toàn hoạt động của NHTM. Cuối cùng, bài nghiên cứu cho thấy vai trò quan trọng của tác động tĕng trưởng kinh tế đến tĕng trưởng tín dụng, có thể thấy rằng để đáp ứng được mục tiêu tĕng trưởng kinh tế chịu sự ràng buộc bởi khối lượng tín dụng cung ứng vào trong lưu thông, từ đó tác động đến lạm phát. Đây cũng chính là khó khĕn của các nhà hoạch định chính sách và điều hành Chính phủ sao cho vẫn đảm bảo tĕng trưởng kinh tế nhưng không gây mất ổn định tài chính. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Angeloni, I & E Faia (2013). Capital regulation and monetary policy with fragile banks. Journal of Monetary Economics 60(3), pp. 311 –24. [2]. Bruno, V & H S Shin (2015). Cross- border banking and global liquidity. Review of Economic Studies 82(2), pp.535-64. [3]. Cesa-Bianchi, A and A Rebucci (2013). Does easing monetary policy increase inancial instability. IMF Working Paper, no WP/15/139. [4]. Claessens, S (2013). Interactions between monetary and macroprudential policies in an interconnected world. Paper prepared for the Bank of Thailand – IMF conference on Monetary Policy in an Interconnected World, Bangkok, 31 Oct – 2 Nov 2013. [5]. Lý Hoàng Ánh & Lê Thị Mận (2012). Chính sách tiền tệ. NXB Đại Học Quốc Gia TP. HCM, TP. Hồ Chí Minh. [6]. Lim, C, F Columba, A Costa, P Kongsamut, A Piyabha, A Otani, M Saiyid, T Wezel and X Wu (2011). Macroprudential policy: what instruments and how to use them? Lessons from country experiences. IMF Working Paper, no 11 – 238. [7]. Kim, S & Mehrotra, A (2016). Maintaining price and inancial stability by monetary and macroprudential policy – evidence from Asia and the Paciic. Bis Working Papers, no 88, pp. 17 – 28. [8]. Kim, S & Mehrotra, A (2016a). Effects of monetary and macroprudential policies – evidence from four inlation targeting economies. mimeo. [9]. Kim, S & Mehrotra, A (2016b). 31 Hiệu ứng của chính sách tiền tệ ... Managing price and inancial stability objectives in inlation targeting economies in Asia and the Paciic. mimeo. [10]. Kuttner, K N and I Shim (2013). Can non-interest rate policies stabilise housing markets? Evidence from a panel of 57 economies. BIS Working Papers, no 433. [11]. Nguyễn Đức Trung và nhóm nghiên cứu (2012). Bức tranh toàn cảnh hoạt động ngân hàng nĕm 2012 và một số khuyến nghị chính sách nĕm 2013. Hội thảo khoa học, Học viên Ngân hàng. [12] . Nguyễn Thị Thu Hương và Nguyễn Khánh Linh (2014). Mối quan hệ giữa chính sách an toàn vĩ mô và chính sách tiền tệ tại Việt Nam – Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị chính sách. Công trình nghiên cứu khoa học sinh viên, Học viện Ngân hàng. [13] . Shim, I, B Bogdanova, J Shek and A Subelyte (2013). Database for policy actions on housing markets. Bis Quarterly Review, Sept, pp. 83 – 95. [14]. Shin, H S (2015). Macroprudential tools, their limits and their connection with monetary policy. Panel remarks at IMF Spring Meeting event: Rethinking macro policy III: progress or confusion?, Washington, DC, 15 April 2015. [15]. Smets, F (2014). Financial stability and monetary policy: how closely interlinked?. International Journal of Central Banking 10(2), pp. 263–300. [16]. Tinbergen, J., 1952. On the theory of economic policy. Amsterdam: North Holland. [17]. Ueda, K and Valencia (2014). Central bank independence and macro-prudential regulation. Economic Letters 125, pp. 327- 330. [18]. Vũ Hải Yến (2016). Đánh giá hiệu quả chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam. Tạp Chí Ngân Hàng, số 20.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf34_452_2136169.pdf
Tài liệu liên quan