Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 313
HIỆU QUẢ NGẮN HẠN CỦA BÀI GIẢNG 
“PHƯƠNG PHÁP VẬN DỤNG THÔNG TIN TRONG CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG” 
Ở SINH VIÊN Y5 – ĐẠI HỌC Y KHOA PHẠM NGỌC THẠCH 
Nguyễn Thị Bích Duyên*, Võ Ngọc Thủy Tiên*, Võ Thành Liêm* 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Phát triển kỹ năng biện luận lâm sàng trong đào tạo y khoa đang nhận được sự quan tâm tại 
nhiều quốc gia phát triển. Nội dung này đang được giới thiệu vào Việt Nam và cần các đánh giá phù hợp. 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả bài giảng “phương pháp vận dụng thông tin trong chẩn đoán lâm sàng” ở 
sinh viên y khoa năm 5 tại trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch. 
Phương pháp nghiên cứu: Can thiệp bắt chéo với nhóm chứng tự thân. Sử dụng 2 tình huống lâm sàng giả 
định với 6 nhóm thông tin, với 11 giả thuyết chẩn đoán khác nhau. Bài giảng phương pháp luận được giới thiệu 
và lượng giá hiệu quả ngắn hạn. 
Kết quả: Có 101 sinh viên tham gia. Kết quả cho thấy sinh viên tập trung sử dụng thông tin nhóm cơ chế 
bệnh sinh và diễn tiến bệnh để chẩn đoán; nhóm thông tin về dịch tễ người bệnh ít được sử dụng. Sinh viên còn 
bị ảnh hưởng bởi thông tin vô ích và thông tin gây nhiễu dẫn đến sai trong chẩn đoán. Bài giảng đã chứng minh 
nâng cao khả năng phát hiện thông tin gây nhiễu nhưng lại làm xấu hơn khả năng sử dụng thông tin dịch tễ. 
Kết luận: Góp phần mô tả đặc điểm vận dụng thông tin của sinh viên, đồng thời khẳng định vai trò của bài 
giảng phương pháp luận. 
Từ khóa: thông tin vô ích, thông tin gây nhiễu, phương pháp luận 
ABSTRACT 
INTRODUCTION OF CLINICAL REASONING THEORY APPLIED IN INTERNSHIP FOR 5TH YEAR 
MEDICAL STUDENTS AT PHAM NGOC THACH MEDICAL UNIVERSITY 
Nguyen Thi Bich Duyen, Vo Ngoc Thuy Tien, Vo Thanh Liem 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 3- 2019: 313-321 
Background: Clinical reasoning is considered as one of key competencies of medical training in developed 
countries. The theory of clinical reasoning has recently been introduced in Vietnam. However, research in this 
field is still in need. 
Objective: To assess the effective of “Application of clinical reasoning theory in clinical practice” for 5th year 
medical students at Pham Ngoc Thach medical university. 
Methodology: An interventional crossover-study with self-control group. We used 2 clinical scenarios, with 
examples of 6 information groups for each scenario, students were asked to do a multi-choice game with 11 
different diagnostical hypotheses for each new set of information. 
Results: 101 students participated. The results show that student focused mainly on over using the 
knowledge of pathophysiological mechanisms and the natural course of disease to conduct their clinical reasoning. 
Otherwise the patient’s enabling conditions was underused in diagnosis by student. Further, the useless 
information and confounding information still effected strongly the student’s reasoning which explains the 
*Bộ môn Y học Gia Đình, Trường Đại học Y khoa, Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: TS.BS. Võ Thành Liêm ĐT: 093214893 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 314
important error interferences in the diagnosis. The lecture showed a short-term improvement of students’ ability 
to detect confounding informations but worsen their ability to use patient’s enabling conditions. 
Conclusion: Study showed out how medical students use clinical data on their diagnosis and supported the 
future development of clinical reasoning training. 
Keywords: useless information, confounding information, clinical reasoning training 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tư duy lý luận được định nghĩa như là tiến 
trình giải quyết vấn đề trên cơ sở tư duy phản 
biện trong mối tương quan với bối cảnh, phương 
thức giải quyết và kiến thức(11,14). Trong thực 
hành y khoa, khả năng tư duy được thể hiện qua 
việc thực hiện hiệu quả chẩn đoán bệnh theo 
nghĩa hẹp hoặc thực hiện quyết định lâm sàng 
phù hợp theo nghĩa rộng. Khả năng này không 
phải chỉ dựa vào năng lực tự nhiên sẳn có - thiên 
phú. Mà quan trọng là kỹ năng cần được trao 
dồi, phát triển thông qua đào tạo thích hợp, có 
nền tảng kiến thức và thực hành bài bản(1). 
Việc phát triển năng lực biện luận lâm sàng 
nhận được sự quan tâm trong sư phạm y học từ 
3 thập niên vừa qua(10). Trong đó, phương pháp 
luận lâm sàng được xem là một trong những kỹ 
năng nền tảng của người thực hành lâm sàng; 
được đưa vào giảng dạy tại nhiều trường đại 
học y khoa trên thế giới; được sử dụng như tiêu 
chí đánh giá chất lượng đào tạo và chuẩn hành 
nghề chuyên môn(5,10). Các nghiên cứu đã chỉ ra 
được hiệu quả của việc giới thiệu chương trình 
học về phương pháp luận lâm sàng giúp cải 
thiện chất lượng đầu ra(4,5), phát triển kỹ năng 
giải quyết vấn đề lâm sàng(9) hướng đến nâng 
cao chất lượng đào tạo y khoa(1,3,13). 
Tại Việt Nam, việc phát triển kỹ năng biện 
luận lâm sàng cho sinh viên y khoa được thực 
hiện lồng ghép thông qua việc phân tích ca bệnh 
nhưng vẫn chưa có chương trình học hoàn chỉnh 
về mặt phương pháp luận. Tại Trường Đại Học 
Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, trong thời gian qua, 
bài giảng về phương pháp luận đã được giới 
thiệu từng phần vào trong chương trình đào tạo 
đại học và sau đại học, góp phần xây dựng năng 
lực cho sinh viên-học viên. Tuy nhiên, nghiên 
cứu về phương pháp luận chưa nhiều, đưa đến 
thiếu thông tin trong định hướng phát triển môn 
học này. Trong bối cảnh đó, chúng tôi thực hiện 
nghiên cứu đánh giá hiệu quả bài giảng về 
phương pháp vận dụng thông tin trong biện 
luận lâm sàng, nằm trong loạt bài về phương 
pháp luận y khoa, trên nhóm đối tượng sinh 
viên y khoa năm 5 của trường Đại Học Y Khoa 
Phạm Ngọc Thạch. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Mô hình nghiên cứu 
Theo y văn, thông tin giúp chẩn đoán lâm 
sàng (illness cripts, sau đây sẽ sử dụng vắn tắt là 
thông tin) có thể được chia thành 4 nhóm chính: 
đặc điểm lâm sàng – cận lâm sàng, đặc điểm liên 
quan đến dịch tễ của người bệnh, đặc điểm liên 
quan đến cơ chế bệnh sinh và đặc điểm liên 
quan đến diễn tiến của bệnh(6,7). Việc phân loại 
này chưa bao quát các nhóm thông tin không 
giúp cho chẩn đoán. Do vậy, trong nghiên cứu 
này, chúng tôi bổ sung thêm 2 nhóm thông tin 
khác: thông tin không giúp ích chẩn đoán 
(không có vai trò thay đổi quyết định chẩn đoán) 
và thông tin gây nhiễu (làm thay đổi quyết định 
chẩn đoán theo hướng lệch xa chẩn đoán đúng). 
Để đánh giá khả năng vận dụng thông tin 
của sinh viên, chúng tôi sử dụng 2 tình huống 
lâm sàng giả định tượng trưng với danh sách 
chẩn đoán khả dĩ hằng định. Theo đó, thông tin 
được giới thiệu theo thứ tự từng bước (Bảng 1). 
Tương ứng với mỗi bước, với sự xuất hiện của 
thông tin mới, sinh viên sẽ được yêu cầu cho ý 
kiến chọn/không chọn với từng chẩn đoán khả 
dĩ (cùng lúc có thể có nhiều chẩn đoán được 
chọn). Ý kiến đánh giá của sinh viên sẽ được ghi 
nhận sau mỗi bước và họ không thể thay đổi lại 
ý kiến đã đánh giá trước đó. 
Mức độ vận dụng thông tin vào chẩn đoán 
được đánh giá thông qua việc ghi nhận sự thay 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 315
đổi ý kiến-chẩn đoán giữa các bước (từ chọn 
chuyển thành không chọn và ngược lại). Tổng số 
ý kiến thay đổi được ghi nhận tương ứng cho 
mỗi người. Sự thay đổi ý kiến càng nhiều giữa 
mỗi bước cho thấy mức độ ảnh hưởng-vận dụng 
thông tin ở bước đó càng nhiều. 
Để đánh giá mức độ ảnh hưởng của bài 
giảng phương pháp luận lên việc vận dụng 
thông tin trong chẩn đoán, chúng tôi sử dụng 
mô hình nghiên cứu can thiệp đánh giá so sánh 
trước-sau với nhóm chứng tự thân. Bài giảng có 
nội dung tập trung vào 2 chủ đề chính: 1-giới 
thiệu khái quát hóa về tầm quan trọng của 
nghiên cứu phương pháp luận trong củng cố 
năng lực chẩn đoán bệnh, 2- các nhóm thông tin 
sử dụng trong chẩn đoán lâm sàng được phân 
theo mô hình 4 nhóm(6) và 2 nhóm mở rộng. Bài 
giảng và báo cáo viên không đề cập bất kỳ bệnh 
lý cụ thể, không liên quan đến tình huống lâm 
sàng giả định trong phần lượng giá. Thời lượng 
báo cáo bài giảng là 60 phút. 
Để loại bỏ các yếu tố gây nhiễu liên quan 
đến tình huống lâm sàng, chúng tôi sử dụng 
mô hình nghiên cứu chéo crossover-study 
(Lược đồ 1). Các yếu tố ảnh hưởng đến khả 
năng vận dụng thông tin của sinh viên trong 
nghiên cứu này được khái quát hóa (Lược đồ 
2). Với mô hình phân tích này, chúng tôi có thể 
tách được phần thông tin liên quan đến năng 
lực vận dụng thông tin của sinh viên và hiệu 
quả của bài giảng. 
Cách thức thực hiện 
Sinh viên khoa y năm 5 hệ chính qui bác sĩ 
đa khoa niên khóa 2012-2017 được mời tham gia 
nghiên cứu một cách tự nguyện. Mẫu khảo sát là 
100 sinh viên đến đăng ký đầu tiên. Mỗi sinh 
viên được nhận 50.000 đồng bồi dưỡng cho việc 
tham gia khảo sát. Kinh phí nghiên cứu được 
trích từ quĩ hỗ trợ nghiên cứu của Viện hàn lâm 
về nghiên cứu và đào tạo chuyên sâu của Hội 
đồng đại học vì sự phát triển - vương quốc Bỉ 
(Académie de Recherche et d’Enseignement 
supérieur - Commission Universitaire pour le 
Développement). 
Mẫu khảo sát sẽ được phân ngẫu nhiên đơn 
thuần thành 2 nhóm 1 và 2. Cả hai nhóm sẽ tham 
gia cho ý kiến chẩn đoán với các tình huống lâm 
sàng tương ứng, sau đó sẽ cùng theo dõi bài 
giảng và sẽ tham gia cho ý kiến lần nữa cho tình 
huống lâm sàng hoán chuyển (Lược đồ 1). Mỗi 
tình huống sẽ có 6 bước thực hiện. Ứng với mỗi 
bước sẽ có 1 thông tin được giới thiệu thêm. Sinh 
viên cho ý kiến chọn/không chọn chẩn đoán 
tương ứng với danh sách gợi ý. Các ý kiến sẽ 
được ghi nhận và không thể hiệu chỉnh thông 
qua biểu mẫu khảo sát trực tuyến Google form. 
Bảng 1: Thông tin và thứ tự giới thiệu tương ứng 
với từng tình huống 
Bước và nhóm 
thông tin 
Tình huống ho 
(A) 
Tình huống đau 
đầu (B) 
Lâm sàng – cận 
lâm sàng 
Có bị ho Có đau đầu 
B1 = Diễn tiến của 
bệnh 
Từ 2 ngày nay Tái xuất hiện nhiều 
lần 
B2 = Dịch tễ của 
người bệnh 
BN nam, 74 tuổi BN nữ, 57 tuổi 
B3 = Cơ chế bệnh 
sinh 
Kèm sốt Đau nhiều vùng 
chẩm – đỉnh 
B4 = Thông tin vô 
ích 
Nhà có nuôi chim Gia đình không ghi 
nhận gì lạ 
B5 = Thông tin gây 
nhiễu 
X quang phổi có 
bóng tim to 
Đang điều trị thuốc 
tăng huyết áp 
Phân tích số liệu 
Ứng với mỗi bước thêm thông tin, sẽ có 11 
giả thuyết chẩn đoán khác nhau. Từng giả 
thuyết chẩn đoán có 2 kết quả khả dĩ là “chọn” 
và “không chọn”. Điều quan tâm của nghiên 
cứu là xem xét sự thay đổi ý kiến trước và sau 
khi có thông tin. Do có 11 khả năng trả lời, sẽ có 
tối đa 11 khả năng thay đổi ý kiến. Nếu n là số ý 
kiến thay đổi ở mỗi bước. Chỉ số này sẽ tuân 
theo qui luận phân phối nhị thức (binomial) với 
2 tham số với π là xác suất nhị thức thay đổi ý 
kiến và N=11 tương ứng với 11 giả thuyết chẩn 
đoán. 
Trong đó, π là xác suất nên có giá trị phân bố 
trong khoảng từ 0-1. Chỉ số này thay đổi tương 
ứng với các yếu tố ảnh hưởng tương ứng với 
tình huống i (A và B) và thông tin j (6 nhóm 
thông tin). Do vậy có thể khái quát hóa phương 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 316
trình hồi qui thành: 
Trong đó ß đại diện cho tham số của các yếu 
tố độc lập can thiệp vào quyết định là bài giảng 
và năng lực của bản thân từng sinh viên. Do 
năng lực bản thân từng sinh viên mang tính 
ngẫu nhiên nên được phân tích ở hình thức biến 
số ngẫu nhiên (random factor). Do có 2 nhóm 
can thiệp theo mô hình chéo phối hợp cùng với 
đánh giá trước và sau can thiệp, như vậy sẽ có 
cùng lúc 4 phương trình hồi qui: 
Nhóm 1 làm tình huống A trước: f(A,j). 
Nhóm 1 làm tình huống B sau can thiệp: 
f(B,j, ßcan thiệp). 
Nhóm 2 làm tình huống B trước: f(B,j). 
Nhóm 2 làm tình huống A sau can thiệp: 
f(A,j, ßcan thiệp). 
Lược đồ 1: Mô hình nghiên cứu chéo bắt cặp đánh giá trước – sau can thiệp (crossover-study). A là tình huống 
ho, B là tình huống đau đầu 
Lược đồ 2: Các yếu tố ảnh hưởng đến vận dụng thông tin trong quyết định chẩn đoán 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 317
Các phép kiểm thống kê thường qui được 
thực hiện trên chương trình SPSS phiên bản 22.0. 
Để phân tích đồng thời các biến số độc lập và 
biến số ngẫu nhiên, chúng tôi sử dụng cách tiếp 
cận Bayesian với kỹ thuật Markov chain Monte 
Carlo (MCMC). Các thông tin chi tiết về phương 
pháp này được mô tả bằng nhiều tài liệu khác 
nhau(8,12). 
Phương trình hồi qui và kỹ thuật MCMC 
được lập trình trên chương trình Winbugs(8). 
5000 vòng lặp đầu tiên để thiết lập thông số đầu 
tiên (burn-out phase). Kết quả tính toán của 
20000 vòng lặp kế tiếp được dùng để ước lượng 
giá trị của các thông số phương trình. Để đảm 
bảo tính độc lập của các giá trị tính toán, chúng 
tôi chỉ lưu trữ kết quả sau mỗi 10 vòng tính toán. 
Nội dung chi tiết của phương trình và các thông 
số được giới thiệu trong phần phụ lục. Ngưỡng 
có ý nghĩa thống kê α = 0,05. Phép kiểm thống kê 
được sử dụng là test Z của phân bố bình thường. 
KẾT QUẢ 
Tổng cộng có 103 sinh viên Y5 tham gia 
nghiên cứu. Số liệu thu thập về có 2 trường hợp 
trả lời thiếu thông tin nhiều ở đợt khảo sát sau 
bài giảng, nên bị loại trừ khỏi mẫu. Do vậy số 
liệu được phân tích chỉ bao gồm 101 sinh viên 
(50 ở nhóm 1, 51 ở nhóm 2). 
Các Bảng 2 và 3 trình bày tỷ lệ cho ý kiến 
chọn từng chẩn đoán tương ứng với từng thông 
tin ở từng bước cho mỗi nhóm 1 và 2. Nhận định 
chung cho thấy ban đầu số ý kiến chọn rải đều 
cho các chẩn đoán, không mang tính phân biệt. 
Sau khi được cung cấp thông tin, số ý kiến bắt 
đầu thay đổi và hội tụ dần ở một số chẩn đoán 
nhất định. 
Sau khi phân tích phương trình hồi qui, 
chúng tôi tính được chỉ số π xác suất nhị thức 
của mức độ thay đổi ý kiến của sinh viên, tương 
ứng với mức độ ảnh hưởng của thông tin lên 
chẩn đoán (Bảng 4). Với 4 nhóm thông tin giúp 
chẩn đoán, riêng nhóm thông tin về lâm sàng – 
cận lâm sàng là thông tin được cung cấp ban đầu 
nên không thể phân tích được sự thay đổi ý kiến. 
3 nhóm thông tin còn lại được ghi nhận có vai 
trò ảnh hưởng làm thay đổi quyết định chẩn 
đoán của sinh viên. Trong đó nhóm cơ chế bệnh 
sinh có mức độ ảnh hưởng cao nhất với xác suất 
nhị thức là 0,265 đối với tình huống ho và 0,234 
đối với tình huống đau đầu. 
Bảng 2: Tỷ lệ % chọn chẩn đoán tương ứng với từng thông tin được giới thiệu ở từng bước ở nhóm 1 (50 sinh 
viên) 
A: Trước 
bài giảng 
viêm 
phổi 
viêm 
phế 
quản 
lao phổi COPD Ung 
thư 
phổi 
Tăng 
áp 
phổi 
Hen 
phế 
quản 
Trào ngược dạ 
dày thực quản 
Viêm 
màng 
phổi 
Suy tim Tâm lý 
B.1 92,0 100,0 100,0 94,0 80,0 48,0 76,0 90,0 60,0 68,0 92,0 
B.2 88,0 96,0 46,0 44,0 28,0 28,0 56,0 78,0 60,0 38,0 76,0 
B.3 98,0 80,0 62,0 84,0 74,0 42,0 46,0 70,0 56,0 72,0 60,0 
B.4 100,0 74,0 62,0 40,0 34,0 4,0 6,0 12,0 62,0 14,0 16,0 
B.5 86,0 70,0 34,0 38,0 18,0 6,0 54,0 10,0 42,0 14,0 12,0 
B.6 68,0 44,0 28,0 52,0 22,0 40,0 28,0 6,0 24,0 78,0 16,0 
B: Sau 
bài giảng 
Đau đầu 
căng cơ 
Đau 
đầu 
cluster 
Đau đầu 
migrain 
Đau 
đầu 
horton 
Tăng 
huyết 
áp 
Tăng 
nhãn 
áp 
Viêm 
màng 
não 
viêm xoang U não Viêm thần 
kinh tam 
thoa 
Thoái hóa 
cột sống 
cổ 
B.1 94,0 92,0 94,0 86,0 94,0 86,0 92,0 94,0 92,0 86,0 76,0 
B.2 46,0 58,0 82,0 46,0 70,0 36,0 8,0 80,0 78,0 32,0 72,0 
B.3 48,0 44,0 88,0 38,0 76,0 30,0 10,0 72,0 64,0 34,0 68,0 
B.4 30,0 24,0 66,0 12,0 42,0 14,0 12,0 22,0 48,0 20,0 28,0 
B.5 28,0 18,0 58,0 12,0 44,0 6,0 8,0 20,0 46,0 12,0 32,0 
B.6 24,0 14,0 48,0 10,0 72,0 6,0 2,0 12,0 36,0 10,0 20,0 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 318
Bảng 3: Tỷ lệ % chọn chẩn đoán tương ứng với từng thông tin được giới thiệu ở từng bước ở nhóm 2 (51 sinh 
viên) 
B: Trước 
bài giảng 
Đau đầu 
căng cơ 
Đau 
đầu 
cluster 
Đau đầu 
migrain 
Đau 
đầu 
horton 
Tăng 
huyết 
áp 
Tăng 
nhãn 
áp 
Viêm 
màng 
não 
viêm xoang U não Viêm thần 
kinh tam 
thoa 
Thoái hóa 
cột sống 
cổ 
B.1 89,8 65,3 104,0 57,1 91,8 71,4 95,9 95,9 87,7 73,4 36,7 
B.2 61,2 49,0 97,9 30,6 85,7 30,6 20,4 87,7 79,6 32,6 38,8 
B.3 53,0 28,6 97,9 24,5 79,6 36,7 14,3 81,6 71,4 40,8 42,8 
B.4 38,8 20,4 73,4 18,4 61,2 8,2 14,3 26,5 67,3 20,4 24,5 
B.5 36,7 16,3 75,5 14,3 63,2 6,1 10,2 28,6 65,3 16,3 18,4 
B.6 28,6 12,2 57,1 6,1 79,6 10,2 8,2 26,5 51,0 14,3 14,3 
A: Sau 
bài giảng 
viêm 
phổi 
viêm 
phế 
quản 
lao phổi COPD Ung 
thư 
phổi 
Tăng 
áp 
phổi 
Hen 
phế 
quản 
Trào ngược dạ 
dày thực quản 
Viêm 
màng 
phổi 
Suy tim Tâm lý 
B.1 95,9 97,9 95,9 93,8 85,7 81,6 79,6 91,8 75,5 79,6 91,8 
B.2 87,7 97,9 32,6 30,6 12,2 55,1 51,0 69,4 67,3 36,7 79,6 
B.3 93,8 77,5 28,6 55,1 49,0 38,8 36,7 55,1 49,0 61,2 55,1 
B.4 97,9 79,6 30,6 22,4 24,5 2,0 10,2 8,2 63,2 4,1 6,1 
B.5 93,8 75,5 18,4 14,3 18,4 4,1 38,8 4,1 40,8 8,2 6,1 
B.6 69,4 38,8 10,2 32,6 6,1 30,6 26,5 0,0 16,3 75,5 2,0 
Bảng 4: Xác suất nhị thức về mức độ thay đổi ý kiến chẩn đoán tương ứng với từng thông tin ở từng bước. 
 Tình huống ho Tình huống đau đầu Bài giảng về PP luận 
 π xác suất 
nhị thức 
p thống kê π xác suất 
nhị thức 
p thống kê OR tỷ số 
chênh 
p thống kê 
Lâm sàng – cận lâm sàng (thông tin ban đầu) * * * * 
B12 = Diễn tiến của bệnh (1) 0,197 0,004 0,210 0,006 1,276 0,697 
B23 = Dịch tễ của người bệnh (2) 0,182 0,004 0,134 <0,001 0,281 0,001 
B34 = Cơ chế bệnh sinh (3) 0,265 0,034 0,234 0,022 0,660 0,189 
B45 = Thông tin vô ích (4) 0,073 <0,001 0,058 <0,001 0,546 0,097 
B56 = Thông tin gây nhiễu (5) 0,157 <0,001 0,133 <0,001 0,325 0,007 
* do đây là thông tin ban đầu nên không thể ước tính được mức độ thay đổi ý kiến. Số trong ngoặc tròn: thể hiện thông 
tin cho các đường biểu diễn cho Biểu đồ 1 
Chúng tôi cũng ghi nhận sinh viên bị ảnh 
hưởng bởi thông tin vô ích mặc dù mức độ ảnh 
hưởng là hạn chế. Điểm đặc biệt ghi nhận là 
thông tin gây nhiễu gây ảnh hưởng quan trọng, 
có ý nghĩa thống kê, làm thay đổi nhiều đến 
quyết định chẩn đoán của sinh viên với xác suất 
nhị thức của tình huống ho là 0,157 và của tình 
huống đau đầu là 0,133. 
Khi so sánh kết quả phân tích trước và sau 
can thiệp, kết quả ghi nhận bài giảng đã giúp 
giảm bớt ảnh hưởng của thông tin gây nhiễu 
(OR=0,325<1), tuy nhiên cũng giảm bớt việc vận 
dụng thông tin về dịch tễ của người bệnh 
(OR=0,281 <1). Đối với các nhóm thông tin khác, 
hiệu quả của bài giảng không tạo được sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê (Biểu đồ 1). 
Trên cơ sở tính được xác suất nhị phân, 
chúng tôi xây dựng đường phân bố phân bố 
mức độ thay đổi ý kiến tương ứng với từng bước 
– từng thông tin trên cơ sở loại trừ các ảnh 
hưởng gây nhiễu của các yếu tố độc lập và yếu 
tố năng lực của từng cá nhân (yếu tố ngẫu 
nhiên). Kết quả cho thấy số ý kiến thay đổi ở mỗi 
bước phân bố xung quanh chỉ số từ 1 đến 4 thay 
đổi, có vai trò của các nhóm thông tin chẩn đoán, 
có tác động của thông tin gây nhiễu và thông tin 
vô ích. Sau can thiệp, kết quả ghi nhận có sự 
giảm tác động của thông tin gây nhiễu, thông tin 
vô ích và thông tin về dịch tễ bệnh. Các hiện 
tượng này được ghi nhận một cách tương đối 
đồng nhất cho cả 2 tình huống lâm sàng minh 
họa A và B. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 319
Nhóm thông tin Nhóm thông tin 
 Nhóm thông tin Nhóm thông tin 
Biểu đồ 1: Phân phối xác suất thay đổi ý kiến tương ứng với từng bước cung cấp thông tin ở hai tình huống A,B 
trước và sau có bài giảng 
BÀN LUẬN 
Số liệu khảo sát cho thấy sinh viên đã vận 
dụng các nhóm thông tin vào chẩn đoán nhưng 
ở những mức độ khác nhau. Trong số 4 nhóm 
thông tin chẩn đoán, thông tin về cơ chế bệnh 
sinh được sử dụng nhiều nhất, trong khi đó 
thông tin về dịch tễ người bệnh ít được sử dụng 
nhất. Điều này được giải thích bởi sinh viên y 
khoa bị giới hạn vấn đề thực hành trong bệnh 
viện, trong bối cảnh chuyên ngành hẹp liên quan 
đến môn học cụ thể. Họ chưa có nhiều trải 
nghiệm với người bệnh thực tế trong bối cảnh 
môi trường sống – gia đình – xã hội cũng như 
các yếu tố nguy cơ phối hợp. Do vậy họ chưa có 
điều kiện nhận định được tầm quan trọng cũng 
như thực hành ứng dụng các thông tin này trong 
công tác chuyên môn dẫn đến việc xem nhẹ vai 
trò của thông tin về dịch tễ của người bệnh. 
Xác suất 
nhị thức 
Số ý kiến 
thay đồi 
chẩn 
đoán 
Số ý kiến 
thay đồi 
chẩn 
đoán 
Xác suất 
nhị thức 
Xác suất 
nhị thức 
Xác suất 
nhị thức 
Số ý kiến 
thay đồi 
chẩn 
đoán 
Số ý kiến 
thay đồi 
chẩn 
đoán 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 23 * Số 3 * 2019
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 320
Cũng chính vì thiếu thông tin để chẩn đoán, sinh 
viên thường phải dựa vào mô hình lý thuyết, 
vốn rất chú trọng vào cơ chế sinh bệnh học và 
diễn tiến tự nhiên của bệnh để lý giải các hiện 
tượng lâm sàng và để chẩn đoán bệnh. Nhận 
định này cũng được ghi nhận trong y văn(2,6). 
Cùng quan điểm với nhận định về tính thiếu cọ 
xát thực tế lâm sàng, sinh viên đã thể hiện sự 
lúng túng trong chẩn đoán - không kiên định với 
giả thuyết chẩn đoán khi được cung cấp thông 
tin vô ích - không có giá trị, không góp phần vào 
chẩn đoán hiện tại. Sự lúng túng của sinh viên 
càng cụ thể hơn khi đối mặt với thông tin có vai 
trò gây nhiễu, đưa đến việc nhận định chẩn 
đoán bị đảo lộn và đi lệch xa với các nhận định 
ban đầu. Với kết quả khảo sát này, chúng ta có 
thể ghi nhận nhu cầu phát triển năng lực phân 
tích thông tin, cũng như củng cố việc vận dụng 
thông tin dịch tễ để cải thiện chất lượng chẩn 
đoán y khoa. 
Khi được giới thiệu về phương pháp luận, 
mặc dù nội dung bài không đề cập bất kỳ bệnh 
lý liên quan, chúng tôi đã chứng minh được ảnh 
hưởng ngắn hạn lên mức độ vận dụng thông tin. 
Kết quả cho thấy sinh viên đã vận dụng thông 
tin hiệu quả hơn khi đã thể hiện ít bị ảnh hưởng 
bởi thông tin gây nhiễu và thông tin vô ích. Tuy 
nhiên, kết quả cũng ghi nhận sinh viên cũng ít 
vận dụng thông tin dịch tễ vào chẩn đoán, điều 
này trái ngược với các kỳ vọng của nhóm nghiên 
cứu. Lý giải cho việc này, chúng tôi cho rằng có 
thể bài giảng đã chưa chuẩn bị tốt về nội dung 
minh họa cho tầm quan trọng của thông tin dịch 
tễ, hoặc các ví dụ ứng dụng dịch tễ vào chẩn 
đoán chưa được nhận định tốt bởi sinh viên; vốn 
họ chưa có nhiều trải nghiệm với nhóm thông 
tin này trong thực hành lâm sàng tại nhà trường. 
Tuy nhiên, chúng tôi không có bằng chứng để 
khẳng định giả thuyết vừa nêu. 
Về mặt phương pháp nghiên cứu, chủ đề về 
phương pháp luận vốn thuộc lĩnh vực nhận thức 
– hành vi khó được lượng giá chính xác. Hiện số 
nghiên cứu về chủ đề này tại Việt Nam là khá 
khiêm tốn so với các chủ đề chuyên môn y khoa. 
Cách tiếp cận của chúng tôi dựa vào sự thay đổi 
ý kiến để phản ánh mức độ vận dụng thông tin, 
khác với các mô hình phân tích định tính thường 
được sử dụng trong y văn(2,6,7). Mô hình này cho 
phép định lượng được khả năng của sinh viên, 
đồng thời cho phép tách bạch được mức độ ảnh 
hưởng của các yếu tố gây nhiễu. Vai trò của cá 
thể cũng được trung hòa trong phương trình 
phân tích với biến số ngẫu nhiên. 
Nghiên cứu của chúng tôi cũng có những 
điểm hạn chế chưa làm tốt. Việc lựa chọn chẩn 
đoán lệ thuộc phần nào vào thứ tự xuất hiện của 
thông tin, cũng nhưng nội dung của thông tin. 
Để loại bỏ các ảnh hưởng đó, mô hình nghiên 
cứu cần đa dạng các hình thức thể hiện thông tin 
và nội dung. Tuy nhiên chúng tôi chưa có điều 
kiện để thực hiện trong nghiên cứu này. Nội 
dung can thiệp chỉ dựa chủ yếu bằng một buổi 
giảng, hiệu lực còn yếu và ngắn hạn. Chúng tôi 
thực hiện đánh giá ngay sau buổi giảng, chỉ 
mang tính chất ngắn hạn. Do vậy chúng tôi 
không có thông tin đánh giá dài hạn, càng không 
thể phản ánh hiệu quả của chương trình đào tạo 
bài bản về phương pháp luận như đang được 
ứng dụng tại các nước phát triển(4,7). Một điểm 
hạn chế khác của nghiên cứu là tập trung vào 
khía cạnh định lượng thông qua đánh giá số ý 
kiến thay đổi, chưa phân tích được chất lượng – 
nội dung của sự thay đổi ý kiến – quyết định 
chẩn đoán theo hướng đúng hay sai. 
KẾT LUẬN 
Mặc dù có những điểm hạn chế, nghiên cứu 
đã cung cấp được bằng chứng về đặc điểm vận 
dụng thông tin trong chẩn đoán của sinh viên y 
khoa năm 5 của Trường Đại Học Y Khoa Phạm 
Ngọc Thạch. Vai trò ngắn hạn của bài giảng về 
phương pháp luận cũng được chứng minh, đặt 
tiền đề cho việc phát triển các nghiên cứu về chủ 
đề này, hướng đến việc xây dựng chương trình 
đào tạo hoàn chỉnh về phương pháp luận y 
khoa, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo 
nhân lực y tế cho thành phố Hồ Chí Minh nói 
riêng và cho Việt Nam nói chung. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 3 * 2019 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ Trường ĐH Y Khoa Phạm Ngọc Thạch 321
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Barz DL, Achimas-Cadariu A (2016). The development of 
scientific reasoning in medical education: a psychological 
perspective. Clujul Med, 89:pp.32-37 
2. Boshuizen HPA, Schmidt HG (1992). On the role of biomedical 
knowledge in clinical reasoning by experts, intermediates and 
novices. Cognitive Science, 16:pp.153-184 
3. Bowen JL (2006). Educational strategies to promote clinical 
diagnostic reasoning. N Engl J Med, 355:pp.2217-2225 
4. Christensen N, Black L, Furze J, Huhn K, Vendrely ASW (2016). 
Clinical Reasoning: Survey of Teaching Methods, Integration, 
and Assessment in Entry-Level Physical Therapist Academic 
Education. Phys Ther, 97:pp.175-186. 
5. Cooke S, Lemay JF (2017). Transforming Medical Assessment: 
Integrating Uncertainty Into the Evaluation of Clinical 
Reasoning in Medical Education. Acad Med, 92:pp.746-751. 
6. Eugéne C, Henny B, Henk S (1998). The Role of Illness Scripts in 
the Development of Medical Diagnostic Expertise: Results From 
an Interview Study. Cognition and Instruction, 16:pp.367-398. 
7. Keemink YCE, van Dijk S, Ten Cate O (2018). Illness script 
development in pre-clinical education through case-based 
clinical reasoning training. Int J Med Educ, 9:pp.35-41. 
8. Loannis N (2009). Bayesian Modeling Using WinBUGS. In: Book 
Bayesian Modeling Using WinBUGS, 520. A John Wiley & Sons, 
INC, Hoboken, New Jersey, USA. 
9. Lubarsky S, DV, Audétat MC, Custers E, Charlin B. (2015). 
Using script theory to cultivate illness script formation and 
clinical reasoning in health professions education. Can Med Educ 
J, 6:pp.61-70. 
10. Norman G (2005). Research in clinical reasoning: past history 
and current trends. Med Educ, 39:pp.418-427. 
11. Per Morten K (2013). Establishing Assessment Scales Using a 
Novel Disciplinary Rationale for Scientific Reasoning. Journal of 
Research in Science Teaching, 50:pp.530-560. 
12. Rijmen FTF, Meulders M, Smits DJ, Balázs K (2005). Mixed 
model estimation methods for the Rasch model. J Appl Meas, 
6:pp.273-288. 
13. Schmidt HG, NG, Boshuizen HP (1990). A cognitive perspective 
on medical expertise: theory and implication. Acad Med, 
65:pp.611-621. 
14. Simon HA, Newell A. (1971). Human problem solving: The 
state of the theory in 1970. American Psychologist, 26:pp.145–159. 
Ngày nhận bài báo: 31/01/2019 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/02/2019 
Ngày bài báo được đăng: 20/04/2019