Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 121
HIỆU QUẢ KHỞI PHÁT CHUYỂN DẠ VỚI THÔNG FOLEY ĐÔI CẢI TIẾN 
TRÊN THAI QUÁ NGÀY DỰ SINH CÓ CHỈ ĐỊNH CHẤM DỨT THAI KỲ 
TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH 
Ngô Minh Hưng *, Hoàng Thị Diễm Tuyết**, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang*** 
TÓM TẮT 
Khởi phát chuyển dạ (KPCD) ở thai quá ngày dự sinh có nhiều phương cách khác nhau khi thai có đủ sức 
khỏe để chiu đựng cuộc chuyển da. Tại Việt Nam các biện pháp KPCD khi cổ tử cung(CTC) chưa thuận lợi hiện 
nay chủ yếu là các biện pháp cơ học. 
Mục tiêu: Đánh gía hiệu quả khởi phát chuyển dạ của phương pháp cơ học: thông bóng đôi cải tiến trong 
khởi phát chuyển dạ ở thai quá ngày dự sinh, có chỉ định sinh ngả âm đạo. 
Phương pháp: Nghiên cứu dọc tiền cứu trên 71 thai phụ tại khoa sản Bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ 
09/2017 đến 05/2018. Các thai phụ Tuổi thai ≥ 40 tuần; đơn thai, ngôi đầu; điểm số Bishop ≤4; CTC không thuận 
lợi lóc ối; có chỉ định chấm dứt thai kỳ; Nonstresstest có đáp ứng; có chỉ định sinh ngả âm đạo và đồng ý tham gia 
nghiên cứu. 
Kết quả: Tỷ lệ KPCD thành công bằng thông bóng đôi cải tiến là 87,3% KTC 95% [79,5-95,1]. Không có 
biến chứng liên quan đến đặt ống thông Foley, tỷ lệ thai phụ khó chịu khi đặt là 28%. Các kết cuộc khác: (1) Tỷ lệ 
sinh ngả âm đạo chung sau KPCD là 57,7%. Sử dụng thêm oxytocin là 77,5%. (2) Điểm số Bishop trung bình 
trước KPCD của nhóm nghiên cứu là 2,15 ±0,86 điểm, sau KPCD là 7,38±1,06 điểm và điểm số Bishop tăng 
trung bình 5,2 điểm với p < 0,001. 
Kết luận: Nghiên cứu ghi nhận thông bóng đôi Foley cải tiến cho hiệu quả KPCD trong thai quá ngày dự 
sinh, an toàn cho thai phụ và thai nhi. 
Từ khóa: khởi phát chuyển dạ, bóng đôi, thai quá ngày dự sinh 
ABSTRACT 
 THE EFFECTIVENESS OF INDUCTION LABOR WITH MODIFIER DOUBLE BALLOON FOLEY 
CATHETER IN PROLONG TERM GESTATION AT NHAN DAN GIA DINH HOSPITAL 
Ngo Minh Hung, Hoang Thi Diem Tuyet, Huynh Nguyen Khanh Trang 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 121 - 126 
Induction of labor (IOL) in pro-long term gestational age occurs in different ways when the fetus is 
physically fit for the transition. In Vietnam, IOL in cases with cervical unfavorable are mainly conducted by 
mechanical methods. 
Objective: To evaluate the efficacy of labor induction by mechanical method:modifier double balloon foley 
catheter in pro-long term gestational age with indication of vaginal delivery. 
Methods: Longitudinal prospective study on 71 pregnant women at obstetrics department of Nhan Dan Gia 
Dinh Hospital from 09/2017 to 05/2018. Their pregnancy were older than ≥ 40 weeks; singleton; their cervical 
Bishop score ≤4; Cervical is unfavorable to detatch the amnio membrances ; to designate termination of pregnancy 
by vaginal delivery; Nonstresstest :positive; and consent to participate in the study. IOL was conducted by double 
baloon Foley modifier catheter. 
*Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, **Bệnh viện Hùng Vương 
 ***Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
Tác giả liên lạc: PGS TS. Huỳnh Nguyễn Khánh Trang ĐT: 0903882015 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 122
Results: The rate of successful IOL with modifier double baloon Foley catheter was 87.3% 95% CI 95% 
[79.5-95.1. No complications associated with modifier double balloon Foley catheter placement, uncomfortable 
feeling rate among those participants was 28%. Other outcomes: (1) The overall vaginal birth rate after IOL was 
57.7%. The vaginal birth rate when using combined modifier double balloon foley catheter and oxytocin was 
77.5%. (2) The average Bishop score before IOL was 2.15 ± 0.86 points, and after IOL was 7.38 ± 1.06 points and 
the increase of Bishop scores averaged 5.2 points with p <0.001. 
Conclusion: the modifier double baloon Foley catheter using in IOL was effective as well as safe for pregnant 
women and fetuses. 
Key words: induction of labor, double balloon, pro-long term gestational age 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Theo thống kê của Tổ chức Y Tế Thế Giới, tỉ 
lệ khởi phát chuyển dạ (KPCD) tăng gấp đôi 
trong hai thập kỷ qua, khoảng 25 % trên toàn thế 
giới. Tỉ lệ này cao hơn ở các nước phát triển và 
thấp hơn ở các nước đang phát triển(1). 
Có nhiều phương pháp khởi phát chuyển dạ 
đã được áp dụng. Các phương pháp này được 
chia thành hai nhóm chính là: phương pháp cơ 
học và phương pháp dùng thuốc. Các phương 
pháp cơ học bao gồm tách ối, nong cổ tử cung 
bằng laminaria, đặt Kovac’s, đặt thông Foley 
đơn, đặt thông Foley đôi cải tiến, đặt thông 
Foley kết hợp truyền nước muối sinh lý ngoài 
buồng ối. Các phương pháp dùng thuốc bao 
gồm truyền oxytocin, prostaglandin E1 
(misoprostol), prostaglandin E2 (denoprostone). 
Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và 
khuyết điểm khác nhau, lựa chọn một phương 
pháp khởi phát chuyển dạ sẽ tùy thuộc vào 
nhiều yếu tố như tỷ lệ thành công, độ an toàn, 
điều kiện kinh tế, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, 
sự hài lòng của sản phụ. 
Theo nghiên cứu của Pennell và cộng sự(6) 
(2009) trên 330 sản phụ con so có CTC (cổ tử 
cung) không thuận lợi ở thai đủ trưởng thành 
được chia ngẫu nhiên thành ba nhóm: nhóm đặt 
ống thông 2 bóng, nhóm đặt ống thông Foley và 
nhóm đặt PGE2. Kết quả khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê về tỷ lệ mổ sinh giữa ba nhóm 
(43%, 36% và 37% với p = 0,57). Khoảng thời gian 
từ KPCD đến lúc sinh thì dài hơn ở nhóm đặt 
ống thông hai bóng (trung vị 24,5 giờ; KTC 95% 
23,7 – 30,6 giờ) so với nhóm đặt thông Foley 
(trung vị 23,2 giờ; KTC 95% 20,8 - 25,8) hoặc 
nhóm đặt PGE2 (trung vị 23,8 giờ; KTC 95% 21,7 
– 26,8) với p = 0,043. Cơn gò cường tính chiếm 
14% ở nhóm đặt PGE2, không xảy ra ở nhóm đặt 
ống thông. Nhóm đặt ống thông Foley thì ít đau 
hơn (nhóm đặt thông hai bóng là 55%, nhóm đặt 
thông Foley là 36% và nhóm đặt PGE2 là 63% 
với p < 0,001). 
Tháng 5 năm 2011 đến tháng 10 năm 2012, 
Zhang L và cộng sự(8) thực hiện nghiên cứu về 
hiệu quả và tính an toàn của thông bóng đôi 
trong việc làm chín muồi CTC và KPCD trên 
thai trưởng thành. Đối tượng nghiên cứu gồm 
586 thai phụ được chia làm ba nhóm dựa vào 
điểm số Bishop ban đầu: nhóm 1 (Bishop ≤ 3, n = 
155), nhóm 2 (Bishop 4 - 5, n = 223), nhóm 3 
(Bishop ≥ 6, n = 208). Cả ba nhóm trên đều được 
KPCD bằng thông bóng đôi. Nhóm chứng 
(Bishop ≥ 6, n = 112) được KPCD bằng Oxytocin 
truyền tĩnh mạch. Kết quả tỷ lệ chín muồi cổ tử 
cung và sinh ngả âm đạo thành công tăng dần 
và có ý nghĩa từ nhóm 1 đến nhóm 3. Tỷ lệ và 
thời gian truyền Oxytocin giảm dần và có ý 
nghĩa từ nhóm 1 đến nhóm 3. Tỷ lệ sinh ngả âm 
đạo thành công cao hơn đáng kể so với nhóm 
chứng. Thời gian chuyển dạ trung bình của 
nhóm 3 ngắn hơn đáng kể so với nhóm chứng. 
Biến chứng cho mẹ và thai không khác biệt giữa 
hai nhóm. 
Theo nghiên cứu của Salim và cộng sự(7) 
(2011) tại Israel trên 293 sản phụ có chỉ định 
KPCD được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm 
nhằm so sánh hiệu quả của đặt ống thông một 
bóng và ống thông hai bóng. Kết quả khoảng 
thời gian từ khi đặt ống thông đến lúc sinh 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 123
khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa hai 
nhóm (19,4±6 giờ và 19,1±6,8 giờ với p = 0,8), tỷ 
lệ PTLT khác biệt không có ý nghĩa thống kê 
giữa hai nhóm (10,3% và 17,6% với p = 0,09), tỷ 
lệ sinh hút thấp hơn có ý nghĩa thống kê ở 
nhóm đặt thông Foley so với nhóm đặt thông 
hai bóng (14,4% và 25,7% với OR = 0,49; KTC 
95% 0,26 – 0,92). 
Năm 2015, nghiên cứu của Nguyễn Thị 
Anh Phương, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang(5) 
tại Bệnh viện Hùng Vương so sánh thông 
Foley đôi cải tiến và thông Foley đặt ở kênh 
CTC. Nghiên cứu ghi nhận thông Foley đôi cải 
tiến cho hiệu quả KPCD cao hơn thông Foley 
đơn, an toàn cho sản phụ và thai nhi. Thông 
Foley bóng đôi cải tiến được làm bằng cách kết 
hợp hai thông Foley 20F và 30F sẵn có ở tất cả 
mọi cơ sở y tế với giá thành rẻ, hiệu quả cao. 
Tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định: Trước 
năm 2012: thai 41 tuần chưa chuyển dạ ,được 
nhập viện sẽ được khởi phát chuyển dạ bằng 
Cytotec, Cerviprime. Cuối năm 2012 Bộ Y Tế có 
công văn số 5443/BYT_ BMTE qui định không sử 
dụng Misoprostol gây chuyển dạ trên thai đủ 
tháng và thai sống vì nguy cơ gây vỡ tử cung, vì 
vậy chúng tôi ngưng sử dụng Misoprostol cho 
việc KPCD thai quá ngày. Từ năm 2013 đến nay: 
do áp lực từ sự lo lắng của người nhà sản phụ và 
thân nhân, cũng như tai biến nặng nề do thai 
quá ngày mang lại, nên thai từ 40 tuần, chưa 
chuyển dạ, sản phụ sẽ được nhập viện theo dõi 
và kiểm soát sức khỏe thai (lâm sàng và cận lâm 
sàng) và chúng tôi chỉ khởi phát chuyển dạ bằng 
lóc ối trong 3 ngày (vì Cytotec, Cerviprime 
không còn sử dụng), sau đó chúng tôi sẽ chuyển 
phòng sanh giục sanh chấm dứt thai kì lúc thai 
40 tuần 3 ngày. Vì vậy, chúng tôi gặp khó khăn 
trong trường hợp CTC đóng, hở ngoài, chỉ số 
Bishop <4 không thuận lợi nong được CTC bằng 
tay để lóc ối, những trường hợp này đều giục 
sanh thất bại và kết cục mổ lấy thai vì giục sanh 
CTC không tiến triễn chiếm tỉ lệ cao 74 %. 
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Hiệu quả 
khởi phát chuyển dạ với thông Foley đôi cải tiến 
trên thai quá ngày dự sinh có chỉ định chấm dứt 
thai kỳ tại BV Nhân Dân Gia Định” với câu hỏi 
nghiên cứu “Thông Foley bóng đôi cải tiến có 
hiệu quả như thế nào trong khởi phát chuyển dạ 
ở thai quá ngày dự sinh có chỉ định chấm dứt 
thai kỳ?”. Từ đó chúng tôi tiến hành thực hiện 
nghiên cứu với mục tiêu: 
Xác định tỉ lệ khởi phát chuyển dạ thành 
công của đặt thông Foley bóng đôi cải tiến đặt 
trên cổ tử cung ở thai từ 40 tuần có chỉ định 
chấm dứt thai kỳ. 
Đánh giá các kết cuộc của thai kỳ sau khi 
khởi phát chuyển dạ và các tác dụng không 
mong muốn. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu dọc tiền cứu trên một nhóm. 
Đối tượng 
Thai phụ với quá ngày dự sinh, chưa vào 
chuyển dạ, có chỉ định KPCD tại Bệnh viện 
Nhân Dân gia Định từ 09/2017 đến 05/2018. 
Tiêu chuẩn nhận bệnh 
Các thai phụ tuổi thai ≥ 40 tuần; đơn thai, 
ngôi đầu; điểm số Bishop ≤4; CTC không thuận 
lợi lóc ối; có chỉ định chấm dứt thai kỳ; 
Nonstresstest có đáp ứng; có chỉ định sinh ngả 
âm đạo và đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Không nhớ chính xác ngày kinh cuối và 
không có siêu âm trước 12 tuần. Có bệnh lý nội 
khoa kèm theo: Bệnh lý tim, tiểu đường,cường 
giáp, nhiễm trùng. Có chống chỉ định khởi 
phát chuyển dạ: sẹo mổ cũ trên tử cung, bất 
xứng đầu chậu (BXĐC), ngôi bất thường, 
herpes sinh dục đang tiến triển, bất thường 
bánh nhau-dây rốn, khung chậu hẹp. Đã khởi 
phát chuyển dạ thất bại bằng phương pháp 
khác. Không mắc bệnh tâm thần. 
Cỡ mẫu 
2
2
)2/1(
d
)P1(PZ
N
Trong đó: Với α = 0,05, độ tin cậy 95%. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 124
Ta có Z1-α/2=1,96. Theo nghiên cứu của 
Nguyễn Thị Anh Phương(5), tỷ lệ khởi phát 
chuyển dạ thành công sau đặt thông Foley đôi 
là 86,4%, p = 0,86. Chọn sai số cho phép là 10%, 
d = 0,1. Thế vào công thức ta có n = 46. Vậy cỡ 
mẫu nghiên cứu tối thiểu là 50 trường hợp. 
Trong nghiên cứu chúng tôi thu nhận 71. 
KPCD bằng thông bóng đôi cải tiến từ thông 
Foley 20F và 30F, bơm 60ml nước cất vào mỗi 
bóng, bóng trong sát lỗ trong CTC, bóng ngoài 
sát lỗ ngoài CTC. 
Thời gian lưu thông Foley là 12 giờ. 
Tiêu chí đánh giá kết cuộc của quá trình 
KPCD: 
Nếu trong vòng 12 giờ sau đặt thông, Bishop 
≥ 7 điểm khi rút thông hoặc tự rớt thông: KPCD 
thành công. 
Nếu sau 12 giờ mà Bishop <7 điểm hoặc có 
các tác dụng ngoại ý trầm trọng: KPCD thất bại. 
Chuyển phòng sinh khi chuyển dạ giai đoạn 
hoạt động hoặc giục sinh bằng Oxytocin nếu cơn 
gò không đủ thêm 6 giờ. 
Số liệu từ phiếu thu thập số liệu, mã hóa 
số liệu. Nhập và phân tích số liệu bằng 
phần mềm SPSS. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1. Đặc điểm dân số nghiên cứu (n=71) 
Đặc điểm Số trường hợp Tỷ lệ 
(%) 
Tuổi thai phụ trung bình 
(năm) 
30 ± 5,2 (Min=18; Max=44) 
Con so 
Con rạ 
33 
38 
46,5 
53,5 
Nghề nghiệp 
Công nhân 
NVVP 
Buôn bán 
Nội trợ 
24 
18 
7 
22 
34 
25 
10 
31 
Nơi ở 
Nội thành 
Ngoại thành 
51 
20 
72 
28 
Trước KPCD 
Bishop CTC < 3 điểm 
Bishop CTC = 3 điểm 
40 
31 
56 
44 
NVVP: nhân viên văn phòng; 
KPCD; Khởi phát chuyển dạ; CTC: cổ tử cung. 
Bảng 2. Tỷ lệ KPCD thành công của thông bóng đôi 
cải tiến 
Kết quả Số ca Tỷ lệ % KTC 95% 
Thành công 
Thất bại 
62 
9 
83,3 
12,7 
79,5 – 95,1 
Bảng 3. Các yếu tố liên quan đến hiệu quả KPCD 
Yếu tố Thành công Thất bại p 
Thêm Oxytocin 
 Có dùng 
 Không dùng 
46 
16 
9 
0 
0,08 
Cách sinh 
 Ngả âm đạo 
 Mổ sinh 
39 
23 
2 
7 
0,2 
Bảng 4. Thay đổi của chỉ số Bihop cổ tử cung 
Yếu tố Trước KPCD Sau KPCD p 
Điểm trung bình 2,15 ± 0,86 7,38 ± 1,06 0,000 
Điểm số cổ tử cung thay đổi 5,2 điểm trong nghiên cứu 
Các biến chứng không ghi nhận, tỷ lệ thai 
phụ có cảm giác khó chịu khi đặt bóng 28%. 
BÀN LUẬN 
Bệnh viện Nhân Dân Gia Định là một Bệnh 
viện đa khoa thuộc Sở Y tế TPHCM với qui mô 
1000 giường với bốn chuyên khoa chính Nội, 
Ngoại, Sản, Nhi. Khoa Sản có 300 giường,42 bác 
sỹ Sản và 200 nữ hộ sinh. Tổng số ca sinh hằng 
năm chúng tôi đạt được là 10.000-12.000 ca sanh 
mỗi năm, với tỉ lệ sinh mổ 40%. Trước đây 
những trường hợp thai quá ngày dự sinh, CTC 
đóng không thuận lợi để lóc ối, chúng tôi KPCD 
bằng oxytocin, tỉ lệ thành công thấp, tỉ lệ sinh mổ 
do CTC không tiến triển 74%. 
Đa số các trường hợp thai quá ngày dự sinh 
vào chuyển dạ và sinh không biến chứng, nhưng 
đôi khi biến chứng trầm trọng cũng có thể xảy 
ra. Hậu quả phổ biến về mặt y khoa của thai quá 
ngày bao gồm thai to, chuyển dạ khó khăn hay 
thai trình ngưng tiến triển, suy giảm chức năng 
bánh nhau và hít phân su. Trước đây, chính sách 
khởi phát chuyển dạ thường quy khi thai kỳ tròn 
42 tuần được đề nghị, sau đó là 41 tuần và hiện 
nay là trên 40 tuần. Can thiệp này giúp làm giảm 
nhu cầu tiến hành các theo dõi dư thừa và làm 
giảm thời gian nhập viện, đặc biệt trong tình 
huống sản phụ cần nhập viện sớm để tránh tình 
trạng họ không thể đến Bệnh viện trong trường 
hợp khẩn cấp. Điều này đặt ra nhu cầu xem xét 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 125
một cách cẩn thận các chỉ định, nguy cơ và lợi 
ích của khởi phát chuyển dạ. 
Tỷ lệ thành công trong nghiên cứu này là 
87,3%, (KTC 95% 79,5% - 95,1%). Kết quả này 
tương đồng với nghiên cứu của tác giả Nguyễn 
Thị Anh Phương(5) là 86,4% với cùng tiêu chuẩn 
thành công. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tiêu chuẩn 
KPCD thành công là Bishop ≥ 7 điểm. Trong khi 
đó nghiên cứu của Elad Mei-Dan(2), tiêu chuẩn 
KPCD là Bishop tăng ≥ 2 điểm hoặc CTC ≥ 3cm, 
do đó, tỷ lệ KPCD tỷ lệ KPCD thành công của 
thông bóng đôi cao hơn chúng tôi. Theo nghiên 
cứu của Jack Atad năm 1997(3), tỷ lệ KPCD thành 
công ở nhóm KPCD bằng thông bóng đôi (Atad 
Ripener Device) là 85,7%. Kết quả này cũng 
tương tự như tỷ lệ KPCD thành công trong 
nghiên cứu của chúng tôi là 87,3%. 
Theo bảng 4, điểm số Bishop trung bình 
trước KPCD của nhóm nghiên cứu là 2,15 (±0,86) 
điểm, sau KPCD là 7,38 (±1,06) điểm và điểm số 
Bishop tăng trung bình 5,2 điểm với p < 0,001. 
Chỉ số Bishop trung bình trước khởi phát chuyển 
dạ của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu 
Nguyễn Thị Anh Phương(5) (2015) là 2,0 (±0,1) và 
sau KPCD là 7,8 (±1,4) với điểm số Bishop tăng 
trung bình 5,9 (±1,6). 
Tất cả các biện pháp KPCD khi bắt đầu thực 
hiện đều với mục tiêu là cuộc chuyển dạ có thể 
hoàn tất với kết cục sinh ngả âm đạo. Tuy nhiên, 
quá trình chuyển dạ lại phụ thuộc vào rất nhiều 
yếu tố bên cạnh việc làm chín muồi CTC và tạo 
ra cơn gò tử cung hữu hiệu. Các yếu tố được ghi 
nhận ảnh hưởng đến kết cuộc sinh ngả âm đạo 
bao gồm: (i) Ngôi thế của thai: cùng là ngôi đầu 
với kích thước bình thường nhưng đầu cúi tốt có 
khả năng sinh được nhưng đầu không cúi tốt có 
thể không sinh được như ngôi trán; (ii) Sức khỏe 
thai nhi trong chuyển dạ. Do vậy để đánh giá kết 
cục của KPCD như tất cả các nghiên cứu đều 
chia đánh giá kết cục thành hai phần. Phần đầu 
từ lúc bắt đầu KPCD đến khi KPCD thành công 
với thay đổi của chỉ số Bishop và phần khác 
đánh giá tỷ lệ sinh ngả âm đạo hay tỷ lệ sinh mổ. 
Bảng 3 cho thấy tỷ lệ sinh ngả âm đạo trong 
nhóm nghiên cứu là 57,7%. Khi phân tích theo 
kết quả KPCD thì tỷ lệ sinh ngả âm đạo của 
nhóm KPCD thành công (62,9%) cao hơn nhóm 
KPCD thất bại (22,2%). Tỷ lệ sinh mổ trong 
nhóm nghiên cứu là 42,3%. Khi phân tích theo 
kết quả KPCD thì tỷ lệ sinh mổ của nhóm KPCD 
thành công (37,1%) cao hơn nhóm KPCD thất bại 
(77,8%) khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 
0,02. Tỷ lệ sinh mổ của các tác giả Elad Mei-Dan 
năm 2009(2) ở nhóm KPCD bằng thông bóng đôi 
và bóng đơn lần lượt là 20% và 20,7%, p > 0,99; 
năm 2011 lần lượt là 8,3% và 20%, p = 0,05. Tỷ lệ 
sinh mổ của các tác giả Birte Haugland năm 
2011(4) ở nhóm KPCD bằng thông bóng đôi và 
bóng đơn lần lượt là 22% và 20%, p = 0,85. Tỷ lệ 
sinh mổ của các tác giả Nguyễn Thị Anh 
Phương(5) ở nhóm KPCD bằng thông Foley bóng 
đôi cải tiến và bóng đơn lần lượt là 44% và 47%, 
p = 0,36. 
Theo bảng 3, tỷ lệ sử dụng oxytocin sau 
KPCD là 77,5%. Khi phân tích theo kết quả 
KPCD thì tỷ lệ sử dụng oxytocin ở nhóm KPCD 
thất bại là 100% cao hơn nhóm KPCD thành 
công 74,2%, khác biệt này không có ý nghĩa 
thống kê với p = 0,08, 2 =2,98. 
Đánh giá sự khó chịu trong nghiên cứu này 
chỉ dựa vào cảm nhận chủ quan của sản phụ nên 
độ tin cậy không cao. 
HẠN CHẾ 
Hiện tại chưa có đồng thuận về tiêu chuẩn 
thành công và thất bại của KPCD nên việc định 
nghĩa tiêu chuẩn này chỉ mang tính chất tương 
đối, tỷ lệ thành công sẽ thay đổi nếu định nghĩa 
thay đổi. 
Đánh giá điểm số Bishop là yếu tố chủ quan, 
mặc dù chúng tôi đã cố gắng hạn chế nhưng sai 
lệch vẫn có thể xảy ra và ảnh hưởng đến kết quả 
nghiên cứu. đo độ dài CTC với siêu âm để tính 
điểm số Bishop cải tiến chưa được triển khai tại 
Bệnh viện. 
Kết cục KPCD thành công của hai 
phương pháp KPCD dựa vào chỉ số Bishop, 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Sản Phụ Khoa 126
một phương thức đánh giá có yếu tố chủ 
quan phụ thuộc vào sự cảm nhận của người 
khám lâm sàng. Tuy nhiên, chúng tôi đã tập 
huấn thống nhất cách đánh giá điểm số 
Bishop trước khi bắt đầu tiến hành thu nhập 
số liệu để hạn chế sai lệch thông tin. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu 71 trường hợp thai quá 
ngày dự sinh, chỉ định chấm dứt thai kỳ. KPCD 
với thông Foley bóng đôi cải tiến tại khoa Sản, 
Bệnh viện Nhân Dân gia Định từ 09/2017 đến 
05/2018, ghi nhận được các kết luận sau: 
Tỷ lệ thành công với tiêu chuẩn Bishop từ ≥ 7 
điểm trở lên là 87,3%, KTC 95% [79,5 - 95,1]. 
Kết cuộc khác liên quan KPCD: (1) Tỷ lệ sinh 
ngả âm đạo chung sau KPCD là 57,7%. Sử dụng 
thêm oxytocin là 77,5%. (2) Điểm số Bishop 
trung bình trước KPCD của nhóm nghiên cứu là 
2,15 (±0,86) điểm, sau KPCD là 7,38 (±1,06) điểm 
và điểm số Bishop tăng trung bình 5,2 điểm với 
p < 0,001. Không có biến chứng liên quan đến 
đặt ống thông Foley, tỷ lệ thai phụ khó chịu khi 
đặt là 28%. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cunningham F (2010). "Williams Obstetrics, 23th ed. The 
McGraw-Hill”. New York NY, ISBN-13: 978-0071497015; ISBN-
10: 0071497013. 
2. David J, Steer P, Weiner C et al (2011). "Induction of Labor and 
Termination of the Previable Pregnancy". In: High Risk 
Pregnancy 4th ed, pp.1145-1168. Elsevier Inc, Philadelphia, PA. 
3. Divon MY, Haglund B, Nisell H et al (1998). “Fetal and neonatal 
mortality in the postterm pregnancy: the impact of gestational 
age and fetal growth restriction". Am J Obstet Gynecol, 178(4):pp. 
726-731. 
4. Fuchs AR, Fuchs F, Husslein P et al (1984). " Oxytocin receptors 
in the human uterus during pregnancy and parturition". Am J 
Obstet Gynecol, 150(6): pp. 734-741. 
5. Nguyễn Thị Anh Phương, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang (2015). 
"So sánh hiệu quả khởi phát chuyển dạ của thông foley bóng 
đôi cải tiến và bóng đơn đặt kênh cổ tử cung ở thai trưởng 
thành tại Bệnh viện hùng vương". Luận án chuyên khoa II, pp.60 – 
66. ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh. 
6. Pennell CE, Henderson JJ, O'Neill MJ et al. (2009). " Induction of 
labour in nulliparous women with an unfavourable cervix: a 
randomised controlled trial comparing double and single 
balloon catheters and PGE2 gel". BJOG, 116(11): pp. 1443-1452. 
7. Salim R, Zafran N, Nachum Z et al (2011). " Single-balloon 
compared with double-balloon catheters for induction of labor: 
a randomized controlled trial". Obstet Gynecol, 118(1):pp. 79-86. 
8. Zhang L, Liu XH, Wei Q, Bian C, Peng B, Yao Q (2013). "Efficacy 
of double-balloon catheter for cervical ripening and labor 
induction". Sichuan Da Xue Xue Bao Yi Xue Ban, 44(3):pp.497-501. 
Ngày nhận bài báo: 30/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 06/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019