Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018
 170
HIỆU QUẢ HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ VIÊM NHA CHU MẠN 
CỦA DUNG DỊCH AXIT BORIC 0,75% 
Trần Thảo Quyên*, Phạm Anh Vũ Thụy** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: So sánh hiệu quả hỗ trợ điều trị không phẫu thuật viêm nha chu mạn (VNCM) của dung dịch 
bơm rửa acid boric (AB) 0,75% và dung dịch povidone-iodine (PVP-I) 1% khi kết hợp với lấy cao răng và xử lí 
mặt chân răng (LCR và XLMCR) qua các chỉ số lâm sàng và vi sinh. 
Phương pháp: Thử nghiệm lâm sàng, ngẫu nhiên có nhóm chứng, mù đơn thực hiện trên 40 bệnh nhân 
VNCM đến điều trị tại Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Đối tượng tham gia nghiên 
cứu được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm theo hai phương pháp điều trị: Nhóm 1: LCR và XLMCR kết hợp bơm 
rửa PVP-I 1%; Nhóm 2: LCR và XLMCR kết hợp với bơm rửa AB 0,75%; Đánh giá và so sánh tình trạng nha 
chu qua các chỉ số mảng bám (PI), chỉ số nướu (GI), chảy máu nướu khi thăm dò (BOP), độ sâu túi nha chu (PD), 
độ mất bám dính lâm sàng (CAL); số lượng vi khuẩn Aggregatibacter actinomycetemcomitans (Aa) và 
Porphyromonas gingivalis (Pg) tại thời điểm nền (T0), sau 4 tuần điều trị (T4) và sau 8 tuần điều trị (T4). 
Kết quả: Các chỉ số PI, GI, BOP, PD, CAL toàn miệng và số lượng vi khuẩn Aa, Pg của hai nhóm đều giảm 
có ý nghĩa thống kê tại thời điểm T4, T8 khi so sánh với T0 (p < 0,01). Khi so sánh giữa hai nhóm, chỉ số GI, BOP 
nhóm 2 giảm nhiều hơn có ý nghĩa so với nhóm 1 sau điều trị 4 tuần và 8 tuần (p < 0,05). Độ giảm PD và CAL ở 
nhóm 2 nhiều hơn có ý nghĩa so với nhóm 1 đối với túi nha chu trung bình (PD ≥ 5 và PD < 7) tại thời điểm T4, 
T8 và túi nha chu sâu (PD ≥ 7) (p < 0,01) tại thời điểm T4. Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
của độ giảm PD và CAL giữa hai nhóm ở túi nha chu sâu tại thời điểm 8 tuần. 
Kết luận: Nghiên cứu cho thấy AB 0,75% có hiệu quả hơn PVP-I 1% trong hỗ trợ điều trị không phẫu thuật 
VNCM vì làm giảm nhiều hơn có ý nghĩa chỉ số BOP, GI toàn miệng cũng như PD và CAL ở những túi nha chu 
có độ sâu trung bình và sâu sau 4 tuần điều trị. 
Từ khóa: Acid boric, povidone-iodine, viêm nha chu mạn. 
ABSTRACT 
ADDITIONAL EFFECTS OF 0.75% BORIC ACID ON TREATMENT FOR PATIENTS WITH CHRONIC 
PERIODONTITIS 
Tran Thao Quyen, Pham Anh Vu Thuy 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 22 - No 5- 2018: 170 – 177 
Objective: To compare the effect of 0,75% boric acid irrigation to periodontal and microbiologic parameters 
by comparing to 1% povidone iodine as an adjunct to scaling and root planning (SRP) in treatment of chronic 
periodontitis patients. 
Methods: A single-masked, randomized, clinical trial with 40 chronic periodontitis patients was conducted 
at Faculty of Odonto-Stomatology, University of Medicine and Pharmacy, Ho Chi Minh City. They were 
randomly divided into two groups depending on the irrigation solution: 1) SRP plus 1% PVP-I irrigation; 2) SRP 
plus 0.75% boric acid irrigation. Clinical measurements including plaque index (PI), gingival index (GI), 
*Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP. HCM, 
** Bộ môn Nha chu, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP. HCM. 
Tác giả liên lạc: PGS. TS. Phạm Anh Vũ Thụy ĐT: 0916 810 874 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
 171
bleeding o n probing (BOP), probing depth (PD) and clinical attachment level (CAL) were obtained; and 
quantitative analyses of Porphyromonas gingivalis(Pg), Aggregatibacter actinomycetemcomitans (Aa), were 
performed using real-time polymerase chain reaction (PCR) procedures at baseline (T0), 4 weeks (T4) and 8 weeks 
(T8) after periodontitis treatment. 
Results: The whole-mouth (PI, GI, BOP, PD, CAL and PD) parameters and amount of Aa, Pg showed 
statistically significant reduction at T4, T8 compared to T0 in both groups (p < 0.01). Between the two groups, GI 
and BOP reductions in group 2 were statistical significances higher than those in group 1 at T4 and T8 (p < 0.05). 
The PD and CAL reductions were significantly greater in group 2 compared to group 1 at T4, and T8 for 
moderately deep pockets (PD ≥ 5mm and < 7mm) and at T4 for severely deep pockets (PD ≥ 7mm). However, 
there were not statistical differences in PD and CAL reductions for severely deep pockets between the two groups 
at T8. 
Conclusion: The results of this study suggest that 0.75% boric acid might be more favorable than 1% 
povidone-iodine because it was superior in whole-mouth BOP, GI as well as PD and CAL reduction for moderate 
and deep pockets in 4 weeks after treatment of chronic periodontitis patients. 
Key words: Boric acid; povidone-iodine; chronic periodontitis. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Viêm nha chu là bệnh nhiễm trùng mô nâng 
đỡ răng, gây ra bởi vi khuẩn đặc hiệu đưa tới 
phá hủy dây chằng nha chu và xương ổ răng, 
thành lập túi nha chu, tụt nướu hoặc cả hai. Mặc 
dù có hơn 700 loài vi khuẩn được tìm thấy trong 
khoang miệng, nhưng chỉ có một số các loại vi 
khuẩn là nguồn gây bệnh nha chu trong đó 
Aggregatibacter actinomycetemcomitans (Aa), 
Porphyromonas gingivalis (Pg) được nhiều nhà 
nghiên cứu quan tâm vì hai loại vi khuẩn này có 
nhiều gen gây phá hủy mô nha chu nhanh và 
nhiều(7). Viêm nha chu mạn (VNCM) là một bệnh 
đa nguyên nhân, tiến triển theo đợt với sự dao 
động của số lượng vi khuẩn, đáp ứng miễn dịch 
và sự phá hủy mô(16). Mục đích chính của điều trị 
viêm nha chu là loại bỏ vi khuẩn gây bệnh trong 
mảng bám răng và trên bề mặt răng. Điều trị 
viêm nha chu bao gồm lấy cao răng và xử lí mặt 
chân răng (LCR & XLMCR) là quy trình chuẩn 
đã được chứng minh hiệu quả về lâm sàng và vi 
sinh(3,4,6). Tuy nhiên, việc điều trị có thể gặp thất 
bại do những vùng không đáp ứng điều trị một 
cách đầy đủ như túi nha chu sâu, sang thương 
vùng chẽ chân răng, chân răng có giải phẫu bất 
thường... Vì vậy, các biện pháp hỗ trợ thường 
được sử dụng trong điều trị viêm nha chu. Sử 
dụng chất kháng khuẩn tại chỗ được nghiên cứu 
cho thấy là có phổ kháng khuẩn rộng hơn kháng 
sinh và giảm khả năng kháng thuốc(17). Tại Việt 
Nam, dung dịch PVP-I (polyvinylpyrrolidone-
iodine complex) thường được sử dụng để bơm 
rửa túi nha chu trong điều trị VNCM. Chức năng 
kháng khuẩn của PVP-I trong điều trị bệnh nha 
chu đã được công nhận qua nhiều nghiên cứu 
lâm sàng(20). Tuy nhiên, PVP-I có khả năng kích 
thích làm tăng hoạt động của tuyến giáp, do sự 
kết hợp quá mức của iodine trong tuyến giáp 
nên nó chỉ được sử dụng trong thời gian ngắn. 
Ngoài ra, người ta chống chỉ định sử dụng PVP-I 
cho những bệnh nhân nhạy cảm với iodine, bệnh 
nhân có bệnh tuyến giáp, bệnh nhân có thai hoặc 
cho con bú để bảo vệ trẻ sơ sinh(10). 
Axit boric (AB) là axit yếu của boron, 
thường được dùng làm chất sát khuẩn tại chỗ 
do có tính kiềm khuẩn, kiềm nấm. Hiệu quả 
điều tiết của boron đối với đáp ứng viêm và 
miễn dịch đã được chứng minh. Luan và cs 
(2008) báo cáo hợp chất chứa boron (ANO128) 
có cả đặc tính kháng khuẩn, kháng viêm, giảm 
hình thành thâm nhiễm viêm và mất xương ở 
chuột; ngoài ra, có khả năng kháng một vài 
loại vi khuẩn nha chu cụ thể là Porphyromonas 
gingivalis, Prevotella intermedia (Pi), Eubacterium 
nodatum (En) và Treponema denticola (Td) khi 
nghiên cứu trong phòng thí nghiệm(11). Các 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018
 172
thử nghiệm trước đây nghiên cứu cũng chỉ ra 
rằng AB không gây độc cho nguyên bào sợi 
nướu và nguyên bào sợi dây chằng nha chu 
như Chlorhexidine(15). Nghiên cứu này thực 
hiện nhằm đánh giá hiệu quả hỗ trợ của dung 
dịch bơm rữa AB 0,75% trong điều trị nha chu 
không phẫu thuật gồm LCR & XLMCR thông 
qua việc đánh giá sự thay đổi các chỉ số nha 
chu lâm sàng và vi sinh sau điều trị 8 tuần khi 
so sánh với dung dịch bơm rửa PVP-I 1%. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên cứu được thực hiện trên 40 bệnh 
nhân VNCM đến điều trị tại Khoa Răng Hàm 
Mặt, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Tất cả 
bệnh nhân đều được cung cấp thông tin đầy đủ 
liên quan và tự nguyện tham gia vào nghiên 
cứu. Đề cương nghiên cứu được thông qua Hội 
đồng Y Đức, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 
(Số:17200-ĐHYD). 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Bệnh nhân được chẩn đoán VNCM mức độ 
trung bình hoặc nặng theo tiêu chuẩn của Hội 
Nha Chu Hoa Kì (2015). Bệnh nhân có ít nhất 1 
vị trí chảy máu nướu, độ sâu túi ≥ 5mm hoặc mất 
bám dính lâm sàng ≥3mm và tiêu xương trên tia 
X ≥ 16% hay > 3mm chiều dài chân răng; và có ít 
nhất 8 vị trí có PD ≥ 5mm(15,19). 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Là những bệnh nhân bị viêm nha chu tiến 
triển nhanh hay kết hợp sang thương nội nha. 
Bệnh nhân từng điều trị nha chu trong vòng 12 
tháng gần nhất; bị nhiễm trùng răng miệng cấp 
tính; có tiền sử dị ứng với iodine hay acid boric, 
đã dùng kháng sinh và kháng viêm trong vòng 6 
tháng trước đây; có bệnh toàn thân và liên quan 
đến các yếu tố nguy cơ của viêm nha chu (đái 
tháo đường, tim mạch, HIV, hút thuốc lá...); có 
thai hay đang sử dụng các hóc môn nội tiết tố. 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, ngẫu 
nhiên, có nhóm chứng, mù đơn. Bệnh nhân 
trong mẫu nghiên cứu được phân chia vào 2 
nhóm điều trị. Nhóm 1: LCR & XLMCR kết hợp 
với bơm rửa PVP-I 1%; và Nhóm 2: LCR & 
XLMCR kết hợp bơm rửa AB 0,75%. Một Bác sĩ 
Răng Hàm Mặt thực hiện việc điều trị viêm nha 
chu cho toàn bộ mẫu nghiên cứu. 
Chuẩn bị dung dịch bơm rửa 
PVP-I 1 % và AB 0,75% được pha chế và 
đóng chai bởi Bộ môn Bào chế, Khoa Dược, Đại 
học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 
Qui trình nghiên cứu 
Khám và đánh giá tình trạng vệ sinh răng 
miệng của bệnh nhân, hướng dẫn vệ sinh răng 
miệng và lấy cao trên nướu bằng dụng cụ siêu 
âm. Sau 1 tuần hẹn bệnh nhân trở lại và bắt đầu 
tiến hành nghiên cứu (T0). Bệnh nhân đi tổng 
cộng theo 3 lần hẹn: Thời điểm T0 (bắt đầu 
nghiên cứu), sau 4 tuần (T4), sau 8 tuần (T8). 
Trong đó LCR & XLMCR hoàn thành ở T0, đánh 
giá chỉ số nha chu lâm sàng, số lượng vi khuẩn 
Aa, Pg ở T0, T4, T8. Bơm rửa dung dịch sát 
khuẩn tiến hành ở cả 3 thời điểm T0, T4, T8. 
Đánh giá các chỉ số nha chu lâm sàn 
Một Bác sĩ Răng Hàm Mặt đánh giá các chỉ 
số nha chu lâm sàng gồm chỉ số mảng bám (PI, 
Loe và Silness 1964), chỉ số nướu (GI, Loe và 
Silness 1963), chảy máu nướu khi thăm dò 
(BOP), độ sâu túi nha chu (PD) và độ mất bám 
dính lâm sàng (CAL) của tất cả các răng có trên 
cung hàm (ngoại trừ răng số 8). 
Thu thập mảng bám dưới nướu và định lượng 
vi khuẩn Aa, Pg 
Cách ly nước bọt với vùng răng lấy mẫu 
bằng gòn cuộn. Sau đó, lau sạch mảng bám trên 
nướu và thổi nhẹ cho khô, đưa 3 cây côn giấy số 
30 và dài 21 mm vô trùng vào đến đáy của ba túi 
nha chu sâu nhất (thao tác nhẹ, tránh chảy máu), 
để trong 10 giây, lấy côn giấy ra và cho vào lọ 
effendorf có nắp đậy chứa dung dịch bảo quản 
rồi vận chuyển đến phòng xét nghiệm trong 
vòng 1 giờ để thực hiện đánh giá lượng vi khuẩn 
Aa và Pg sử dụng kỹ thuật Realtime PCR. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
 173
Điều trị viêm nha chu 
Bệnh nhân được LCR dưới nướu ở tất cả các 
răng và XLMCR ở các răng có túi nha chu trong 
cùng 1 lần hẹn (T0). Tiến hành gây tê tại chỗ để 
XLMCR và sử dụng một trong 2 loại dung dịch 
bơm rửa là PVP-I 1% hay AB 0,75%. Trong 
nghiên cứu này, mỗi túi nha chu được bơm rửa 
10ml dung dịch sử dụng ống bơm rửa 10ml có 
kim đầu cùn. Kim bơm rửa được đưa nhẹ nhàng 
vào túi nha chu đến vị trí sâu nhất có thể, mặt 
vát của kim áp, bơm và di chuyển kim nhẹ 
nhàng để tránh làm tổn thương mô nha chu. 
Bệnh nhân sau điều trị được hẹn lại tái đánh giá 
vào các thời điểm T4, T8. 
Xử lí và phân tích số liệu 
Số liệu thu thập được phân tích bằng phần 
mềm SPSS phiên bản 20. So sánh các giá trị trung 
bình PI, GI, BOP, PD, CAL và số lượng vi khuẩn 
của 2 nhóm tại các thời điểm dùng phép kiểm 
định Mann Whitney; và cùng một nhóm giữa 2 
thời điểm dùng kiểm định Wilcoxon. Các phép 
kiểm có ý nghĩa thống kê khi giá trị p < 0,05. 
KẾT QUẢ 
Mẫu nghiên cứu 
Tổng cộng có 50 bệnh nhân tham gia nghiên 
cứu, 25 bệnh nhân cho mỗi nhóm. Tại thời điểm 
T4, nhóm 1 có 1 bệnh nhân và nhóm 2 có 2 bệnh 
nhân không quay lại tái khám. Đến thời điểm T8, 
nhóm 1 tiếp tục mất 4 bệnh nhân và nhóm 2 mất 
3 bệnh nhân. Như vậy sau 8 tuần, có 40 bệnh 
nhân, trong đó mỗi nhóm có 20 bệnh nhân hoàn 
tất quy trình nghiên cứu (Sơ đồ 1) và được đưa 
vào phân tích kết quả sau cùng. Có 20 bệnh nhân 
ở nhóm 1 gồm 14 nam và 6 nữ, tuổi trung bình là 
48,7 ± 12,85 (từ 30 đến 77 tuổi); và 20 bệnh nhân 
ở nhóm 2 gồm 11 nam và 9 nữ, tuổi trung bình là 
49,2 ± 11,35 (từ 30 đến 68 tuổi). Không có sự khác 
biệt có ý nghĩa về giới tính và tuổi giữa hai nhóm 
(p > 0,05). 
Sơ đồ 1. Số bệnh nhân tại các thời điểm nghiên cứu 
Nhóm 1: PVP-I 1% Nhóm 2: Acid boric 0,75% 
Số bệnh nhân chọn vào nghiên cứu 
(n=50) 
n=25 
n=23 (mất 2) 
n=20 (mất 3) T8 
n=25 
n=24 (mất 1) 
n=20 (mất 4) 
T4 
T0 
n=20 
Đưa vào mẫu phân 
tích sau cùng các thời 
điểm T0, T4 và T8 
n=20 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018
 174
Các chỉ số nha chu toàn miệng 
Các chỉ số nha chu toàn miệng được trình 
bày ở bảng 1 và bảng 3. Tại thời điểm T0 các chỉ số 
nha chu toàn miệng (PI, GI, BOP, PD và CAL) ở 
2 nhóm khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 
0,05). Các chỉ số nha chu toàn miệng (PI, GI, 
BOP, PD và CAL) sau 4 tuần, 8 tuần so với thời 
điểm nền đều giảm có ý thống kê ở cả 2 nhóm (p 
< 0,05). So sánh giữa hai nhóm, các chỉ số PI, PD 
và CAL toàn miệng giảm tương tự nhau và khác 
biệt không có ý nghĩa thống kê sau 4 tuần, (p > 
0,05). Chỉ số GI và BOP ở nhóm 2 giảm nhiều 
hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm 1 (p < 0,05) 
tại thời điểm T4, T8. 
Số lượng vi khuẩn 
Số lượng vi khuẩn Aa, Pg trung bình được 
trình bày ở bảng 2. Số lượng vi khuẩn Aa, Pg của 
mỗi nhóm sau 4 tuần, 8 tuần điều trị so với thời 
điểm nền đều cho thấy có sự giảm có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,01). Cả hai loại vi khuẩn, nhóm 2 
giảm nhiều hơn so với nhóm 1 sau 4 tuần, 8 tuần 
điều trị, nhưng không khác biệt có ý nghĩa thống 
kê (p > 0,05). 
Bảng 1. Chỉ số nha chu toàn miệng 
Nhóm Thời điểm T0 n=20 Thời điểm T4 n=20 p
(1)
 Thời điểm T8 n=20 p
(1)
PI 
Nhóm 1: PVP-I 1% 1,74 ± 0,19 0,57 ± 0,10 <0,001 0,56 ± 0,10 <0,001 
Nhóm 2: AB 0,75% 1,72 ± 0,16 0,55 ± 0,14 <0,001 0,53 ± 0,12 <0,001 
p
(2)
 0,185 0,235 0,146 
GI 
Nhóm 1: PVP-I 1% 1,85 ± 0,10 1,21 ± 0,28 <0,001 1,15 ± 0,37 <0,001 
Nhóm 2: AB 0,75% 1,81 ± 0,14 0,89 ± 0,09 <0,001 0,81 ± 0,12 <0,001 
p
(2)
 0,068 < 0,001 < 0,001 
BOP 
Nhóm 1: PVP-I 1% 64,50 ± 13,14 20,23 ± 2,10 <0,001 19,18 ± 1,97 <0,001 
Nhóm 2: AB 0,75% 61,12 ± 12,60 12,32 ± 3,54 <0,001 11,19 ± 3,18 <0,001 
p
(2)
 0,054 <0,001 <0,001 
Số liệu trình bày: TB±ĐLC, (1)Kiểm định Wilcoxon. 
(2)Kiểm định Mann Whitney; có ý nghĩa thống kê khi p<0,05. 
Bảng 2. Số lượng vi khuẩn (log10(copies/1ml) 
Nhóm Thời điểm T0 n=20 Thời điểm T4 n=20 p
(1)
 Thời điểm T8 n=20 p
(1)
Vi khuẩn Aa 
Nhóm 1: PVP-I 1% 3,78 ± 2,02 2,95 ± 1,65 <0,001 3,00 ± 1,54 <0,001 
Nhóm 2: AB 0,75% 3,52 ± 2,14 2,61 ± 1,82 <0,001 2,67 ± 1,78 <0,001 
p
(2)
 0,871 0,506 0,632 
Vi khuẩn Pg 
Nhóm 1: PVP-I 1% 5,87 ± 1,35 4,68 ± 0,96 <0,001 4,87 ± 0,94 <0,001 
Nhóm 2: AB 0,75% 6,42 ± 1,35 5,10 ± 1,16 <0,001 5,32 ± 1,14 <0,001 
p
(2)
 0,265 0,429 0,232 
Số liệu trình bày: TB ± ĐLC; (1)Kiểm định Wilcoxon 
(2)Kiểm định Mann Whitney; Có ý nghĩa thống kê khi p<0,05. 
Bảng 3. Chỉ số PD và CAL (mm) toàn miệng và tại các túi nha chu trung bình và sâu 
Nhóm Thời điểm T0 n=20 Thời điểm T4 n=20 p
(1)
 Thời điểm T8 n=20 p
(1)
Toàn miệng PD 
Nhóm 1: PVP-I 1% 3,12 ± 0,33 2,54 ± 0,24 <0,001 2,51 ± 0,25 <0,001 
Nhóm 2: AB 0,75% 3,21 ± 0,19 2,56 ± 0,11 <0,001 2,55 ± 0,10 <0,001 
p
(2)
 0,104 0,161 0,393 
Toàn miệng CAL 
Nhóm 1: PVP-I 1% 3,53 ±0,15 2,92 ± 0,16 <0,001 2,87 ± 0,15 <0,001 
Nhóm 2: AB 0,75% 3,55 ± 0,17 2,89 ± 0,13 <0,001 2,87 ± 0,14 <0,001 
p
(2)
 0,065 0,501 0,601 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
 175
Nhóm Thời điểm T0 n=20 Thời điểm T4 n=20 p
(1)
 Thời điểm T8 n=20 p
(1)
Túi nha chu trung bình (PD≥ 5mm và PD<7mm) PD 
Nhóm 1: PVP-I 1% 5,70 ± 0,28 4,17 ± 0,39 <0,001 4,09 ± 0,39 <0,001 
Nhóm 2: AB 0,75% 5,63 ± 0,35 3,79 ± 0,36 <0,001 3,71 ± 0,4 <0,001 
p
(2)
 0,068 <0,001 0,002 
Túi nha chu trung bình (PD≥ 5mm và PD<7mm) CAL 
Nhóm 1: PVP-I 1% 6,7 ± 0,55 5,18 ± 0,56 <0,001 5,09 ± 0,58 <0,001 
Nhóm 2: AB 0,75% 6,63 ± 0,72 4,81 ± 0,72 <0,001 4,71 ± 0,85 <0,001 
p
(2)
 0,492 0,007 0,009 
Túi nha chu sâu (PD≥7mm) PD 
Nhóm 1: PVP-I 1% 7,58 ± 0,32 5,85 ± 0,17 <0,001 5,86 ± 0,26 <0,001 
Nhóm 2: AB 0,75% 7,76 ± 0,39 5,6 ± 0,36 <0,001 5,9 ± 0,52 <0,001 
p
(2)
 0,058 0,009 0,876 
Túi nha chu sâu (PD≥7mm) CAL 
Nhóm 1: PVP-I 1% 8,60 ± 0,71 6,93 ± 0,73 <0,001 6,94 ± 0,66 <0,001 
Nhóm 2: AB 0,75% 8,68 ± 0,81 6,52 ± 0,80 <0,001 6,79 ± 0,93 <0,001 
p
(2)
 0,148 0,009 0,37 
Số liệu trình bày: TB±ĐLC; (1) Kiểm định Wilcoxon; (2) Kiểm định Mann Whitney; Có ý nghĩa thống kê khi p<0,05. 
Tại các túi nha chu trung bình (PD ≥ 5mm và < 
7mm) 
Kết quả trong bảng 3 cho thấy chỉ số PD và 
CAL của những túi sâu trung bình ở hai nhóm 
tại thời điểm nền không có khác biệt có ý nghĩa 
thống kê (p > 0,05). Có sự giảm rõ rệt giá trị của 
PD và CAL ở cả 2 nhóm sau 4 tuần, 8 tuần điều 
trị so với thời điểm nền (p < 0,001). Chỉ số PD và 
CAL của nhóm 2 giảm nhiều hơn có ý nghĩa 
thống kê so với nhóm 1 tại 4 tuần, 8 tuần sau 
điều trị (p < 0,01). 
Tại các túi nha chu sâu (PD≥ 7mm) 
Kết quả trong bảng 3 cho thấy chỉ số PD và 
CAL của những túi sâu ở hai nhóm tại thời điểm 
nền không có khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 
0,05). Chỉ số PD và CAL ở cả hai nhóm sau 4 
tuần, 8 tuần điều trị giảm có ý nghĩa so với thời 
điểm nền (p < 0,001). Chỉ số PD và CAL của 
nhóm 2 giảm nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so 
với nhóm 1 tại 4 tuần. Tuy nhiên mức độ giảm 
PD và CAL của mỗi nhóm không khác biệt so 
với nhóm còn lại sau 8 tuần (p > 0,05). 
BÀN LUẬN 
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng 
dung dịch PVP-I 1% như là “dung dịch chứng” 
khi so sánh với dung dịch AB 0,75%. PVP-I là 
một dung dịch hỗ trợ phổ biến đối với liệu pháp 
nha chu hiện tại. Nồng độ diệt khuẩn tối ưu của 
PVP-I là từ 0,01% đến 1% trong môi trường thí 
nghiệm. Với nồng độ trong khoảng này, dung 
dịch PVP-I chứa lượng i-ốt tự do cao nên có tính 
sát khuẩn nhanh và mạnh(13). PVP-I 1% cũng 
đang được sử dụng bơm rửa túi nha chu trong 
điều trị viêm nha chu tại Khoa Răng Hàm Mặt. 
AB là một axit yếu của boron, thường được 
dùng làm chất sát khuẩn tại chỗ do có tính kiềm 
khuẩn, kiềm nấm và đã được ứng dụng nhiều 
trong lĩnh vực y khoa như: sát khuẩn mắt, phòng 
ngừa viêm tai, vệ sinh sản phụ khoa, là thành 
phần của dung dịch súc miệng. Saglam và cs 
(2013) trong một nghiên cứu lâm sàng so sánh 
hiệu quả của AB với Chlorhexidine đã kết luận 
AB 0,75% có thể thay thế Chlorhexidine 0,2% 
trong điều trị VNCM vì có nhiều lợi ích hơn 
trong việc giảm mức độ chảy máu, giảm độ sâu 
túi và mức mất bám dính đối với những túi nha 
chu trung bình ở giai đoạn sớm(15). 
Nghiên cứu chúng tôi cho thấy cả AB 0,75% 
và PVP-I 1% đều làm giảm các chỉ số lâm sàng 
và vi sinh của bệnh nhân sau 4 tuần, 8 tuần điều 
trị VNCM. Nhóm AB 0,75% cho thấy có hiệu quả 
hơn là giảm các chỉ số GI, BOP toàn miệng cũng 
như PD và CAL ở những túi nha chu trung bình 
sau 4 tuần, 8 tuần so với nhóm PVP-I 1%. Chỉ số 
PD và CAL ở những túi nha chu sâu cũng giảm 
nhiều hơn có ý nghĩa ở nhóm AB 0,75% so với 
nhóm PVP-I 1% ở thời điểm sau 4 tuần, tuy 
nhiên tại thời điểm sau 8 tuần thì sự khác biệt 
không có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm. Ngoài 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018
 176
ra, số lượng vi khuẩn Aa, Pg của bệnh nhân 
VNCM của hai nhóm đều giảm có ý nghĩa sau 
điều trị 4 tuần, 8 tuần cùng với việc giảm có ý 
nghĩa thống kê các chỉ số nha chu lâm sàng ở cả 
hai nhóm sau điều trị. Tuy nhiên, không có sự 
khác biệt có ý nghĩa về sự giảm số lượng vi 
khuẩn giữa hai nhóm 4 hay 8 tuần sau điều trị. 
Kết quả nghiên cứu này tương đồng với nghiên 
cứu của Phan Đình Nhất (2017) khi so sánh giữa 
hiệu quả của dung dịch AB 0,5% và PVP-I 0,1%, 
hai nồng độ thấp hơn sử dụng trong nghiên cứu 
của chúng tôi, trong điều trị hỗ trợ VNCM. Kết 
quả cũng cho thấy dung dịch AB 0,5% có hiệu 
quả hơn PVP-I 0,1% là làm giảm các chỉ số PD và 
CAL của túi nha chu trung bình sau điều trị 2 
tháng. Tuy nhiên, hiệu quả bơm rửa của hai 
dung dịch này lại không khác biệt ở những túi 
nha chu sâu như trong nghiên cứu của chúng 
tôi(12). Kết quả nghiên cứu của Singhal và cs 
(2018) trong điều trị sang thương vùng chẽ cho 
thấy sử dụng gel AB 0,75% hỗ trợ LC & XLMCR 
mang lại sự cải thiện các thông số lâm sàng 
nhiều hơn có ý nghĩa so với giả dược(18). 
Kanoriya và cs (2018) nghiên cứu cũng cho thấy 
sử dụng gel AB 0,75% mang lại sự cải thiện cả 
trên kết quả lâm sàng và phim X-quang trong 
điều trị cho bệnh nhân VNCM(9). 
Ince (2010) báo cáo rằng AB ngăn cản sự phá 
hủy oxi hóa bởi sự tăng các yếu tố kháng oxi hóa, 
glutathione và bằng cách đẩy mạnh các yếu tố 
trung hòa các hoạt động oxi hóa(8). Akalin và cs 
(2007) chứng minh rằng có mối liên hệ thuận và 
mạnh giữa nồng độ lipid bị phá hủy oxi hóa 
trong dịch nướu (gingival crevicular fluid, GCF), 
mức peroxy hóa lipid [lipid peroxidation (LPO) 
levels], tổng trạng oxi hóa (total oxidant status, 
TOS) với PD, CAL(1). Như vậy, có thể giải thích 
hiệu quả của AB lên mô nha chu, đặc biệt đối với 
túi trung bình ở nghiên cứu này khi so sánh với 
PVP-I là do AB làm tăng yếu tố kháng oxi hóa ở 
mô nha chu. Trong nghiên cứu này có thể thấy 
AB có hiệu quả trong lành thương ở giai đoạn 
sớm khi thể hiện sự giảm nhiều hơn có ý nghĩa 
của chỉ số PD và CAL ở nhóm AB so với nhóm 
PVP-I tại thời điểm 4 tuần. Dzondo-Gadet và cs 
(2002) cho rằng AB kích thích các yếu tố tăng 
trưởng phiên mã RNA liên quan đến sự hình 
thành mạch và sữa chữa lành thương(5). AB làm 
tăng tổng hợp yếu tố tăng trưởng mạch máu nội 
mô (VEGF) và yếu tố tăng trưởng chuyển dạng 
beta (TGF β). VEGF đóng vai trò quan trọng 
trong sự tạo thành mạch máu của sự lành 
thương(14). TGF β cũng được cho là có liên quan 
với sự hình thành mạch và sữa chữa vết 
thương(2). Boron còn có vai trò trong điều hòa 
viêm và đáp ứng miễn dịch. Trong nghiên cứu 
này, có sự giảm GI, BOP nhiều hơn đáng kể ở 
nhóm AB so với nhóm chứng ở các thời điểm 
sau điều trị có lẽ là kết quả của tác dụng kháng 
viêm của boron. Kết quả này tương tự như trong 
nghiên cứu của Saglam và cs (2013)(15). 
Ở những túi nha chu sâu tại thời điểm 8 tuần 
sau điều trị có sự tăng nhẹ PD và CAL cùng với 
sự tái nhiễm nhẹ số lượng vi khuẩn Aa và Pg so 
với thời điểm 4 tuần sau điều trị. Sự tái nhiễm 
này có lẽ là do sự tăng sinh trở lại của các loài vi 
khuẩn Aa và Pg vì các vi khuẩn này có khả năng 
xuyên bám vào tế bào biểu mô nướu ở người(7). 
Ngoài ra, ở những túi nha chu sâu thì việc loại 
bỏ cao răng và mảng bám vi khuẩn trở nên khó 
khăn do khả năng tiếp cận hạn chế của dụng cụ, 
sang thương vùng chẽ, hiệu quả tự vệ sinh răng 
miệng của bệnh nhân thấpDo đó, đối với 
những túi nha chu lớn hơn 6mm, việc loại bỏ 
mảng bám ra khỏi bề mặt chân răng nên được 
tiến hành kết hợp với phẫu thuật lật vạt, quy 
trình này sẽ tạo được thuận lợi để tiếp cận trực 
tiếp về phía chóp của sang thương, làm tăng 
hiệu quả trong việc loại bỏ mảng bám vi khuẩn. 
KẾT LUẬN 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
AB 0,75% có hiệu quả hơn PVP-I 1% khi được sử 
dụng bơm rửa trong điều trị VNCM vì tác động 
làm giảm chỉ số GI, BOP toàn miệng cũng như 
chỉ số PD và CAL ở những túi có độ sâu trung 
bình sau 8 tuần. Trong tương lai cần có những 
nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn và thời gian theo 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 5 * 2018 Nghiên cứu Y học
 177
dõi dài hơn. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Akalin FA, Baltacio glu E, Alver A, Karabulut E (2007). “Lipid 
peroxidation levels and total oxidant status in serum, saliva and 
gingival crevicular fluid in patients with chronic periodontitis”. 
Journal of Clinical Periodontology; 34: 558-565. 
2. Blech MF, Martin C, Pichon M, Borrelly J, Hartemann P (1990). 
“The clinical and bacteriologic out come of wounds using 
different local antiseptics”. Journal of Orthopaedics, 4, 123–129. 
3. Colombo AP, Teles RP, Torres MC, Rosalém W, Mendes MC, 
Souto RM, Uzeda Md. (2005). “Effects of Non-Surgical 
Mechanical Therapy on the Subgingival Microbiota of Brazilians 
With Untreated Chronic Periodontitis: 9-Month Results”. Journal 
of Periodontology; 76(5): 778-784. 
4. Cugini MA, Haffajee AD, Smith C, Kent Jr. RL, Socransky SS 
(2000). “The effect of scaling and root planing on the clinical and 
microbiological parameters of periodontal diseases: 12-month 
results”. Journal of Clinical Periodontology; 27: 30–36. 
5. Dzondo-Gadet M, Mayap-Nzietchueng R, Hess K, Nabet P, 
Belleville F,Dousset B (2002). “Action of boron at the molecular 
level effects on transcription and translation in an acellular 
system”. Biological Trace Element Research; 85: 23-33. 
6. Haffajee AD, Torresyap G, Socransky SS (2007). “Clinical 
changes following four different periodontal therapies for the 
treatment of chronic periodontitis: 1 year results.” Journal of 
Clinical Periodontology; 34: 243–253. 
7. Hafajee AD, Socransky SS (1994) “Microbial etiological agents of 
destructive periodontal diseases”, Periodontology 2000; 5: 78-111. 
8. Ince S, Kucukkurt I, Cigerci IH, Fatih Fidan A, Eryavuz A (2010). 
“The effects of dietary boric acid and borax supplementation on 
lipid peroxidation, antioxidant activity, and DNA damage in 
rats”. Journal of Trace Elements in Medicine and Biology; 24: 161-
164. 
9. Kanoriya D, Singhal S, Garg V, Pradeep AR, Garg S, Kumar A 
(2018). “Clinical efficacy of subgingivally- delivered 0.75% boric 
acid gel as an adjunct to mechanotherapy in chronic 
periodontitis: A randomized, controlled clinical trial”. Journal of 
Investigative and Clinical Dentistry; 9: doi: 10.1111/jicd.12271 
10. Linder N, Davidovitch N, Reichman B, Kuint J, Lubin D, 
Meyerovitch J, Sela BA, Dolfin Z et al (1997). “Topical iodine-
containing antiseptics and subclinical hypothyroidism in 
preterm infants”. Journal of Pediatrics; 151: 434-439. 
11. Luan Q (2008). “Inhibition of Experimental Periodontitis by a 
Topical Boron-based Antimicrobial.”. Journal of Periodontal 
Research; 87: 148-152. 
12. Phan Đình Nhất, Phạm Anh Vũ Thụy (2017). “Tác động của 
dung dịch bơm rửa acid boric 0,5% lên tình trạng nha chu và 
bạch cầu nước bọt trong điều trị viêm nha chu mạn”. Tạp chí y 
học TP. Hồ Chí Minh; 21(4): 159-166. 
13. Rackur H (1985). “New aspects of mechanism of action of 
Povidone iodine”. The Journal of Hospital Infection; 6: 13-23 
14. Roberts AB, Sporn MB, Assoian RK, Smith JM, Roche NS, 
Wakefield LM, Heine UI, Liotta LA, et al. (1986). “Transforming 
growth factor type β: rapid induction of fibrosis and 
angiogenesis in vivo and stimulation of collagen formationin 
vitro”. Proceedings of the National Academy of Sciences of the United 
States of America; 83: 4167–4171. 
15. Sağlam M, Arslan U, Buket Bozkurt Ş, & Hakki, SS. (2013). 
“Boric acid irrigation as an adjunct to mechanical periodontal 
therapy in patients with chronic periodontitis: a randomized 
clinical trial”. Journal of Periodontology; 84(9): 1297-1308. 
16. Salminen A1, Gursoy UK, Paju S, Hyvärinen K, Mäntylä P, 
Buhlin K, Könönen E, Nieminen MS et al (2014). “Salivary 
biomarkers of bacterial burden, inflammatory response, and 
tissue destruction in periodontitis” Journal of Clinical 
Periodontology; 41: 442-50. 
17. Slots J (2002). “Selection of antimicrobial agents in periodontal 
therapy”. Journal of Periodontal Research; 37: 389–398. 
18. Singhal S, Pradeep AR, Kanoriya D, Garg S, Garg V (2018), 
“Boric acid gel as local drug delivery in the treatment of class II 
furcation defects in chronic periodontitis: a randomized, 
controlled clinical trial”, Journal of Investigative and Clinical 
Dentistry; 9(1): doi: 10.1111/jicd.12279. 
19. The American Academy of Periodontology (2015). “American 
Academy of Periodontology Task Force report on the update to 
the 1999 classification of periodontal diseases and conditions”. 
Journal of Periodontology; 86: 835-838. 
20. Walker CB, Karpinia K, Baehni P. (2004). “Chemotherapeutics: 
antibiotics and other antimicrobials”. Periodontology 2000; 
36:146–165. 
Ngày nhận bài báo: 10/06/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/06/2018 
Ngày bài báo được đăng: 20/09/2018