Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 119
HIỆU QUẢ CỦA NƯỚC SÚC MIỆNG CHỨA TINH DẦU 
TRÊN LƯỢNG VI KHUẨN STREPTOCOCCUS MUTANS Ở BỆNH NHÂN 
MANG KHÍ CỤ CHỈNH HÌNH RĂNG MẶT CỐ ĐỊNH 
Võ Thị Thảo Nguyên*, Đặng Vũ Ngọc Mai** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của nước súc miệng chứa tinh dầu trên số lượng vi khuẩn 
Streptococcus mutans trong nước bọt ở bệnh nhân mang khí cụ chỉnh hình răng mặt cố định. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng thiết kế song song, ngẫu nhiên, 
mù đơn, có nhóm chứng, thực hiện trên 29 bệnh nhân đang điều trị chỉnh hình răng mặt với khí cụ cố định tại 
Khoa Răng Hàm Mặt - Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Các đối tượng được chia ngẫu nhiên thành 2 
nhóm: nhóm thử nghiệm (n=15) súc miệng bằng nước súc miệng chứa tinh dầu, nhóm chứng (n=14) súc miệng 
bằng nước muối sinh lí; súc miệng ngày 2 lần, mỗi lần 20 ml trong 30 giây. Nước bọt không kích thích được lấy 
trước khi súc miệng và sau khi dùng nước súc miệng 4 tuần. Nước bọt được pha loãng, cấy trên đĩa thạch MSB 
(Mitis Salivarius Bacitracin) là môi trường nuôi cấy chọn lọc đối với Streptococcus mutans, ủ yếm khí ở 370C 
trong 5 ngày, đếm số khúm vi khuẩn mọc trên mặt thạch sau đó tính ra số đơn vị tạo khúm/ml (CFU/ml). 
Kết quả: Số lượng vi khuẩn S.mutans trong nước bọt ở thời điểm ban đầu ở hai nhóm khác biệt không có ý 
nghĩa (p>0,05). Sau 4 tuần súc miệng với nước muối sinh lí, số lượng vi khuẩn S.mutans trong nước bọt tăng 
2,54% nhưng không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Ở nhóm súc miệng với nước súc miệng chứa tinh dầu, lượng 
vi khuẩn S.mutans giảm 50,48% và có ý nghĩa thống kê (p<0,01). 
Kết luận: Nghiên cứu bước đầu cho thấy nước súc miệng chứa tinh dầu có hiệu quả làm giảm số lượng vi 
khuẩn S.mutans trong nước bọt ở bệnh nhân mang khí cụ chỉnh hình răng cố định. Việc bổ sung nước súc miệng 
chứa tinh dầu vào quy trình vệ sinh răng miệng hàng ngày có thể đem lại lợi ích cho sức khỏe răng miệng của 
bệnh nhân. 
Từ khóa: nước súc miệng tinh dầu, Streptococcus mutans 
ABSTRACT 
EFFECT OF AN ESSENTIAL OILCONTAINING MOUTHRINSE 
ON SALIVARY STREPTOCOCCUS MUTANS LEVELS IN PATIENTS 
WITH FIXED ORTHODONTIC APPLIANCES 
Vo Thi Thao Nguyen, Dang Vu Ngoc Mai 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 2 - 2016: 119 - 125 
Objectives: The aim of this study was to determine the effect of an essential oil containing mouthrinse on 
salivary Streptococcus mutans levels in patients with fixed orthodontic appliances. 
Method: A single-blind, randomized controlled trial with two parallel groups design was conducted in 29 
orthodontic patients with fixed appliances at Faculty of Odonto-Stomatology, University of Medicine and 
Pharmacy at Ho Chi Minh City. The subjects were randomized into two groups: the experimental group (n=15 
patients) who rinsed with essential oil containing mouthrinse and the control group (n=14 patients) who rinsed 
* Khóa BS Răng Hàm Mặt 2008-2014, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP.HCM 
** Bộ môn NKCS, Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP.HCM 
Tác giả liên lạc: ThS. Đặng Vũ Ngọc Mai ĐT: 0918325781 Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 120
with physiological saline. They rinsed with 20ml for 30 seconds twice a day. On-stimulated salivary samples were 
collected at baseline and after 4 weeks. Colony-forming units per ml (CFU/ml) of Streptococcus mutans colonies 
on MSB Agar (Mitis Salivarius Bacitracin) were counted after 5 days of anaerobic incubation. 
Results: There was no statistically significant difference in mean of S.mutans CFU between the two groups 
at baseline (p>0.05). The control group showed an increase of 2.54% in the S.mutans CFU with no statistical 
significance (p>0.05). There was a significant difference in CFU between baseline and after 4 weeks in 
experimental group (p<0.01). The essential oil containing mouthrinse produced a reduction of 50.48% in the 
S.mutans CFU (p<0.01). 
Conclusion: Essential oil containing mouthrinse was found effectiveness in reducing the amount of 
S.mutans in saliva in patients with fixed orthodontic appliances. Adding essential oil containing mouthrinse to 
the standard oral hygiene regimen may be beneficial for orthodontic patients in maintaining proper oral health. 
Key words: essential oil containing mouthrinse, Streptococcus mutans 
MỞ ĐẦU 
Điều trị chỉnh hình răng mặt không chỉ 
mang lại một khớp cắn chức năng mà còn mang 
lại một nụ cười thẩm mỹ. Tuy mang lại nhiều lợi 
ích nhưng hình thức điều trị này cũng có thể là 
yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe răng miệng. 
Gắn khí cụ chỉnh hình răng mặt cố định không 
những gây cản trở vệ sinh răng miệng mà còn 
làm thay đổi cân bằng hệ vi sinh vật thường trú 
vùng miệng(14), đặc biệt là sự tăng lên đáng kể 
lượng vi khuẩn S. mutans trong mảng bám, nước 
bọt(3,12,13,14). Quá trình vệ sinh răng miệng có thể 
gặp khó khăn do đau, cản trở của mắc cài, dây 
cung, thun liên kết(11) Sự gia tăng vi khuẩn sinh 
acid làm giảm pH mảng bám cùng với việc gia 
tăng vị trí lưu giữ mảng bám vi khuẩn là những 
yếu tố dẫn đến sự xuất hiện của sang thương 
đốm trắng thường thấy trong giai đoạn điều trị 
chỉnh hình. Trên thế giới, nhiều nghiên cứu đã 
được thực hiện để tìm hiểu về hiệu quả của tác 
nhân hóa trị liệu như chlorhexidine, tinh dầu 
hay triclosan trong các dạng sản phẩm chăm sóc 
sức khỏe răng miệng như kem đánh răng, nước 
súc miệng, gel hay vec-ni... Trong các tác nhân 
kháng khuẩn, nước súc miệng chứa tinh dầu là 
loại nước súc miệng đã được sử dụng rộng rãi 
trên thế giới trong hơn một thế kỉ qua với ít tác 
dụng phụ(2). Nước súc miệng kháng khuẩn chứa 
0,092% eucalyptol; 0,042% menthol; 0,06% 
methyl salicylate; 0,064% thymol (Listerine®) và 
0,12% chlorhexidine gluconate (Peridex®) là hai 
loại nước súc miệng được ADA (American 
Dental Association) chứng nhận là tác nhân hóa 
trị liệu kiểm soát được mảng bám trên nướu và 
viêm nướu(2). Nước súc miệng kháng khuẩn 
chứa tinh dầu là một biện pháp hỗ trợ vệ sinh 
răng miệng an toàn, hiệu quả trong việc làm 
giảm viêm nướu, mảng bám. Song những 
nghiên cứu đánh giá hiệu quả của nước súc 
miệng chứa tinh dầu trên lượng vi khuẩn 
S.mutans trong mảng bám, nước bọt lại chưa đi 
đến một kết luận thống nhất. Do đó, chúng tôi 
thực hiện nghiên cứu này với mong muốn tìm 
hiểu nước súc miệng chứa tinh dầu có hiệu quả 
trong việc làm giảm số lượng vi khuẩn S.mutans 
trong nước bọt hay không; từ đó tiến tới xây 
dựng quy trình hướng dẫn vệ sinh răng miệng ở 
đối tượng mang mắc cài - đối tượng nhạy cảm 
cao với sâu răng trong giai đoạn điều trị chỉnh 
hình răng mặt. 
Mục tiêu tổng quát 
Đánh giá hiệu quả của nước súc miệng chứa 
tinh dầu trên số lượng vi khuẩn S.mutans trong 
nước bọt ở bệnh nhân mang khí cụ chỉnh hình 
răng mặt cố định. 
Mục tiêu cụ thể 
1- So sánh số lượng S.mutans trong nước bọt 
trước và sau khi súc miệng với nước súc miệng 
kháng khuẩn chứa tinh dầu trong 4 tuần (nhóm 
thử nghiệm) 
2- So sánh số lượng S.mutans trong nước bọt 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 121
trước và sau khi súc miệng với nước muối sinh lí 
trong 4 tuần (nhóm chứng) 
3- So sánh hiệu quả làm thay đổi số lượng 
S.mutans trong nước bọt giữa nhóm thử nghiệm 
và nhóm chứng. 
ÐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Thử nghiệm lâm sàng, thiết kế song song, 
ngẫu nhiên, mù đơn, có nhóm chứng. 
Đối tượng nghiên cứu 
Mẫu nghiên cứu 
Mẫu nghiên cứu gồm 29 bệnh nhân đang 
điều trị chỉnh hình răng mặt với khí cụ cố định 
tại Khu điều trị 4 - Khoa Răng Hàm Mặt - Đại 
học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. 
Tiêu chuẩn chọn mẫu 
Tuổi từ 18-35, tình trạng sức khỏe toàn 
thân tốt. 
Tình trạng răng miệng và ý thức giữ gìn vệ 
sinh răng miệng khá. 
Điều trị chỉnh hình với mắc cài kim loại ở 
răng trước và răng cối nhỏ, khâu ở răng cối lớn. 
Tự nguyện kí tên đồng ý tham gia sau khi đã 
được thông tin đầy đủ về mục đích và quá trình 
nghiên cứu. 
Sẵn sàng hoàn thành nghiên cứu theo đúng 
tiến trình của đề tài. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Có răng sâu chưa điều trị 
Dùng kháng sinh toàn thân hay tại chỗ trong 
vòng 1 tháng trước đó. 
Mắc các bệnh toàn thân. 
Dùng nước súc miệng kháng khuẩn trong 
vòng 1 tháng trước đó. 
Có tiền sử nhạy cảm với bất kì nước súc 
miệng kháng khuẩn nào. 
Phân nhóm: 29 bệnh nhân được phân ngẫu 
nhiên thành 2 nhóm. Nhóm 1: 15 bệnh nhân súc 
miệng bằng nước súc miệng chứa tinh dầu 
(NSM chứa tinh dầu). Nhóm 2: 14 bệnh nhân súc 
miệng bằng nước muối sinh lí (NMSL). 
Phương pháp nghiên cứu 
Phương tiện nghiên cứu 
Phương tiện vệ sinh răng miệng: Kem đánh 
răng không chứa thành phần diệt khuẩn 
(Colgate® ngừa sâu răng tối đa), bàn chải mềm 
(Colgate ® Slim soft chăm sóc nướu), nước súc 
miệng chứa tinh dầu (Listerine ® Cool Mint), 
nước muối sinh lí NaCl 0,9% (Công ty cổ phần 
thương mại thiết bị Y tế Vĩnh Phúc). 
Phương tiện thu thập nước bọt: ly thủy tinh 
có nắp đậy (hấp vô trùng). 
Vật liệu, dụng cụ trong xét nghiệm vi sinh: 
Ống nghiệm, que cấy, pipette 10 ml, pipet 1 ml, 
micro pipette (hấp vô trùng), nước cất vô trùng, 
bình ủ yếm khí GasPak® anaerobic jar (Becton, 
Dickinson and Company, USA), túi tạo môi 
trường yếm khí AnaeroGen 2.5 litre (Oxoid, UK), 
giấy chỉ thị môi trường yếm khí Anaerobic 
indicator (Oxoid, UK), tủ ủ 37oC . 
Môi trường nuôi cấy vi khuẩn: Đĩa thạch 
MSB (Mitis Salivarius Agar bổ sung bacitracin 
và sucrose) là môi trường chọn lọc đối với 
S. mutans. 
Quy trình thực hiện 
Nghiên cứu gồm 1 giai đoạn rửa (trước khi 
lấy mẫu lần đầu tiên 1 tuần) và 2 lần lấy mẫu 
(trước súc miệng và sau khi súc miệng 4 tuần). 
Giai đoạn rửa 
Bệnh nhân thỏa các tiêu chuẩn chọn mẫu 
được cung cấp bàn chải, kem đánh răng và bản 
hướng dẫn vệ sinh răng miệng. 
Lấy mẫu 
Lần 1: Trước khi dùng nước súc miệng: 
- Quy trình lấy nước bọt: cho bệnh nhân ngồi 
thẳng trong tư thế thoải mái, đầu nghiêng nhẹ về 
phía trước; yêu cầu bệnh nhân nuốt hết nước bọt 
trong miệng sau đó không nuốt nước bọt trong 5 
phút rồi nhổ hết nước bọt trong miệng vào ly 
thủy tinh vô trùng có nắp đậy. 
A 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 122
- Mỗi bệnh nhân được cung cấp nước súc 
miệng chứa tinh dầu hoặc nước muối sinh lí đủ 
dùng trong 4 tuần. Dùng nước súc miệng sau khi 
chải răng vào buổi sáng sau khi ăn sáng và buổi 
tối trước khi đi ngủ: mỗi lần 20 ml nước súc 
miệng trong 30 giây, không ăn uống sau ít nhất 
30 phút. 
Lần 2: Sau khi dùng nước súc miệng 4 tuần: 
tương tự như lần 1. 
Quy trình vi sinh 
Nước bọt được lắc đều, pha loãng 1ml nước 
bọt với nước cất vô trùng với tỉ lệ 1/103, lấy 20μl 
nước bọt đã pha loãng cấy vào thạch chọn lọc 
MSB. Ủ thạch trong môi trường yếm khí ở 370C 
trong 5 ngày và đếm số khúm vi khuẩn mọc trên 
mặt thạch sau đó tính ra số đơn vị tạo khúm/ml 
(CFU/ml). 
KẾT QUẢ 
Kiểm định Mann - Whitney U về số lượng 
trung bình vi khuẩn S.mutans trong nước bọt 
(CFU/ml) của hai nhóm ở thời điểm ban đầu cho 
thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
(p>0,05) (Bảng 1). 
Bảng 1. Số lượng vi khuẩn S.mutans (CFU/ml) trong 
nước bọt so sánh giữa hai nhóm trước khi dùng nước 
súc miệng: 
Loại NSM n 
Trước súc miệng 
(x10
5
 CFU/ml) 
NSM chứa tinh dầu 15 61,27 ± 98,23 
NMSL 14 39,00 ± 37,52 
p=0,810 Kiểm định Mann – Whitney U 
Sự thay đổi số lượng vi khuẩn S.mutans 
trong nước bọt trước và sau khi dùng mỗi 
loại nước súc miệng 
Số lượng trung bình S.mutans (CFU/ml) giảm 
có ý nghĩa thống kê ở nhóm dùng nước súc 
miệng chứa tinh dầu (p<0,01); ở nhóm chứng, số 
lượng trung bình S.mutans khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê (p>0,05) (Bảng 2). 
Bảng 2. Sự thay đổi số lượng vi khuẩn S.mutans (CFU/ml) trong nước bọt trước và sau khi dùng mỗi loại nước 
súc miệng 
Loại NSM n Trước súc miệng (x10
5
 CFU/ml) Sau súc miệng (x10
5
 CFU/ml) p* 
NSM chứa tinh dầu 15 61,27 ± 98,23 28,33 ± 59,87 0,003 
NMSL 14 39,00 ± 37,52 59,36 ± 63,45 0,510 
(*)Test Wilcoxon 
So sánh hiệu quả làm thay đổi số lượng vi 
khuẩn S.mutans trong nước bọt giữa nước 
súc miệng chứa tinh dầu và nước muối sinh 
lí 
Sau khi dùng nước súc miệng chứa tinh dầu, 
số lượng vi khuẩn S.mutans trong nước bọt giảm 
trung bình 32,93 x 105 CFU/ml. Trong khi đó, ở 
nhóm dùng nước muối sinh lí tăng trung bình 
20,36 x 105 CFU/ml. Sử dụng kiểm định phi tham 
số cho hai mẫu độc lập Mann - Whitney U để so 
sánh sự thay đổi số lượng vi khuẩn trước và sau 
khi dùng nước súc miệng của hai nhóm cho thấy 
sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê 
(p>0,05) (Bảng 3). 
Bảng 3. So sánh hiệu quả làm thay đổi số lượng S.mutans (CFU/ml) trong nước bọt giữa nước súc miệng chứa 
tinh dầu và nước muối sinh lí 
Loại NSM n Trước súc miệng (x10
5
 CFU/ml) Sau súc miệng (x10
5
 CFU/ml) Thay đổi (x10
5
 CFU/ml) 
NSM chứa tinh dầu 15 61,27 ± 98,23 28,33 ± 59,87 Giảm 32,93 ± 46,22 
NMSL 14 39,00 ± 37,52 59,36 ± 53,45 Tăng 20,36 ± 58,80 
 p= 0,817 Kiểm định Mann - Whitney U 
Sau khi dùng nước súc miệng, tỉ lệ vi khuẩn 
S.mutans trong nước bọt giảm trung bình 50,48 % 
và tăng trung bình 2,54 % tương ứng ở nhóm thử 
nghiệm và nhóm chứng. Sử dụng kiểm định phi 
tham số cho hai mẫu độc lập Mann - Whitney U 
để so sánh hiệu quả làm thay đổi phần trăm (%) 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 123
số lượng vi khuẩn trước và sau khi dùng nước 
súc miệng cho thấy sự khác biệt này không có ý 
nghĩa thống kê (p>0,05) (Bảng 4). 
Bảng 4. So sánh tỉ lệ phần trăm (%) thay đổi số 
lượng S.mutans (CFU/ml) trong nước bọt giữa nước 
súc miệng chứa tinh dầu và nước muối sinh lí 
Loại NSM N Thay đổi (%) 
NSM chứa tinh dầu 15 Giảm 50,48 ± 38,47 
NMSL 14 Tăng 2,54 ± 776,68 
p=0,728 Kiểm định Mann - Whitney U 
BÀN LUẬN 
Kết quả nghiên cứu cho thấy sau khi súc 
miệng với nước súc miệng chứa tinh dầu trong 4 
tuần, lượng S.mutans trong nước bọt giảm 
50,48% so với thời điểm ban đầu và sự giảm này 
có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Kết quả này phù 
hợp với kết quả nghiên cứu của Fine và cs 
(2000)(8) và Agarwal và cs (2011)(1). Nghiên cứu 
của Fine và cs ghi nhận rằng nước súc miệng 
chứa tinh dầu có tác dụng làm giảm 39,2% lượng 
S.mutans trong nước bọt không kích thích sau 
khi súc miệng trong 11 ngày. Tương tự như vậy, 
nghiên cứu của Agarwal và cs cũng kết luận 
lượng vi khuẩn S.mutans trong nước bọt không 
kích thích giảm có ý nghĩa sau 7 ngày dùng nước 
súc miệng chứa tinh dầu. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ 
lệ phần trăm giảm số lượng vi khuẩn S.mutans 
sau khi dùng nước súc miệng chứa tinh dầu cao 
hơn trong nghiên cứu của Fine và cs. Điều này 
có thể do hai nghiên cứu khác nhau về một số 
yếu tố như số lượng vi khuẩn trong nước bọt ở 
thời điểm ban đầu và thời gian dùng nước súc 
miệng. Trong nghiên cứu của Fine và cs (2000), 
các cá thể có số lượng vi khuẩn S.mutans trung 
bình trong nước bọt ban đầu là 104,38 (2,4x104) 
CFU/ml. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả 
các đối tượng của nhóm dùng nước súc miệng 
chứa tinh dầu đều có lượng vi khuẩn ban đầu ở 
mức cao ≥ 7x105 CFU/ml. Đây có thể là lí do 
khiến tác dụng của nước súc miệng chứa tinh 
dầu thể hiện rõ nét hơn. Bên cạnh đó, thời gian 
súc miệng trong nghiên cứu này là 4 tuần, dài 
hơn đáng kể so với thời gian 11 ngày trong 
nghiên cứu của Fine và cs (2000). 
Tuy nhiên, kết quả thu được trong nghiên 
cứu của chúng tôi không nhất quán với nghiên 
cứu của Fard và cs (2010)(7) ghi nhận nước súc 
miệng chứa tinh dầu không có tác dụng làm 
giảm có ý nghĩa số lượng S.mutans trong nước 
bọt. Về phương pháp, nghiên cứu có những 
điểm khá tương đồng với nghiên cứu của chúng 
tôi như đối tượng nghiên cứu là bệnh nhân đang 
điều trị chỉnh hình, thời gian dùng nước súc 
miệng là 3 tuần. Song cũng có khác biệt quan 
trọng là sử dụng bộ kit Strip-Mutans (Orion 
Diagnostica, Strip-Mutans, Finland) để đánh giá 
sự thay đổi số lượng vi khuẩn S.mutans trong 
nước bọt kích thích. Đây là phương pháp đánh 
giá bán định lượng, vi khuẩn được nuôi cấy 
trong 48 giờ và được so sánh với biểu mẫu của 
nhà sản xuất để đọc kết quả. Vì thế, sự khác biệt 
số lượng S.mutans trước và sau khi dùng nước 
súc miệng có thể biểu hiện không rõ như trong 
phương pháp trực tiếp đếm số lượng khúm vi 
khuẩn mọc trên thạch chọn lọc. 
Hiệu quả làm giảm lượng vi khuẩn S.mutans 
của nước súc miệng tinh dầu có thể được giải 
thích bởi khả năng kháng khuẩn phổ rộng của 
hỗn hợp các tinh dầu thuộc nhóm hợp chất 
phenolic chứa trong nước súc miệng (thymol, 
menthol, eucalyptol, methyl salicylate)(4). Tinh 
dầu tiêu diệt vi khuẩn bằng cách phá vỡ sự liên 
tục của màng tế bào vi khuẩn và ức chế hoạt 
động của enzyme vi khuẩn(2). Đặc tính kị nước 
của tinh dầu giúp tăng khả năng thâm nhập qua 
lớp màng lipid của tế bào vi khuẩn, làm biến tính 
protein màng, gây thủng/biến dạng màng tế bào, 
từ đó làm tăng tính thấm dẫn đến sự thoát ra 
ngoài của các thành phần nội bào và gây chết tế 
bào vi khuẩn(6). Sự hư hại màng tế bào gây ảnh 
hưởng trực tiếp và gián tiếp đến hàng loạt chức 
năng sống của vi khuẩn. Ngoài ra, việc mất tính 
nguyên vẹn của màng tế bào làm thay đổi tính 
kết dính của vi khuẩn (vi khuẩn đến sau kết dính 
vào vi khuẩn đến trước) và khả năng tái đóng 
khúm của vi khuẩn, từ đó làm giảm tỉ lệ mảng 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 124
bám vi khuẩn trưởng thành và làm giảm khối 
lượng mảng bám vi khuẩn(4). 
Khác với các nước súc miệng không kê toa 
khác, nước súc miệng chứa tinh dầu được chứng 
minh có khả năng thâm nhập vào màng sinh học 
và tác động lên các vi khuẩn nằm sâu trong 
màng sinh học(4). Nước súc miệng chứa tinh dầu 
tiêu diệt nhiều loại vi khuẩn hiếu khí và yếm khí 
tùy nghi liên quan đến màng sinh học, trong đó 
có S.mutans. Báo cáo gần đây của Oyanagi và cs 
(2012)(10) ghi nhận nước súc miệng chứa tinh dầu 
có khả năng tiêu diệt S.mutans ở trạng thái tự do 
cũng như nằm sâu trong màng sinh học. Những 
kết quả này giải thích về khả năng làm giảm số 
lượng vi khuẩn S.mutans trong nước bọt của 
nước súc miệng chứa tinh dầu. 
Hiệu quả cơ học của việc súc miệng có thể 
được loại trừ khi kết quả nghiên cứu cho thấy 
súc miệng với nước muối sinh lí sau 4 tuần 
không làm thay đổi có ý nghĩa số lượng vi khuẩn 
S.mutans trong nước bọt (p>0,05). Nước muối 
sinh lí trong nghiên cứu của chúng tôi đóng vai 
trò nhóm chứng âm để đánh giá hiệu quả cơ học 
của việc súc miệng. Nghiên cứu của Fine và cs 
(2000)(9) sử dụng nước làm nhóm chứng âm cũng 
ghi nhận kết quả tương tự: số lượng vi khuẩn 
S.mutans trung bình trong nước bọt ở thời điểm 
trước và sau thử nghiệm lần lượt là 104,39 và 104,40 
(p>0,05). Kết quả này cũng tương đồng với kết 
quả ghi nhận được ở nhóm chứng âm (nước 
muối sinh lí) trong nghiên cứu của Dogan và cs 
(2009)(5). 
Kết quả nghiên cứu này cho thấy nước súc 
miệng chứa tinh dầu có khả năng làm giảm có ý 
nghĩa 50,48% số lượng vi khuẩn S.mutans trong 
nước bọt, trong khi đó, nước muối sinh lí không 
làm thay đổi có ý nghĩa số lượng vi khuẩn 
S.mutans sau 4 tuần thử nghiệm. Song, kết quả so 
sánh hiệu quả của hai loại nước súc miệng cho 
thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. 
Điều này có thể do nghiên cứu thực hiện trên cỡ 
mẫu nhỏ (nhóm thử nghiệm n=15, nhóm chứng 
n=14), làm cho sự khác biệt giữa hai nhóm không 
được biểu hiện rõ ràng. 
KẾT LUẬN 
1. Ở nhóm nước súc miệng chứa tinh dầu: số 
lượng S.mutans trong nước bọt trước khi dùng 
nước súc miệng là 61,27 ± 98,23 x105 CFU/ml, sau 
khi súc miệng là 28,33 ± 59,87 x105 CFU/ml. Số 
lượng vi khuẩn giảm 50,48% và có ý nghĩa thống 
kê (p<0,01). 
2. Ở nhóm nước muối sinh lí: số lượng 
S.mutans trong nước bọt trước khi dùng nước 
súc miệng là 39,00 ± 37,52 x105 CFU/ml, sau khi 
súc miệng là 59,36 ± 53,45 x105 CFU/ml. Số lượng 
vi khuẩn tăng 2,54% nhưng không có ý nghĩa 
thống kê (p>0,05). 
3. Sự thay đối số lượng và tỉ lệ phần trăm vi 
khuẩn S.mutans trong nước bọt trước và sau khi 
súc miệng giữa hai nhóm khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê (p>0,05). Nghiên cứu bước đầu 
cho thấy nước súc miệng chứa tinh dầu có hiệu 
quả làm giảm số lượng vi khuẩn S.mutans trong 
nước bọt ở bệnh nhân mang khí cụ chỉnh hình 
răng cố định. Việc bổ sung nước súc miệng chứa 
tinh dầu vào quy trình vệ sinh răng miệng hàng 
ngày có thể đem lại lợi ích cho sức khỏe răng 
miệng của bệnh nhân. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Agarwal P, Nagesh L (2011). Comparative evaluation of 
efficacy of 0.2% Chlorhexidine, Listerine and Tulsi extract 
mouth rinses on salivary Streptococcus mutans count of high 
school children-RCT. Contemp Clin Trials.; 32(6): 802-8. 
2. Asadoorian J (2006). CDHA Position Paper on Commercially 
Available Over-the-Counter Oral Rinsing Products. Canadian 
Journal Of Dental Hygiene (CJDH), 40(4): 1-13. 
3. Bouzgui F (2012). Orthodontics-Basic aspects and clinical 
consideraions. Intech. 
4. DePaola LG, Spolarich AE (2007). Safety and Efficacy of 
Antimicrobial Mouthrinses in Clinical Practice. Journal of 
Dental Hygiene; 81(5): 1-16. 
5. Dogan AA, Adilogu AK, Onal S, Cetin ES, Polat E, Uskun E, 
Koksal F (2008). Short-term relative antimicrobial effect of 
octenidine dihydrochloride on the oral microflora in 
orthodontically treated patients. International Journal of 
Infectious Diseases; 12: e19-e25. 
6. Faleiro ML (2011). The mode of antibacterial action of essential 
oil. Science against microbial pathogens, 1143-1156. 
7. Fard BK, Ghasemi M, Rastgariyan H, Sajjadi SH, Emami H, 
Amani M, Motamedi MHK (2011). Effectiveness of Mouth 
Washes on Streptococci in Plaque around Orthodontic 
Appliances. International Scholarly Research Network: 1-4. 
8. Fine DH, Furgang D, Barnett ML, Drew C, Steinberg L, 
Charles CH, Vincent JW (2000). Effect of an essential oil-
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 2 * 2016 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 125
containing antiseptic mouthrinse on plaque and salivary 
Streptococcus mutans levels. J Clin Periodontol; 27:157-161. 
9. Hamdan AM, Maxfield BJ, Tüfekçi E, Shroff B, Lindauer SJ 
(2012). Preventing and treating white-spot lesions associated 
with orthodontic treatment: A survey of general dentists and 
orthodontists. JADA; 143(7): 777 - 783. 
10. Oyanagi T, Tagami J, Martin K (2012). Potential of 
mouthwashes in disinfecting cariogenic bacteria and biofilms 
leading to inhibition of caries. The Open Dentistry Journal; 6: 23-
30. 
11. Phạm Lệ Quyên (2011). Tình trạng mảng bám ở bệnh nhân 
mang mắc cài chỉnh nha. Tạp chí Y học, 17: 58-64. 
12. Reddy PRR, Raghunandan C, Veena R, Ganeshbabu K (2011). 
Adhesion of cariogenic streptococci to orthodontic metal and 
ceramic bracket: a quantitative in-vitro study. Int. Journal of 
Contemporary Dentistry, 2(5): 66-75. 
13. Rosenbloom RG, Tinanoff N (1991). Salivary Streptococcus 
mutans levels in patients before, during, and after orthodontic 
treatment. Am J Orthodentofacorthop; 100: 35-7. 
14. Sari E, Birinci I (2007). Microbiological evaluation of 0.2% 
chlorhexidine gluconate mouthrinse in orthodontic patients. 
Angle Orthodontist; 77(5):881-884. 
Ngày nhận bài báo: 25/01/2016 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/02/2016 
Ngày bài báo được đăng: 25/03/2016