Tài liệu Hiện trạng chất lượng môi trường biển tại bãi Ngao Hiệp thạnh tỉnh Trà Vinh năm 2016 – 2017: Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 33
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG BIỂN TẠI BÃI NGAO HIỆP 
THẠNH TỈNH TRÀ VINH NĂM 2016 – 2017
MARINE ENVIRONMENTAL QUALITY OF HARD CLAM FARMING IN HIEP THANH 
BOROUGH, TRA VINH PROVINCE IN YEARS OF 2016 – 2017
Nguyễn Minh Hiếu *, Hoàng Trung Du,
 Võ Hải Thi, Nguyễn Trịnh Đức Hiệu
Ngày nhận bài: 26/6/2019; Ngày phản biện thông qua: 2/12/2019; Ngày duyệt đăng: 17/12/2019
TÓM TẮT
Trên cơ sở kết quả khảo sát môi trường nước biển tại bãi nuôi ngao thuộc xã Hiệp Thạnh, huyện Duyên 
Hải, tỉnh Trà Vinh trong thời gian 2016-2017, bài báo đã trình bày đặc điểm phân bố của một số yếu tố sinh 
thái trong vùng biển nghiên cứu. Trong đó, nhiệt độ có biên độ dao động nhỏ từ 29,4-31,6 ºC; còn độ mặn lại 
có biên độ dao động khá lớn từ 1,00-15,80 ‰, cả hai đều nằm trong giới hạn sống của ngao. Hàm lượng NH4
+ 
trung bình cao nhất vào cuối vụ là 195,97±59,35 µg/l và vượt gấp 2 lần giới hạn ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
8 trang | 
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 403 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện trạng chất lượng môi trường biển tại bãi Ngao Hiệp thạnh tỉnh Trà Vinh năm 2016 – 2017, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 33
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG BIỂN TẠI BÃI NGAO HIỆP 
THẠNH TỈNH TRÀ VINH NĂM 2016 – 2017
MARINE ENVIRONMENTAL QUALITY OF HARD CLAM FARMING IN HIEP THANH 
BOROUGH, TRA VINH PROVINCE IN YEARS OF 2016 – 2017
Nguyễn Minh Hiếu *, Hoàng Trung Du,
 Võ Hải Thi, Nguyễn Trịnh Đức Hiệu
Ngày nhận bài: 26/6/2019; Ngày phản biện thông qua: 2/12/2019; Ngày duyệt đăng: 17/12/2019
TÓM TẮT
Trên cơ sở kết quả khảo sát môi trường nước biển tại bãi nuôi ngao thuộc xã Hiệp Thạnh, huyện Duyên 
Hải, tỉnh Trà Vinh trong thời gian 2016-2017, bài báo đã trình bày đặc điểm phân bố của một số yếu tố sinh 
thái trong vùng biển nghiên cứu. Trong đó, nhiệt độ có biên độ dao động nhỏ từ 29,4-31,6 ºC; còn độ mặn lại 
có biên độ dao động khá lớn từ 1,00-15,80 ‰, cả hai đều nằm trong giới hạn sống của ngao. Hàm lượng NH4
+ 
trung bình cao nhất vào cuối vụ là 195,97±59,35 µg/l và vượt gấp 2 lần giới hạn cho phép (>100 µg/l). Còn 
hàm lượng TSS trung bình của cả ba đợt khảo sát đều vượt quá giới hạn cho phép (>50 mg/l) lần lượt: đầu vụ 
là 61,04±10,65 mg/l, giữa vụ là 150,46±19,21 mg/l và cuối vụ là 87,25±45,95 mg/l. Năng suất sinh học thô cao 
nhất vào cuối vụ (trung bình 169,23±81,80 mgC/m³/ngày) và nằm trong giới hạn của nhiều vùng biển ở Việt 
Nam. Hàm lượng Chlorophyll_a cao nhất vào đầu vụ (trung bình 11,69±2,97 µg/l). Diễn biến chất lượng môi 
trường cho thấy: các thông số: nhiệt độ, DO, BOD5, NO2
- ít có sự biến động trong khi đó các thông số quan 
sát còn lại (độ mặn, TSS, TOM, TN, TP, POC, NH4
+, NO3
-, PO4
3-, NSSH, Chlorophyll_a) đều có biến động 
khá cao. Có 7 thông số tập trung cao nhất vào cuối vụ: TOM, TN, TP, NH4
+, NO3
-, PO4
3-, NSSH và hàm lượng 
oxy trung bình thấp nhất cũng xuất hiện vào giai đoạn này. Bộ ba yếu tố DIN, DIP và Chlorophyll_a có tương 
quan thuận với nhau, với hệ số tương quan Pearson (r) dao động từ 0,342-0,756 (với mức ý nghĩa p < 0,05).
Từ khóa: Môi trường biển, bãi nuôi ngao, chất hữu cơ, muối dinh dưỡng.
ABSTRACT
Based on the results of marine environmental survey at hard clam farming in Hiep Thanh commune, 
Duyen Hai district, Tra Vinh province during 2016-2017. The article presented distribution characteristics of 
some ecological factors in the study area. In particular, the temperature has a small variation from 29.4-31.6 
ºC; the salinity has a quite large variation from 1.00-15.80 ‰; both are within the living limits of clam. The 
average content of NH4
+ is highest at the end of the season and higher 2 times than the limit allowed (>100 
µg/l - QCVN 10-MT:2015/BTNMT). The average content of TSS of all three survey periods are over the limit 
allowed (>50 mg/l - QCVN 10-MT:2015/BTNMT) in turn: at beginning season 61.04±10.65 mg/l, at mid-
season 150.46±19.21 mg/l and at the end of the season 87.25±45.95 mg/l. NSSH raw highest at the end of 
the season (average: 169.23±81.80 mgC/m³/ngày) and inside limit NSSH raw of many seas in Vietnam. The 
content of Chlorophyll_a highest at beginning season (average: 11.69±2.97 µg/l). Evolution of environmental 
quality shows that: The parameters of temperature, DO, BOD5, NO2
- have little fl uctuation while the remaining 
parameters (salinity, TSS, TOM, TN, TP, POC, NH4
+, NO3
-, PO4
3-, NSSH, Chlorophyll_a) have high fl uctuation. 
There are 7 parameters with highest concentration at the end of the season: TOM, TN, TP, NH4
+, NO3
-, PO4
3-, 
NSSH and the lowest average content of DO also appears at this stage. The parameters of DIN, DIP and Chl_a 
have a positive correlation with each other, with the correlation coeffi cient Pearson (r) ranged from 0.342 – 
0.756 (with p<0.05).
Keywords: Marine environment, hard clam farming, organic matter, nutrient.
¹ Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam
34 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngao Bến Tre (Meretrix lyrata hay lyrate 
asiatic hard clam) là một trong những đối 
tượng thủy sản có giá trị cao và cũng là loài 
chính được nuôi nhiều ở các vùng ven biển 
Việt Nam như: Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, 
Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau (Nguyễn Hữu 
Phụng, 1996).
Ngao Meretrix lyrata phân bố chủ yếu ở 
vùng triều, từ vùng cao triều đến vùng dưới 
triều, nơi có nền đáy là cát và cát pha bùn (20% 
bùn và 80% cát), với biên độ dao động về độ 
mặn từ 0-34‰ và nhiệt độ từ 15-32ºC (Chu Chí 
Thiết và Kuma, 2008). Ngao là loài động vật 
sống đáy chúng thường vùi mình sâu khoảng 
4cm, và sâu đến 10cm khi trời lạnh. Chúng lấy 
thức ăn bằng hình thức lọc để bắt các mảnh vụn 
hữu cơ, vi sinh vật và các loài thực vật phù du 
có kích cỡ thích hợp.
Ở Việt Nam, ngao được nuôi với kỹ thuật 
nuôi đơn giản, chu kỳ nuôi ngắn, hiệ u quả kinh 
tế cao với chi phí đầu tư thấp, chủ yếu là chi phí 
con giống (chiếm từ 60-70%) (Như Văn Cẩn 
và cộng sự, 2010). Tuy nhiên, hình thức nuôi 
này đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách 
thức như: hiện tượng ngao nuôi chết hàng loạt 
trên diện rộng không thể kiểm soát mà nguyên 
nhân là do bệnh dịch bùng phát (Ngô Thị Ngọc 
Thủy, 2011). Trong nghiên cứu của Ngô Thị 
Thu Thảo và Lâm Thị Quang Mẫn (2012) cho 
thấy tỷ lệ sống của ngao phụ thuộc rất nhiều 
vào độ mặn và nhiệt độ. Nhiệt độ nước là yếu 
tố ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đến tỷ lệ sống 
của ngao nuôi ven biển Thái Bình, thêm vào 
đó chất lượng môi trường nước, mật độ nuôi, 
thức ăn, và vi khuẩn gây bệnh cũng ảnh hưởng 
đến tốc độ sinh trưởng, phát triển và có thể làm 
suy giảm sức sống của ngao (Lê Thanh Tùng 
và cộng sự, 2013). Vì vậy, việc đánh giá chất 
lượng môi trường nuôi ở các bãi ngao là cơ sở 
khoa học để đề xuất các giải pháp giảm thiểu 
tác động tiêu cực của môi trường nuôi đối với 
con ngao nhằm phát triển bền vững kinh tế biển 
của địa phương.
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Khu vực nghiên cứu
Khu vực khảo sát được thực hiện tại bãi 
nuôi ngao thuộc xã Hiệp Thạnh, huyện Duyên 
Hải, tỉnh Trà Vinh. Các vị trí khảo sát và thu 
mẫu được trình bày trên hình 1.
Hình 1: Sơ đồ vị trí thu mẫu tại bãi nuôi.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 35
2. Phương pháp thu mẫu và phân tích
2.1. Thu mẫu và bảo quản mẫu
Mẫu nước biển được thu vào thời điểm 
triều kiệt trong cả 3 đợt khảo sát: Đầu vụ 
(tháng 11/2016), giữa vụ (tháng 3/2017) và 
cuối vụ (tháng 8/2017) tại 12 điểm ký hiệu: 
T1, T2, T3, T4, T5, T6, T7, T8, T9, T10, T11 
và T12; với chiều dài bãi khoảng 1.700m và 
chiều rộng bãi khoảng 800m (hình 1). Mẫu 
nước biển được thu tại tầng mặt bằng bình 
thu mẫu Niskin 5L. Mẫu được chứa trong 
lọ, can nhựa và được bảo quản ở nhiệt độ 
khoảng 4ºC. Đối với các chỉ tiêu như: DO 
được cố định ngay tại chỗ, BOD5 sau 5 ngày 
và NSSH sau 24h, các mẫu sau khi được cố 
định được bảo quản ngập trong nước ở nhiệt 
độ phòng và được phân tích trong vòng 6h sau 
khi cố định. Còn đối với chỉ tiêu TSS/TOM 
và chlorophyll_a (chl_a) mẫu được lọc ngay 
trong ngày và tiến hành các phân tích tiếp theo 
tại phòng thí nghiệm cùng với các chỉ tiêu hữu 
cơ và muối dinh dưỡng (TN, TP, POC, NH4+; 
NO3-; NO2- và PO43-).
2.2. Phương pháp phân tích
Nhiệt độ, độ mặn được đo bằng máy đo 
hiện trường HORIBA. 
DO xác định bằng phương pháp chuẩn độ 
Winkler (Grasshoff và cộng sự,1999).
BOD5 được định lượng bằng phương pháp 
gia số ô xy hòa tan sau 5 ngày che tối (Grasshoff 
và cộng sự, 1999).
Năng suất sinh học sơ cấp xác định bằng 
phương pháp gia số ô xy hòa tan trong bình 
đen – trắng trong 24h chiếu sáng (Grasshoff và 
cộng sự, 1999).
TSS và TOM xác định theo phương pháp 
trọng lượng (Parsons và cộng sự,1984).
Chlorophyll_a được xác định theo phương 
pháp quang phổ (Parsons và cộng sự, 1984).
Tổng hàm lượng N, P và POC được phân 
tích theo phương pháp oxy hóa (Grasshoff và 
cộng sự, 1999).
NH4+, NO2-, NO3-, PO4- xác định bằng 
phương pháp quang phổ (Parsons và cộng sự, 
1984).
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO 
LUẬN
1. Các thông số chất lượng môi trường nước 
cơ bản
Nhiệ t độ nước được đo vào buổi trưa (thời 
điểm nóng nhất trong ngày) ở cả 3 đợt khảo 
sát có giá trị dao động nhỏ trong khoảng 29,4-
31,6 ºC; đạt trung bình 30,37±0,52 ºC; giá trị 
này nằm trong giới hạn nhiệt độ sống của ngao. 
Theo kết quả nghiên cứu của Chu Chí Thiết 
và Kuma (2008) thì giới hạn nhiệ t độ sống của 
ngao dao động từ 13-40ºC, gần với kết quả 
nghiên cứu của Li và cộng sự (2010) là 12,2-
35,6 ºC. Tuy nhiên ngưỡng nhiệt độ này không 
phải là khoảng nhiệ t độ tối ưu cho ngao sinh 
trưởng và phát triển: nhiệt độ thích hợp từ 24-
30 ºC và nhiệt độ tối ưu cho sự tăng trưởng là 
27-30 ºC (Li và cộng sự, 2010).
Cả ba đợt khảo sát đều được thực hiện vào 
thời gian triều kiệt trong ngày, vì vậy độ mặn 
rất thấp và có biên độ dao động lớn: độ mặn 
cao nhất vào giữa vụ đạt trung bình 15,73±0,08 
‰ và thấp nhất vào cuối vụ đạt trung bình 
2,92±2,06 ‰. Nguyên nhân là do vào cuối vụ 
(tháng 08) là giai đoạn mùa mưa đối với các 
tỉnh phía Nam. Theo kết quả của Trương Quốc 
Phú (1999) với độ mặn thấp (5-7‰), ngao sẽ 
chết sau 2 giờ thí nghiệm. Tuy nhiên, ở một 
nghiên cứu khác của Lê Thanh Tùng và cộng 
sự (2013) thì ở độ mặn 5‰ ngao không bị 
chết (trong 96 giờ) mà chỉ chậm thích nghi và 
chậm hoạt động. Như vậy, độ mặn của vùng 
nghiên cứu nằm trong phạm vi cho phép đối 
với ngao Meretrix lyrata (0-34‰) (Chu Chí 
Thiết và Kuma, 2008). Bên cạnh đó, giới hạn 
trên của độ mặn được khuyến cáo không vượt 
quá 35‰ (Castagna và Chanley, 1973; Malouf 
và Bricelj, 1989).
Từ các kết quả khảo sát cho thấy, hàm 
lượng DO qua các thời kỳ tương đối đồng nhất 
và ít biến động. Mặc dù các vị trí thu mẫu nước 
khá nông và nằm ngay cửa sông, tuy nhiên 
hàm lượng DO trung bình của các đợt khảo sát 
tương đối cao, hầu hết tại các điểm khảo sát 
đều có DO > 5 mgO2/L (thỏa mãn QCVN 10-
MT:2015/BTNMT) và chiếm 82,72% lượng 
oxy bão hòa ở đầu vụ, 85,02% ở giữa vụ và 
36 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
77,02% ở cuối vụ. Đây là điều kiện thuận lợi 
cho quá trình phát triển của động vật thủy sinh. 
Cùng với đó, hàm lượng BOD5 có giá trị thấp 
và ít có biến động theo thời gian. BOD5 cao 
nhất được tìm thấy vào đầu vụ (trung bình 
1,81±0,29 mg/L), tiếp theo là giữa vụ (trung 
bình 1,68±0,18 mg/L) và thấp nhất vào cuối vụ 
(trung bình 1,40±0,35 mg/L); và nhỏ hơn so 
với thời kỳ 2010-2011 (BOD5 trung bình từng 
thời kỳ ở bãi ngao Thành Đạt (Hiệp Thạnh) dao 
động từ 1,3-4,7 mg/L và ở bãi ngao Phương 
Đông dao động từ 1,4-2,3 mg/L) của Hoàng 
Trung Du và Võ Hải Thi (2013).
Hàm lượ ng TSS và TOM có biên độ dao 
động lớn qua các đợt khảo sát. Vào giữa vụ 
(tháng 03/2017) do ảnh hưởng của dải áp thấp 
xích đạo vẫn có xu hướng hoạt động mạnh và 
tác động đến khu vực phía Nam gây ra hiện 
tương mưa rào vào dông vài nơi, đây có thể là 
nguyên nhân làm gia tăng hàm lượng TSS đột 
biến vào thời gian này. Hàm lượng TSS vào 
giữa vụ (trung bình 150,46±19,21 mg/L); giá 
trị này cao hơn 1,72 lần so với cuối vụ (trung 
bình 87,25±45,95 mg/L) và cao hơn khoảng 
2,46 lần so với đầu vụ (trung bình 61,04±10,65 
mg/L). Trong nghiên cứu của Hoàng Trung Du 
và Võ Hải Thi (2013) cũng cho thấy hàm lượng 
TSS trung bình tại bãi ngao Thành Đạt (Hiệp 
Thạnh) đạt giá trị cao nhất vào tháng 03/2010 
- cuối vụ (trung bình 239,5±63,4 mg/L). Nhìn 
chung, hầu hết các giá trị TSS của 3 đợt khảo 
sát đều vượt quá giới hạn cho phép (>50 mg/L 
- QCVN 10-MT:2015/BTNMT). Trong đó, 
đầu vụ có 9/12 trạm; giữa vụ có 12/12 trạm; và 
cuối vụ có 10/12 trạm vượt quá giới hạn - đây 
là điểm đặc trưng của các thủy vực cửa sông. 
Trong khi đó TOM có giá trị cao nhất vào cuối 
vụ (trung bình 19,17±11,00 mg/L), tiếp đến là 
giữa vụ (trung bình 17,83±2,09 mg/L) và thấp 
nhất vào đầu vụ (trung bình 7,05±1,19 mg/L).
Bảng 1: Biến động hàm lượng các thông số môi trường nước cơ bản (n=12) 
Thông số
Đầu vụ
(11/2016)
Giữa vụ
(3/2017)
Cuối vụ
(8/2017)
QCVN 10-
MT:2015/BTNMT
Nhiệt độ (oC)
30,84±0,33
(30,00-31,30)
29,76±0,23
(29,40-30,40)
30,49±0,41
(29,60-31,60)
-
Độ mặn (‰)
3,17±0,36
(2,00-3,70)
15,73±0,08
(15,50-15,80)
2,92±2,06
(1,00-8,00)
-
DO (mgO2/L)
6,16±0,31
(5,52-7,30)
6,45±0,22
(6,13-6,97)
5,77±0,45
(4,88-6,50)
≥ 5
BOD5 (mgO2/L)
1,81±0,29
(1,14-2,63)
1,68±0,18
(1,32-2,12)
1,40±0,35
(0,65-2,58)
-
TSS (mg/L)
61,04±10,65
(39,41-78,82)
150,46±19,21
(107,50-190,67)
87,25±45,95
(26,50-177,00)
50
TOM (mg/L)
7,05±1,19
(5,29-8,82)
17,83±2,09
(14,50-23,33)
19,17±11,00
(7,75-70,50)
-
Chú thích: Trung bình ± độ lệch chuẩn, (cực tiểu-cực đại), QCVN 10-MT:2015/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về 
chất lượng nước biển (phục vụ cho vùng nuôi trồng thủy sản, bảo tồn thủy sinh).
2. Biến động hàm lượng TN, TP và POC
Theo kết quả thống kê (bảng 2) cho thấ y 
hàm lượ ng chấ t hữu cơ trung bình của TN, 
TP và POC qua 3 đợt khảo sát có biên độ 
dao động khá lớn. Trong đó, hàm lượng TN 
có giá trị cao nhất vào cuối vụ (trung bình 
1.356,25±147,63 µg/L), kế tiếp vào giữa vụ 
(trung bình 1.239,67±182,83 µg/L) và thấp 
nhất vào đầu vụ (trung bình 932,08±142,58 
µg/L). Tương tự như TN, hàm lượng TP cũng 
có giá trị cao nhất vào cuối vụ (trung bình 
162,75±32,54 µg/L); kế tiếp vào đầu vụ (trung 
bình 99,08±17,60 µg/L) và thấp nhất vào giữa 
vụ (trung bình 47,50±16,08 µg/L). Tuy nhiên 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 37
POC lại có giá trị cao nhất vào đầu vụ (trung 
bình 332,92±66,75 µg/L), kế tiếp vào giữa vụ 
(trung bình 308,00±3,5 µg/L) và thấp nhất vào 
cuối vụ (trung bình 193,33±42,00 µg/L).
Bảng 2: Biến động hàm lượng TN, TP và POC (n=12)
Thông số Đầu vụ (11/2016) Giữa vụ (3/2017) Cuối vụ (8/2017)
TN (µg/L)
932,08±142,58
(536,00-1333,00)
1239,67±182,83
(985,00-1551,00)
1356,25±147,63
(1054,00-1936,00)
TP (µg/L)
99,08±17,60
(65,00-148,00)
47,50±16,08
(30,00-110,00)
162,75±32,54
(94,00-237,00)
POC (µg/L)
332,92±66,75
(192,00-458,00)
308,00±3,50
(301,00-314,00)
193,33±42,00
(117,00-315,00)
Chú thích: Trung bình ± độ lệch chuẩn, (cực tiểu-cực đại).
3. Muối dinh dưỡng N/P
Hàm lượng muối dinh dưỡng DIN 
(NH4+, NO2-, NO3-) và DIP (PO43-) có giá 
trị lớn nhất vào cuối vụ nuôi; tương tự như 
các yếu tố: NSSH, TN, TP và TOM (bảng 
1, 2 và 4). Cụ thể giá trị DIN vào cuối vụ 
đạt 552,92±105,67 µg/L; giá trị này lớn hơn 
2,24 lần so với hàm lượng DIN thấp nhất vào 
giữa vụ - đây cũng là thời điểm quang hợp 
phát triển mạnh nhất trong năm (trung bình 
giữa vụ là 247,07±29,19 µg/L). Trong đó, 
hàm lượng NH4+ trung bình vào cuối vụ là 
195,97±59,35 µg/L giá trị này đã vượt gấp 
2 lần giới hạn cho phép (>100 µg/L - QCVN 
10-MT:2015/BTNMT) với 11/12 trạm vượt 
giới hạn cho phép, còn đầu vụ và giữa vụ mỗi 
đợt có 2/11 trạm vượt quá giới hạn cho phép. 
Ô nhiễm NH4+ đã được báo cáo nhiều qua 
các đợt quan trắc “Báo cáo hiện trạng môi 
trường tỉnh Trà Vinh 05 năm (2011-2015)”. 
Hàm lượng trung bình của NO3- và NO2- của 
3 đợt khảo sát tương ứng là 290,29±118,40 
µg/L và 26,14±10,84 µg/L. Hàm lượng DIP 
vào cuối vụ là 40,65±4,35 µg/L; lớn hơn 2,54 
lần so với hàm lượng DIP thấp nhất vào giữa 
vụ (trung bình 16,01±3,61 µg/L) và tất cả các 
giá trị PO43- đều nằm trong giới hạn cho phép 
(<200 µg/L - QCVN 10-MT:2015/BTNMT).
Bảng 3: Biến động hàm lượng muối dinh dưỡng N/P (n=12)
Thông số
Đầu vụ
(11/2016)
Giữa vụ
(3/2017)
Cuối vụ
(8/2017)
QCVN 10-
MT:2015/BTNMT
NH
4
+(µg/L)
75,31±31,48
(29,90-168,30)
68,09±22,26
(31,00-110,00)
195,97±59,35
(94,50-315,00)
100
NO2
-(µg/L)
16,15±3,40
(9,90-24,20)
25,36±6,02
(12,20-35,10)
36,91±16,69
(8,60-84,40)
-
NO3
-(µg/L)
397,23±84,88
(145,20-479,10)
153,62±35,13
(72,90-199,00)
320,04±62,88
(23,40-663,10)
-
DIN (µg/L)
488,68±71,36
(286,30-654,60)
247,07±29,19
(177,80-298,50)
552,92±105,67
(188,00-818,50)
-
DIP (PO
4
3-) (µg/L)
36,39±3,17
(28,00-49,10)
16,01±3,61
(8,10-31,40)
40,65±4,35
(31,70-58,20)
200
Chú thích: Trung bình ± độ lệch chuẩn, (cực tiểu-cực đại), QCVN 10-MT:2015/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về 
chất lượng nước biển (phục vụ cho vùng nuôi trồng thủy sản, bảo tồn thủy sinh).
38 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
4. Năng suất sinh học (NSSH) và 
Chlorophyll_a (Chl_a)
Yếu tố NSSH và Chl_a có biên độ dao động 
khá lớn. Trong đó, NSSH thô cao nhấ t vào cuối 
vụ (trung bình 169,23±81,80 mgC/m³/ngày) 
và lớn gấp 3 lần so với đầu vụ (trung bình 
57,03±18,49 mgC/m³/ngày). Điều này chứng 
tỏ hàm lượ ng muối dinh dưỡng đượ c thực vật 
phù du hấp thụ mạnh vào cuối vụ. Nhìn chung, 
giá trị NSSH thô ở khu vực nghiên cứu khá 
tương đồng với kết quả thời kỳ 2010-2011 
(NSSH dao động từ 75,1-223,6 mgC/m³/ngày 
ở bãi ngao Thành Đạt (Hiệp Thạnh) và từ 
51,7-172,0 mgC/m³/ngày ở bãi ngao Phương 
Đông (Hoàng Trung Du và Võ Hải Thi, 2013), 
nằm trong giới hạn của nhiều vùng biển ở Việt 
Nam (NSSH thô của một số vùng biển Việt 
Nam dao động từ 60-337 mgC/m³/ngày) và 
cao hơn NSSH thô ở vùng rạn san hô, vùng 
biển khơi và vùng biển sâu ở Biển Đông của 
Đoàn Bộ (2009). Ngược lại, hàm lượng chl_a 
lại cao nhất vào đầu vụ (trung bình 11,69±2,97 
µg/L); cao hơn 1,73 lần so với cuối vụ (trung 
bình 6,74±1,71 µg/L) và cao hơn 2,34 lần so 
với giữa vụ (trung bình 4,99±0,87 µg/L). Nhìn 
chung, hàm lượng chl_a ở khu vực nghiên cứu 
khá cao và cao hơn so với thời kỳ 2010-2011 
của Hoàng Trung Du và Võ Hải Thi (2013), đây 
là đặc điểm của khu vực cửa sông và là điều 
kiện thuận lợi về nguồn thức ăn cho các động 
vật phù du và sinh vật đáy ăn lơ lửng. Trong 
nghiên cứu của Nguyễn Hữu Phụng (1996) 
cũng cho thấy thành phần thức ăn chính trong 
dạ dày của ngao khu vực bãi triều ở Trà Vinh 
có tới 10-20% là tảo, trong đó tảo silic chiếm 
đến 90-95%, tảo giáp chiếm 3,3-6,6% còn lại 
là tảo lam, tảo lục, tảo vàng ánh chiếm 0,8-1%. 
Có khoảng 44 loài tảo được tìm thấy trong dạ 
dày của ngao trong đó có khoảng 93,18% thuộc 
ngành Bacilariophyta và các loài còn lại thuộc 
ngành Pyrophyta và Cyanophyta của Trương 
Quốc Phú (1999).
 Bảng 4: Biến động NSSH và Chl_a (n=12)
Thông số Đầu vụ (11/2016) Giữa vụ (3/2017) Cuối vụ (8/2017)
NSSH (mgC/m3/ngày)
57,03±18,49
(17,90-107,20)
120,58±30,96
(70,10-179,30)
169,23±81,80
(19,40-370,70)
Chl_a(µg/L)
11,69±2,97
(7,02-17,11)
4,99±0,87
(3,15-6,34)
6,74±1,71
(3,63-10,06)
Chú thích: Trung bình ± độ lệch chuẩn, (cực tiểu-cực đại).
5. Mối tương quan giữa các yếu tố trong môi 
trường nước
Kết quả phân tích mối quan hệ giữa các 
yếu tố sinh thái trong vùng biển nghiên cứu 
cho thấy, bộ ba yếu tố DIN, DIP và Chl_a đều 
có tương quan thuận, với hệ số tương quan 
Pearson (r) dao động từ 0,342-0,756 (với mức 
ý nghĩa < 0,05); trong đó cặp yếu tố DIN và 
DIP có mối tương quan chặt chẽ với r = 0,756 
(bảng). 
Còn giữa các cặp yếu tố: TN, TP, POC, TSS 
và TOM có mối tương quan thuận – nghịch 
khác nhau. Sư gia tăng hàm lượng TSS đã làm 
cho hàm lượng TOM, TN và TP trong nước 
tăng theo, tuy nhiên sự gia tăng này chủ yếu 
nằm ở thành phần vô cơ. Điều này thể hiện qua 
bộ ba yếu tố TN-TP-TSS có mối tương quan 
thuận, với hệ số tương quan Pearson dao động 
từ 0,368-0,582 (với mức ý nghĩa p < 0,05) và 
cả ba yếu tố này với TOM đều có tương quang 
nghịch với POC. Trong khi đó, các yếu tố còn 
lại không trương quan với nhau.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trong cả ba đợt khảo sát nhiệt độ có biên 
độ dao động nhỏ từ 29,4-31,6 ºC; còn độ mặn 
lại có biên độ dao động khá lớn từ 1,00-15,80 
‰. Tuy nhiên, cả nhiệt độ và độ mặn đều nằm 
trong giới sống của ngao.
Trong cả ba đợt khảo sát yếu tố DO và 
PO4- đều nằm trong giới hạn của tiêu chuẩn. 
Còn, hàm lượng NH4+ trung bình vào cuối vụ 
đã vượt gấp 2 lần giới hạn cho phép. Còn hàm 
lượng TSS trung bình của cả ba đợt khảo sát 
đều vượt quá giới hạn của tiêu chuẩn QCVN 
10-MT:2015/BTNMT.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 39
Kết quả NSSH thô ở khu vực nghiên cứu 
vẫn nằm trong giới hạn NSSH thô ở nhiều 
vùng biển ở Việt Nam. Còn Chl_a của cả ba đợt 
khảo sát khá cao dao động từ 3,15-17,11 µg/L 
tạo điều kiện thuận lợi về nguồn thức ăn cho 
các động vật phù du và sinh vật đáy ăn lơ lửng.
Diễn biến chất lượng môi trường nước qua 
3 đợt khảo sát cho thấy: các thông số: nhiệt độ, 
DO, BOD5, NO2- ít có sự biến động trong khi 
đó các thông số quan sát còn lại như: Độ mặn, 
TSS, TOM, TN, TP, POC, NH4+, NO3-, PO43-, 
NSSH, Chl_a đều có biến động khá cao. Nhiều 
thông số tập trung cao nhất vào cuối vụ chiếm 
tới 7 thông số: TOM, TN, TP, NH4+, NO2-
, PO43-, NSSH và hàm lương oxy trung bình 
thấp nhất cũng xuất hiện vào giai đoạn này.
Bộ ba yếu tố DIN, DIP và Chl_a có tương 
quan thuận với nhau, với hệ số tương quan 
Pearson (r) dao động từ 0,342 - 0,756 (với mức 
ý nghĩa < 0,05); trong đó cặp yếu tố DIN và DIP 
có mối tương quan chặt chẽ với r = 0,756. Sự gia 
tăng của hàm lượng TSS đã làm cho hàm lượng 
TOM, TN và TP trong nước tăng theo, với hệ số 
tương quan Pearson dao động từ 0,368 – 0,582 
(với mức ý nghĩa < 0,05). Tuy nhiên sự gia tăng 
này chủ yếu nằm ở thành phần vô cơ.
2. Kiến nghị
Trầm tích và lớp nước tiếp giáp là nơi diễn 
ra quá trình khoáng hóa thông qua hoạt động 
của vi sinh vật, cũng là nơi ảnh hưởng trực 
tiếp đến sự sinh trưởng và phát triển của ngao. 
Trong nghiên cứu tiếp theo nên bổ sung đánh 
giá chất lượng môi trường trầm tích kết hợp với 
môi trường nước biển tại bãi nuôi ngao.
Lời cảm ơn: Các tác giả xin gửi lời cảm ơn 
chân thành đến PGS.TS. Tạ Thị Kim Oanh (chủ 
nhiệm đề tài) và PGS.TS. Nguyễn Văn Lập thuộc 
Viện Địa lý tài nguyên TP. HCM đã giúp đỡ, và 
tạo điều kiện trong quá trình khảo sát và thu mẫu 
nghiên cứu để hoàn thành bài báo này.
Bảng 5: Tương quan giữa các yếu tố trong môi tại bãi nuôi ngao Hiệp Thạnh
 BOD5 DIN DIP Chl_a TN TP POC TSS TOM
BOD5
Tq Pearson 1 0,066 0,005 0,451 -0,025 -0,161 0,477 0,080 0,335
Myn-p -- 0,703 0,975 0,006 0,886 0,348 0,003 0,645 0,046
DIN
Tq Pearson 0,066 1 0,756 0,342 0,273 0,469 -0,318 -0,176 0,070
Myn-p 0,703 -- 0,000 0,041 0,107 0,004 0,059 0,304 0,685
DIP
Tq Pearson 0,005 0,756 1 0,415 0,066 0,477 -0,320 -0,202 0,133
Myn-p 0,975 0,000 -- 0,012 0,700 0,003 0,057 0,238 0,441
Chl_a
Tq Pearson 0,451 0,342 0,415 1 -0,522 -0,113 0,317 -0,371 -0,209
Myn-p 0,006 0,041 0,012 -- 0,001 0,512 0,059 0,026 0,220
TN
Tq Pearson -0,025 0,273 0,066 -0,522 1 0,440 -0,309 0,582 0,556
Myn-p 0,886 0,107 0,700 0,001 -- 0,007 0,067 0,000 0,000
TP
Tq Pearson -0,161 0,469 0,477 -0,113 0,440 1 -0,359 0,368 0,139
Myn-p 0,348 0,004 0,003 0,512 0,007 -- 0,031 0,027 0,419
POC
Tq Pearson 0,477 -0,318 -0,320 0,317 -0,309 -0,359 1 -0,084 -0,255
Myn-p 0,003 0,059 0,057 0,059 0,067 0,031 -- 0,625 0,133
TSS
Tq Pearson 0,080 -0,176 -0,202 -0,371 0,582 0,368 -0,084 1 0,565
Myn-p 0,645 0,304 0,238 0,026 0,000 0,027 0,625 -- 0,000
TOM
Tq Pearson 0,335 0,070 0,133 -0,209 0,556 0,139 -0,255 0,565 1
Myn-p 0,046 0,685 0,441 0,220 0,000 0,419 0,133 0,000 --
Tq Pearson – Tương quan Pearson, Myn – Mức ý nghĩa.
40 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Đoàn Bộ (2009), “Đặc điểm phân bố và biến động năng suất sinh học sơ cấp ở vùng biển phía Tây vịnh Bắc 
Bộ”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, KHTN & CN 25, Số 1S, tr. 21-27.
2. Như Văn Cẩn, Chu Chí Thiết, Lê Thanh Ghi, Nguyễn Bá Lương và Kumar,M. S. (2010), Phát triển công 
nghệ nuôi nghêu ngoài bãi triều: Ảnh hưởng của mật độ đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của 2 cỡ nghêu Meretrix 
lyrata (Sowerby, 1851) nuôi ở bãi triều, Báo cáo tổng kết Dự án, Mã số: 027/05 VIE. Viện nghiên cứu nuôi 
trồng thủy sản I.
3. Hoàng Trung Du và Võ Hải Thi (2013), “Chất lượng môi trường vùng nuôi nghêu tại huyện Duyên Hải tỉnh 
Trà Vinh”, Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, Tập 19, tr. 111-123.
4. Trương Quốc Phú (1999), Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học, sinh hoá và kỹ thuật nuôi nghêu (Meretrix 
lyrata) đạt năng suất cao, Luận án tiến sĩ khoa học nông nghiệp, Đại học thuỷ sản Nha Trang.
5. Nguyễn Hữu Phụng (1996), “Đặc điểm sinh học và kỹ thuật ương nuôi ấu trùng ngao Bến Tra (Meretrix. 
Lyrata Sowerby) ”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Số 7 và 8, tr. 13-21 và 14-18.
6. Quy chuẩn Quốc gia QCVN 10-MT:2015/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước biển.
7. Ngô Thị Thu Thảo và Lâm Thị Quang Mẫn (2012), “Ảnh hưởng của độ mặn và thời gian phơi bãi đến sinh 
trưởng và tỷ lệ sống của nghêu (Meretrix Lyrata)”, Tạp chí Khoa học, Số 22a, tr. 123-130.
8. Chu Chí Thiết và Kuma, S. (2008), Tài liệu kỹ thuật sản xuất giống ngao Bến Tre.
9. Ngô Thị Ngọc Thủy (2011), Điều tra, nghiên cứu bệnh trên một số đối tượng nhuyễn thể nuôi tại ven biển 
Việt Nam, Báo cáo kết quả chương trình Khoa học công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện nghiên cứu 
Nuôi trồng Thủy sản II.
10. Lê Thanh Tùng, Vũ Tuấn Nam, Trần Minh Hoàng, Nguyễn Văn Thỏa, Đinh Thái Bình, Nguyễn Công 
Thành, Nguyễn Xuân Phúc và Lê Tuấn Sơn (2013), “Bước đầu tìm hiểu nguyên nhân gây chết ngao nuôi 
(Meretrix lyrata và M. Meretrix) tại vùng ven biển Thái Bình”, Kỷ yếu Hội nghị Quốc tế Biển Đông 2012, Nha 
Trang, NXB. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, tr. 305-315.
Tiếng Anh
11. Castagna, M., and Chanley, P. (1973), “Salinity tolerance of some marine bivalves from inshore and 
estuarine environments in Virginia waters on the western mid-Atlantic coast”, Malacologia, 12 (1), pp. 47–96.
12. Grasshoff, K., Kremling, K. and Erhartdt, M. (1999), Methods of seawater analysis, 3th Edition, Verlag 
Chemie, Wieheim, 600 pp.
13. Li, Z., Liu, Z., Yao, R., Luo, C., and Yan, J. (2010), “Effect of temperature and salinity on the survival and 
growth of Meretrix lyrata juveniles”, Acta Ecol. Sin., 13, pp. 3406-3413.
14. Malouf, R.E. and Bricelj, V.M. (1989), Comparative biology of clams: environmental tolerances, feeding, 
and growth. In: Manzi, J.J., Castagna, M.Jr (Eds.), Clam Mariculture in North America, Elsevier, Amsterdam, 
pp. 23–73.
15. Parson, T., Maita, Y., and Lalli, C. (1984), A manual of chemical and biological methods for analysis 
seawater. Pergamon Press, 173 pp.
Các trang web
16. 
TRAVINH_05NAM_2011_2015.pdf (Sở Tài nguyên và Môi trường Trà Vinh, 24/08/2015, Báo cáo hiện trạng 
môi trường tỉnh Trà Vinh 05 năm 2011-2015).
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
05_nguyen_minh_hieu_9513_2220192.pdf