Góp phần đổi mới nội dung và nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Gia Lai trong tình hình hiện nay

Tài liệu Góp phần đổi mới nội dung và nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Gia Lai trong tình hình hiện nay: KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 37 S Ố 0 4 N Ă M 2 0 19 Theo Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thành công phải có lực lượng và lực lượng đó phải đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù, xây dựng thành công xã hội mới. Muốn có lực lượng phải thực hành đoàn kết vì “đoàn kết là lực lượng”, muốn thực hành đoàn kết thì phải làm tốt công tác dân vận. Dân vận, theo Bác, là vận động quần chúng nhân dân làm cách mạng, “đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”. Trong tác phẩm Dân vận viết ngày 15-10-1949, Bác nêu rõ: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”[1]. Trong tình hình hiện nay, để đẩy mạnh củng cố và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, nhất là ở vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số thì đẩy mạnh vận dụng học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và công tác dân vận mang tí...

pdf5 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 398 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Góp phần đổi mới nội dung và nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Gia Lai trong tình hình hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 37 S Ố 0 4 N Ă M 2 0 19 Theo Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thành công phải có lực lượng và lực lượng đó phải đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù, xây dựng thành công xã hội mới. Muốn có lực lượng phải thực hành đoàn kết vì “đoàn kết là lực lượng”, muốn thực hành đoàn kết thì phải làm tốt công tác dân vận. Dân vận, theo Bác, là vận động quần chúng nhân dân làm cách mạng, “đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”. Trong tác phẩm Dân vận viết ngày 15-10-1949, Bác nêu rõ: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”[1]. Trong tình hình hiện nay, để đẩy mạnh củng cố và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, nhất là ở vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số thì đẩy mạnh vận dụng học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và công tác dân vận mang tính tiên quyết, bởi vì “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”[2]. Góp phần đổi mới nội dung và nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Gia Lai trong tình hình hiện nay ThS. KSOR HỘI Trường Chính trị tỉnh Gia Lai Tỉnh Gia Lai, với đặc thù là tỉnh miền núi, gồm hơn 34 dân tộc anh em cùng sinh sống; trình độ dân trí còn thấp; đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, mức thu nhập bình quân trên đầu người còn thấp so với mặt bằng chung của cả nước; địa hình bị chia cắt nhiều bởi sông, núi, giao thông đi lại gặp nhiều khó khăn nhất là vào mùa mưa... Đây là địa bàn có vị trí địa chiến lược quan trọng về mặt quốc phòng và an ninh đối với Tây Nguyên và cả nước nói chung. Từ lâu, các thế lực ngoại bang muốn xâm chiếm Việt Nam đều coi việc chiếm địa bàn Tây Nguyên (trong đó có tỉnh Gia Lai) làm mục tiêu quan trọng hàng đầu. Để bảo vệ quê hương, nhân dân các dân tộc anh em trên địa bàn đã đoàn kết một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ kiên quyết làm cách mạng đánh đuổi giặc ngoại xâm, làm nên những chiến công hiển hách đi vào lịch sử dân tộc như: Làng kháng chiến Stơr (trong kháng chiến chống Pháp) và Chiến dịch Plei Me năm 1965 (trong kháng chiến chống Mỹ)... Trong những năm đổi mới gần đây, tình hình an ninh chính trị trên địa bàn tương đối ổn định, tuy vậy cũng chứa đựng Phát huy sức mạnh của nhân dân, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn là vấn đề mang tính quyết định đến sự thành bại của cách mạng Việt Nam ở từng thời điểm lịch sử. Đồng thời cũng là một trong những nội dung cốt lõi, xuyên suốt trong quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận. KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ38 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G những yếu tố bất trắc, khó lường, nhất là ở cơ sở, vùng sâu vùng xa của tỉnh, minh chứng cụ thể là sự kiện bạo loạn chính trị xảy ra vào các năm 2001, 2004 trên địa bàn đến nay vẫn còn diễn biến phức tạp. Do đó, để giữ vững an ninh chính trị góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương thì việc giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, trong đó, chú trọng tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đẩy mạnh củng cố và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là một trong những yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Hiện nay, sở dĩ phải chú trọng đến công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh là do nhiều yêu cầu chủ quan và khách quan khác nhau, trong đó là do các yếu tố cơ bản sau: Một là, do yêu cầu của việc phát huy sức mạnh của dân tộc, củng cố và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Thực chất, mục tiêu của dân vận là để có được lực lượng to lớn, mạnh mẽ của nhân dân, bởi vì không có dân thì Đảng không có lực lượng và cách mạng không thể thành công. Bác dạy: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng”. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh chính trị xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã rút ra 5 bài học, trong đó có bài học: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân”[3]. Quan điểm của Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 03-6-2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 7 khóa XI về Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới tiếp tục nêu rõ: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ. Lược lại lịch sử về sự ra đời của Đảng bộ tỉnh Gia Lai (tiền thân là Đảng bộ Tây Sơn) chúng ta thấy, sự ra đời của Đảng Bộ đã thể hiện một cách “sinh động về tính đúng đắn của đường lối, chủ trương giải phóng dân tộc, cứu nước của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, kết hợp với lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân, tính hăng hái, năng động của thanh niên và tinh thần cách mạng triệt để của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân ở Gia Lai. Mối quan hệ đặc biệt ấy đã được âm thầm tích tụ từ những hạt giống cách mạng đầu tiên là những chiến sĩ yêu nước, chiến sĩ cách mạng, những đảng viên cộng sản đến sinh sống, hoạt động gắn bó với nhân dân địa phương, dần dần không ngừng phát triển trong cuộc đấu tranh chống ách nô dịch của đế quốc, thực dân, phong kiến...”[4]. Như vậy, có thể khẳng định, ngay từ đầu, nhân dân các dân tộc anh em trên địa bàn tỉnh Gia Lai vốn dĩ đã có truyền thống đoàn kết, một lòng theo Đảng và bác Hồ. Truyền thống ấy đã được nhân lên gấp bội kể từ khi Đảng bộ tỉnh Gia Lai ra đời. Truyền thống ấy cần tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung và phát triển đặc biệt là trong công tác xây dựng sự đoàn kết thống nhất trước hết là trong Đảng, giữ vững bản lĩnh chính trị của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện làm cơ sở đẩy mạnh củng cố và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đặc biệt, chú trọng ở vùng dân tộc thiểu số góp phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị mới của địa phương. Hai là, yêu cầu của việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc trước những tác động của mặt trái của kinh tế thị trường; của toàn cầu hóa và hội nhập; của cách mạng công nghiệp 4.0..., đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân phải nỗ lực lao động và KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 39 S Ố 0 4 N Ă M 2 0 19không ngừng học tập, nhằm thoát khỏi cái đói nghèo và vươn lên làm giàu chính đáng, tiếp cận và thích ứng với cái mới và những giá trị mới của đời sống xã hội. Quá trình đó cũng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, nhiều vấn đề mới phức tạp, như làm gia tăng khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, giữa thành thị và nông thôn; đồng thời, có thể làm xói mòn những giá trị đạo đức và phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, do đó, tăng cường xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Ba là, yêu cầu của việc luôn đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, nhất là ở địa phương cơ sở, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Hiện nay, ở tỉnh Gia Lai, các thế lực thù địch thường triệt để lợi dụng những khó khăn về đời sống kinh tế, hạn chế về trình độ nhận thức, về sự hiểu biết và khả năng nắm bắt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số để gia tăng các hoạt động chống phá, triển khai chiến lược “diễn biến hòa bình” với các chiêu bài dân tộc, tôn giáo, đất đai...,hòng làm giảm sút niềm tin, uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng trong quần chúng nhân dân mà sự kiện 2001, 2004 là một minh chứng cụ thể. Mặt khác, từ thực tiễn công tác xây dựng Đảng ở địa phương thời gian qua cũng cho thấy bên cạnh những những thành tựu đạt được, còn nổi lên một số hạn chế, thiếu sót, trong đó tình trạng mất đoàn kết nội bộ ở một số nơi vẫn còn diễn ra, mà nguyên nhân chính là do chủ nghĩa cá nhân, địa vị nhỏ nhen, ích kỷ; biểu hiện dưới các hình thức như đố kỵ nhau giữa cấp trưởng và cấp phó, giữa cán bộ mới và cán bộ cũ, giữa cán bộ trẻ và cán bộ có tuổi, giữa cán bộ được luân chuyển từ nơi khác đến với cán bộ tại chỗ... Kinh nghiệm cho thấy, ở cơ sở nào mà nội bộ Đảng mất đoàn kết, cán bộ đảng viên thiếu gương mẫu, tham ô, cửa quyền, mất dân chủ thì lòng tin của quần chúng đối với Đảng cũng sẽ bị suy giảm, vai trò lãnh đạo và uy tín của tổ chức cơ sở Đảng bị hạ thấp. Có nơi tổ chức cơ sở đảng bị vô hiệu hóa, sức mạnh của Đảng, của chính quyền ở đó cũng bị phân tán. Tóm lại, nội bộ Đảng mất đoàn kết sẽ gây ra tác hại to lớn, khó lường, tạo kẻ hở cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá Đảng, chống phá chế độ. Nắm vững và hiểu rõ quy luật phát triển của xã hội, chúng ta không bao giờ bỡ ngỡ và hốt hoảng trước những âm mưu của kẻ thù. Với lực lượng nhân dân yêu nước thiết tha, với lực lượng vũ trang dũng cảm, nhất định chúng ta sẽ đập nát mọi mưu toan của kẻ thù. Nhưng muốn thế phải luôn luôn tỉnh táo và cảnh giác, nhận rõ tính chất gay gắt và phức tạp của cuộc đấu tranh trong giai đoạn hiện nay, nhìn rõ âm mưu của kẻ thù. Kẻ địch đang mai phục, đón chờ sự sơ hở của chúng ta. Chúng ta không cường điệu, không quá đa nghi, không đánh giá quá cao kẻ địch, nhưng thực tế dạy chúng ta rằng, trong đấu tranh, tuyệt nhiên không một phút nào được lơi lỏng cảnh giác[5, tr 535]. Với đặc thù là một tỉnh miền núi, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số trong tình hình hiện nay, trên địa bàn tỉnh Gia Lai, nhằm góp phần thiết thực vào việc đổi mới nội dung và nâng cao hiệu quả công tác dân vận, theo chúng tôi cần chú trọng đến các công đoạn và giải pháp cơ bản sau: Về công đoạn, cần xác định rõ ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay, đồng bào đang làm và thiếu những gì? Cần những gì? Và, các thế lực thù địch đang lợi dụng những vấn đề gì để gia tăng hoạt động chống phá an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương cơ sở. Thực tiễn cho thấy, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, cái cần KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ40 T Ạ P C H Í K H O A H Ọ C C Ô N G N G H Ệ V À M Ô I T R Ư Ờ N G nhất đó là những cơ chế chính sách đặc thù đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi; cái thiếu nhất là vốn và trình độ khoa học - công nghệ. Về vốn, hiện nay Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chương trình hỗ trợ nhân dân xóa đói, giảm nghèo, nhưng cần phải đổi mới cách làm, phương pháp làm. Không phải cứ nhất thiết phải giao “con cá” mãi được mà cái quan trọng là cái “cần câu” để nhân dân tự câu cá. Nghĩa là, phải tạo công ăn, việc làm, thay đổi nhận thức và cách làm cho nhân dân. Về khoa học - công nghệ, đây là một phạm trù rộng, thực chất chính là trình độ dân trí, công cụ, kỹ thuật, phương pháp, cách làm ăn kinh tế... Các thế lực thù địch thường lợi dụng những sơ hở trong chính sách, cũng như những hạn chế về nhận thức và những khó khăn về đời sống kinh tế của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số để gia tăng hoạt động chống phá làm rối loạn tình hình chính trị trên địa bàn, mà trọng tâm là các vấn đề về dân tộc, tôn giáo, đất đai... Về giải pháp, cần tập trung thực hiện các vấn đề sau đây: Thứ nhất, đẩy mạnh công tác phát triển tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên làm cơ sở để xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, đồng thời góp phần đắc lực vào việc lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Đây là giải pháp mang tính quyết định nhất. Để thực hiện được điều này, cần chủ trọng nắm vững tình hình địa phương. Bác dạy: “Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc”[3, tr 341-342]. Chăm lo đến đời sống mọi mặt của nhân dân; căn cứ vào chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, chỉ tiêu kế hoạch của cấp trên để xây dựng chương trình phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với đặc điểm và điều kiện cụ thể ở địa bàn mình lãnh đạo, quản lý; làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng và tạo nguồn cán bộ, đảng viên kế cận, nhất là cán bộ trẻ, người địa phương tại chỗ có chí tiến thủ... Thứ hai, phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, nhất là những người cao tuổi, già làng, trưởng bản, người có uy tín. Đây cũng là một trong những đặc điểm cần đặc biệt chú trọng nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, bởi vì, truyền thống lâu đời của người Tây Nguyên nói chung và đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Gia Lai nói riêng vẫn đề cao vị trí, vai trò của người già làng, trưởng bản và người có uy tín. Bên cạnh đó, cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của công tác dân vận trong tình hình mới. Trong tác phẩm Dân vận, câu đầu tiên bàn về Dân vận, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Vấn đề Dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ hiểu chưa thấu, làm chưa đúng, cho nên cần phải nhắc lại”[3, tr340]. Trong khi làm dân vận, cả trong cách tổ chức, lẫn cách làm dân vận còn nhiều biểu hiện quan liêu, xa rời dân chúng, nhiều cán bộ áp đặt ý muốn chủ quan của mình đối với dân chúng. Hồ Chí Minh gọi đó là những người làm việc theo lối “khoét chân cho vừa giầy”, theo Bác, dân vận là huy động lực lượng của tất cả mọi người “không để sót một người nào”. Có như vậy mới có thể xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc và cũng vì thế cách mạng mới thành công. Thứ ba, đẩy mạnh công tác nắm bắt cơ sở. Một yêu cầu mang tính nguyên tắc đối với người phụ trách công tác dân vận là phải sâu sát thực tế, gắn bó chặt chẽ với nhân dân. Công tác nghiên cứu thực tế ở địa phương, cơ sở của các cơ quan, ban, ngành của tỉnh những năm qua đã bước đầu đem lại những kết quả rất đáng khích lệ, việc nắm vững tình hình thực tế ở cơ sở sẽ góp phần phát hiện, kịp thời ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch ở cơ sở. Mặt khác, cần chú trọng hoạt động nghiên KHOA HOÏC QUAÛN LYÙ 41 S Ố 0 4 N Ă M 2 0 19cứu nắm vững đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán, văn hóa ở địa phương.Trong công tác dân vận, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến đặc điểm của vùng dân tộc thiểu số nói chung, Tây Nguyên nói riêng, Người đòi hỏi mỗi cán bộ làm công tác dân vận nói và làm phải xuất phát từ đặc điểm dân tộc. Thực tiễn cho thấy, đường lối xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc của Đảng và Nhà nước ta - về quan điểm, là nhất quán, song để hiện thực hóa nó trong đời sống cộng đồng đòi hỏi phải có những chính sách và giải pháp mang tính lịch sử, cụ thể và phù hợp. Nhận thức đúng những đặc điểm về tâm lý, phong tục tập quán và văn hóa cụ thể của cộng đồng các dân tộc trên địa bàn Tây Nguyên nói chung và Gia Lai nói riêng là một trong những yếu tố góp phần không nhỏ vào thắng lợi của đường lối và chính sách đó. Có thể nói, sự đan xen về cơ cấu dân tộc và tôn giáo trên địa bàn vừa có thuận lợi không nhỏ trong việc xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc. Đó là điều kiện thuận lợi để học hỏi lẫn nhau cùng phát triển, hạn chế và đi đến triệt tiêu tính tự ti dân tộc cũng như chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, nhưng đồng thời, đây cũng chính là điều kiện để nảy sinh những xung đột, mà nhất là những xung đột về văn hóa trong cuộc sống thường nhật. Bên cạnh đó, tính đa tôn giáo hiện nay của Tây Nguyên cũng có thể là điều kiện góp phần làm tăng thêm mầm mống và tính chất của những xung đột. Không phải vô cớ mà thời gian qua, kẻ thù trong và ngoài nước lại tìm cách gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề tôn giáo ở Tây Nguyên để gây rối, hòng phá hoại khối đoàn kết toàn dân mà Đảng và Bác Hồ mấy chục năm xây dựng và củng cố[4]. Khâu yếu nhất trong công tác nghiên cứu về đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán văn hóa, cũng như tôn giáo ở địa phương là những rào cản, hạn chế về tiếng dân tộc thiểu số. Do đó, thời gian tới, cần đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới nội dung việc dạy và học tiếng dân tộc thiểu số đối với các đối tượng cán bộ, công chức công tác nắm địa bàn, gắn với thực tiễn công việc được giao. Dồn lực cho cơ sở, tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc ở vùng dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có đạo, trong đó Tây Nguyên (tỉnh Gia Lai nói riêng) là một trọng điểm. Thứ tư, đổi mới nội dung và phương pháp vận động, tuyên truyền; bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ những người làm công tác dân vận. Về nội dung và phương pháp tuyên truyền, vận động cần hướng vào những vấn đề thiết thực hiện nay ở địa phương cơ sở gắn với phong trào xây dựng nông thôn mới, với những công việc thể như: giúp nhau phát triển kinh tế, vươn lên thoát đói nghèo; giữ gìn bản sắc văn hóa, phong tục truyền thống tốt đẹp, bài trừ các tệ nạn tảo hôn, mê tín, dị đoan; giữ gìn vệ sinh môi trường, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; đề cao tinh thần cảnh giác, kịp thời phát hiện và làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch. Về trình độ nghiệp vụ của đội ngũ những người làm công tác dân vận, ngoài kỹ năng tuyên truyền, đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, cần chú trọng các kỹ năng nghề nghiệp cụ thể gắn liền với công việc cụ thể ở địa phương, nếu chỉ giỏi tuyên truyền mà không biết làm thì không đảm bảo tính thuyết phục, bởi bất luận hoàn cảnh nào cũng cần phát huy tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, đảng viên phải “đi trước” để làng nước “theo sau”./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.CTQG, H, 2011. 2. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Gia Lai (1945-2005), Nxb. CTQG, H, 2009. 3. Hồ Chí Minh: Tuyển tập (Tập 2), Nxb.CTQG, H, 2002. 4. Tạp chí Sinh hoạt lý luận, Học viện Chính trị - Hành chính khu vực III, số 5(96).2009. 5. GS.TS.Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng chỉnh đốn Đảng, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb.CTQG, H, 2012.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf8_8265_2207514.pdf
Tài liệu liên quan