33KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
NGUYỄN THỊ THUẦN*
*Học viện Khoa học Quân sự,  
[email protected]
Ngày nhận bài: 16/12/2018; ngày sửa chữa: 02/01/2019; ngày duyệt đăng: 25/02/2019
1. MỞ ĐẦU 
Nội dung đặc trưng văn hóa Việt Nam được 
xác định để giảng dạy cho học viên quân sự nước 
ngoài trong các nhà trường Quân đội, bao gồm toàn 
bộ những đặc trưng của biểu tầng văn hóa như văn 
hóa giao tiếp; văn hóa tín ngưỡng, phong tục, tập 
quán; văn hóa ẩm thực; những truyền thống tốt đẹp 
của dân tộc Tuy nhiên, phạm vi của bài viết chỉ 
dừng lại ở những đặc trưng văn hóa giao tiếp với 
GIẢNG DẠY ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA
GIAO TIẾP CHO HỌC VIÊN NƯỚC NGOÀI
QUA MÔN TIẾNG VIỆT TRONG NHÀ TRƯỜNG 
QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
TÓM TẮT
Một đặc trưng nổi bật của giảng dạy ngoại ngữ hướng đến năng lực giao tiếp của người học là 
trang bị cho người học một ngôn ngữ để làm việc chứ không phải nghiên cứu một công trình ngôn 
ngữ học và thực hành các quy tắc ngữ pháp. Phát triển mô hình giảng dạy tiếng Việt nhằm nâng 
cao năng lực giao tiếp cho người học đặt ra yêu cầu “văn hóa như một tiêu chuẩn trong học tập 
tiếng Việt” nhấn mạnh vào việc phát triển nhận thức về khung lý thuyết văn hóa và những “quan 
điểm của nền văn hóa Việt Nam”. Nội dung đặc trưng văn hóa Việt Nam được xác định để giảng 
dạy cho học viên quân sự nước ngoài trong các nhà trường Quân đội bao gồm toàn bộ những đặc 
trưng của biểu tầng văn hóa như văn hóa giao tiếp; văn hóa tín ngưỡng, phong tục, tập quán; văn 
hóa ẩm thực; những truyền thống tốt đẹp của dân tộc cách tiếp cận mô hình và phương pháp 
giảng dạy vẫn là vấn đề còn nhiều bàn luận. Phạm vi của bài viết đề cập đến nội dung văn hóa 
giao tiếp qua môn tiếng Việt, xác định cách tiếp cận mô hình và các phương pháp giảng dạy văn 
hóa nhằm nâng cao năng lực giao tiếp cho người học trong các nhà trường Quân đội. 
Từ khóa: văn hóa giao tiếp, phương pháp giảng dạy, năng lực giao tiếp, học viên nước ngoài, 
nhà trường Quân đội
mục đích bàn luận các phương pháp giảng dạy văn 
hóa nhằm nâng cao năng lực giao tiếp cho người 
học trong các nhà trường Quân đội. Nội dung của 
bài viết sẽ đi từ xác định đặc trưng văn hóa giao 
tiếp Việt Nam, những biểu hiện của nó trong ngôn 
ngữ tiếng Việt để xây dựng những mô hình giảng 
dạy tích cực và thiết thực cho đối tượng học viên 
quân sự nước ngoài trong các Nhà trường Quân 
đội hiện nay. 
34 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 
2. XÁC ĐỊNH ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA 
GIAO TIẾP VIỆT NAM
Chức năng quan trọng của ngôn ngữ là giao 
tiếp và được nảy sinh trong quá trình giao tiếp giữa 
con người với con người. Cùng với tư duy, ngôn 
ngữ được hình thành và con người chuyển sang 
hình thức giao tiếp mang tính xã hội có tổ chức đặc 
thù riêng, với cơ cấu hoạt động riêng. Tính chuẩn 
mực hay không chuẩn mực, đúng đắn hay không 
đúng đắn, vận động hay không vận động của hoạt 
động giao tiếp đều được thể hiện qua văn hóa giao 
tiếp. Vì thế, với mục tiêu phát triển năng lực giao 
tiếp cho người học ngôn ngữ thứ hai, việc hiểu 
một cách cặn kẽ những đặc trưng mang tính bản 
sắc của người Việt Nam hết sức quan trọng đối với 
nhận thức của học viên quân sự nước ngoài ở tất cả 
các trình độ sơ cấp, trung cấp và cao cấp.
Văn hóa giao tiếp của người Việt Nam được 
thể hiện qua nhiều dạng thức và trạng thái vô cùng 
phong phú. Tựu trung lại, nó được thể hiện qua các 
đặc trưng cụ thể sau đây:
2.1. Đặc trưng của một nền văn hóa mang 
tính cộng đồng quy định phong cách giao tiếp 
của người Việt
Xã hội Việt Nam được hình thành chủ yếu 
bằng kiểu sản xuất nông nghiệp mang tính làng 
xã. So với nhiều dân tộc khác, mô hình làng xã của 
Việt Nam là một kiểu tổ chức xã hội đặc biệt, có 
tính bền vững cao. Trong làng xã và đặc điểm kinh 
tế nông nghiệp khiến các thành viên trong xã hội 
sống phụ thuộc lẫn nhau và rất coi trọng việc giữ 
gìn các mối quan hệ với mọi thành viên trong cộng 
đồng. Chính “tính cộng đồng này là nguyên nhân 
khiến người Việt Nam đặc biệt coi trọng việc giao 
tiếp ưa thích việc giao tiếp” (Trần Ngọc Thêm, 
2004, tr.277).
Cũng chính vì ưa thích giao tiếp nên người Việt 
rất hiếu khách. Khi có khách đến chơi nhà, chủ nhà 
luôn thể hiện sự hiếu khách bằng cách dành những 
thứ tốt đẹp nhất cho khách; từ một ấm trà ngon chỉ 
dành pha tiếp khách, bữa ăn được chủ nhà khiêm 
tốn gọi là “bữa cơm rau dưa” thì cũng ắp đầy thức 
ăn ngon nhất mà chủ nhà có thể có được. Ở thành 
phố, trong những căn nhà ống chật hẹp hay biệt 
thự to lớn, phòng khách bao giờ cũng là phòng thể 
hiện hết tiềm năng kinh tế của chủ nhà. Ở nông 
thôn thì khách đến chơi nhà mà ngủ lại (đặc biệt 
khi khách là nam giới) thì được mời ngủ tại gian 
trang trọng nhất của ngôi nhà (gian thờ). 
2.2. Đặc trưng của một nền văn hóa mang 
tính trọng tình, trọng danh, thích sự tế nhị, hài 
hòa trong giao tiếp
Theo nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm (2004, 
tr.279), “nguồn gốc văn hóa nông nghiệp với đặc 
điểm trọng tình đã dẫn người Việt Nam tới chỗ lấy 
tình cảm, lấy sự yêu ghét làm nguyên tắc ứng xử 
trong giao tiếp”. 
Cũng vì trọng tình nên người Việt rất thích 
quan tâm đến chuyện riêng tư của đối tượng giao 
tiếp. Khi gặp nhau người Việt rất thích hỏi những 
câu hỏi như “Bố mẹ của bạn có khỏe không?”, 
“Bạn có mấy con?”, “Bạn đã lấy vợ chưa?” hoặc 
“Lương của bạn có cao không?”, “Bạn làm cho 
công ty nào?”, “Ở công ty của bạn đãi ngộ có tốt 
không?” Đó là những câu hỏi mà nếu không 
hiểu văn hóa của người Việt, học viên Mỹ, Pháp, 
Hàn Quốc và cả những học viên trong khu vực 
Đông Nam Á như Malaysia, Singapore rất khó 
chịu khi được hỏi và không muốn trả lời.
Những câu hỏi có tính chất riêng tư như là cách 
dẫn nhập thoải mái, mở đầu cho một cuộc giao tiếp 
giống như người Anh, người Mỹ, người Pháp 
nói về thời tiết, thời trang và cũng là cách người 
Việt thể hiện sự tế nhị, ý nhị và sự hài hòa trong 
giao tiếp đã được khái quát thành thói quen giao 
tiếp “vòng vo tam quốc”(Trần Ngọc Thêm, 2004, 
tr.282). Chính vì vậy, người Việt có nghi thức lời 
nói khi chào hỏi ít gặp ở các ngôn ngữ khác. Đó là 
thói quen hỏi để chào, mời để chào. Người nước 
ngoài sẽ không thể hiểu tại sao hai người đi trên 
hai con thuyền ngược chiều lại mời nhau ăn cơm 
hay khi gặp nhau thay vì chào buổi sáng, buổi trưa, 
buổi chiều người Việt lại hỏi “Anh đi đâu đấy?” 
35KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
và câu trả lời cũng rất phiếm chỉ “À, tôi đi đằng 
này một cái”. 
3. XÁC ĐỊNH ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA 
QUA NGÔN NGỮ VIỆT
Học viên quân sự nước ngoài đến Việt Nam 
học tiếng Việt và trải nghiệm văn hóa trong một 
khoảng thời gian nhất định theo quy định của các 
hiệp định đào tạo của quân đội các nước. Nhiệm 
vụ của họ là học tập tập trung tại các cơ sở đào tạo 
trong các nhà trường Quân đội và như thế, vốn đặc 
trưng văn hóa giao tiếp họ tiếp nhận được không 
phải thông qua trải nghiệm văn hóa hay trong sự 
so sánh giữa văn hóa nguồn và văn hóa đích trong 
quá trình tiếp xúc với người bản ngữ mà chủ yếu 
từ môn tiếng Việt được học tập tùy theo trình độ 
trong các nhà trường Quân đội. Vì vậy, để nâng 
cao năng lực giao tiếp cho người học, cần xác định 
đặc trưng văn hóa giao tiếp qua ngôn ngữ mà học 
viên sẽ tiếp nhận trong trong quá trình học tập. 
Nội dung này được xác định trên những nét lớn 
sau đây:
3.1. Thông tin văn hóa trong ngôn ngữ giao tiếp
Thông tin về ngôn ngữ - văn hóa được chia 
sẻ và tiếp nhận một cách tự nhiên trong quá trình 
sống trong cộng đồng của người bản ngữ, còn đối 
với người nước ngoài thì phải qua một quá trình 
tích luỹ lâu dài, qua trường lớp và thực tiễn. Thông 
tin văn hóa trong ngôn ngữ giao tiếp lan tỏa trong 
hầu hết các cuộc giao tiếp hàng ngày. Loại thông 
tin này ngầm ẩn và biểu hiện trong hành vi ngôn 
ngữ như chào hỏi, xin lỗi, khen ngợi, hẹn hò, mời 
mọc...; hoặc trong từ vựng chuyển tải đặc tính văn 
hoá như từ chỉ màu sắc, thân tộc, điều cấm kỵ; 
hoặc trong lối nói giảm, nói lịch sự, khiêm tốn, 
cách xưng hô tôn kính...; từ hay cách biểu đạt có 
khuynh hướng chính trị, phân biệt giới tính, tôn 
giáo...; hoặc quan niệm về sự riêng tư, về không 
gian, thời gian... Những biểu hiện này tạo nên sự 
khác biệt và đa dạng về văn hoá, có thể khác nhau 
rất nhiều giữa nền văn hoá này với nền văn hoá 
khác. Việc sử dụng chúng có những điều kiện về 
ngữ dụng và văn hoá - xã hội nhất định.
Ví dụ như từ “dạ” đặt đằng trước và từ “ạ” 
(kính ngữ) ở cuối một phát ngôn thể hiện sự kính 
trọng và thái độ lịch sự khiêm nhường của người 
giao tiếp. Trong đoạn hội thoại về chủ đề gia đình, 
học viên đã đưa ra câu hỏi với thầy giáo của mình: 
“Thế đây là ai?”. Rõ ràng câu hội thoại không 
sai về mặt từ vựng và ngữ pháp nhưng chắc chắn 
người hội thoại đã không thành công trong chiến 
thuật giao tiếp. 
Trong một đoạn quảng cáo đã phát trên sóng 
truyền hình Việt Nam, hoa hậu Mai Phương Thuý 
đóng vai cô gái xinh đẹp, có mái tóc dài óng mượt 
được người yêu đưa về ra mắt gia đình. Mẹ chàng 
trai ấn tượng với mái tóc dài suôn mượt của cô 
gái trẻ liền hồ hởi thăm dò bí quyết làm đẹp của 
cô gái: “Cháu duỗi tóc ở tiệm à?”. Đáp lại, Mai 
Phương Thuý trả lời: “À không, chỉ là R (tên nhãn 
hàng)”. Ngay sau khi đoạn quảng cáo này lên sóng 
truyền hình, nhiều người đã lên tiếng bình luận: 
“Câu trả lời của Mai Phương Thuý chỉ hợp để trả 
lời với bạn bè đồng trang lứa. Nhưng đây là trả lời 
với người lớn tuổi hơn, thậm chí còn là mẹ chồng 
tương lai, như vậy là vô lễ” (
Van-hoa/Hau-truong/Cac-ba-me-choang-vi-clip-
quang-cao-cua-Mai-Phuong-Thuy-post6744.gd.). 
Như vậy, trong trường hợp này, những phát ngôn 
trong hội thoại cũng không sai về ngữ pháp và ý 
nghĩa từ vựng mà là không phù hợp với nội dung 
thông tin ngôn ngữ - văn hóa mà cộng đồng đã 
thừa nhận và trở thành quan điểm trong giao tiếp 
với người lớn tuổi.
3.2. Chuẩn xã hội - ngôn ngữ
Chuẩn xã hội - ngôn ngữ là tập hợp các quy 
tắc sử dụng ngôn ngữ/phi ngôn ngữ trong một tình 
huống giao tiếp xã hội nhất định. Tiêu biểu là 
những mẫu câu/phát ngôn hoặc mẫu hành vi được 
cộng đồng sử dụng trong giao tiếp.
Chẳng hạn như chào hỏi, trên bình diện phi 
ngôn ngữ, người Mỹ thường bắt tay hoặc ôm hôn, 
người Việt thường cười và gật đầu, người Thái 
thường chắp tay và cúi đầu... Còn trên bình diện 
ngôn ngữ, người Mỹ thường dùng lời chào có 
khuôn mẫu cố định trong khi người Việt thì không.
36 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 
Hoặc như cách chào hỏi của người Việt Nam 
đã trở thành một nét đặc trưng trong văn hoá 
Việt. Phương châm xưng hô lịch sự là luôn hướng 
tới “xưng khiêm hô tôn”, tức là gọi mình thì khiêm 
nhường, gọi người khác thì tôn kính. Vì vậy, người 
Việt khi muốn giao tiếp với người khác thường qui 
chiếu tuổi của người đó với một người trong quan 
hệ thân tộc để thiết lập nên các cặp từ xưng gọi sao 
cho phù hợp với thói quen văn hoá dân tộc. Chẳng 
hạn: anh - em, chị - em, bác - cháu, u - con, chú - 
cháu, thầy - con... Cuộc giao tiếp sẽ trở nên tốt đẹp 
nếu chủ thể và đối tượng giao tiếp tuân thủ các yêu 
cầu của chuẩn mực giao tiếp như lịch sự, lễ phép, 
đúng mực, đúng vai giao tiếp, đúng hoàn cảnh và 
tuân theo những quy ước của xã hội và có tính 
khuôn mẫu trong văn hóa của người Việt. Người 
Việt Nam có rất nhiều kiểu chào hỏi. Cụ thể:
 Thứ nhất, lời chào được thể hiện bằng lời 
nói trực tiếp. Ví dụ: Chào chị; Cháu chào bà ạ!; 
Em chào thầy ạ!... Tuy nhiên tuỳ thuộc vào mối 
quan hệ thân - sơ hay quan hệ vị thế giữa những 
người tham gia giao tiếp mà các đại từ nhân xưng 
có sự phân ngôi rất rõ ràng. Thêm tình thái từ “ạ!” 
vào cuối lời chào thể hiện sự kính trọng của mình 
đối với người có vị thế giao tiếp cao hơn. Đối với 
những người có vai giao tiếp ngang nhau và có mối 
quan hệ thân thiết thường là: Chào! Xin chào!...
 Thứ hai, lời chào được thể hiện gián tiếp. Đây 
là những lời chào mà người phát ngôn sử dụng 
những hành vi ngôn ngữ khác nhau như: hỏi, khen, 
đề nghị, nhận xét, chúc, thông báo... Muốn giải 
mã được những thông tin hàm ẩn, phải dựa vào 
nhiều yếu tố, đặc biệt là phải đặt nó trong một môi 
trường văn hoá riêng của từng cộng đồng dân tộc. 
Khi gặp người quen, người Việt thường có thói 
quen chào bằng cách đưa ra câu hỏi: Chị đi đâu 
vậy?; Em đi học hả?; Chà, lâu quá không gặp!; 
Mới đi đâu về đấy?... Ở đây, người hỏi mà không 
cần nghe câu trả lời của người được hỏi như đặc 
trưng của câu nghi vấn. Có khi để biểu thị sự quan 
tâm, làm tăng thêm mối quan hệ thân tình, gần 
gũi thì cách hỏi rất cụ thể về tình hình gia đình, 
công việc, sức khoẻ... Có khi lời chào kèm với các 
tình thái từ (Kìa!, Trời!, Này!, Trời ơi!, A!, Ôi) 
để bộc lộ cảm xúc. Ví dụ: A! Mẹ đã về!; Trời ơi! 
Anh!... Các lời chào này thường kèm thêm các cử 
chỉ, điệu bộ như ánh mắt, vẫy tay, vỗ tay nhằm 
làm tăng thêm hiệu quả giao tiếp. Có khi lời chào 
được thay bằng lời chúc hoặc lời mời, lời khen, 
lời nhận xét. Ví dụ: Chúc mừng ông!; Chúc mừng 
nhé!; Xin chúc mừng chị!.... Hoặc là chào bằng lời 
mời nhằm bày tỏ lòng hiếu khách: Mời bác vào 
xơi cơm ạ! (Khi khách đến chơi chủ nhà đang ăn 
cơm). Đáp lại lời chào mời của chủ nhà là lời từ 
chối kèm lời cảm ơn: Vâng, cảm ơn ông; Vâng, 
mọi người cứ tự nhiên!; Vâng, cảm ơn bác, tôi 
ăn rồi. Có khi lời chào là lời khen, lời nhận xét 
như bắt đầu một câu chuyện, tranh thủ tình cảm, 
biểu thị sự quan tâm, tỏ lòng ngưỡng mộ Những 
hình thức chào gián tiếp trên đây chỉ là một thủ 
tục chào hỏi, nó chỉ có chức năng đánh tiếng trong 
giao tiếp. Nhiều người nước ngoài thấy bối rối và 
khó xử trước kiểu chào hỏi như vậy nhưng ở Việt 
Nam ẩn sau lời chào “vòng vo” ấy chính là một lối 
sống trọng tình, lối sống mang tính cộng đồng của 
người Việt.
 Câu chào hỏi của người Việt không có “công 
thức” cố định mà tuỳ biến theo tình huống, theo 
quan hệ với người đối thoại. Nụ cười đã được người 
Việt sử dụng vô cùng hiệu quả trong giao tiếp phi 
ngôn ngữ. “Nụ cười là một bộ phận quan trọng 
trong thói quen giao tiếp của người Việt; người ta 
có thể gặp nụ cười Việt Nam vào cả những lúc ít 
chờ đợi nhất” (Trần Ngọc Thêm, 2004, tr.283).
Theo kết quả khảo sát của Tổ chức Gallup 
International (GIA) về mức độ lạc quan của người 
dân ở 53 nước trên thế giới năm 2007, người Việt 
Nam được đánh giá là lạc quan và vô tư nhất thế 
giới. Người Việt dẫn đầu thế giới về mức độ tin 
tưởng vào tương lai tươi sáng mặc cho những cảnh 
báo về đám mây lạm phát đã bắt đầu vần vũ trên 
bầu trời kinh tế đất nước từ năm 2007 và đã biến 
thành giông bão trong năm 2008.
Người Việt luôn thường trực nụ cười trên môi, 
vui cũng cười, được khen cũng cười, bị phê phán 
cũng cười, theo đúng tinh thần “dĩ bất biến ứng 
vạn biến”. Một dân tộc được thử thách bởi một 
37KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước suốt bốn 
nghìn năm với quá nhiều giai đoạn chiến tranh mất 
mát, đau thương, phải đương đầu với biết bao thiên 
tai lại là một dân tộc rất hay cười. “Suy từ nụ cười, 
chúng ta thấy người Việt Nam có một sự quân bình 
đặc biệt suốt trong mọi ngành sinh hoạt khiến họ 
chấp nhận hợp lý được mọi quan niệm, dung hòa 
được mọi ý kiến dị đồng. Đời sống của dân tộc họ 
dù có chiến thắng vẫn không hân hoan tột độ, và 
dù có chiến bại vẫn không bi đát tột cùng” (Trần 
Ngọc Thêm, 2004, tr.283). 
3.3. Ý nghĩa văn hoá của ngôn từ trong văn 
hóa giao tiếp
3.3.1. Từ xưng hô
 Đặc điểm cơ bản của từ xưng hô trong tiếng 
Việt là có số lượng lớn, không có tính thuần nhất về 
cách sử dụng, giàu ý nghĩa tình thái mà ít có ý nghĩa 
trung hòa... Đây là những đặc điểm làm nên bản 
sắc đặc trưng của văn hóa giao tiếp của người Việt.
Trong tiếng Việt có nhiều từ phân biệt mối quan 
hệ họ hàng hơn người Anh: ông nội/ông ngoại 
(grandfather), bà nội/bà ngoại (grandmother), 
bác/chú/cậu/dượng (uncle) và cô/dì/thím/mợ 
(aunt). Với đặc trưng tôn trọng kinh nghiệm sống, 
tôn trọng người già, người Việt coi trọng tuổi tác 
nên rất chú ý trong việc chọn từ xưng hô. Vì vậy, 
thói quen hỏi tuổi trong giao tiếp của người Việt 
không phải vì “tò mò” mà có lý do ở óc ưa quan 
sát và mong muốn xưng hô cho “phải phép”. Cách 
xưng hô trong tiếng Việt là một trong những khó 
khăn đối với học viên nước ngoài. 
Trong tiếng Anh, tiếng Nga và tiếng Pháp chỉ 
có các từ “you; ты/вы; tu/vous” để chỉ ngôi thứ 
hai. Còn trong tiếng Việt có thể liệt kê ra một số 
lượng lớn các từ như sau: “cụ, ông/bà, bác, bố/mẹ, 
chú/cậu, cô/dì, anh/chị, nàng, mình, bạn, em, cậu, 
con, người, ngươi, cháu... 
Chỉ cần quan sát là đã thấy bức tranh về hệ 
thống từ xưng gọi trong tiếng Việt là hết sức đa 
dạng và phong phú. Tuy nhiên, ngay cả hệ thống 
các từ được đưa ra trên đây cũng chỉ phản ánh được 
một cách khái quát những quan hệ phức tạp giữa 
ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai trong quá trình giao 
tiếp. Đi vào sử dụng cụ thể, mỗi một đối tượng 
giao tiếp lại phải tuỳ vào kinh nghiệm bản thân để 
vận dụng một cách sáng tạo các cặp từ xưng gọi 
miễn sao thực hiện được tốt nhất chiến lược giao 
tiếp của mình. Nói một cách khác, hệ thống các 
từ xưng gọi trong tiếng Việt không phải là một hệ 
thống khép kín mà là một hệ thống luôn luôn mở. 
Điều này phản ánh một phần đặc trưng của văn 
hoá Việt là tính uyển chuyển, năng động, không 
cứng nhắc, dập khuôn theo một mô thức có sẵn. 
Ví dụ như người nước ngoài sẽ không thể hiểu câu 
hỏi: “Thế, anh có mấy cháu rồi?” Dẫu vẫn biết 
cháu vừa chỉ ngôi thứ nhất vừa chỉ ngôi thứ hai 
nhưng đến câu hỏi này thì cháu lại là để chỉ con 
của người thuộc ngôi thứ hai. Thậm chí, cách sử 
dụng từ xưng hô của người Việt còn trở thành thủ 
pháp trong nghệ thuật thi ca: “Mình đi mình lại 
nhớ mình” (Việt Bắc - Tố Hữu). 
Ý nghĩa tình thái trong việc sử dụng từ xưng 
hô trong tiếng Việt cũng thể hiện rất rõ đặc trưng 
linh hoạt trong tính cách của người Việt. Trong 
hệ thống từ xưng hô có cặp từ “tôi - đồng chí” 
là mang ý nghĩa trung tính và thường được dùng 
trong cơ quan hành chính. Đặc biệt từ “đồng chí” 
có một thời trong xưng hô chỉ được dùng cho 
những người là đảng viên của Đảng Cộng sản 
Việt Nam, sau này thường được dùng trong các cơ 
quan, đoàn thể. Nhưng trong thực tế hiện nay, trừ 
trong các cuộc họp của cơ quan, đoàn thể, người 
Việt vẫn thường thích dùng các từ chỉ quan hệ 
thân tộc trong giao tiếp công việc để tạo không khí 
thân mật và đạt được kết quả cao trong chiến thuật 
giao tiếp. Tuy nhiên khi nghe thấy người đối thoại 
chuyển sang sử dụng “tôi - đồng chí” thì sẽ được 
hiểu là hiệu quả và không khí giao tiếp đã có phần 
thay đổi. Việc xưng hô quá tinh tế và linh hoạt như 
vậy đối với người nước ngoài thật sự là khó nắm 
bắt. Trong khi đó, số học viên quân sự nước ngoài 
theo đuổi ngành ngoại giao quân sự và phiên dịch 
viên cao cấp luôn có mục đích và mong muốn tìm 
hiểu rõ bản chất và cách sử dụng các từ xưng hô 
trong giao tiếp. 
38 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 
 Những thực tế trên đây đã làm rõ ý nghĩa của 
thành ngữ “Phong ba bão táp không bằng ngữ 
pháp Việt Nam” mà người Việt thường nhắc nhau 
lại không phải để chỉ sự phức tạp của những cấu 
trúc ngữ pháp mà chính là sự uyển chuyển linh hoạt 
rất Việt Nam trong sự chuyển nghĩa của từ vựng.
3.3.2. Từ ngữ biểu thị thái độ lịch sự, tôn kính
Là một một đất nước có nguồn gốc nông nghiệp, 
đặc trưng của nền văn hóa trọng tình và linh hoạt 
có một dấu ấn quan trọng trong giao tiếp của người 
Việt, đặc biệt trong thái độ biểu thị sự lịch sự, tôn 
kính. Trên bình diện ngôn ngữ, mối quan hệ liên 
nhân thể hiện qua cách xưng hô theo tuổi tác, tôn 
ty (trong gia đình, ngoài xã hội); nguyên tắc lịch 
sự thường thể hiện ở cách dùng từ xưng hô và từ 
thể hiện sự trân trọng, lễ phép ở đầu câu như “dạ, 
xin, thưa” hoặc ở cuối câu như “ạ”, Những từ 
như “thưa, ạ” không thể dịch được sang tiếng Anh 
hoặc tiếng Pháp để bày tỏ sự kính trọng người hơn 
mình về tuổi tác, học vấn
Cũng như trong cách xưng hô, đối với mỗi đối 
tượng giao tiếp cũng cần lựa chọn phù hợp các từ 
ngữ để biểu đạt lòng biết ơn, sự kính trọng. Như 
khi được nhận quà, thay vì nói “cảm ơn” có vẻ 
trung tính thì có vô số những cách nói khác nhau 
như: “Ôi quý hóa quá”; “Sao cháu cứ bày vẽ 
thế”; “Anh tốt với em quá”; “Chị chu đáo quá”; 
hoặc khi được khen thì câu đáp lại cũng rất khiêm 
nhường: “Chị cứ quá khen”; “Em có được như 
thế là nhờ tất cả ở anh đấy ạ”; “Nhờ phúc ấm tổ 
tiên ạ” 
3.3.3. Ý nghĩa văn hóa trong ngôn ngữ hình 
ảnh biểu trưng
Ngôn ngữ thật sự là tấm gương phản chiếu văn 
hóa dân tộc. Việc sử dụng từ ngữ văn hóa biểu thị 
đặc trưng văn hóa giao tiếp của người Việt còn 
được thể hiện ở lớp từ ngữ tượng trưng, hình thức 
tôn kính, con số, những hình ảnh ẩn dụ, những từ 
chỉ màu sắc 
Hình ảnh được hình thành từ cách nhìn sự vật 
khác nhau của mỗi dân tộc. Chẳng hạn như cấu trúc 
không gian cụ thể của một chiếc cốc được biểu đạt 
khác nhau trong tiếng Việt và tiếng Anh: Nước đến 
miệng cốc/The water is full to the rim (mép); Nước 
đến lưng cốc/The glass is over haft full (nửa cốc) 
of water; Cốc này bị sứt ở đít/The glass is chipped 
at its bottom (đáy) (Lý Toàn Thắng, 2012, tr.80). 
Hoặc cách nhìn khác nhau về một vật hay một hiện 
tượng của người Việt và người Anh như: Lỗ kim/ 
The eye (mắt) of the needle; Sữa nóng có váng trên 
mặt/Hot milk with skin (lớp da) on it.
Một hình ảnh rất quan trọng trong văn hoá 
phương Đông là hình ảnh con rồng. Rồng là biểu 
tượng cho sự cao quý, quyền uy ở Việt Nam, 
Trung Quốc, nét nghĩa này có phần mờ nhạt hơn 
ở Nhật Bản và Hàn Quốc, Triều Tiên; và còn mờ 
nhạt hơn nữa trong quan niệm của các nước còn lại 
của Đông Nam Á, nhưng ở phương Tây nó được 
coi là sinh vật hung dữ và độc ác. Người phương 
Tây rất ngạc nhiên tại sao người Việt Nam là có 
thể tôn kính con rồng đến thế. Nhưng nếu hiểu về 
đặc trưng văn hóa của một dân tộc lấy việc trồng 
lúa nước làm căn bản, họ sẽ hiểu tại sao người 
Việt lại sùng kính một loài vật lưỡng tính, hình 
thành trong suy tưởng và tâm thức của con người 
với mong muốn cầu mưa cho đủ nước để canh tác 
nông nghiệp được thuận lợi, mùa màng tốt tươi. 
Hay như con dê trong tiếng Việt thường có 
nghĩa không đẹp, dùng để chỉ đàn ông có năng 
lực tình dục mạnh mẽ “dê cụ” nhưng trong tiếng 
Hán thì dê và cừu là hình ảnh dịu dàng, dễ thương. 
Ngoài ra, vì đồng âm với dương (trái với âm) và 
cùng vần với chữ may mắn nên người Trung Hoa 
xem dê là vật tượng trưng cho may mắn. Và cũng vì 
thế, không phải ngẫu nhiên chữ “mỹ” nghĩa là đẹp 
trong Hán tự (美) lại được biểu thị bằng chữ “đại” 
nghĩa là to lớn và chữ “dương” nghĩa là con dê.
Hình ảnh tượng trưng được thể hiện rõ nhất 
trong các cụm từ cố định, đặc biệt là trong các 
thành ngữ, tục ngữ. Do điều kiện khảo sát và mục 
tiêu bàn về phương pháp chuyển tải văn hóa, xin 
được để lại ở một chuyên đề khác. 
39KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
4. MỘT SỐ MÔ HÌNH TRUYỀN TẢI ĐẶC 
TRƯNG VĂN HÓA GIAO TIẾP CHO HỌC 
VIÊN QUÂN SỰ NƯỚC NGOÀI QUA MÔN 
TIẾNG VIỆT
4.1. Mục đích của của việc truyền tải đặc 
trưng văn hóa giao tiếp cho học viên quân sự 
nước ngoài
Trong thời đại ngày nay, triết lí về giáo dục đã 
thay đổi. Nếu như giáo dục truyền thống lấy người 
dạy làm trung tâm thì ngày nay việc lấy người học 
làm trung tâm thực sự là một cuộc cách mạng giáo 
dục trên phạm vi toàn cầu. 
Mô hình mô tả năng lực giao tiếp trong CEF 
(The Common European Framework of Reference 
for Languages) được công bố chính thức vào năm 
2001 là một hướng tiếp cận dạy học khởi phát từ 
những năm 1970 ở châu Âu và ngày nay được áp 
dụng sang hàng chục thứ tiếng khác nhau. 
Không nằm ngoài xu hướng áp dụng CEF để 
xây dựng một chương trình ngoại ngữ cho riêng 
mình đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới, Bộ 
Giáo dục và Đào tạo (2015) đã ban hành Thông tư 
về Khung năng lực trình độ tiếng Việt cho người 
nước ngoài, nhằm quy chuẩn đầu ra cho người 
nước ngoài học tiếng Việt theo hướng tiếp cận 
năng lực cho người học. Tuy nhiên, đạt được mục 
tiêu lý tưởng đó là một chặng đường dài của công 
tác giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, từ 
xây dựng chương trình, giáo trình tài liệu đến sự 
hợp tác của giảng viên trong đổi mới hướng tiếp 
cận, phương pháp giảng dạy. 
Một đặc trưng nổi bật của giảng dạy ngoại 
ngữ hướng đến năng lực giao tiếp của người học 
là trang bị cho người học một ngôn ngữ để làm 
việc chứ không phải nghiên cứu một công trình 
ngôn ngữ học và thực hành các quy tắc ngữ pháp 
vì ngữ pháp không còn là mục tiêu hàng đầu trong 
việc giảng dạy ngôn ngữ. Yêu cầu phát triển mô 
hình giảng dạy tiếng Việt nhằm nâng cao năng 
lực giao tiếp cho người học đặt ra yêu cầu “văn 
hóa như một tiêu chuẩn trong học tập tiếng Việt” 
(Trường Đại học Sài Gòn và Hội Ngôn ngữ học 
Việt Nam, 2015, tr.649) nhấn mạnh vào việc phát 
triển nhận thức về khung lý thuyết văn hóa, những 
“quan điểm của nền văn hóa Việt Nam” (Trường 
Đại học Sài Gòn và Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, 
2015, tr.651). Vì thế, mục tiêu của việc chuyển tải 
đặc trưng văn hóa Việt Nam trong tình hình mới sẽ 
không nằm ngoài mục tiêu nhằm phát triển năng 
lực giao tiếp cho người học. Như vậy, mục đích 
của việc dạy tiếng Việt cho học viên trước hết là 
giúp học viên thông hiểu đặc trưng văn hóa Việt 
Nam và đạt được năng lực giao tiếp bằng tiếng 
Việt. Mục đích của quá trình dạy và học ngoại ngữ 
là người học phải đạt được năng lực giao tiếp bằng 
thứ tiếng mình học. Năng lực giao tiếp bao gồm 
khả năng ngôn ngữ và khả năng sử dụng phương 
tiện ngôn ngữ phù hợp với những quy ước giao 
tiếp của cộng đồng người trong một xã hội nhất 
định. Do vậy, muốn giao tiếp thành công, người 
học không những phải nắm chắc hệ thống hình 
thái ngữ pháp của ngôn ngữ đang theo học mà còn 
phải hiểu và sử dụng được những quy ước văn hóa 
giao tiếp của cộng đồng người bản ngữ. Cụ thể: 
Trước tiên đó là những hiểu biết nghĩa biểu 
trưng về đất nước học, văn hóa học có thể được sử 
dụng trong các tình huống giao tiếp cụ thể. Người 
học tiếng Việt cần phải biết định hướng và hiện 
thực hóa nhiệm vụ giao tiếp của mình trong ba 
mức độ: sinh hoạt - xã hội, văn hóa - xã hội, xã 
giao - công việc và trong phạm vi 3 nhóm chủ đề 
giao tiếp: giao tiếp giữa các cá nhân, nhu cầu xã 
hội, con người và nghệ thuật.
Tiếp theo, về phương tiện ngôn ngữ biểu đạt 
trong giao tiếp bao gồm: phương tiện giao tiếp 
bằng lời (những đơn vị từ vựng không có trong 
ngôn ngữ của người học, không có nghĩa tương 
đồng, nghĩa không trùng hợp giữa hai ngôn ngữ 
và để hiểu được nghĩa cần phải giải thích); phương 
tiện giao tiếp không lời (được chấp nhận trong văn 
hóa giao tiếp của ngôn ngữ đó: cử chỉ, điệu bộ, sự 
chuyển động cơ thể, dáng điệu). Trong giao tiếp, 
phương tiện giao tiếp không lời truyền đạt được 
40 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 
hơn 65% thông tin, trong khi đó giao tiếp bằng 
lời - khoảng gần 35% thông tin. Do vậy, để tránh 
sốc văn hóa trong khi dạy ngôn ngữ cần dạy những 
phương cách biểu đạt không lời, sử dụng từ điển 
chuyên về chuẩn giao tiếp không lời.
Để giao tiếp thành công, người học cần hiểu 
những đặc trưng trí tuệ dân tộc - những phương tiện 
biểu đạt suy nghĩ, tính chất, hành vi ứng xử, chuẩn 
mực của đại diện nền văn hóa này hay nền văn 
hóa khác được xác định trong quá trình giao tiếp.
Ngoài ra, các nghi thức giao tiếp - đó là hiểu 
biết những qui tắc về hành vi ứng xử, là sự thể 
hiện văn hóa và trí tuệ của người bản ngữ. Những 
chuẩn mực này mang tính qui phạm và được thể 
thức hóa bằng lời: lời kêu gọi, hiệu triệu, thư, chào 
mừng, mời... cũng như không lời: cử chỉ, điệu bộ, 
bộ dạng bên ngoài...
Cuối cùng, hiểu biết về chiến thuật hành vi 
ngôn ngữ trong những tình huống khác nhau trong 
giao tiếp liên văn hóa: chiến thuật phát triển hành 
vi ngôn ngữ trong những tình huống xã giao và phi 
xã giao, giao tiếp trực tiếp và gián tiếp; phối hợp 
chiến lược hành vi ngôn ngữ phụ thuộc vào mục 
tiêu, nhiệm vụ, thời gian, nơi giao tiếp, địa vị xã 
hội, năng lực giao tiếp của người đối thoại với sự 
tuân thủ những chuẩn mực ngôn từ, hành văn; diễn 
đạt lời nói có chủ định, điều chỉnh, đánh giá những 
thông tin chủ định, trình bày tổng hợp những điều 
chỉnh đó để đạt mục đích giao tiếp.
Giảng dạy văn hóa giao tiếp cho học viên quân 
sự nước ngoài cần kích thích sự tò mò học hỏi và 
khuyến khích học viên đi từ đồng cảm, tôn trọng 
đến yêu mến văn hóa Việt Nam.
Như trên đã phân tích, những khó khăn và 
nhiều khi dẫn đến hiểu lầm trong giao tiếp và học 
tập ngôn ngữ hoặc trầm trọng hơn là “sốc” văn 
hóa là điều thường thấy trong học tập tiếng Việt 
như là một ngôn ngữ thứ hai đối với học viên quân 
sự nước ngoài. Vượt qua những rào cản bằng cách 
thấu hiểu đặc trưng văn hóa của người Việt sẽ kích 
thích sự tò mò học hỏi và khuyến khích học viên 
đi từ đồng cảm, tôn trọng đến yêu mến văn hóa 
Việt Nam. 
Học viên có gốc văn hóa phương Tây, Nhật, 
Hàn sẽ cảm thấy người Việt đáng yêu và thân 
thiện với những câu hỏi về cuộc sống riêng tư như: 
“Anh đã lấy vợ chưa?”; “Anh bao nhiêu tuổi?”; 
“Anh có mấy cháu?”; “Bố mẹ anh năm nay bao 
nhiêu tuổi?” nếu biết rằng những câu hỏi đó 
là xuất phát từ quan điểm cộng đồng, tự thấy có 
trách nhiệm phải chú ý đến người khác, cần biết 
rõ người đối thoại. (Mặc dù thói quen ưa tìm hiểu 
này hoàn toàn trái ngược với người phương Tây, 
người Hàn rất cảnh giác với những câu hỏi dạng 
như: “Công ty của anh thế nào? Lương anh được 
bao nhiêu?”). Tuy đề cao chuyện riêng tư của con 
người, coi như bất khả xâm phạm, nhất là về lương 
bổng và tuổi tác phụ nữ nhưng sau khi hiểu biết 
về văn hóa Việt Nam, học viên quân sự nước ngoài 
đã vô cùng thích thú, với vốn từ vựng được cung 
cấp họ say mê nghiên cứu và học tập với mục đích 
được thấu hiểu, thâm nhập vào nền văn hóa nơi 
đây. Nhiều học viên sau khi học tập đã chọn Việt 
Nam là điểm đến cho những trình độ học tập cao 
hơn hoặc quay trở lại công tác tại Việt Nam và các 
chuyên môn liên quan đến Việt Nam. Chính họ là 
những nhân tố tích cực thúc đẩy mối quan hệ ngoại 
giao quân sự giữa nước mà họ đại diện với Việt 
Nam hoặc là kênh quan trọng để chuyển tải những 
giá trị văn hóa Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. 
Khi có sự nhận thức về văn hóa Việt Nam qua 
ngôn ngữ đích, người học sẽ có sự so sánh với các 
nền văn hóa khác, từ đó hiểu về văn hóa đích, nâng 
cao năng lực giao tiếp và có được sự tôn trọng về 
đa dạng văn hóa để không có sự đánh giá nền văn 
hóa nào là cao hay thấp. Mở rộng hiểu biết văn hóa 
thông qua ngôn ngữ là sự phát triển hiểu biết quốc 
tế, một mục tiêu quan trọng trong giáo dục hiện 
nay. Việc dạy ngoại ngữ nói chung và hiểu biết văn 
hóa nói riêng khuyến khích học viên quân sự nước 
ngoài thâm nhập vào cuộc sống, tư tưởng và văn 
học của ngôn ngữ đích, phá vỡ những rào cản văn 
hóa, xây dựng tinh thần hiểu biết và tình bạn quốc 
tế hướng đến hòa bình thế giới. 
41KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
4.2. Cách tiếp cận và mô hình truyền tải văn 
hóa giao tiếp Việt Nam 
Để xác định một phương pháp truyền tải đặc 
trưng văn hóa giao tiếp Việt Nam thông qua môn 
tiếng Việt cho học viên quân sự nước ngoài phải 
dựa trên nhiều vấn đề. Căn cứ vào những nội dung 
và mục tiêu chuyển tải như đã nêu ở trên, cách 
tiếp cận tối ưu cho giảng dạy đặc trưng văn hóa 
giao tiếp cho người nước ngoài được xác định trên 
những hướng sau: 
Giảng dạy văn hóa một cách tường minh 
Giảng dạy văn hoá một cách tường minh là 
phương pháp trang bị cho học viên cơ sở phát triển 
kiến thức văn hoá đích bằng hành vi lời nói và ghi 
nhớ tri thức văn hóa. Ưu điểm của phương pháp 
này là giảng viên yên tâm rằng đã truyền đạt kiến 
thức văn hóa cho học viên và trong một buổi học, 
học viên có thể biết được một số lượng lớn kiến 
thức văn hóa. Nhưng nhược điểm của nó lại nằm 
trong chính ưu điểm là nội dung văn hoá đích chỉ 
biểu hiện ở mức độ tương đối, cách tích hợp cũng 
như cách dạy văn hoá như thế nào thì vẫn chưa 
được giải quyết thỏa đáng và học viên nhanh chóng 
quên đi những kiến thức trong giờ học vì không 
được khắc sâu thành những tình cảm văn hóa và 
không có điều kiện trải nghiệm những hiểu biết 
văn hóa ấy. Mặt khác, việc ghi nhớ, sử dụng thành 
thạo ngôn ngữ, tự nó, sẽ không giúp được gì nhiều 
cho học viên quân sự nước ngoài giao tiếp thành 
công khi trong một lớp học có từ 3 đến 7 nhóm 
học viên đến từ những nền văn hóa khác nhau. 
 Giảng dạy văn hóa theo phương pháp giao tiếp
Thông qua phương pháp này, giáo viên có thể 
dạy văn hoá cho học viên theo phương châm “học 
đi đôi với hành”. Qua việc nhấn mạnh vào chức 
năng giao tiếp, văn hoá được tích hợp một cách 
tự nhiên với ngôn ngữ, không gắn kết một cách 
“giả tạo” như cách thức giảng dạy tường minh 
trên. Thông qua thực hành, giáo viên lồng ghép 
nội dung văn hoá vào việc sử dụng ngôn ngữ, 
giúp người học tiếp thu kiến thức văn hoá bằng 
trải nghiệm sử dụng ngôn ngữ của chính mình. Ưu 
điểm của phương pháp này là đã tạo ra ngữ cảnh 
để người học hiểu biết một cách sâu sắc hơn đặc 
trưng văn hóa biểu hiện trong một bài khóa, một 
đoạn hội thoại và tạo điều kiện để người học trải 
nghiệm những hiểu biết đó. Phương pháp này đã 
được giảng dạy khá phổ biến ở Việt Nam và hiện 
nay vẫn được áp dụng tại các trung tâm giảng dạy 
tiếng Việt cho người nước ngoài. Trong những 
phần trình bày dưới đây, ta sẽ thấy được hạn chế 
của phương pháp này trong sự đối chiếu với mô 
hình giảng dạy theo phương pháp liên văn hóa. 
Giảng dạy văn hóa theo phương pháp liên 
văn hóa
Phương pháp này vận dụng ưu điểm của hai 
phương pháp nêu trên. Học viên không chỉ học hỏi 
các kiến thức về ngôn ngữ đích mà còn phải quan 
tâm đến việc phát triển nhận thức và thẩm năng văn 
hoá ở các nền văn hoá khác nhau. Quá trình phát 
triển của học viên liên tục và năng động, từ chưa 
biết đến biết, từ kinh nghiệm hiện có đến kiến thức 
mới; đồng thời tương tác giao tiếp giữa các học 
viên ở nhiều nền văn hoá khác nhau. Phương pháp 
này có những ưu thế đặc biệt nếu được áp dụng tại 
các trung tâm đào tạo tiếng Việt của quân đội với 
số lượng học viên lớn và đến từ nhiều nước khác 
nhau trên thế giới với những văn hóa khác nhau. 
Từ những cách tiếp cận trên, trong việc thiết 
kế chương trình giảng dạy văn hóa để có sự phát 
triển năng lực giao tiếp liên văn hóa cần tập trung 
vào ba lĩnh vực: 
Học ngôn ngữ và nhận thức văn hóa 
Năm 1994, trong nghiên cứu của mình, nhà 
nghiên cứu Byram Michael đưa ra mô hình giảng 
dạy ngoại ngữ và văn hoá gồm bốn thành phần cơ 
bản: việc học ngôn ngữ, nhận thức ngôn ngữ, nhận 
thức văn hoá và trải nghiệm văn hoá. Đầu tiên, học 
viên được học kiến thức ngôn ngữ. Sau đó, qua 
thông tin văn hoá được cung cấp, học viên thấy 
được sự khác biệt giữa ngôn ngữ - văn hoá nguồn 
với ngôn ngữ - văn hoá đích. Tiếp theo, qua thực 
42 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 
hành, học viên sẽ có được năng lực giao tiếp ở nền 
văn hoá đích. 
Mô hình dạy ngoại ngữ và văn hóa song song 
giúp hình thành cho người học phương pháp phán 
đoán, nhận thức về văn hóa thông qua việc sử dụng 
ngôn ngữ, đạt đến mục tiêu nâng cao năng lực cả 
về ngoại ngữ lẫn văn hóa.
Vì vậy, cần dạy văn hóa ngay từ giai đoạn đầu 
tiên học tiếng. Mặc dù vẫn có những ý kiến cho 
rằng, sẽ tốt hơn nếu tiến hành dạy văn hóa sau khi 
người học đã đạt đến một khả năng thành thạo nhất 
định nào đó về mặt ngôn ngữ. Tuy nhiên vì chúng 
ta không thể tách rời riêng biệt ngôn ngữ và văn 
hóa nên ngay từ giai đoạn đầu tiên dạy tiếng, phải 
đưa văn hóa vào mục tiêu giảng dạy. Đầu tiên là 
xuất phát từ những nội dung đơn giản liên quan 
đến cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, sau đó tùy theo 
mức độ thành thạo về mặt ngôn ngữ để mở rộng 
phạm vi giảng dạy, dạy những nội dung liên quan 
đến địa lý, văn hóa, khoa học...
Để hỗ trợ nhận thức cho người học, các giáo 
viên thường giới thiệu những kiến thức có liên 
quan đến các chủ đề như: lịch sử, địa lý, chính trị, 
kinh tế giúp cho học viên tham gia vào các cuộc 
giao tiếp của người bản ngữ. Phương pháp này có 
thể cung cấp cho học viên hiểu biết một số lĩnh 
vực văn hóa cụ thể để họ có cơ sở cho các cuộc hội 
thoại với người dân của nền văn hóa đích và làm 
giảm bớt căng thẳng. Tuy nhiên, những hiểu biết 
văn hóa mà họ tiếp nhận ảnh hưởng không đáng 
kể đến giao tiếp. Nếu học viên không hiểu các quy 
tắc của hành vi, họ sẽ phải đối mặt với những sự 
hiểu lầm và thất bại trong giao tiếp liên văn hóa. 
Mặt khác, hạn chế của phương pháp này là có quá 
nhiều sự kiện được trình bày và có quá nhiều thách 
thức đối với bộ nhớ và sức chịu đựng của người 
học. Việc học tập như vậy tốn nhiều thời gian và 
tẻ nhạt.
Phát triển năng lực giao tiếp liên văn hóa cần 
đi xa hơn tiêu chí truyền tải sự thật về một nền 
văn hóa và cung cấp thêm kiến thức để nâng cao 
hiểu biết về lý do tại sao và bằng cách nào trong 
các cuộc gặp gỡ, giao lưu văn hóa. Sự hiểu lầm 
được giảm xuống khi người ta biết khi nào, tại 
sao và bằng cách nào mà một hành vi nhất định sẽ 
được thực hiện. Giảng dạy văn hóa bằng phương 
pháp giao tiếp liên văn hóa tập trung vào nhận thức 
chung về văn hóa đích trong sự khác biệt và tương 
đồng với phông văn hóa của học viên. 
Những hiểu biết văn hóa đến với người học 
ban đầu là những nhận thức văn hóa và sẽ chuyển 
thành tình cảm văn hóa.
Ban đầu, người học có thể lo lắng, căng thẳng 
và mất tự tin do khác biệt về văn hóa. Học viên 
Myanmar đã rất lo lắng khi phát âm tiếng Việt 
không thành công (vì các âm tiết trong tiếng 
Myanmar thường là các âm tiết có phổ âm hẹp, 
tiếng Myanmar chỉ có 3 thanh điệu). Sau này, 
những học viên này đã nói tiếng Việt khá chuẩn, lý 
do không chỉ vì thường xuyên rèn luyện phát âm 
mà đã vượt qua được rào cản về văn hóa. Người 
Myanmar rất tín đạo Phật, rất thích đi chùa và ưa 
lối giao tiếp nhỏ nhẹ (nói như nói thầm vào tai của 
Phật vậy), với họ nói to (như cách nói của người 
Việt) là bất lịch sự. Sau khi được giải thích, học 
viên này đã phát âm to rõ và kết quả là anh ta đã 
vượt qua được giới hạn của khẩu hình phát âm 
quen thuộc. Rõ ràng, nhận thức về liên văn hóa sẽ 
giúp cho học viên quản lý hiệu quả phản ứng và 
cảm xúc của mình, do đó tối ưu hóa hiệu quả trong 
tương tác của họ với các thành viên thuộc nền văn 
hóa đích. 
Một ví dụ khác đối với người Lào, cũng một 
lời chào “Sabaidee” (xin chào) nhưng họ thể hiện 
lòng kính trọng và sự khiêm nhường bằng hành 
động nói lời chào kèm theo cử chỉ cúi đầu và chắp 
tay chào khi gặp người khác. Đây là cử chỉ đặc thù 
mang giá trị đạo đức và nhân sinh quan của người 
Lào. Nó nhấn mạnh đến cấu trúc xã hội và tôn ti 
“cao thấp” trong cộng đồng người Lào.
Với người Lào, cúi đầu đồng thời chắp tay 
chào là tỏ lòng kính trọng và khiêm nhường, không 
chỉ thế nó còn ẩn chứa nhiều ý nghĩa. Cách chào 
của người Lào có thể chia thành hai loại: “vái” 
43KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
(chắp tay cúi chào) và “chắp vái” (chào đáp lại). 
Nó được thể hiện bằng bốn hình thức và đều được 
làm một cách thanh nhã, cử động chậm rãi. Phong 
thái trên biểu lộ bản tính hiền hòa, trung dung của 
người Lào.
Vì vậy, học viên Lào sẽ cảm thấy rất bối rối và 
bối rối được giải tỏa khi họ thấu hiểu khi biết tính 
linh hoạt trong đặc trưng văn hóa giao tiếp đã chi 
phối hoạt động ngôn từ trong chào hỏi của người 
Việt Nam.
Những hiểu biết liên văn hóa đã cung cấp cho 
học viên những nhận thức cần thiết để họ hiểu biết 
về lý do tại sao họ cảm thấy bối rối, mất tự tin và 
cung cấp kiến thức để họ điều hành cảm xúc, đối 
đầu với thành kiến và định kiến. Dần dần, họ hiểu 
rằng, những người đến từ những nền văn hóa khác 
nhau sẽ có những cách khác nhau để xử lý và giải 
thích hành vi của họ mà sự khác biệt về văn hóa 
không có nghĩa là một thiếu sót. Từ đó học viên sẽ 
có được tình cảm và sự yêu mến với văn hóa đích.
Trải nghiệm văn hóa
Trải nghiệm văn hóa là hoạt động cuối cùng 
để đảm bảo cho thành công của giao tiếp liên văn 
hóa. Trong môi trường lớp học, đây là hoạt động 
để tăng cường giao tiếp liên văn hóa cho học viên 
quân sự nước ngoài; đặc biệt là trong nhận thức về 
nền văn hóa của người học, giáo viên cần giúp họ 
nhận ra những thay đổi trong các hoạt động dẫn 
đến thành công trong giao tiếp với người bản địa 
và những người có nền văn hóa khác nhau bằng 
ngôn ngữ - văn hóa đích. Đó là khả năng khám 
phá, giải thích và thích ứng với các yêu cầu đặt ra 
trong những hoàn cảnh giao tiếp khác nhau.
Theo mô hình này, người học được khuyến 
khích nhận biết những gì liên quan đến nền văn 
hoá đích, trở nên khoan dung và chấp nhận tính 
đa dạng, khác biệt của nó. Học viên hiểu biết về 
văn hoá đích “sẽ có cái nhìn tích cực hơn về nền 
văn hoá đó và trở nên khoan dung với văn hoá của 
người khác” (Marilyn F., 2006, tr.25). Bằng cách 
kết hợp việc sử dụng ngôn ngữ với những so sánh 
và trải nghiệm văn hoá, cũng như được học tập và 
thực tập trên sự giao thoa giữa hai ngôn ngữ – văn 
hoá nguồn và đích, học viên sẽ có được năng lực 
giao tiếp liên văn hoá. Năng lực này giúp người 
học ngày càng hiểu sâu hơn tính phổ quát lẫn tính 
đặc thù của văn hoá, biết rõ hơn những ảnh hưởng 
của văn hoá đến ngôn ngữ, đồng thời có được các 
kỹ năng diễn dịch và liên hệ, khám phá và tương 
tác với cái khác biệt, mới lạ; cũng như biết tôn 
trọng nền văn hoá khác, dễ dàng hoà nhập với thế 
giới đa văn hoá ngày nay.
Như vậy, dạy văn hóa đã chuyển đổi từ trọng 
tâm truyền đạt thông tin sang chú trọng về mặt quá 
trình. Điều quan trọng khi dạy văn hóa không phải 
là truyền tải thông tin mà là khả năng thụ cảm văn 
hóa trông qua quá trình biến đổi liên tục được hình 
thành bởi chính người học đang sống và sinh hoạt 
trong xã hội đó. Nghĩa là việc dạy văn hóa cần 
thiết chú trọng vào quá trình để học viên thông 
qua các giờ học trên lớp có thể tự phát hiện ra các 
nội dung văn hóa bằng kinh nghiệm học tập của 
bản thân.
5. KẾT LUẬN
“Văn hoá trong việc học ngôn ngữ không phải 
là một kỹ năng thứ năm không cần thiết, gắn tạm 
vào việc dạy nói, nghe, đọc và viết. Nó luôn luôn 
nằm trong nền tảng, ngay từ những ngày đầu, sẵn 
sàng gây bối rối người giỏi ngôn ngữ vào lúc bất 
ngờ nhất, cho thấy hạn chế về năng lực giao tiếp 
của họ, thách thức khả năng hiểu thế giới xung 
quanh của họ (Kramsch C., 1993, tr.1), và trên hết 
“sự hiểu biết và “chọn lọc” văn hoá đích, trong khi 
luôn đặt văn hoá đích trong mối quan hệ của văn 
hoá chính mình” (Kramsch C., 1993, tr.205)
Tâm thế liên văn hoá là một tâm thế để con 
người ứng xử với mối quan hệ giữa văn hoá bản 
địa và văn hoá bên ngoài đích trong hoạt động thực 
tiễn liên văn hoá. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và 
thách thức đối với đa dạng văn hóa là việc xác lập 
tâm thế liên văn hóa trên cơ sở tôn trọng, khoan 
dung văn hóa và sự cộng tác lẫn nhau. Sự tôn trọng 
lẫn nhau đối với các truyền thống văn hoá dân tộc 
44 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY 
là tiền đề đầu tiên của sự giao lưu liên văn hoá. 
Bên cạnh thái độ tôn trọng nền văn hoá bên ngoài, 
giao lưu liên văn hoá tích cực còn đòi hỏi một tâm 
thế khoan dung đối với nền văn hoá ấy. Nó biểu thị 
một sự thừa nhận hai chiều và chấp nhận khác biệt 
của bên kia. Sự cộng tác này không chỉ có nghĩa 
là cùng xác định những ứng xử trong giao lưu với 
nhau mà còn biểu thị sự tương tác hài hoà, chủ 
động và sự thẩm thấu giữa văn hóa bản địa với văn 
hóa bên ngoài đích. Sự đồng quy của hai tầm nhìn, 
sự nghiên cứu và sử dụng tham chiếu lẫn nhau, sự 
hấp thụ những nhân tố có ích từ đối tác để làm giàu 
và phát triển nền văn hoá của chính mình vì tiến bộ 
chung của các nền văn minh khác nhau. 
Trong điều kiện văn hóa Việt Nam trở thành 
cầu nối trong các lớp học thực hành tiếng trong 
các nhà trường Quân đội thì phương pháp giảng 
dạy liên văn hóa là phương pháp hiệu quả nhất 
trong thời điểm hiện nay. Giảng dạy liên văn hóa 
không yêu cầu giáo viên phải là người có ngôn ngữ 
và thấu hiểu văn hóa của người học vì trong điều 
kiện một lớp học có đến 7 nhóm học viên đến từ 
những nền văn hóa khác nhau. Điều tiên quyết là 
giáo viên cần hiểu rõ năng lực liên văn hóa là quá 
trình khám phá văn hóa đồng hành cùng quá trình 
tiếp thu ngôn ngữ. Mặt khác cũng cần có sự hỗ trợ 
từ những phương tiện nghe nhìn như: máy tính có 
kết nối internet, máy chiếu, ti vi 
Người xưa thường nói “nhập gia phải tùy tục”, 
song nếu chúng ta có vốn hiểu biết về phong tục, 
tập quán của nước bạn thì có nhiều thuận lợi 
trong giảng dạy, học tập, giao lưu. Bởi vậy việc 
có ý thức so sánh, đối chiếu với văn hóa nước bạn 
vô cùng cần thiết để có hành vi ứng xử phù hợp 
với văn hóa của từng dân tộc, góp phần làm cho 
khoảng cách giữa người nước ngoài và người Việt 
Nam gần nhau hơn.
Theo phương pháp giảng dạy này, người dạy 
đã nhúng học viên vào nền văn hoá đích, lớp học 
đã trở thành một ốc đảo văn hóa, được trải nghiệm 
văn hóa ở một môi trường mà ở đó họ vừa là người 
quan sát, vừa là người tham dự. Những hiểu biết văn 
hóa được khám phá và phản ánh vào văn hóa của 
người học một cách tự nhiên để biến chuyển thành 
những tình cảm tốt đẹp với văn hóa Việt Nam./.
Tài liệu tham khảo:
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), “Khung năng lực Tiếng Việt dùng cho người nước ngoài”. Ban hành kèm theo 
Thông tư số 17/2015/TT-BGDĐT ngày 01 tháng 9 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Lý Toàn Thắng (2012), Một số vấn đề lý luận ngôn ngữ học và tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Trường Đại học Sài Gòn và Hội Ngôn ngữ học Việt Nam (2015), Hội thảo quốc tế đào tạo và nghiên cứu ngôn ngữ 
học ở Việt Nam, Đại học quốc gia Hà Nội.
Byram M. (1994), Teaching and Leaning Language and Culture, Multilingual Matters, Jan 1. 
Marilyn F. (2006), The Role of Culture in Second or Foreign Language Teaching: Moving Beyond the Classroom 
Experience, Memorial University of Newfoundland.
Kramsch C. (1993), Context and Culture in Language Teaching, Oxford University Press. 
Phụ Nữ Today, Các bà mẹ choáng vì quảng cáo của Mai Phương Thúy, truy cập ngày 7/7/2017 <
vn/Van-hoa/Hau-truong/Cac-ba-me-choang-vi-clip-quang-cao-cua-Mai-Phuong-Thuy-post6744.gd>.
45KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 18 (3/2019)
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v
TEACHING FEATURES OF COMMUNICATIVE CULTURE TO FOREIGN 
STUDENTS IN MILITARY UNIVERSITIES
NGUYEN THI THUAN
Abstract: A prominent feature of teaching foreign languages towards the ability to communicate 
is to equip learners with a language to work rather than study a linguistic work and practice 
grammar rules. Development of Vietnamese teaching model to improve communication 
capacity for learners sets the requirement of “culture as a standard in learning Vietnamese” 
emphasised on the development of awareness of the framework of cultural theory, “opinion of 
Vietnamese culture”. The scope of this article refers to the content of communicative culture 
through Vietnamese, determines the models and methods of teaching culture in order to improve 
communication skills for learners in Military universities. 
Keywords: communicative culture, teaching method, communication skill, foreign student, 
Military university
Received: 16/12/2018; Revised: 02/01/2019; Accepted for publication: 25/02/2019