65 
TẠP CHÍ KHOA HỌC 
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Số 14 (4/2019) tr. 65-70 
GHI NHẬN LOÀI Xylaria adscendens (Fr.) Fr. 1851 
CHO KHU HỆ NẤM TÚI VIỆT NAM 
1Phạm Thị Lan, 2Dương Minh Lam 
1Trường Đại học Tây Bắc, 2Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 
Tóm tắt: Trên thế giới, nấm túi chi Xylaria có khoảng hơn 400 loài trong tổng số 3.050 loài thuộc các 
chi khác nhau trong họ Xylariaceae. Ở Việt Nam, số loài Xylaria được ghi nhận mới chỉ dừng lại ở con số 43. 
Trong quá trình nghiên cứu các mẫu nấm túi thu được tại Vườn Quốc gia Cúc Phương, chúng tôi đã phát hiện 
loài Xylaria adscendens (Fr.) Fr. 1851 chưa có trong danh lục các loài đã tìm thấy ở Việt Nam. Đây cũng là lần 
đầu tiên, ở Việt Nam phân lập thành công chủng nấm này, tạo tiền đề cho các nghiên cứu cơ bản khác. Bài báo 
này ghi nhận thêm một loài nấm với miêu tả chi tiết, đưa tổng số loài trong chi Xylaria được tìm thấy ở Việt 
Nam lên 44 loài. 
Từ khóa: Xylaria, Xylariaceae, Vườn Quốc gia Cúc Phương. 
1. Mở đầu 
Xylaria (Hill ex Sch Schrank, 1789) là một chi có hình thái đa dạng và phức tạp trong 
họ Xylariaceae, bộ Xylariales, lớp nấm túi (Sordariomycetes), ngành nấm túi (Ascomycota), 
giới nấm (Fungi) [1]. Trên thế giới, theo ước tính có khoảng 1,5 triệu loài nấm, trong đó có 
khoảng 65.000 loài nấm túi đã được mô tả, hơn 400 loài Xylaria trong tổng số 3.050 loài của 
họ Xylariaceae [2]. Ở Việt Nam, họ Xylariaceae có 72 loài, thuộc 13 chi, trong đó chi Xylaria 
có 43 loài đã được mô tả hình thái [3]. 
Song song với những nghiên cứu về đa dạng của nấm túi chi Xylaria, nhiều công trình 
nghiên cứu xác định đặc điểm sinh học quý của các loài trong chi này cũng được tiến hành, 
cho thấy vai trò quan trọng của nấm Xylaria trong y, dược học. Chúng chứa một lượng lớn 
các chất chuyển hóa thứ cấp với cấu trúc và hoạt tính sinh học đặc biệt như chống ung thư [4], 
chống nấm [5], chống virus [6], chống oxy hóa, chống viêm, kháng khuẩn [7]. Ngoài ra, một 
số chất có hoạt tính sinh học chiết xuất từ Xylaria được ứng dụng trong nhiều ngành công 
nghiệp như sản xuất giấy, rượu và công nghiệp dệt. Một số chủng Xylaria hoang dại và đột biến 
có khả năng phân hủy rác thải hữu cơ và vật liệu nhựa góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường 
[8]. Các kết quả nghiên cứu này cho thấy chi Xylaria không chỉ đa dạng về thành phần loài mà 
còn là nguồn gen rất quý cho nghiên cứu cơ bản và ứng dụng. 
Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa ẩm, có điều kiện sinh thái 
thích hợp cho khu hệ sinh vật, đặc biệt là nấm phát triển phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, 
những nghiên cứu ở Việt Nam về khu hệ nấm đặc biệt là nấm túi còn chưa hoàn chỉnh. Tổng 
Ngày nhận bài: 01/9/2018. Ngày nhận đăng: 14/11/2018 
Liên lạc: Phạm Thị Lan,e-mail: 
[email protected] 
66 
số loài thuộc chi Xylaria được ghi nhận là 43 loài - một con số còn khá khiêm tốn so với tiềm 
năng sinh vật hiện có. 
Việc nghiên cứu đa dạng nấm túi nói chung và chi Xylaria nói riêng nhằm xác định 
thành phần loài bổ sung cho danh lục khu hệ nấm Việt Nam, đánh giá đa dạng sinh học, xác 
định loài mới, loài đặc hữu ở Việt Nam là thực sự cần thiết, có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo 
tồn đa dạng sinh vật tại Việt Nam và trên thế giới. Đồng thời kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp 
số liệu cho những ngành khoa học khác, đặc biệt là hóa học nhằm tách chiết các hợp chất có 
hoạt tính sinh học quý, có nguồn gốc tự nhiên, ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như: dược 
phẩm, nông nghiệp, công nghiệp Trong khuôn khổ bài báo này, chúng tôi công bố loài 
Xylaria adscendens (Fr.) Fr.thu được từ Vườn Quốc gia Cúc phương, đây là loài mới được 
ghi nhận lần đầu tiên tại Việt Nam. 
2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 
2.1. Vật liệu nghiên cứu 
Vật liệu: Mẫu nấm chi Xylaria được thu thập ngẫu nhiên tại một số địa điểm của Vườn 
Quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình). 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
(1) Phương pháp thu thập và bảo quản mẫu: Mẫu nấm túi được thu thập một cách ngẫu 
nhiên trong khu vực nghiên cứu và được đặt vào trong các túi giấy vô trùng, bên ngoài ghi rõ 
thời gian, địa điểm lấy mẫu. Trong thời gian vận chuyển mẫu về phòng thí nghiệm cần đảm 
bảo giữ ẩm cho mẫu (1-2 ngày). Tại phòng thí nghiệm, các mẫu chưa phân tích ngay sẽ 
được để khô tự nhiên. Thời gian phân tích mẫu tập trung trong khoảng 1 tuần, sau đó các mẫu 
được sấy khô và bảo quản lâu dài. 
(2) Phương pháp phân lập nấm: Tiến hành phân lập các mẫu nấm Xylaria thu được 
theo các bước sau [9]: 
- Tiến hành khử trùng bằng cách xịt cồn 700 lên trên bề mặt mẫu trong 1-2 phút nhằm 
tiêu diệt những vi sinh vật bám ở bề mặt mẫu nấm. 
- Dùng dao lam cắt ngang hoặc dọc thể quả, quan sát trên kính lúp soi nổi vị trí của các 
túi bào tử trong thể quả. Dùng panh nhỏ gắp những phần có chứa bào tử chuyển vào trong đĩa 
Petri chứa môi trường thạch nước, cấy làm 6 điểm, kiểm tra dưới kính hiển vi định kỳ khả 
năng nảy mầm và mức độ nảy mầm của bào tử. 
- Dùng que cấy vô trùng chuyển các bào tử nảy mầm sang môi trường PDA (Potato 
Dextrose Agar), tiếp tục kiểm tra độ thuần của giống và chuyển vào trong ống nghiệm. Các 
ống nghiệm chứa chủng nấm đã thuần sau 4-5 ngày nuôi cấy sẽ được bảo quản ở 40C trong tủ 
lạnh. Cấy truyền định kỳ 2-4 tháng một lần. 
(3) Phương pháp phân tích đặc điểm hình thái, định loại mẫu: Chúng tôi áp dụng 
phương pháp nghiên cứu hình thái so sánh trong quá trình nghiên cứu và phân tích mẫu. Ảnh 
67 
chất nền và thể quả được chụp với kính lúp soi nổi, túi bào tử và bào tử được chụp với kính 
hiển vi (bội giác x 40, x100). Đây là phương pháp truyền thống trong nghiên cứu phân loại 
nấmđược sử dụng trên thế giới và Việt Nam từ trước tới nay. 
3. Kết quả và thảo luận 
Phân tích kết quả và so sánh những đặc điểm đặc trưng của của mẫu nghiên cứu với 
những loài nấm Xylaria đã được tìm thấy và miêu tả ở Việt Nam, nhận thấy mẫu nấm nghiên 
cứu được miêu tả dưới đây có những đặc trưng riêng, không trùng lặp với bất kỳ loài nào 
trong số 43 loài đã được ghi nhận ở Việt Nam. Trong bài báo này, chúng tôi công bố loài 
Xylaria adscendens (Fr.) Fr. 1951, được xác định là ghi nhận mới cho khu hệ nấm của Việt 
Nam, đưa tổng số loài Xylaria hiện biết lên 44. Dưới đây là miêu tả chi tiết, đặc điểm hình 
thái của loài Xylaria adscendens được tìm thấy ở Vườn Quốc gia Cúc Phương. 
Ký hiệu mẫu: CP.732, mẫu được lưu giữ tại Phòng thí nghiệm, Bộ môn Công nghệ 
Sinh học - Vi sinh, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
Địa điểm thu mẫu: Mẫu được thu ở tọa độ 20021’ N - 105035’ E, trên độ cao 315 m so 
với mực nước biển, trong Vườn Quốc gia Cúc Phương. 
Thời gian thu mẫu: Ngày 25/8/2011. 
Đặc điểm sinh thái: Trên thân gỗ đang phân hủy, trong điều kiện đủ ánh sáng, độ 
ẩm cao. 
Mô tả đặc điểm hình thái: 
(1) Chất nền hình trụ, màu đen, có hoặc không phân nhánh, mọc đơn độc hoặc thành 
cụm, kích thước 21-51 mm chiều cao x 1-2 mm đường kính (Hình 1.a). Chất nền có bản chất 
cứng, giòn dạng cacbon, không có phản ứng màu với dung dịch KOH 10%. Mô bên trong chất 
nền có dạng sợi thớ, màu kem đến xám đen. Đỉnh chất nền hữu tính, thon nhọn, thường gãy khi 
khô. Cuống phân hóa rõ, kích thước 14-24 mm chiều dài x 0.5-1.5 mm đường kính. Lỗ miệng 
dễ thấy, dạng núm nhú, bao quanh lỗ miệng là lớp vảy màu kem (Hình 1.b). 
(2) Thể quả có dạng hình cầu dẹt, sắp xếp thưa dưới lớp vỏ ngoài của chất nền, kích 
thước 250-313 µm chiều cao x 300-400 µm chiều rộng (Hình 1.c). 
(3) Túi bào tử hình trụ, chứa 8 bào tử, vỏ đơn trong suốt với tổng chiều dài 150-170 µm. 
Kích thước phần mang bào tử dài 70-80 µm, phần cuống có kích thước 80-90 µm chiều dài 
(Hình 1.d). 
(4) Cấu trúc đỉnh túi bào tử bắt màu xanh nhạt với thuốc nhuộm Melzer’s (J+), hình trụ 
hơi phình về phía đỉnh, kích thước 1,5-2,5 µm chiều dài x 1,5-1,8 µm chiều rộng (Hình 1.f). 
(5) Bào tử túi hình thuyền đến hình liềm, màu nâu đậm, đơn bào, phần kết thúc nhọn, 
kích thước 9-11 µm chiều dài x 3.5-4 µm chiều rộng. Không có phản ứng tách vỏ với KOH 
10%. Rãnh mầm dễ thấy, dạng thẳng, gần bằng chiều dài bào tử. Bào tử có nhiều giọt dự trữ 
màu nâu (Hình 1.e). 
68 
Hình 1. Đặc điểm hình thái loài X. adscendens (mẫu CP.732) 
a. Chất nền; b. Bề mặt chất nền; c. Lát cắt ngang chất nền; d. Túi bào tử; e. Bào tử túi và 
rãnh mầm (mũi tên); f. Đỉnh túi bào tử; tỷ lệ: a. 20 mm; b,c. 1 mm; d,e,f. 10 µm. 
(5) Đặc điểm hình thái hệ sợi nấm trên môi trường nuôi cấy PDA: Bào tử nảy mầm 
trong môi trường thạch nước được chuyển sang môi trường PDA. Sau 10 ngày nuôi cấy ở 
nhiệt độ 300C, đường kính của khuẩn lạc đạt kích thước 8.6 cm, màu trắng, dạng sợi, hệ sợi 
cơ chất bám chặt vào bề mặt thạch, hệ sợi khí sinh phát triển tự do. Đây là lần đầu tiên ở Việt 
Nam phân lập được chủng nấm này. Từ khuẩn lạc của chủng nấm có thể tiến hành các nghiên 
cứu về khả năng sinh enzyme ngoại bào như: cellulase, amylase, laccase...; nuôi cấy tạo thể 
quả. Từ khuẩn lạc của chủng nấm có thể tiến hành tách chiết ADN sử dụng trong phương 
pháp phân loại nấm dựa vào sinh học phân tử. 
Hình 2. Đặc điểm hình thái khuẩn lạc của loài X. adscendens (mẫu CP.732) 
trên môi trường PDA 
69 
Xylaria adscendens được miêu tả ở trong nghiên cứu này có các đặc điểm hình thái 
hoàn toàn trùng khớp với các đặc điểm được Fries miêu tả (1951). Loài được tìm thấy ở 
Argentina, Mexico, Mỹ, Papua New Guinea, Pháp, Hà Lan, Hawaii [10,11]. Tuy nhiên, đây là 
lần đầu tiên loài được ghi nhận tại Việt Nam. 
4. Kết luận 
Trong thời gian nghiên cứu tại Vườn Quốc gia Cúc Phương, chúng tôi đã ghi nhận thêm 
loài Xylaria adscendens dựa vào kết quả nghiên cứu đặc điểm hình thái và so sánh với các 
loài đã công bố trên thế giới. Đây cũng là lần đầu tiên, ở Việt Nam phân lập thành công chủng 
nấm này, tạo tiền đề cho các nghiên cứu cơ bản khác. Kết quả nghiên cứu này góp phần bổ 
sung thêm hiểu biết về khu hệ nấm nói chung và nấm túi nói riêng ở Việt Nam, phục vụ cho 
nghiên cứu đa dạng sinh học và bảo tồn. 
Lời cảm ơn: Các tác giả xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ về kinh phí cho đề tài từ 
Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia - Nafosted, giai đoạn 2011-2014. Mã số: 
106.07-2011.57. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Lumbsch, H.T. and Huhndorf, S.M. (2007), Notes on ascomycete systematics, Nos. 
4408 - 4750. Myconet 13: 59 - 99. 
[2] Hawksworth, D.L. (2001), The magnitude of fungal diversity: the 1.5 million species 
estimate revisited. Mycol. Res. 105: 1422-1432. 
[3] Phạm Thị Lan, Dương Minh Lam (2018), Ghi nhận mới 3 loài thuộc chi Xylaria cho 
khu hệ nấm túi Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 
63: 133-139. 
[4] Sergio, M.L., Lilia, C., Sarah, H., Elizabeth, A., Carmenza, S., Alicia, I., William, H.G. 
and Luis, C.R. (2011), Screening and evaluation of antiparasitic and in vitro anticancer 
activities of Panamanian endophytic fungi. Inter. Micro. 14: 95-102. 
[5] Surat, B., Prasat, K., Masahiko, I., Daraporn, P., Morakot, T. and Yodhathai, T. (2001), 
Multiplolides A and B, New antifungal 10-memberd lactones from Xylaria multiplex. 
Jour. Nat. Pro., Vol. 64, No. 7: 965-967. 
[6] Qing, X.H., Guo, Q.Z., Rui, Y.Z., Dan, D.H., He, X.W. and Tzi, B.N. (2012), A novel 
aspartic protease with HIV-1 reverse transcriptase inhibitory activity from fresh 
fruiting bodies of the wild mushroom Xylaria hypoxylon. J. Biome. Biotech., Vol. 2012, 
Article ID 728975, 8 pages doi:10.1155/2012/728975. 
[7] Yun, W.J., In, K.L., Young, S.K., Soon, J.S., Seung, H.Y. and Bong, S.Y. (2009), Chemical 
Constituents of the Fruiting Body of Xylaria polymorpha. Mycobiol. 37(3) : 207-210. 
[8] Susana, R.C. and José Luis, T.H. (2006), Lacasses in the textile industry. Biotechnology 
and Molecular Biology Review Vol. 1 (4): 115-120. 
70 
[9] Ho, W.C. and Ko, W.H. (1997), A simple method for obtaining single-spore isolates of 
fungi. Bot. Bull. Acard. Sin. 38: 41 - 44. 
[10] Martín, S.F., Lavins, P., and Rogers, J.D. (2001), Some species of Xylaria 
(Hymenoascomycetes, Xylariaceae) associated with oaks in México. Mycotaxon 79: 
337-360. 
[11] Rogers, J.D. and Ju, Y.M. (2012), The Xylariaceae of the Hawaiian Islands. North 
American Fungi.Vol. 7(9): 1-35. 
NEW RECORD OF Xylaria adscendens SPECIES TO THE FUNGAL 
FLORA OF VIETNAM 
1Pham Thi Lan, 2Duong Minh Lam 
1Tay Bac University 
2Hanoi National University of Education 
Abstract: The genus Xylaria belongs to the family Xylariaceae containing over 400 species in the 
world. Among the genus, only 43 species are recorded in Vietnam. Based on the study of ascomycetous fungal 
samples from Cuc Phuong Nation Park, a new species, Xylaria adscendens (Fr.) Fr. 1851, is reported and 
isolated for the first time in Vietnam. The finding increases the reported Xylaria species to 44 in total. This is a 
premise for further basic studies of fungal diversity. This paper presents the morphological information of the 
newly recorded species - Xylaria adscendents. 
Keywords: Xylaria, Cuc Phuong National Park, Xylariaceae.