Đổi mới công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên đáp ứng yêu cầu thực tiễn giáo dục phổ thông

Tài liệu Đổi mới công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên đáp ứng yêu cầu thực tiễn giáo dục phổ thông: Đầu Thị Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 53 - 57 53 ĐỔI MỚI CÔNG TÁC RÈN LUYỆN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CHO SINH VIÊN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU THỰC TIỄN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Đầu Thị Thu* Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Ở các trường sư phạm, việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên là một trong những khâu quan trọng nhất trong quá trình đào tạo giáo viên. Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là quá trình hình thành và rèn luyện các năng lực sư phạm cốt lõi cho sinh viên, góp phần hình thành các phẩm chất và năng lực cho người giáo viên tương lai. Do đó, đổi mới công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên là một biện pháp quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu thực tiễn giáo dục phổ thông. Từ khóa: Đổi mới; rèn luyện; nghiệp vụ sư phạm; rèn luyện nghiệp vụ sư phạm; giáo dục phổ thông. ĐẶT VẤN ĐỀ* Trước yêu cầu thực tiễn giáo dục phổ thông (GDPT), các trường sư phạm - cái nôi đào tạo giáo viên (GV) cần phải ...

pdf6 trang | Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 265 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên đáp ứng yêu cầu thực tiễn giáo dục phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đầu Thị Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 53 - 57 53 ĐỔI MỚI CÔNG TÁC RÈN LUYỆN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CHO SINH VIÊN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU THỰC TIỄN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Đầu Thị Thu* Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Ở các trường sư phạm, việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên là một trong những khâu quan trọng nhất trong quá trình đào tạo giáo viên. Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là quá trình hình thành và rèn luyện các năng lực sư phạm cốt lõi cho sinh viên, góp phần hình thành các phẩm chất và năng lực cho người giáo viên tương lai. Do đó, đổi mới công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên là một biện pháp quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu thực tiễn giáo dục phổ thông. Từ khóa: Đổi mới; rèn luyện; nghiệp vụ sư phạm; rèn luyện nghiệp vụ sư phạm; giáo dục phổ thông. ĐẶT VẤN ĐỀ* Trước yêu cầu thực tiễn giáo dục phổ thông (GDPT), các trường sư phạm - cái nôi đào tạo giáo viên (GV) cần phải chú trọng đào tạo đội ngũ GV có phẩm chất chính trị đạo đức tốt, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề cao. Nghề dạy học là một nghề có tính chất đặc biệt, đối tượng dạy học là các thế hệ học sinh đang phát triển, đa dạng về tính cách, phong phú về tâm hồn và rất nhạy cảm, do đó nó được xếp vào hàng các nghề “nặng nhọc”, là nghề có tính chất “thiên chức”. Nhiệm vụ của người thầy giáo là dạy học và giáo dục, góp phần hình thành các phẩm chất và năng lực, nhân cách cho học sinh, do đó nghề dạy học rất sáng tạo, nhân văn, cao quý và vinh quang. Trong đào tạo GV, sinh viên (SV) sư phạm phải thực hiện hai hoạt động cùng tồn tại và có quan hệ mật thiết với nhau, đó là học tập kiến thức chuyên môn và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm (NVSP). Ngoài ra, SV phải liên tục phấn đấu rèn luyện nhân cách sư phạm để có được đạo đức nghề nghiệp. Rèn luyện NVSP cho SV là một trong những khâu quan trọng nhất trong quá trình đào tạo GV. Do đó, đổi mới công tác rèn luyện NVSP cho SV là một biện pháp quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo GV đáp ứng yêu cầu thực tiễn GDPT. NỘI DUNG Ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác rèn luyện NVSP cho SV * Tel: 0915 462446, Email: dauthusp@gmail.com NVSP không chỉ là một hệ thống kỹ năng (KN) mà bao gồm cả hệ thống tri thức và các phẩm chất nghề nghiệp mà một GV cần phải có. Rèn luyện NVSP, còn gọi là rèn nghề, là “tập làm công việc chuyên môn của nghề dạy học” hay nói cách khác, là quá trình hình thành và rèn luyện các năng lực sư phạm cốt lõi cho SV, góp phần hình thành các phẩm chất và năng lực cho người GV tương lai. Rèn luyện NVSP là hoạt động nòng cốt trong quá trình rèn luyện tay nghề của SV, góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển năng lực sư phạm của SV. SV có ý thức rèn luyện NVSP thường xuyên tốt sẽ là điều kiện quan trọng nâng cao năng lực sư phạm cho bản thân. Học tập và rèn luyện NVSP thường xuyên giúp SV có những hiểu biết về quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục - đào tạo. Qua việc rèn luyện NVSP thường xuyên, SV được củng cố trau dồi thêm vốn tri thức, rèn luyện các KN sư phạm, đồng thời thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ cả về thể chất, tinh thần, nhân cách người GV trong tương lai. Đổi mới công tác rèn luyện NVSP cho SV Đổi mới mục tiêu rèn luyện NVSP Nghị quyết 29/NQ-TW (Khóa XI) của Đảng đã chỉ ra phương hướng nhiệm vụ cụ thể của công tác đào tạo và bồi dưỡng GV là: “Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng Đầu Thị Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 53 - 57 54 cấp học và trình độ đào tạo. Tiến tới tất cả các GV tiểu học, trung học cơ sở, giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải có trình độ từ đại học trở lên, có năng lực sư phạm. Giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ từ thạc sĩ trở lên và phải được đào tạo, bồi dưỡng NVSP” [1]. Như vậy, về định hướng, rèn luyện NVSP là phải theo hướng “coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học” là rèn luyện theo chuẩn nghề nghiệp GV phổ thông và mầm non “tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, KN, phát triển năng lực”. Để đào tạo đội ngũ GV có phẩm chất nghề nghiệp, năng lực chuyên môn, ngoại ngữ và ứng dụng công nghệ thông tin, năng lực nghiệp vụ sư phạm, năng lực xây dựng, thực hiện môi trường giáo dục dân chủ, năng lực xây dựng các quan hệ xã hội, hoạt động rèn luyện NVSP cần phải hình thành cho SV các KN hoạt động nghề nghiệp như: các KN nghiệp vụ dạy học (KN lập kế hoạch dạy học; lựa chọn tri thức; phối hợp các phương pháp dạy học; tìm hiểu và nắm vững đối tượng, môi trường dạy học; khả năng ngôn ngữ, diễn đạt ý tưởng; sử dụng phương tiện dạy học; tổ chức, quản lí, điều khiển học sinh; ứng xử sư phạm; thuyết phục học sinh; kiểm tra đánh giá kết quả dạy học); các kỹ năng nghiệp vụ giáo dục (KN xây dựng kế hoạch giáo dục; tổ chức, chỉ đạo các hoạt động giáo dục; khả năng đối xử cá biệt; điều chỉnh hoạt động giáo dục; thuyết phục, cảm hoá học sinh; vận động, lôi cuốn, phối hợp giáo dục; xây dựng tập thể học sinh; giao tiếp, ứng xử sư phạm), từ đó nhằm phát triển toàn diện nhân cách người GV tương lai. Đổi mới nội dung rèn luyện NVSP Căn cứ vào khung chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, các Trường Sư phạm chủ động xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với điều kiện cụ thể của trường mình, do vậy nội dung rèn luyện NVSP ở mỗi trường không giống nhau và cũng luôn được thay đổi phù hợp với yêu cầu thực tiễn giáo dục phổ thông. Nội dung rèn luyện NVSP của một số chương trình đào tạo GV chỉ chú ý rèn luyện cho SV các KN riêng, như vậy chưa đủ. Theo chúng tôi, để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ dạy học, SV cần phải được rèn luyện những KN chung làm nền tảng. Việc rèn luyện NVSP cần tập trung vào những nội dung cơ bản sau: * Những KN chung: - KN tìm hiểu môi trường giáo dục: Cơ cấu tổ chức, cơ sở vật chất trường học, đặc điểm vùng miền, đội ngũ giáo viên, số lượng, chất lượng học sinh. - KN tìm hiểu hoạt động của tổ chuyên môn: Hình thức, nội dung sinh hoạt chuyên môn - KN tìm hiểu chương trình sách giáo khoa: Khung chương trình, chuẩn kiến thức – kĩ năng, vấn đề đổi mới chương trình - KN tìm hiểu công tác chủ nhiệm lớp: Hồ sơ, kế hoạch chủ nhiệm lớp, cách quản lý và phê, duyệt học bạ, cách quản lý và sử dụng sổ điểm, sổ đầu bài. - KN tìm hiểu hoạt động dạy học: Mẫu giáo án, dự giờ, tìm hiểu các hoạt động của giáo viên và học sinh, ghi biên bản dự giờ, tham gia phân tích bài học sau tiết dự giờ, - KN tìm hiểu hoạt động giáo dục học sinh: Tham gia thiết kế các hoạt động ngoại khóa, tổ chức các buổi lao động, văn nghệ, thể dục thể thao, tham quan, cắm trại, tìm hiểu các hoạt động phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội trong việc giáo dục học sinh; tư vấn hướng nghiệp cho học sinh cuối cấp [2]. * Những kỹ năng riêng: - Kỹ năng dạy học: KN phân tích chương trình môn học; KN nghiên cứu mục tiêu, nội dung bài dạy; KN dự kiến cấu trúc, nội dung bài giảng; KN lựa chọn phương pháp, phương tiện dạy học; KN sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học; KN dẫn dắt vào bài mới, thu hút sự chú ý và tạo hứng thú học tập cho học sinh; KN vận dụng phối hợp các phương pháp dạy học; KN đặt câu hỏi và kích thích tính tích cực học tập của học sinh; Đầu Thị Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 53 - 57 55 KN quản lý lớp học và xử lý các tình huống sư phạm; KN kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học. - Kỹ năng xử lý tình huống sư phạm trong các mối quan hệ giao tiếp giữa GV với học sinh, giữa GV với GV, giữa GV với phụ huynh học sinh, giữa học sinh với học sinh - Kỹ năng nghiên cứu (NC) khoa học giáo dục, gồm KN nhận diện vấn đề NC; KN lập kế hoạch NC; kỹ năng thiết kế công cụ NC; KN thu thập và xử lý kết quả NC; KN viết báo cáo tổng kết; KN bảo vệ kết quả NC Đổi mới phương thức rèn luyện NVSP Tổ chức rèn nghề cho sinh viên theo 2 giai đoạn: * Giai đoạn 1: Rèn nghề tại Trường Sư phạm. Ở bước này, cần chú trọng rèn KN chung cho SV thông qua các học phần: Tâm lý học, Giáo dục học, Giao tiếp sư phạm, đặc biệt là Thực hành sư phạm 1, 2, 3). Cần chú trọng rèn nghề cho SV thông qua các môn Thực hành sư phạm theo phương thức: GV chia thành từng nhóm SV (10 đến 15 SV/nhóm), tổ chức và hướng dẫn SV rèn các KN diễn thuyết; KN xử lý tình huống sư phạm; KN tổ chức hội nghị, hội thảo, sự kiện; KN thiết kế và tổ chức các hoạt động Đoàn, Đội... KN trình bày bảng, bảng phụ; KN thiết kế và sử dụng phương tiện dạy học; KN thiết kế và tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo, từ đó có hiểu biết sâu sắc về năng lực của người GV đáp ứng yêu cầu đổi mới GDPT, có ý thức tự học hình thành các KN sư phạm và đạo đức nghề nghiệp. * Giai đoạn 2, SV thực hành nghề tại trường phổ thông thông qua các hoạt động: - Thực tế chuyên môn (TTCM), thực hiện từ năm thứ nhất với các học phần Tâm lý học, Giáo dục học và Phương pháp giảng dạy bộ môn. Nhà trường sư phạm liên hệ địa điểm, chủ động phối hợp với các cơ sở TTCM lập kế hoạch, danh sách giảng viên và SV (theo nhóm từ 5 đến 10 SV) gửi cho các cơ sở TTCM; giảng viên bộ môn xác định danh mục hoạt động mà SV phải hoàn thành trong thời gian TTCM. TTCM Giúp SV vận dụng tri thức các môn NVSP vào thực tế GDPT nhằm hình thành KN giao tiếp; KN nhận diện, phân tích và đánh giá đặc điểm thể chất, tâm lýcủa học sinh (HS); KN tổ chức và điều khiển quá trình dạy học; KN tìm hiểu môi trường giáo dục; KN kỹ năng hỗ trợ tâm lý HS; KN xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục; KN tổ chức các hoạt động giáo dục; KN giáo dục học sinh; KN làm công tác GV chủ nhiệm lớp; bước đầu hình thành một số KN dạy học (KN vận dụng các nguyên tắc dạy học; KN sử dụng các phương pháp, phương tiện dạy học; KN giao tiếp; KN tổ chức và điều khiển quá trình dạy học; KN kiểm tra, đánh giá,...). Sau TTCM, SV phải có hồ sơ thực tế, bao gồm: Biên bản dự giờ; biên bản quan sát hoạt động của học sinh trong giờ học và các hoạt động khác; bài thu hoạch rút ra kinh nghiệm thu được từ hoạt động TTCM bao gồm cả ba lĩnh vực: kiến thức, kỹ năng, thái độ. - Thực tập sư phạm 1 đối với sinh viên năm thứ ba: Trường lập kế hoạch tổ chức theo đoàn (30 đến 40 SV/1 đoàn), trong thời gian 03 tuần ở trường phổ thông với các nội dung: Thực tập chuyên môn (tìm hiểu nội dung công việc giảng dạy của người GV, của tổ bộ môn ở một trường học; tìm hiểu về nội dung, chương trình, kế hoạch giảng dạy của cơ sở thực tập; tìm hiểu các loại hồ sơ, sổ sách lớp học; cách đánh giá, cho điểm, phân loại học lực, thể lực, hạnh kiểm của HS,; dự các tiết giảng của GV cơ sở thực tập; ghi biên bản dự giờ; nhận xét, rút kinh nghiệm giờ giảng); Thực tập giáo dục (vận dụng các kiến thức Tâm lý học, Giáo dục học vào thực tế; tìm hiểu cơ cấu tổ chức, nội dung công tác và tình hình thực tế của nhà trường, của địa phương; dự các buổi sinh hoạt lớp và các buổi sinh hoạt ngoại khoá văn thể do GV chủ trì; trực tiếp tham gia làm chủ nhiệm ở một lớp: xây dựng kế hoạch công tác chủ nhiệm cho cả đợt và từng tuần, theo dõi tình hình về đạo đức, học tập, sức khoẻ, sinh hoạt của lớp có ghi chép nhận xét và tổ chức rút kinh nghiệm; tham gia hướng dẫn các buổi sinh hoạt lớp, tổ chức các Đầu Thị Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 53 - 57 56 buổi lao động, văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi, tham quan, cắm trại theo đặc trưng của từng ngành học, bậc học) [3]. - Thực tập sư phạm 2 đối với sinh viên năm thứ tư: Trường lập kế hoạch tổ chức theo đoàn (30 đến 40 SV/1 đoàn), thực hiện trong thời gian 07 tuần ở trường phổ thông với các nội dung chủ yếu như: Thực tập giáo dục (tìm hiểu tình hình giáo dục của nhà trường, của địa phương; tìm hiểu các hoạt động của tổ chuyên môn, chức năng nhiệm vụ của giáo viên, tài liệu, sổ sách lớp, hồ sơ, học bạ học sinh; lập kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp cả đợt và từng tuần; theo dõi, nắm vững tình hình học tập, sức khoẻ, đạo đức của cả lớp, của các học sinh cá biệt; hướng dẫn các buổi sinh hoạt lớp, tham gia các buổi sinh hoạt Đoàn, Đội; tổ chức các hoạt động giáo dục: lao động, vui chơi, văn nghệ, thể dục, thể thao,Thực tập chuyên môn (lập kế hoạch giảng dạy toàn đợt và từng tuần; dự các tiết dạy do GV dạy giỏi thực hiện, rút kinh nghiệm học tập; soạn giáo án; chuẩn bị đồ dùng dạy học; lên lớp dạy; rút kinh nghiệm giờ dạy) [3]. Tăng cường các hoạt động bổ trợ rèn luyện NVSP Thành lập Câu lạc bộ NVSP, tổ chức nhiều đợt tập huấn về KN NVSP; tổ chức các hội nghị, hội thảo về NVSP; tăng cường thêm các hoạt động rèn luyện KN mềm, KN lập kế hoạch làm việc, KN kiểm soát và làm chủ cảm xúc, KN làm việc nhóm, KN văn hóa, nghệ thuật,KN sử dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, KN vận dụng các phương pháp dạy học hiện đại và KN tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh; tăng cường các hoạt động Xemina, ngoại khoá, nghiên cứu khoa học có nội dung về rèn luyện NVSP; Đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ công tác rèn luyện NVSP cho phù hợp với các hình thức thực hành nghề hiện nay; kết nối giờ học trực tuyến giữa các trường phổ thông với các lớp học rèn luyện NVSP tại trường, để sinh viên có thể quan sát, thảo luận và kiến tập tại chỗ; cử nhiều giảng viên, đặc biệt là giảng viên bộ môn phương pháp giảng dạy đến trường phổ thông dự giờ, thăm lớp, tìm hiểu thực tế phổ thông nhằm tạo sự gắn kết chặt chẽ về chuyên môn giữa trường sư phạm với các trường phổ thông; mời GV dạy giỏi ở các trường phổ thông tham gia giảng dạy chuyên đề rèn luyện NVSP (công tác chủ nhiệm lớp và công tác giảng dạy) cho SV trước khi đi thực tập sư phạm. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết luận Rèn luyện NVSP cho SV là một trong những khâu quan trọng nhất trong quá trình đào tạo GV. Để nâng cao chất lượng đào tạo GV đáp ứng yêu cầu GDPT, góp phần đổi mới căn bản và toàn diện GD&ĐT, các Trường sư phạm cần chú trọng rèn luyện NVSP cho SV, đổi mới mục tiêu, nội dung, phương thức rèn luyện NVSP cho SV. Kiến nghị Trường sư phạm cần nghiên cứu xây dựng chuẩn đầu ra của công tác rèn luyện NVSP tương ứng với mỗi ngành đào tạo, xây dựng quy trình rèn luyện NVSP, phát triển chương trình môn học TTCM, thực hành sư phạm, thực tập sư phạm theo chương trình giáo dục phổ thông mới để đáp ứng đổi mới GD&ĐT hiện nay [5]; Chủ động phối hợp với các Sở GD&ĐT thành lập hệ thống các trường thực hành sư phạm “vệ tinh”, thường xuyên cử SV xuống thực hành, TTCM và tham gia hoạt động trợ giúp trường thực hành tổ chức các sự kiện, các ngày lễ kỉ niệm lớntạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên được học tập và rèn luyện NVSP; xây dựng các phòng học trực tuyến và kết nối trực tuyến giữa trường sư phạm với các trường thực hành sư phạm vệ tinh nhằm giúp SV có thể quan sát các giờ dạy mẫu ở trường phổ thông và cùng giảng viên phân tích bài học ngay tại giảng đường đại học; chủ động mời giáo viên phổ thông tham gia xây dựng chuẩn đầu ra, tham gia xây dựng và phát triển chương trình đào tạo, báo cáo chuyên đề, giảng dạy một số tiết trong chương trình, khảo sát hiện trạng SV tốt nghiệp đáp ứng yêu cầu chuẩn đầu ra [4]. Đầu Thị Thu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 188(12/3): 53 - 57 57 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII khóa XI “Về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế". 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên trung học phổ thông, Thông tư số 40/2011/TT-BGDĐT ngày 16 tháng 9 năm 2011. 3. Hoàng Thị Hạnh (2016), Kỹ năng cơ bản của sinh viên trong thực tập sư phạm, NXB Giáo dục. 4. Phạm Hồng Quang (2013), Phát triển chương trình đào tạo giáo viên - những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Đại học Thái Nguyên. 5. Thủ tướng Chính phủ (2015), Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông (Ban hành kèm theo Quyết định số 404/QĐ-TTg ngày 27/3/2015). SUMMARY INFRASTRUCTURE FOR PROFESSIONAL DEVELOPMENTS FOR STUDENTS MEETING REQUIREMENTS OF PRACTICE OF GENERAL EDUCATION Dau Thi Thu * University of Education - TNU In pedagogical schools, pedagogy training for students is one of the most important steps in the teacher training process. Pedagogical training is the process of forming and practicing core pedagogical skills for the student, contributing to the formation of qualities and abilities for the future teacher. Therefore, renovating pedagogical training for students is an important measure to improve the quality of teacher training to meet the practical requirements of general education. Keywords: infrastructure; Practise; pedagogic; pedagogical training; general education Ngày nhận bài: 17/8/2018; Ngày phản biện: 06/9/2018; Ngày duyệt đăng: 12/10/2018 * Tel: 0915 462446, Email: dauthusp@gmail.com 58

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf311_493_1_pb_5672_2127086.pdf
Tài liệu liên quan