Tài liệu Đổi mới công tác nghiên cứu và chuyển giao giống cây lâm nghiệp phục vụ tái cơ cấu ngành: Tạp chí KHLN 2/2014 (3241 - 3254) 
©: Viện KHLNVN - VAFS 
ISSN: 1859 - 0373 Đăng tải tại: www.vafs.gov.vn 
3241 
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU VÀ CHUYỂN GIAO GIỐNG CÂY 
LÂM NGHIỆP PHỤC VỤ TÁI CƠ CẤU NGÀNH 
PGS.TS. Võ Đại Hải 
Giám đốc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam 
Từ khóa: Giống cây lâm 
nghiệp, thành tựu, định 
hướng, tái cơ cấu ngành. 
TÓM TẮT 
Cải thiện giống cây rừng ở nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể 
như đã chọn được một số loài cây và xuất xứ có triển vọng nhất cho một số 
vùng sinh thái chính; Chiến lược cải thiện giống dài hạn cho nhóm các loài 
cây trồng rừng chủ lực đã hoạch định rõ ràng nhằm tăng năng suất rừng 
trồng và chất lượng sản phẩm cuối cùng; Các quần thể chọn giống và nhân 
giống được xây dựng trên khắp cả nước để cung cấp hạt giống chất lượng 
cao cho sản xuất và phục vụ nghiên cứu. Nhân giống sinh dưỡng cũng đã 
được nghiên cứu thành công cho nhiều giống tiến bộ kỹ thuật và đã chuyển 
giao công nghệ nhân giống và giống gốc cho ...
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 14 trang
14 trang | 
Chia sẻ: quangot475 | Lượt xem: 495 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đổi mới công tác nghiên cứu và chuyển giao giống cây lâm nghiệp phục vụ tái cơ cấu ngành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KHLN 2/2014 (3241 - 3254) 
©: Viện KHLNVN - VAFS 
ISSN: 1859 - 0373 Đăng tải tại: www.vafs.gov.vn 
3241 
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU VÀ CHUYỂN GIAO GIỐNG CÂY 
LÂM NGHIỆP PHỤC VỤ TÁI CƠ CẤU NGÀNH 
PGS.TS. Võ Đại Hải 
Giám đốc Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam 
Từ khóa: Giống cây lâm 
nghiệp, thành tựu, định 
hướng, tái cơ cấu ngành. 
TÓM TẮT 
Cải thiện giống cây rừng ở nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể 
như đã chọn được một số loài cây và xuất xứ có triển vọng nhất cho một số 
vùng sinh thái chính; Chiến lược cải thiện giống dài hạn cho nhóm các loài 
cây trồng rừng chủ lực đã hoạch định rõ ràng nhằm tăng năng suất rừng 
trồng và chất lượng sản phẩm cuối cùng; Các quần thể chọn giống và nhân 
giống được xây dựng trên khắp cả nước để cung cấp hạt giống chất lượng 
cao cho sản xuất và phục vụ nghiên cứu. Nhân giống sinh dưỡng cũng đã 
được nghiên cứu thành công cho nhiều giống tiến bộ kỹ thuật và đã chuyển 
giao công nghệ nhân giống và giống gốc cho sản xuất. Tồn tại chủ yếu là 
nhiều giống tiến bộ kỹ thuật vẫn chưa được chuyển giao vào sản xuất, hệ 
thống nguồn giống và cán bộ quản lý giống tại các địa phương còn thiếu và 
yếu. Để phục vụ đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp, công tác chọn tạo giống 
cây rừng trong thời gian tới sẽ phải được thực hiện theo hướng gắn kết chặt 
chẽ giữa nghiên cứu chọn giống truyền thống với ứng dụng công nghệ sinh 
học, khoa học gỗ, lâm sinh và sâu bệnh rừng; Tập trung chọn tạo giống phù 
hợp với từng loại lập địa ở từng vùng trồng rừng trọng điểm, theo từng mục 
tiêu sử dụng và sức chống chịu, tạo đa bội và con lai tam bội bất thụ cho các 
loài cây trồng rừng chủ lực có diện tích trồng rừng lớn ở Việt Nam. Ứng 
dụng một số công nghệ mới như chọn giống bằng các chỉ thị phân tử, biến 
nạp gene, tạo phôi nhân tạo, kích thích ra hoa sớm và mini - cutting,... vào 
các chương trình cải thiện giống nhằm nâng cao hiệu quả, rút ngắn chu kì 
chọn tạo giống và chuyển giao nhanh giống tốt vào sản xuất. Đẩy mạnh 
chuyển giao giống gốc và công nghệ xây dựng vườn giống, rừng giống chất 
lượng cao và công nghệ mô hom cho các địa phương để chủ động sản xuất 
giống phục vụ trồng rừng. 
Keyword: Forest tree 
improvement, achievement, 
stategy of research and 
development, forest 
restructuring 
Innovation of forest tree improvement to serve the scheme of forest 
restructuring 
Forest tree improvement pays an important role in intensive plantations. For 
many years ago, significant achievements of forest tree improvement in 
Vietnam were as follow: (1) Some tree species with promising provenances 
were selected for some main ecological regions; (2) Breeding strategy of 
each promissing species was set up to improve the MAI of plantations and 
quality of end products. (3) Breeding populations, seed orchards, seed 
production areas, Hedge orchards and gene banks were established for some 
main planting species to supply the high quality seeds for plantation 
programs and genetic materials for further breeding programs; Application 
of biotechnology in identify of clone, outcrossing rate, genetic diversity of 
breeding population and use of DNA maker were implemented; Vegetative 
propagation by cutting and tisue culture were successfully studied and then 
the techniques and original germplasms were transferred to production 
Tạp chí KHLN 2014 Võ Đại Hải, 2014(2) 
3242 
units. Usefull germplasms were Acacia and Eucalyptus clones and hybrid 
clones for low land and highland areas, dry - zone acacias for dry sandy 
soil, Melaleuca species for waterlogged sulphate acid soils and clones of 
Pinus merkusii with high resin yield. 
However forest tree improvement still did not meet the large requirement 
from production units, such as few approved germplasms tranferred to 
production units and lack of propagation populations and management of 
germplasms in provincial level. To serve the Scheme of Forest 
Restructuring, the forest tree improvement must implement as a linkage 
model including quantitative genetics, molarcular genetics, wood science, 
silviculture and tree pathology. Priorities of breakthrough researchs should 
be focused on selection, directional pollination, creation of polyploid and 
trippoid germplasms of main planting species, selection of suitable 
germplasms for each major areas and end - use products, and harsh 
environment and disease resistance. Results from researchs will be 
transferred as soon as possible by cooperating with forest extention 
services. Application of new technologies, such as DNA marker, gene 
transfer, creation of artificial embryos, stimulation of early flowering and 
mini - cutting, will encourage for increase of breeding effect and to shorten 
breeding cycles. Estabilishment of high quality seed production areas, seed 
orchards, hedge orchards, seed store and gene bank in major areas of 
plantations will be implemented in next few years for increase of supply of 
good seeds and germplasms to production units, research, gene 
conservation as well as international exchange of genetic materials. 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Chuyển từ khai thác rừng tự nhiên sang kinh 
doanh rừng trồng là xu hướng phát triển tất 
yếu không những ở nước ta mà của rất nhiều 
nước trên thế giới. Trong kinh doanh rừng 
trồng, giống cây lâm nghiệp có vai trò rất 
quan trọng trong sản xuất lâm nghiệp, đặc 
biệt là trong thời kỳ công nghiệp hóa nông 
nghiệp, thông thôn và xây dựng nông thôn 
mới. Nhờ có giống được cải thiện và áp dụng 
các biện pháp kỹ thuật thâm canh mà năng 
suất và chất lượng rừng trồng của nước ta 
trong những năm qua đã tăng gấp đôi so với 
những năm 1960, trong đó giống đóng góp 
tới 60% năng suất và chất lượng rừng trồng. 
Hiện nay năng suất rừng trồng phổ biến đạt 
từ 10 - 15 m3/ha/năm tùy điều kiện lập địa. 
Nhận thức được vai trò quan trọng của công 
tác giống nên trong Nghị quyết số 06 của Bộ 
Chính trị ngày 10/11/1998 về một số vấn đề 
phát triển nông nghiệp và nông thôn đã ghi rõ 
“Ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu và áp dụng giống 
mới”. Trong Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg 
của Thủ tướng Chính phủ ngày 05/02/2007 về 
phê duyệt chiến lược phát triển lâm nghiệp 
Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 cũng đã chỉ rõ 
phải “nghiên cứu phát triển rừng theo 2 hướng 
chính là cải tạo giống cây rừng và thực hiện 
các biện pháp lâm sinh”. Nâng cao chất lượng 
giống cây trồng rừng cũng là một trong 
những giải pháp quan trọng để thực hiện Đề 
án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp theo Quyết 
định số 1565/QĐ-BNN-TCLN ngày 08/7/2014 
của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT. 
Trong đề án tái cơ cấu ngành lâm nghiệp nước 
ta, yêu cầu cấp thiết đặt ra là nâng cao giá trị 
gia tăng và phát triển bền vững. Để nâng cao 
giá trị gia tăng của ngành, 2 nhiệm vụ cơ bản 
được đặt ra là: i) Nâng cao năng suất rừng đạt 
bình quân 15 m3/ha/năm, đến năm 2020 diện tích 
rừng trồng sản xuất đạt khoảng 3,84 triệu hecta; 
ii) Đưa tỷ lệ giống cây trồng lâm nghiệp mới 
Võ Đại Hải, 2014(2) Tạp chí KHLN 2014 
3243 
được công nhận vào sản xuất lên 60 - 70% 
vào năm 2020, đảm bảo cung cấp đủ giống có 
chất lượng, góp phần đưa năng suất rừng 
trồng tăng 10% vào năm 2015 và tăng 20% 
vào năm 2020 so với năm 2011. Để thực hiện 
được hai nhiệm vụ cơ bản trên, việc ứng dụng 
khoa học công nghệ trong lâm nghiệp và tăng 
cường công tác quản lý cần được đẩy mạnh, 
đặc biệt đối với lĩnh vực giống cây lâm nghiệp 
vì giống là yếu tố sinh học có tính quyết định 
trong năng suất và chất lượng sản phẩm, là 
tiền đề để phát huy các kỹ thuật, công nghệ 
tiên tiến khác trong chu kỳ sản xuất. Đổi mới 
công tác nghiên cứu và chuyển giao nhằm đưa 
nhanh các giống tốt vào sản xuất, đáp ứng 
mục tiêu tái cơ cấu ngành lâm nghiệp là một 
nhu cầu khách quan và cấp bách trong giai 
đoạn hiện nay. 
II. NHỮNG THÀNH TỰU VỀ NGHIÊN 
CỨU GIỐNG CÂY LÂM NGHIỆP ĐÃ 
ĐẠT ĐƯỢC 
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam - đơn 
vị đầu ngành nghiên cứu về lâm nghiệp nói 
chung và giống cây lâm nghiệp nói riêng, vừa 
mới được tổ chức và sắp xếp lại theo Quyết 
định số 2099/QĐ-TTg ngày 25/11/2011 của 
Thủ tướng Chính phủ. Hiện nay, cơ cấu tổ 
chức của Viện gồm 7 Viện và Trung tâm 
nghiên cứu chuyên đề; 6 Viện và Trung tâm 
vùng. Trải qua 53 năm xây dựng và phát triển, 
đến nay Viện đã đạt được nhiều thành tựu 
khoa học đáng kể về công tác cải thiện giống 
cây rừng như đã tạo lập được một mạng lưới 
nghiên cứu giống cây lâm nghiệp rộng khắp 
trong cả nước. Đội ngũ cán bộ chủ chốt làm 
công tác giống được đào tạo bài bản và 
chuyên sâu từ các nước tiên tiến như Thụy 
Điển, Australia, Đức, Hungary,... Các cán bộ 
này có kiến thức, kỹ năng và trình độ ngoại 
ngữ tốt để hòa nhập với các nước trong khu 
vực, tạo lập được vị thế và uy tín đối với các 
tổ chức nghiên cứu và sản xuất lâm nghiệp 
trong và ngoài nước. 
Các loài keo, bạch đàn và thông đã được xác 
định là những loài cây trồng rừng kinh tế chủ 
lực ở Việt Nam. Đây là những loài cây có sinh 
trưởng nhanh và thích ứng tốt trên các dạng 
lập địa khác nhau. Gỗ của chúng có thể sử 
dụng làm giấy, dăm và đóng đồ mộc. Các loài 
keo và bạch đàn được trồng ở Việt Nam hiện 
nay chủ yếu có nguồn gốc từ Australia và một 
số khu vực lân cận như Papua New Guinea 
(PNG), West Papua, Indonesia (Nguyễn 
Hoàng Nghĩa, Lê Đình Khả, 1998). Việc xác 
định các loài cây phù hợp, thu thập các nguồn 
gen và nhập nội trồng tại Việt Nam đã được 
tiến hành với sự hợp tác giúp đỡ của các 
chương trình khảo nghiệm loài và xuất xứ 
quốc tế được chính phủ Australia, FAO và 
CSIRO thực hiện từ những năm 1970 
(Turnbull et al., 1997). 
Ở Việt Nam, điều kiện khí hậu có sự biến 
động rất lớn giữa các vùng, chủ yếu về các 
yếu tố nhiệt độ và lượng mưa. Từ các khảo 
nghiệm loài và xuất xứ trong nhiều năm qua 
đến nay đã thấy được một số loài cây và 
những xuất xứ có triển vọng nhất của chúng 
thật sự có khả năng thích nghi cao, sinh 
trưởng tốt và có giá trị kinh tế hoặc phòng hộ 
cho phát triển kinh tế nghề rừng trong cả 
nước. Có thể chia các loài cây trồng tại Việt 
Nam làm 3 nhóm: (1) Nhóm các loài cho 
vùng thấp, có lượng mưa từ trung bình đến 
cao (2) Nhóm các loài cho vùng khô hạn và 
cát nội đồng, (3) Nhóm các loài cho vùng cao. 
Đối với nhóm các loài cây cho vùng thấp, nơi 
có lượng mưa từ trung bình đến cao, các loài 
keo, bạch đàn và thông có triển vọng cho vùng 
này bao gồm: Keo tai tượng (Acacia mangium), 
Keo lá tràm (Acacia auriculiformis), Keo lá 
liềm (Acacia crassicarpa), Bạch đàn Eucalyptus 
brassiana, E. exserta, E. camaldulensis, 
E. cloeziana, E. pellita, E. tereticornis, 
E. urophylla, Thông caribê (như Pinus 
caribaea var. hondurensis), Thông đuôi ngựa 
(Pinus massoniana), Thông nhựa (Pinus merkusii), 
Tạp chí KHLN 2014 Võ Đại Hải, 2014(2) 
3244 
Tràm Meleuca leucadendra, M. cajuputi, M. 
viridiflora và các giống giữa chúng, trong đó 
các loài thích hợp trồng trên các lập địa có 
tầng đất sâu hoặc bờ kênh rạch và ven đường 
tại các tỉnh vùng thấp ở miền Bắc là Keo tai 
tượng, E. exserta, E. pellita, E. urophylla và 
E. camaldulensis và Thông caribê. Thông 
đuôi ngựa và Thông nhựa có khả năng sinh 
trưởng tốt trên đất đồi trọc tầng đất nông. Các 
loài thích hợp trồng ở các tỉnh vùng thấp từ 
miền Trung đến miền Nam là E. brassiana, E. 
camaldulensis, E. cloeziana, E. pellita, E. 
tereticornis, E. urophylla, Keo lá tràm, Keo lá 
liềm và Thông nhựa. Các loài tràm thích hợp 
trồng ở vùng ngập nước và vùng ngập phèn ở 
Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó loài M. 
leucadendra có sinh trưởng nhanh hơn cả. Từ 
các kết quả nghiên cứu, một số xuất xứ ưu 
việt của các loài cây đã được xác định và đã 
được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 
công nhận là các giống tiến bộ kỹ thuật như 
Keo lá tràm có các xuất xứ: Mibini (PNG), 
Coen River và Kings Plains (Qld) và Manton 
River (NT); Keo tai tượng có các xuất xứ: 
Pongaki (PNG), Iron Range, Ingham và 
Mossman (Qld); Keo lá liềm có các xuất xứ từ 
PNG là: Mata, Gubam, Dimisisi và Deri - 
Deri; Bạch đàn E. urophylla có các xuất xứ từ 
Indonesia: Lembata, Mt.Egon, Lewotobi, 
Sirinumu, Oro Bay và Laura river; Bạch đàn 
E. camaldulensis có các xuất xứ: Ketherine 
(NT), Kennedy river, Morehead river và 
Perford area (Qld); Thông caribê có các xuất 
xứ: Cardwell, Byfield, Poptun 3, Poptun 2, và 
Alamicamba. 
Ngoài ra, một số xuất xứ có triển vọng của 
các loài khác như: E. cloeziana, E. pellita, E. 
tereticornis, Meleuca leucadendra, M. 
cajuputi, và M. viridiflora cũng đã được 
khuyến cáo sử dụng, cụ thể là: E. cloeziana có 
các xuất xứ từ Qld: Herberton và Helenvale 
(Lê Đình Khả et al., 2003); E. pellita có các 
xuất xứ từ Qld: Kuranda và Helenvale (Lê 
Đình Khả et al., 2003); E. tereticornis có các 
xuất xứ từ Qld: Sirinumu Sogeri và Laura 
River (Phạm Văn Tuấn, 1997); E. grandis có 
các xuất xứ: Paluma (Qld) (Lê Đình Khả, 
1996); Tràm M. leucadendra có các xuất xứ: 
Weipa (Qld), Cambridge (WA), Rifle Creek 
(Qld), Laurence (Qld) và Keru (PNG) (Lê 
Đình Khả et al., 2003); M. cajuputi có các 
xuất xứ: Keru (PNG) và Bensbach (PNG) (Lê 
Đình Khả et al., 2003). M. viridiflora có các 
xuất xứ: Cambridge (WA) và Wangi (NT). 
Đối với nhóm các loài cây cho vùng khô hạn 
và cát nội đồng, trên vùng ven biển các tỉnh 
Bình Thuận và Ninh Thuận có khí hậu rất 
khô, lượng mưa trung bình hàng năm dưới 
1000mm, các loài keo vùng khô từ miền Bắc 
nước Úc đã được thử nghiệm thành công tại 
Tuy Phong, Bình Thuận từ những năm 1990 
(Harwood et al., 1998). Kết quả khảo nghiệm 
đã khẳng định các loài A. difficilis - xuất xứ: 
Annie Creek (NT); Lake Evella (NT), và 
Monline (NT), A. tumida - xuất xứ Knunura 
(WA) và A. torulosa - xuất xứ Elliot (NT) là 
các loài và xuất xứ có triển vọng nhất. Các 
loài này cũng đã được trồng thử nghiệm thành 
công để chống cát di động ở các tỉnh khác như 
Quảng Bình và Thừa Thiên Huế. Đối với 
vùng cát nội đồng, bán ngập, chẳng hạn như 
tại Phong Điền - Thừa Thiên Huế, Keo lá liềm 
là loài được khẳng định có khả năng thích ứng 
cao và sinh trưởng nhanh. Tuy nhiên, cũng 
phải lưu ý rằng sinh trưởng của chúng ở các 
vùng cát là rất chậm, thí dụ tại Tuy Phong sau 
6 năm loài A. difficilis có sinh trưởng nhanh 
nhất cũng chỉ đạt chiều cao là 7,5m và đường 
kính đạt 15cm (Lê Đình Khả et al., 2003), vì 
vậy mục tiêu phòng hộ nên đặt lên hàng đầu 
khi sử dụng các loài này ở các vùng khô hạn 
và cát nội đồng. 
Đối với vùng cao, đây là vùng có một diện 
tích rất lớn ở miền Bắc và miền Trung Việt 
Nam, độ cao trên 1000m và có nhiệt độ thấp 
hơn nhiệt độ tối ưu cho các loài vùng thấp. Vì 
vậy, tìm kiếm các loài cây vùng cao là một 
yêu cầu thực tiễn cấp bách và từ những năm 
Võ Đại Hải, 2014(2) Tạp chí KHLN 2014 
3245 
1990 một số khảo nghiệm loài và xuất xứ đã 
được xây dựng. Trong số loài được khảo 
nghiệm thì các loài Bạch đàn E. grandis, E. 
microcorys, E. saligna, E. urophylla và E. 
pellita, Keo A. mearnsii (xuất xứ: Bodalla, 
Nowra, Nowa Nowa, và Berrima), Acacia 
irrorata (xuất xứ Mt. Mee và Bodalla) và A. 
melanoxylon (xuất xứ Mt. Mee) thể hiện sinh 
trưởng nhanh nhất, kết quả này cũng đã được 
khẳng định ở nhiều nước như Ấn Độ, Trung 
Quốc, Nam Mỹ và châu Phi (CAB 2003). 
Loài E. microcorys và A. melanoxylon là loài 
cây rất được ưa chuộng làm đồ mộc tại Úc 
(CAB 2003, Turnbull et al., 1997). Gần đây 
một số loài bạch đàn khác như E. dunnii... 
cũng đã được du nhập và trồng khảo nghiệm 
tại Yên Bái, Hà Giang và Sơn La. Tuy nhiên, 
các khảo nghiệm mới được xây dựng nên 
chưa có kết quả chính thức. 
Tiếp nối kết quả đã đạt được từ các khảo 
nghiệm loài và xuất xứ, từ giữa những năm 
1990 đến đầu những năm 2006, với các nguồn 
kinh phí từ nguồn ngân sách, hợp tác quốc tế 
(ACIAR và AusAID) và sự cộng tác của các 
nhà khoa học CSIRO và SKOGFORK, Viện 
Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã xây dựng 
được trên 240ha khảo nghiệm hậu thế (thế hệ 
1 và 2) và khảo nghiệm dòng vô tính kết hợp 
với xây dựng các vườn giống hữu tính cũng 
như vô tính cho các loài cây trồng rừng chính 
như bạch đàn E. camaldulensis, E. grandis, E. 
pellita, E. tereticornis, E. urophylla, Thông 
caribê, Thông đuôi ngựa, Thông ba lá, Thông 
nhựa, Dầu rái, Sao đen, Keo tai tượng, Keo lá 
tràm, Keo lá liềm và Keo đen (A. mearnsii) tại 
nhiều vùng sinh thái trên cả nước. Thông qua 
tỉa thưa di truyền, các khảo nghiệm này được 
chuyển hóa thành vườn giống nhằm cung cấp 
hạt giống và các dòng ưu việt cho các chương 
trình trồng rừng trọng điểm quốc gia. Hiện 
nay, 10 vườn giống thế hệ 1 và 1,5 đã được 
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công 
nhận là các vườn giống quốc gia và cung cấp 
ổn định từ 10 - 50kg hạt giống/vườn cho sản 
xuất và trên 1000 lô hạt nghiên cứu phục vụ 
phát triển các vườn giống thế hệ tiếp theo. 
Cũng từ 10 vườn giống thế hệ này, nhiều 
nghiên cứu biến dị di truyền đã được tiến 
hành nhằm xác định được các chỉ số di truyền 
quan trọng phục vụ cho chương trình cải thiện 
giống. Các nghiên cứu biến dị này không 
những thực hiện cho các tính trạng sinh 
trưởng, chất lượng thân cây mà còn thực hiện 
cho các tính trạng kinh tế quan trọng liên quan 
tới sản phẩm cuối cùng như các tính trạng 
chất lượng gỗ phục vụ cho gỗ xẻ (như tỷ trọng 
gỗ, độ co rút gỗ, modun uốn tĩnh và uốn đứt 
gãy) và chất lượng gỗ phục vụ sản xuất bột 
giấy (như tỷ trọng gỗ, hàm lượng cellulose, 
lignin). Qua nghiên cứu biến dị di truyền trên 
các vườn giống này đã chọn lọc được nhiều 
giống ưu việt và đã được Bộ Nông nghiệp và 
Phát triển nông thôn công nhận 146 giống 
tiến bộ kỹ thuật và giống quốc gia, chiếm 
hơn 90% số giống cây lâm nghiệp đã được 
Bộ công nhận. Trong 146 giống này, có 19 
giống quốc gia và 127 giống tiến bộ kỹ thuật, 
cụ thể là: 
• 19 giống quốc gia là các dòng tốt, gồm 6 
dòng keo lai, 4 dòng Bạch đàn lai, 1 dòng 
Bạch đàn camal, 5 dòng Keo lá tràm, và 3 
dòng Macadamia; 
• 69 giống tiến bộ kỹ thuật là các dòng tốt, 
gồm 11 dòng keo lai, 20 dòng Keo lá tràm, 1 
dòng Keo tai tượng, 1 dòng Bạch đàn E. 
brassiana, 13 dòng Bạch đàn camal, 15 dòng 
Bạch đàn lai, 5 dòng Bạch đàn nâu; 3 dòng 
Macadamia; 
• 47 giống tiến bộ kỹ thuật là xuất xứ tốt của 
14 loài, đó là: Tràm ta, Tràm lá dài; 3 loài keo 
vùng thấp gồm Keo tai tượng, Keo lá tràm, 
Keo lá liềm; 3 loài keo vùng cao; 3 loài keo 
chịu hạn; 4 loài bạch đàn gồm Bạch đàn nâu, 
Bạch đàn tere, Bạch đàn brassiana, Bạch đàn 
camal, và Thông caribê; 
Tạp chí KHLN 2014 Võ Đại Hải, 2014(2) 
3246 
• 11 vườn giống quốc gia của 8 loài cây, 
gồm Keo lá liềm, Keo tai tượng, Keo lá tràm, 
Bạch đàn nâu (E. urophylla), Bạch đàn tere 
(E. tereticornis), Bạch đàn caman; Bạch đàn 
pellita (E. pellita), Thông nhựa (P. merkusii); 
và 1 rừng giống Thông caribê (P. caribaea). 
Các giống được công nhận đều có năng suất 
cao, với năng suất bình quân năm biến động 
từ 20 - 40 m3/ha/năm; Ví dụ: giống Tràm lá 
dài xuất xứ 18960 trồng ở Long An đạt 
40,0 m3/ha/năm; giống Bạch đàn lai UU8 trồng 
ở Tam Thanh - Phú Thọ đạt 23,4 m3/ha/năm; 
giống Bạch đàn trắng kháng bệnh SM16 trồng 
ở Đồng Nai đạt 35,4 m3/ha/năm; giống 
Bạch đàn lai UC1 trồng ở Bình Phước đạt 
35,3 m3/ha/năm; giống Bạch đàn lai SM7 
trồng ở Đồng Nai đạt 36,6 m3/ha/năm; các 
giống keo lai mới AH7 trồng Bình Dương 
đạt 34,9 m3/ha/năm. Các giống Keo lá 
tràm AA9 và AA15 trồng ở Đồng Nai đạt 
32 - 33,6 m3/ha/năm. Các dòng khác như 
Clt1F, Clt64 Clt57, Clt43, Clt19, Clt7 là 
những dòng vừa có năng suất cao (từ 20 - 38 
m3/ha/năm tại Bình Phước và Quảng Bình) 
vừa có tỷ trọng gỗ cao, độ co ngót sau sấy 
thấp, thân thẳng ít cành nhánh, do vậy rất phù 
hợp cho trồng rừng cung cấp gỗ xẻ. 
Thông qua các chương trình dự án như 
Chương trình giống, Chương trình hỗ trợ 
trồng rừng sản xuất (Quyết định số 147), các 
dự án khuyến lâm,... tới nay tỷ lệ sử dụng cây 
vô tính đã tăng lên khá lớn, bình quân trong 
cả nước là khoảng 30%, vùng cao nhất là Tây 
Nguyên (53%), tiếp đến là Bắc Trung Bộ, 
Nam Trung Bộ (48%), Đông Nam Bộ (45%), 
thấp nhất là vùng Tây Bắc (khoảng 5%) và 
vùng không sử dụng cây vô tính là Tây Nam 
Bộ (sử dụng trụ mầm đối với các loài cây 
ngập mặn). Tỉnh sử dụng cây vô tính cao 
nhất là Bình Định (đạt tỷ lệ 90%), tiếp đó là 
Phú Thọ, Bắc Giang, Thừa Thiên - Huế 
(80%), Gia Lai (70%), Khánh Hòa (60%), 
Vĩnh Phúc (50%), Quảng Bình (46%), Quảng 
Ninh, Nghệ An (40%). Loài cây sử dụng 
phương pháp nhân giống vô tính có tỷ lệ cao 
nhất là keo lai, bạch đàn (có địa phương 
100%), Phi lao. 
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam cũng đã 
hoạch định được chiến lược cải thiện giống 
dài hạn cho nhóm các loài cây trồng rừng chủ 
lực và xây dựng được các rừng giống, vườn 
giống, vườn tập hợp giống công tác, vườn cây 
bố mẹ cố định và di động phục vụ lai tạo 
giống mới và cung cấp hạt giống chất lượng 
cao cho sản xuất. Kết quả là nhiều tổ hợp lai 
trong loài và khác loài đã được lai tạo, từ đó 
chọn lọc được nhiều dòng vô tính có sinh 
trưởng tốt và chất lượng gỗ phù hợp với các 
mục đích sử dụng gỗ giấy và gỗ xẻ. Hiện nay, 
các dòng này đang được khảo nghiệm đánh 
giá tại nhiều vùng sinh thái khác nhau. Việc 
đánh giá các khảo nghiệm này trong 2 - 3 năm 
sắp tới sẽ giúp chúng ta có thêm nhiều sự lựa 
chọn cho trồng rừng cung cấp nguyên liệu 
giấy hoặc gỗ xẻ. 
Việc ứng dụng thành công công nghệ sinh học 
trong nghiên cứu cải thiện giống trong các 
lĩnh vực nông nghiệp đã thúc đẩy Viện Khoa 
học Lâm nghiệp Việt Nam thực hiện các 
nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học 
trong chọn, tạo giống cây rừng. Từ năm 1999, 
việc đánh giá đa dạng di truyền bằng chỉ thị 
phân tử đã được nghiên cứu cho các quần thể 
Lát hoa (Chukrasia tabularis), đánh giá về đa 
dạng di truyền trong các quần thể chọn tạo 
giống cho các loài bạch đàn, keo và thông 
cũng như một số cây bản địa khác. Có thể 
phân loại các kết quả sử dụng di truyền phân 
tử trong nghiên cứu cải thiện giống cây rừng 
tại Trung tâm Nghiên cứu Giống cây rừng 
(nay là Viện Nghiên cứu Giống và Công 
nghệ sinh học Lâm nghiệp) theo các nội dung 
chính sau: 
Võ Đại Hải, 2014(2) Tạp chí KHLN 2014 
3247 
• Kiểm định con lai: Kiểm định con lai dựa 
trên kỹ thuật dấu vân tay ADN (DNA 
fingerprinting) được sử dụng trong việc xác 
định các sai sót xảy ra trong các phép lai 
khống chế hoặc trong quá trình trồng rừng từ 
khâu thu hạt, giai đoạn vườn ươm, vận chuyển 
cây con và tổ chức trồng rừng. Việc sử dụng 6 
cặp chỉ thị vi vệ tinh (Microsatellite) (Am 018, 
Am 041, Am 164, Am 173, Am 387, Am 465) 
Butcher (2001) đã phát hiện được 6 cây con 
không phải là hạt thu được từ cây mẹ trong 
tổng số 800 cây con thuộc 70 cây mẹ Keo tai 
tượng tại 6 vườn giống và rừng giống thuộc 
miền Bắc, miền Trung và miền Nam Việt 
Nam. Cũng sử dụng chỉ thị vi vệ tinh này, các 
nghiên cứu đã phát hiện được 2 trong tổng số 
7 tổ hợp lai khống chế giữa Keo lá tràm và 
Keo tai tượng là không đúng bố mẹ (tổ hợp 
Aa32 × Am7 và BV16 × Aa32). Nhầm lẫn này 
có thể do quá trình thụ phấn hoặc nhầm nhãn 
mác trong quá trình lai giống vv... 
• Xác định tỷ lệ thụ phấn chéo: Tỷ lệ thụ 
phấn chéo là một chỉ tiêu để đánh giá chất 
lượng hạt giống của quần thể chọn giống 
(vườn giống, rừng giống). Tỷ lệ thụ phấn chéo 
cao thì hạt giống được tạo ra có mức độ đa 
dạng di truyền cao hơn và ngược lại tỷ lệ thụ 
phấn chéo thấp thì mức độ đa dạng di truyền 
thấp. Mức độ đa dạng di truyền trong quần thể 
có liên quan đến mức độ suy thoái cận huyết 
và ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây. Tỷ lệ 
thụ phấn chéo tại vườn giống Keo lá tràm ở 
Ba Vì đã được xác định bằng 4 hệ isozyme. 
Kết quả cho thấy tỷ lệ thụ phấn chéo tại vườn 
giống là khá cao 89% (tm = 0,89) so với rừng 
tự nhiên và rừng trồng 20 - 30% (tm = 0,2 - 
0,3) (Vuong, McDonald, 2002). Trong khi đó, 
sử dụng 7 chỉ thị vi vệ tinh để xác định tỷ lệ 
thụ phấn chéo của các dòng Keo tai tượng tứ 
bội và nhị bội tại vườn giống cho thấy các 
dòng keo tứ bội có tỷ lệ thụ phấn chéo thấp 
2% (tm = 0,019), còn các dòng keo nhị bội có 
tỷ lệ thụ phấn chéo cao 97% (tm = 0,965) 
(Vượng, 2010). Mối tương quan giữa mức độ 
đa dạng di truyền, mức độ thụ phấn chéo và 
sinh trưởng của khảo nghiệm hậu thế Keo tai 
tượng và Keo lá tràm cũng đã được nghiên 
cứu. Mức độ đa dạng di truyền và tỷ lệ thụ 
phấn chéo được xác định bằng 6 chỉ thị vi 
vệ tinh và sinh trưởng của các cây thuộc 
khảo nghiệm hậu thế được đánh giá tại 12 
và 18 tháng. Kết quả phân tích về mức độ đa 
dạng di truyền cho thấy vườn giống Ba Vì 
FORTIP có mức độ đa dạng di truyền thấp 
nhất (A = 4,2; He = 0,502; Ho = 0,333) và 
vườn giống Đông Hà có mức độ đa dạng 
di truyền cao nhất (A = 11,7; He = 0,884; 
Ho = 0,806). Tỷ lệ thụ phấn chéo đa locus (tm) 
cũng thấp đối với vườn giống Ba Vì FORTIP 
13% (tm = 0,130) và cao tại vườn giống Đông 
Hà 100% (tm = 1) (Butcher et al., 2004). Hai 
vườn giống Ba vì - FORTIP và Đông Hà có 
cùng nền tảng di truyền như nhau (đều từ 
Papua New Guinea), nhưng do tỷ lệ thụ phấn 
chéo khác nhau nên cây con mọc từ hạt tại 
vườn giống có tỷ lệ thụ phấn cao có sinh 
trưởng tốt hơn. Kết quả trên cho thấy rằng nội 
phối là nguyên nhân gây nên sinh trưởng thấp 
của Keo tai tượng. Hạt giống được tạo ra từ 
vườn giống có tỷ lệ thụ phấn chéo thấp sẽ có 
mức độ đa dạng di truyền thấp và là nguyên 
nhân làm tăng mức độ suy thoái cận huyết 
(inbreeding depression) và kết quả là sinh 
trưởng sẽ kém hơn (Harwood et al., 2004). 
• Đánh giá cấu trúc di truyền quần thể: Cấu 
trúc di truyền của quần thể (tự nhiên hoặc 
chọn giống) thường được xác định bởi mức độ 
đa dạng di truyền, mức độ di nhập gen, mức 
độ nhiễm phấn từ bên ngoài vào quần thể, 
mức độ khác biệt di truyền (genetic diferentiation) 
của các xuất xứ, dòng, vv... trong quần thể. 
Quần thể chọn giống nên duy trì một mức độ 
đa dạng di truyền nhất định để có thể thích 
ứng được với sự thay đổi của môi trường 
Tạp chí KHLN 2014 Võ Đại Hải, 2014(2) 
3248 
trong tương lai. Do đó nếu quần thể có mức 
độ đa dạng di truyền thấp thì phần nào sẽ ảnh 
hưởng đến khả năng thích ứng với những thay 
đổi của điều kiện ngoại cảnh trong tương lai 
hoặc trong những điều kiện môi trường khắc 
nghiệt khác. Biến dị di truyền của các cây mẹ 
trong khảo nghiệm dòng vô tính Thông nhựa 
(Pinus merkusii) tại Cẩm Quỳ, Ba vì đã được 
xác định bằng 4 chỉ thị vi vệ tinh (Duyen, 
2004). Kết quả cho thấy biến dị di truyền của 
các dòng vô tính Thông nhựa này thấp, 
nguyên nhân có thể do thắt nút cổ chai di 
truyền (bottleneck) và mức độ trao đổi gen bị 
giảm do các quần thể phân bố xa nhau và 
kích thước các quần thể nhỏ cũng như thời 
gian ra hoa không tương đồng (Szmidt, 
Changtragoon, 1996). Cấu trúc di truyền của 
vườn giống Bạch đàn uro (Eucalyptus 
urophylla) tại Cẩm Quỳ, Ba Vì sau 2 lần tỉa 
thưa cũng được xác định bằng chỉ thị vi vệ 
tinh (Trần Hồ Quang et al., 2009). Chín xuất 
xứ tại vườn giống có mức độ đa hình (từ 
10,37 đến 14,62 alen) và mức độ đa dạng gen 
trung bình trong vườn giống (0,88) cao so với 
các loài bạch đàn khác, mức độ nội phối của 
vườn giống này khá thấp (F = 0,093). Kết quả 
trên cho thấy vườn giống có nền tảng di 
truyền rộng, có thể thích ứng được với những 
điều kiện thay đổi của ngoại cảnh. Khác biệt 
di truyền của các xuất xứ loài Bạch đàn pelita 
(Eucalyptus pellita) và urô (E. urophylla) 
được trồng tại Việt Nam so với xuất xứ của 
các loài E. resinifera và E. scias cũng được 
xác định bằng các chỉ thị vi vệ tinh. Sơn và 
đồng tác giả (2010) trong nghiên cứu của 
mình về khác biệt di truyền của 6 nhóm/loài 
này đã xác định được rằng Bạch đàn pelita 
được phân vào một “nhóm di truyền Pellita” 
và Bạch đàn urô thuộc “nhóm di truyền 
Resinifera” và sự phân chia thành 2 nhóm di 
truyền này khá tương đồng với sự phân loại 
dựa trên hình thái giữa các cá thể. Phân tích 
sâu hơn về “nhóm di truyền Resinifera” cho 
thấy Bạch đàn urô thuộc một nhóm riêng so 
với các loài E. resinifera và E. scias. Cấu trúc 
di truyền của vườn giống vô tính Keo tai 
tượng tại Ba Vì (Hà Nội) và Cầu Hai (Phú 
Thọ) cũng đã được thực hiện bởi Lê Sơn và 
đồng tác giả (2012) và cho thấy các xuất xứ 
trong vườn giống có tính đa dạng di truyền 
với số alen trung bình 3,078 và số alen có 
hiệu lực là 2,731, tỷ lệ dị hợp tử quan sát (Ho) 
0,495, tỷ lệ dị hợp tử mong đợi (He) 0,437. 
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy không có 
bằng chứng về mối quan hệ giao phối cận 
huyết trong các mẫu trong vườn giống và tỷ lệ 
giao phối cận huyết trong vườn giống chỉ 
khoảng 14%. Các xuất xứ có mặt trong vườn 
giống được chia thành 4 nhóm: nhóm 1 gồm 5 
xuất xứ, 3 nhóm mỗi nhóm gồm 1 xuất xứ với 
giá trị khoảng cách di truyền ở mức độ sai 
khác trung bình. Vườn giống vô tính Keo tai 
tượng với 100 dòng vô tính có đủ tính đa dạng 
di truyền và tỷ lệ thụ phấn chéo cần thiết để 
tạo giống. 
Bên cạnh việc sử dụng các chỉ thị phân tử 
trong chọn giống, nghiên cứu nhân giống sinh 
dưỡng đã và đang được đẩy mạnh nhằm 
chuyển giao nhanh các giống tiến bộ kỹ thuật 
và giống quốc gia này vào sản xuất. Viện 
Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam hiện đã 
nghiên cứu nhân giống sinh dưỡng thành công 
cho nhiều dòng của các loài keo lai, Keo lá 
tràm, Bạch đàn trắng, Bạch đàn uro, Bạch đàn 
pellita, Bạch đàn lai và các loài thông. Công 
nghệ nhân giống sinh dưỡng cũng đã được 
chuyển giao chọn gói tới nhiều đơn vị sản 
xuất trong nước và quốc tế. Một số thành tựu 
được ghi nhận trong quá trình nghiên cứu 
nhân giống sinh dưỡng là đã xác định thời vụ, 
loại thuốc và nồng độ, giá thể, phương thức 
giâm hom và ghép,... cho các loài keo, bạch 
đàn, Thông caribê, và một số loài cây bản địa. 
Tỷ lệ ra rễ ở các công thức tốt nhất dao động 
trong khoảng từ 60 tới trên 90% (Lê Đình Khả 
Võ Đại Hải, 2014(2) Tạp chí KHLN 2014 
3249 
et al., 2003; Hà Huy Thịnh et al., 2006). Nhân 
giống mô cũng đã được xác định bằng các 
bước khử trùng, trẻ hóa vật liệu, ảnh hưởng 
của vị trí chồi, ảnh hưởng của các chất đa 
lượng và vi lượng, ảnh hưởng của tuổi cây 
mẹ, ảnh hưởng của auxin và chế độ tối. 
Phương pháp khử trùng, môi trường nhân 
chồi, môi trường ra rễ thích hợp cho nhiều 
dòng ưu việt của các loài keo, bạch đàn, Lát 
hoa, Xoan ta, Tếch, Song mật, và một số loài 
cây bản địa đã được trình bày bởi Lê Đình 
Khả và đồng tác giả (2003), Hà Huy Thịnh và 
đồng tác giả (2006), Đoàn Thị Mai và đồng 
tác giả (2010), Nguyễn Ngọc Tân và đồng tác 
giả (1993, 1995 và 1997). Nuôi cấy mô phân 
sinh tuy tốn kém và đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, 
song lại có tác dụng trẻ hoá cao độ vật liệu 
giống nên phối hợp với nhân giống hom tạo 
thành công nghệ mô - hom đang được áp dụng 
ở một số cơ sở nghiên cứu và sản xuất lâm 
nghiệp ở nước ta. 
Bên cạnh các loài keo, bạch đàn và thông, loài 
cây Mắc ca (Macadamia), một trong những 
loài cây cho hạt có giá trị kinh tế cao, đã được 
nhập và trồng khảo nghiệm ở nhiều lập địa 
trong cả nước từ những năm 1990. Ở các lập địa 
khảo nghiệm các dòng Mắc ca đều có khả năng 
thích nghi tốt, với tỷ lệ sống cao (87,5 - 100%). 
Một số dòng như OC, 246, 816 và 849 có sinh 
trưởng và sản lượng quả hạt có sự sai khác rõ 
ràng giữa các dòng Mắc ca tham gia khảo 
nghiệm và đã được công nhận là giống tiến bộ 
kỹ thuật. Tại Đắk Lắk, các dòng 741, 849, 
246, 816, và OC có sản lượng hạt là 5 - 8kg 
hạt/cây ở tuổi 5,5 và tương đương với một số 
dòng ưu việt tại Haiwai - Mỹ. Các dòng Mắc 
ca có triển vọng đều có thể nhân giống bằng 
phương pháp giâm hom (với tỷ lệ ra rễ từ 
45,6% tới 87,8%) và phương pháp ghép cho 
tỷ lệ sống cao từ 64,4 - 88,3% (Nguyễn Đình 
Hải et al., 2010). 
III. NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ TỒN TẠI 
CHỦ YẾU TRONG CÔNG TÁC CẢI 
THIỆN GIỐNG CÂY RỪNG 
Do đặc thù của cây lâm nghiệp có đời sống 
dài ngày nên các hoạt động nghiên cứu cải 
thiện giống cây lâm nghiệp cũng phải tiến 
hành trong thời gian rất dài. Để có được một 
giống tiến bộ kỹ thuật được Bộ Nông nghiệp 
& PTNT công nhận thì các nhà chọn giống 
phải mất tối thiểu 5 - 8 năm đối với loài cây 
mọc nhanh và lâu hơn nữa đối với loài cây 
bản địa sinh trưởng chậm. Chính vì vậy, công 
tác khảo nghiệm giống cây lâm nghiệp cũng 
rất cần phải có những hiện trường nghiên cứu 
lâu dài. Trong thời gian qua, Bộ Nông nghiệp 
& PTNT cũng đã ủng hộ và phê duyệt quy 
hoạch sử dụng đất trong toàn Viện nhưng quỹ 
đất này hiện nay không đáp ứng nhu cầu 
nghiên cứu, nhiều địa phương muốn thu hồi 
đất để giao lại cho các doanh nghiệp và người 
dân địa phương. Công tác nghiên cứu giống 
cây lâm nghiệp rất cần phải có sự tham gia, 
vào cuộc của các doanh nghiệp dưới các hình 
thức khác nhau như hợp tác, liên kết,... nhằm 
một mặt có thêm các nguồn vốn và quỹ đất để 
nghiên cứu, mặt khác công tác chuyển giao 
kết quả cũng nhanh và thuận lợi hơn. 
Bên cạnh việc triển khai nghiên cứu cải thiện 
giống ở cường độ cao đối với nhóm cây trồng 
rừng chủ lực và có diện tích gây trồng lớn, 
cũng rất cần phải chú trọng tới việc đầu tư 
nghiên cứu cho các loài cây bản địa và các 
loài cây lâm sản ngoài gỗ có giá trị kinh tế cao 
và có khả năng sử dụng để trồng rừng trong 
tương lai, đặc biệt là các loài cây trồng rừng 
kinh tế cho các lập địa ở vùng cao. 
Trong công tác cải thiện giống cây lâm 
nghiệp, việc ứng dụng một số công nghệ mới 
như chọn giống bằng các chỉ thị phân tử, biến 
nạp gene, tạo phôi nhân tạo, kích thích ra hoa 
sớm và mini - cutting,... thực sự còn rất nhiều 
Tạp chí KHLN 2014 Võ Đại Hải, 2014(2) 
3250 
hạn chế do thiếu cán bộ đầu đàn. Viện rất cần 
sự hỗ trợ của Bộ Nông nghiệp & PTNT, Bộ 
Khoa học Công nghệ và các Viện nghiên cứu 
công nghệ sinh học trên toàn quốc trong việc 
đào tạo cán bộ và hợp tác nghiên cứu trong 
tương lai. 
Để công tác cải thiện giống thành công và 
chuyển giao nhanh giống mới phục vụ sản 
xuất, Viện kiến nghị Bộ Nông nghiệp & 
PTNT bố trí các đề tài/dự án xây dựng các 
khảo nghiệm mở rộng sử dụng giống một 
cách đồng bộ, có hệ thống trên các vùng và 
các lập địa đại diện để xác định tập đoàn 
giống trồng rừng thích hợp cho từng vùng; 
Chỉ đạo và đầu tư xây dựng các vườn giống 
theo đúng tiêu chuẩn quốc gia cho một số 
loài cây trồng rừng quan trọng tại các tỉnh; 
Bộ cần có chính sách hỗ trợ về mặt kinh phí 
cho các đơn vị sản xuất kinh doanh cây giống 
lâm nghiệp (đặc biệt là các cơ sở nuôi cấy 
mô) để trẻ hóa và nâng cao chất lượng sinh 
lý của các giống đã được công nhận và đang 
sử dụng rộng rãi trong trồng rừng bằng các 
dòng vô tính; Rà soát, bổ sung và chỉnh sửa 
các văn bản quản lý Giống cây trồng lâm 
nghiệp như Tiêu chuẩn công nhận Giống; 
Qui chế quản lý Giống; Danh mục các giống 
mới được công nhận. 
Một số tồn tại chủ yếu của công tác giống 
trong những năm vừa qua là: 
- Số lượng giống được công nhận nhiều (166 
giống cây lâm nghiệp) nhưng số lượng giống 
được áp dụng vào sản xuất còn rất thấp (chỉ 
chiếm tỷ lệ khoảng 20%); sự phân bổ các 
giống mới không đồng đều ở các vùng, thiếu 
các giống cho vùng cao đặc biệt là Tây Bắc; 
nhiều giống chỉ tồn tại trên giấy tờ, không đi 
vào thực tiễn sản xuất; 
- Hệ thống nguồn giống còn thiếu nhiều về 
chủng loại, mới tập trung nhiều cho các loài 
cây mọc nhanh mà chưa chú ý nhiều đến cải 
thiện giống cho cây lá rộng bản địa, gỗ lớn, 
cây lâm sản ngoài gỗ, đặc biệt là những loài 
cây trồng trên các dạng lập địa khó khăn ở 
vùng cao. 
- Công tác thông tin tuyên truyền, chuyển giao 
tiến bộ kỹ thuật đến người sử dụng giống còn 
yếu ở tất cả các khâu; chưa có sự gắn kết giữa 
nghiên cứu - khuyến lâm - người sản xuất. 
Đây là một trong những nguyên nhân chính 
dẫn đến tình trạng số giống được công nhận 
nhiều nhưng giống được dùng trong sản xuất 
rất ít. 
- Công tác nghiên cứu giống đã được cải thiện 
một bước, tuy nhiên trang thiết bị, cơ sở vật 
chất phục vụ công tác giống còn thiếu và lạc 
hậu, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá công tác giống; thiếu đất cho bố 
trí khảo nghiệm giống, hiện trường nghiên 
cứu không được duy trì lâu dài, chưa quan 
tâm nhiều đến khâu khảo nghiệm rộng ở các 
vùng để đưa giống vào thực tiễn sản xuất. 
+ Ở các địa phương không có đầu mối chuyên 
trách quản lý về giống, lực lượng cán bộ và cơ 
sở vật chất còn yếu, đặc biệt đối với những 
giống cần nhân giống bằng phương pháp nuôi 
cấy mô. 
IV. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN 
CỨU GIỐNG CÂY LÂM NGHIỆP CHỦ 
YẾU TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 
Ngày 09/5/2014, Bộ Nông nghiệp và Phát 
triển nông thôn đã ban hành Quyết định số 
986/QĐ-BNN-KHCN về Kế hoạch thúc đẩy 
nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ 
phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo 
hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển 
bền vững, theo đó một trong những nhiệm vụ 
trọng tâm của ngành lâm nghiệp là phải triển 
khai các nhiệm vụ KHCN nhằm chọn, tạo và 
phát triển sản xuất các giống cây lâm nghiệp 
sinh trưởng nhanh (keo, bạch đàn), cây bản 
Võ Đại Hải, 2014(2) Tạp chí KHLN 2014 
3251 
địa gỗ lớn, cây lâm sản ngoài gỗ có lợi thế 
cạnh tranh cao. 
Các hoạt động nghiên cứu, phát triển và sản 
xuất giống cây lâm nghiệp trong thời gian tới 
sẽ phải được thực hiện theo hướng gắn kết 
chặt chẽ giữa nghiên cứu chọn giống truyền 
thống với ứng dụng công nghệ sinh học, khoa 
học gỗ, lâm sinh và sâu bệnh rừng; nghiên 
cứu ứng dụng với khuyến lâm. Các lĩnh vực 
ưu tiên tạo bước đột phá trong công tác giống 
cây lâm nghiệp là chọn lọc, lai tạo giống có 
định hướng, tạo đa bội và con lai tam bội bất 
thụ cho các loài cây trồng rừng chủ lực có 
diện tích trồng rừng lớn, tập trung vào chọn 
tạo giống phù hợp cho từng vùng trọng điểm, 
theo từng mục tiêu sử dụng và sức chống chịu 
cho từng loài nghiên cứu. Áp dụng một số 
công nghệ mới như chọn giống bằng các chỉ 
thị phân tử, biến nạp gene, tạo phôi nhân tạo, 
kích thích ra hoa sớm và mini - cutting,... vào 
các chương trình cải thiện giống truyền thống 
nhằm nâng cao hiệu quả và rút ngắn chu kì 
chọn tạo giống. 
Công tác nghiên cứu sẽ được tiến hành đồng 
bộ từ chọn tạo giống, nhân giống và biện pháp 
lâm sinh phù hợp trong kinh doanh rừng bền 
vững cho các loài cây trồng rừng chủ lực cung 
cấp gỗ lớn, gỗ giấy hoặc tăng sức chống chịu 
sâu bệnh và hạn hán. Bên cạnh đó, việc khảo 
nghiệm mở rộng và xây dựng các mô hình 
trình diễn có hệ thống cho các giống mới 
được công nhận cũng sẽ được tăng cường 
thông qua thực hiện các dự án sản xuất thử 
nghiệm và dự án khuyến lâm. Các hoạt động 
nghiên cứu về nhân giống, đặc biệt là kỹ thuật 
nhân giống hàng loạt bằng công nghệ mô, 
hom, phục tráng và trẻ hóa chất lượng sinh lý 
của giống, vi ghép để dẫn dòng và xây dựng 
vườn giống.... cũng sẽ được quan tâm đưa 
nhanh các giống được công nhận tới người 
trồng rừng. Ngoài ra, cần tiếp tục chọn giống, 
nhân giống cho một số loài cây bản địa có 
tiềm năng gây trồng và cây lâm sản ngoài gỗ 
có giá trị cao. 
V. TĂNG CƯỜNG VÀ ĐỔI MỚI CÔNG 
TÁC CHUYỂN GIAO GIỐNG MỚI VÀO 
SẢN XUẤT 
Đây là một vấn đề trọng tâm được ưu tiên 
thực hiện trong giai đoạn hiện nay. Các dự án 
giống phải tập trung sản xuất và cung ứng 
giống gốc, giống có chất lượng cao cho sản 
xuất. Viện đang đẩy mạnh xây dựng các vườn 
giống, rừng giống chất lượng cao, thiết lập 
ngân hàng hạt giống và cơ sở dữ liệu về 
nguồn gốc, chất lượng di truyền và khả năng 
thích nghi của các nguồn hạt và các dòng vô 
tính đang sử dụng nhằm cung cấp vật liệu 
giống tốt cho sản xuất và cho mục đích nghiên 
cứu, bảo tồn và trao đổi giống quốc tế. 
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã phát 
triển một hệ thống thông tin quảng bá các 
giống tiến bộ kỹ thuật và giống quốc gia đã 
được công nhận trên các ấn phẩm, đăng tải 
thông tin trên các trang website của Viện và 
các đơn vị trực thuộc; Tích cực tham gia các 
Hội chợ giống và Hội thảo trên toàn quốc 
cũng như quốc tế nhằm quảng bá các giống 
mới và tiến bộ kỹ thuật lâm sinh tới người 
trồng rừng. Viện đã và đang chỉ đạo các Viện 
và Trung tâm trực thuộc xây dựng các khu 
khảo nghiệm lâu dài tại các vùng. Trong thời 
gian tới, Viện sẽ phối hợp chặt chẽ hơn với 
Trung tâm Khuyến nông quốc gia, Trung tâm 
khuyến nông các tỉnh và các công ty lâm 
nghiệp địa phương để xây dựng các mô hình 
trình diễn giống mới và các tiến bộ kỹ thuật 
mới để người trồng rừng có thể thăm quan và 
học tập. Ngoài ra, việc chuyển giao giống gốc, 
chuyển giao công nghệ mô - hom, công nghệ 
xây dựng các vườn giống và rừng giống, công 
nghệ sinh học khác cho các đơn vị sản xuất 
giống ở các tỉnh sẽ được đẩy mạnh. 
Tạp chí KHLN 2014 Võ Đại Hải, 2014(2) 
3252 
Mô hình rừng trồng gỗ lớn Keo lá tràm tại Bình Dương bằng giống AA1 và biện pháp lâm sinh 
tiên tiến (năng suất 38 m3/ha/năm tại tuổi 4 ở luân kỳ 3) 
VI. KẾT LUẬN 
Cải thiện giống cây rừng ở nước ta đã đạt 
được một số thành tựu đáng kể trong những 
năm vừa qua. Đó là đã chọn được một số loài 
cây và xuất xứ có triển vọng nhất cho một số 
vùng sinh thái chính; Chiến lược cải thiện 
giống dài hạn cho nhóm các loài cây trồng 
rừng chủ lực đã được hoạch định rõ ràng 
nhằm tăng năng suất rừng trồng và chất lượng 
sản phẩm cuối cùng; Các rừng giống, vườn 
giống, vườn tập hợp giống công tác, vườn cây 
bố mẹ cố định và di động đã được xây dựng 
trên khắp cả nước để phục vụ lai tạo giống 
mới và cung cấp hạt giống chất lượng cao cho 
sản xuất. Việc ứng dụng công nghệ sinh học 
trong nghiên cứu cải thiện giống đã thúc đẩy 
kiểm định con lai, xác định tỷ lệ thụ phấn 
chéo, đánh giá cấu trúc di truyền quần thể 
chọn giống và sử dụng chỉ thị phân tử trong 
chọn giống; Nhân giống hom và nuôi cấy mô 
phân sinh đã được nghiên cứu thành công cho 
nhiều giống được công nhận và đã chuyển 
giao công nghệ và giống gốc cho sản xuất. 
Những giống mới thật sự có ý nghĩa với sản 
xuất là các giống keo, bạch đàn và các giống 
lai cho trồng rừng sản xuất ở những vùng thấp 
và vùng cao, các giống keo chịu hạn cho vùng 
cát khô hạn ven biển, các giống tràm cho vùng 
ngập phèn ở miền Nam, và các cây trội có 
lượng nhựa cao của Thông nhựa. 
Tuy nhiên công tác giống vẫn chưa đáp ứng 
yêu cầu to lớn của sản xuất. Nhiều giống đã 
được công nhận vẫn chưa thể chuyển giao vào 
sản xuất, hệ thống nguồn giống và cán bộ 
quản lý giống tại các địa phương còn thiếu và 
yếu. Để phục vụ đề án tái cơ cấu ngành lâm 
nghiệp, công tác chọn tạo giống cây lâm 
nghiệp trong thời gian tới sẽ phải được thực 
hiện theo hướng gắn kết chặt chẽ giữa nghiên 
cứu chọn giống truyền thống với ứng dụng 
công nghệ sinh học, khoa học gỗ, lâm sinh và 
sâu bệnh rừng. Các lĩnh vực ưu tiên tạo bước 
đột phá trong công tác giống cây lâm nghiệp 
là chọn lọc, lai tạo giống có định hướng, tạo 
Võ Đại Hải, 2014(2) Tạp chí KHLN 2014 
3253 
đa bội và con lai tam bội bất thụ cho các loài 
cây trồng rừng chủ lực có diện tích trồng rừng 
lớn, tập trung vào chọn tạo giống phù hợp cho 
từng vùng trọng điểm, theo từng mục tiêu sử 
dụng và sức chống chịu cho từng loài nghiên 
cứu. Nghiên cứu ứng dụng phải kết hợp với 
khuyến lâm. Áp dụng một số công nghệ mới 
như chọn giống bằng các chỉ thị phân tử, biến 
nạp gene, tạo phôi nhân tạo, kích thích ra hoa 
sớm và mini - cutting,... vào các chương trình 
cải thiện giống truyền thống nhằm nâng cao 
hiệu quả và rút ngắn chu kì chọn tạo giống. 
Xây dựng các vườn giống, rừng giống chất 
lượng cao, thiết lập ngân hàng hạt giống và cơ 
sở dữ liệu về nguồn gốc, chất lượng di truyền 
và khả năng thích nghi của các nguồn hạt và 
các dòng vô tính đang sử dụng sẽ được đẩy 
mạnh nhằm cung cấp vật liệu giống tốt cho 
sản xuất và cho mục đích nghiên cứu, bảo tồn 
và trao đổi giống quốc tế. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Butcher, P., Harwood, C., Tran Ho Quang, 2004. Studies of mating systems in seed stands suggest possible 
causes of variable outcrossing rates in natural populations of Acacia mangium. Forest Genetics 11, 303 - 309. 
2. Duyen, N. T. M., 2004. Genetic variation and aspects of the mating system of Pinus merkusii Jung. et de Vriese 
clonal seed orchard in Vietnam. Master thesis at the Georg - August University Gottingen, Germany. 
3. Hà Huy Thịnh, 2006. Báo cáo tổng kết đề tài “Nghiên cứu chọn, tạo giống có năng suất và chất lượng cao cho 
một số loài cây trồng rừng chủ yếu” giai đoạn 2001 - 2005. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, 161 trang. 
4. Hải, P.H., Hannrup, B., Harwood, C., Jansson, G. & Ban, D. V., 2010. Wood stiffness and strength as selection 
traits for sawn timber in Acacia auriculiformis A. Cunn. ex Benth. Canadian Journal of Forest Research 40 (2): 
322 - 329. 
5. Hải, P.H., Jansson, G., Hannrup, B., Harwood, C. & Thinh, H.H., 2009. Use of wood shrinkage characteristics 
in breeding of fast - grown Acacia auriculiformis A. Cunn. ex Benth in Vietnam. Annals of Forest Science 66 
(6): 611p1 - 611p9. 
6. Hải, P.H., Jansson, G., Harwood, C., Hannrup, B. & Thinh, H.H., 2008a. Genetic variation in growth, stem 
straightness and branch thickness in clonal trials of Acacia auriculiformis at three contrasting sites in Vietnam. 
Forest Ecology and Management 255(1), 156 - 167. 
7. Hải, P.H., Jansson, G., Harwood, C., Hannrup, B., Thinh, H.H. & Pinyopusarerk, K., 2008b. Genetic variation 
in wood basic density and knot index and their relationship with growth traits for Acacia auriculiformis A. 
Cunn ex Benth in Northern Vietnam. New Zealand Journal of Forestry Science 38(1), 176 - 192. 
8. Harwood, C. E., Thinh, H. H., Quang, T. H., Butcher, P. A., Williams, E. R., 2004. The effect of inbreeding on 
early growth of Acacia mangium in Vietnam. Silvae Genetica 53, 65 - 69. 
9. Lê Đình Khả, 2003. Chọn tạo giống và nhân giống cho một số loài cây trồng rừng chủ yếu ở Việt Nam. Nhà 
xuất bản Nông nghiệp, 292 trang. 
10. Nguyễn Đình Hải, 2009. Báo cáo công nhận giống Macadamia. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, 21 trang. 
11. Nguyen Duc Kien, Gunnar Jansson, Chris Hardwood andha Huy Thinh, 2009. Genetic control of growth and 
form traits in Eucalyptus urophylla in Northern Vietnam. Journal of Tropical Forest Science 21(1): 50 - 65. 
12. Nguyen Duc Kien, Tran Ho Quang, Gunnar Jansson, Chris Hardwood, David Clapham and Sara von Arnold, 
2009. Cellulose content as a selection trait in breeding for kraft pulp yiel in Eucalyptus urophylla. Annals of 
Forest Science 66: 711. 
13. Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2003. Phát triển các loài Keo Acacia ở Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 121 trang. 
14. Nguyen Hoang Nghia, Le Dinh Kha, 1998. Selection of Acacia species and provenances for planting in 
Vietnam. Recent Development in Acacia planting, ACIAR Proceeding No.82, The International Acacia 
Workshop in Hanoi, Vietnam October, 1997. Canberra, p130 - 135. 
Tạp chí KHLN 2014 Võ Đại Hải, 2014(2) 
3254 
15. Phạm Văn Tuấn, 1997. Khảo nghiệm loài và xuất xứ bạch đàn ở Việt Nam. Báo cáo khoa học về cải thiện 
giống cây rừng. Nhà xuất bản Nông nghiệp, trang 67 - 83. 
16. Pinyopusarerk, K., 1990. Acacia auriculiformis: an annotated bibliography. Bangkok, Thailand: Winrock 
International - F/FRED and ACIAR, 154 p. 
17. Sơn, L., Henson, M., Shepherd, M., 2010. Sự khác biệt về di truyền giữa 3 loài bạch đàn Eucalyptus pellita, E. 
resinifera và E. scias. Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp. 
18. Szmidt, A. E., Changtragoon, S., 1996. Contrasting patterns of genetic diversity in two tropical pines: Pinus 
kesiya (Royle ex Gordon) and P. merkusii (Jungh et De Vriese). Theoretical and Applied Genetics 92, 436 - 
441. 
19. Trần Hồ Quang, Nguyễn Văn Lâm, Trần Bá Lực, Ngô Thị Minh Duyên, Mai Phương Thúy, 2009. Đánh giá 
cấu trúc quần di truyền vườn giống Bạch đàn urô (Eucalyptus urophylla) làm cơ sở chọn giống Tạp chí Nông 
nghiệp và Phát triển nông thôn 140, 82 - 85. 
20. Turnbull, J.W., Midgley, S.J., Cossalter, C., 1997. Tropical acacias planted in Asia: an overview. In: Turnbull, 
J.W., Crompton, H.R., Pinyopuserak, K. (Eds.), Recent developments in acacia planting. ACIAR Publishing, 
pp. 14 - 18. 
21. Vượng, T. Đ., 2010. Ứng dụng chỉ thị microsatellites trong nghiên cứu hệ thống giao phấn của vườn giống Keo 
tai tượng (Acacia mangium) và Keo tai tượng tứ bội. Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp. 
22. Vuong, T. D., McDonald, M., 2002. Outcrossing rates in Acacia auriculiformis A. Cunn. ex Benth. in a 
seedling seed orchard at Ba Vi, Vietnam. Report for the "Domestication of Australian Trees" project. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 so_2_nam_2014_13_8836_2131647.pdf so_2_nam_2014_13_8836_2131647.pdf