Điều Trị Lạm Dụng Chất Gây Nghiện 
Cho Người Nhiễm HIV/AIDS 
Tiến sĩ Y Khoa Steven L.Batki
Chủ tịch Hội đồng thuận
Tiến sĩ Y Khoa, Thạc sĩ Y tế Cộng Đồng Peter A.Selwyn
Đồng chủ tịch Hội đồng thuận 
Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ
Dịch vụ y tế công cộng
Cơ quan Quản lý Lạm dụng Chất gây nghiện và Sức khỏe Tâm thần (SAMHSA)
Trung Tâm Điều trị Lạm dụng Chất gây nghiện (CSAT)
Rockwall II, 5600 Fishers Lane
Rockville, MD 20857
Ấn phẩm số (SMA) 00-3410
Xuất bản năm 2000
Phác Đồ 
Cải Thiện 
Điều Trị 
TIP
37
Lời cảm ơn
Cuốn tài liệu này là kết quả của sự nỗ lực hợp tác giữa Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) 
và Ủy ban phòng chống AIDS TP.HCM. Chúng tôi mong muốn được bày tỏ lòng biết ơn tới các 
chuyên gia trong lĩnh vực Điều trị nghiện và các đồng nghiệp đã góp sức giúp hoàn thành tài liệu. 
Chúng tôi đặc biệt đánh giá cao sự đóng góp của Tiến sĩ Kevin P.Mulvey, Cố vấn cao cấp về Điều 
trị Lạm dụng Ma túy của PEPFAR và ông Peter Mahomet, Cán bộ cao cấp của CDC tại Việt Nam. 
Chúng tôi bày tỏ sự cảm ơn tới tổ chức PEPFAR, CDC đã hỗ trợ Ủy ban phòng chống AIDS TP.HCM 
về tài chính và kỹ thuật cho việc thực hiện phát triển tài liệu này tại Việt Nam. Chúng tôi cũng gửi 
lời cảm ơn tới Văn phòng Quản lý các dịch vụ Y tế và Lạm dụng Ma túy của Chính phủ Hoa Kỳ 
(SAMHSA) đã cho phép chúng tôi được dịch và xuất bản tài liệu này tại Việt Nam.
Bộ tài liệu này do Ủy ban phòng chống AIDS TP.HCM thực hiện dưới sự chỉ đạo của TS.BS.Lê Trường 
Giang, Phó Chủ tịch Thường trực, Ủy ban phòng chống AIDS TP.HCM. Chúng tôi gửi lời cảm ơn tới: 
Chị Vũ Thị Tường Vi, Chị Nguyễn Thị Thúy Ngà và các thành viên Phòng hỗ trợ Điều trị Nghiện & 
Tái hòa nhập cộng đồng, Ủy ban phòng chống AIDS TP.HCM đã đóng góp ý kiến, hỗ trợ trong quá 
trình thực hiện.
Trong quá trình biên dịch và xuất bản sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi rất mong 
nhận được sự đóng góp ý kiến của bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn.
Mọi ý kiến của quý vị xin vui lòng gửi về:
Ủy Ban Phòng Chống AIDS TP.HCM
121 Lý Chính Thắng, Phường 7, Quận 3, TP.HCM.
Điện thoại: (08).39.309.309 Fax: (08).39.309.090
E-mail: 
[email protected]
iv
Từ chối trách nhiệm
Việc xuất bản ấn phẩm này là một phần trong 
Chương trình Hỗ trợ Kỹ thuật Phòng chống và 
Điều trị Lạm dụng các Chất Gây nghiện. Ngoại 
trừ một số tư liệu được trích dẫn trực tiếp từ 
các nguồn tài liệu có bản quyền thì tất cả tài 
liệu trong tập sách này đều thuộc lĩnh vực công 
cộng và được phép tái xuất bản hoặc sao chép 
mà không cần sự cho phép của Trung Tâm Điều 
trị Lạm dụng Chất gây nghiện (CSAT) trực thuộc 
Cơ quan Quản lý Lạm dụng Chất gây nghiện và 
Sức khỏe Tâm thần (SAMHSA) và của tác giả. Tuy 
nhiên nên trích dẫn nguồn gốc tài liệu. 
Loạt ấn phẩm này được thực hiện theo hợp đồng 
số 270-95-0013 với The CDM Group, Inc. (CDM). 
Sandra Clunies, M.S., I.C.A.D.C., nhân viên dự 
án chính phủ của CSAT; Warren W. Hewitt, Jr., 
M.S., Cố vấn nội dung của CSAT; Rose M. Urban, 
L.C.S.W., J.D., C.C.A.S., Giám đốc dự án TIPs của 
CDM. Và các thành viên khác của dự án TIPs của 
CDM gồm Raquel Ingraham, M.S., quản lý dự án; 
Jonathan Max Gilbert, M.A., biên tập viên quản lý; 
Susan Kimner, biên tập viên/ tác giả; Cara Smith, 
biên tập viên xuất bản; Erica Flick- trợ lý biên tập; 
và Y-Lang Nguyen, cựu biên tập viên xuất bản.
Những quan điểm thể hiện trong tài liệu này là 
quan điểm của các thành viên Hội đồng thuận và 
không phản ánh quan điểm chính thức của CSAT, 
SAMHSA, hoặc Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa 
Kỳ (DHHS). CSAT, SAMHSA hay HHS không ủng 
hộ hay xác nhận chính thức những quan điểm 
hoặc những thiết bị cụ thể hoặc phần mềm được 
mô tả trong tài liệu này. Không nên xem những 
hướng dẫn được khuyến nghị trong tài liệu này 
là phương pháp thay thế cho những quyết định 
điều trị và chăm sóc đặc hiệu cho bệnh nhân.
vLời cảm ơn .............................................................................................................iii
Phác đồ cải thiện điều trị (TIP) là gì? ..................................................................... ix
Ban Tư vấn Biên tập ............................................................................................... xi
Hội đồng thuận .................................................................................................... xiii
Lời nói đầu .............................................................................................................xv
Tóm tắt và khuyến nghị ........................................................................................xvii
Tóm tắt các khuyến nghị .............................................................................................xix
1 Giới thiệu về HIV/AIDS .......................................................................................1
Tổng quan về HIV/AIDS ..............................................................................................3
Những thay đổi trong Dịch tễ học HIV/AIDS từ năm 1995 ........................................12
2 Hỗ trợ y tế và Điều trị .......................................................................................23
Tuân Thủ Quá Trình Điều Trị .....................................................................................24
Các Rào Cản Trong Việc Chăm Sóc Bệnh Nhân Rối Loạn Lạm Dụng 
Chất Gây Nghiện Bị Nhiễm HIV ........................................................................................... 26
Mô Hình Chăm Sóc Tổng Hợp ...................................................................................27
Các Tiêu Chuẩn Chăm Sóc Y Tế .................................................................................31
Các khía cạnh dược lý .................................................................................................44
Phòng ngừa nhiễm trùng cơ hội ..................................................................................60
3 Điều trị sức khỏe tâm thần .................................................................................71
Mối liên hệ với Dịch vụ sức khỏe tâm thần ..................................................................72
Rối loạn tâm thần thường gặp ở những khách hàng bị nhiễm HIV .................................72
Đánh giá và chẩn đoán ................................................................................................77
Điều Trị Dược Lý Cho Bệnh Nhân Rối Loạn Tâm Thần ................................................79
Sức khỏe tâm thần và tư vấn chứng rối loạn do lạm dụng chất gây nghiện ....................... 89
Mục Lục
vi
4 Dự phòng HIV Sơ cấp và Trung cấp ...................................................................93
Đánh giá nguy cơ HIV/AIDS ......................................................................................94
Tư vấn giảm thiểu nguy cơ ..........................................................................................95
Các vấn đề kiểm soát lây nhiễm trong chương trình cai nghiện ...................................102
5 Kết hợp các dịch vụ điều trị ..............................................................................105
Dịch vụ điều trị HIV/AIDS trong điều trị lạm dụng chất gây nghiện ........................105
Vấn đề về chăm sóc kết hợp ......................................................................................106
Các ví dụ về phương pháp điều trị kết hợp ................................................................. 116
6 Tiếp cận và sử dụng các dịch vụ cần thiết ..........................................................121
Lợi ích của việc quản lý trường hợp đối với vấn đề Phối hợp Chăm sóc .....................121
Các Nguồn Hỗ Trợ Cho Người Lạm Dụng Thuốc Bị Nhiễm HIV .............................126
Dịch Vụ Tìm Kiếm Và Tài Trợ ..................................................................................129
Thu nhập và những lo lắng khác về tài chính .............................................................132
Các chương trình lưu trú ...........................................................................................133
Những đề xuất trong tìm kiếm nguồn hỗ trợ .............................................................134
7 Tư vấn cho khách hàng bị các chứng rối loạn lạm dụng 
chất gây nghiện và nhiễm HIV .............................................................................135
Đào tạo, thái độ và những vấn đề chung ....................................................................135
Xét nghiệm sàng lọc ..................................................................................................141
HIV/AIDS – Những vấn đề cụ thể về tư vấn cai nghiện .............................................144
Nghiên cứu tình huống ..............................................................................................176
8 Những vấn đề về đạo đức ..................................................................................179
Vấn đề đạo đức đối với người điều trị ........................................................................180
Những nguyên tắc đạo đức căn bản ...........................................................................181
Những vấn đề đạo đức trong khi làm việc với người nghiện nhiễm HIV .....................184
Mô hình đưa ra quyết định đạo đức theo từng bước ...................................................188
Những nguồn khác cho việc giải quyết vấn đề đạo đức ..............................................189
vii
9 Các vấn đề pháp lý ............................................................................................191
Tiếp cận Chương trình điều trị - Các vấn đề Phân biệt đối xử ....................................191
Bảo mật thông tin khách hàng ..................................................................................198
Bảo vệ hồ sơ ..............................................................................................................218
Kết luận.....................................................................................................................218
Các chú thích ............................................................................................................219
10 Gây quỹ và xem xét chính sách .......................................................................221
Những chìa khóa để tìm kiếm quỹ thành công ...........................................................221
Cách nhận diện các nguồn quỹ tiềm năng .................................................................222
Những thay đổi về chính sách của bang và liên bang ...........................................................223
Các Sáng kiến Liên bang ...........................................................................................227
Các sự kiện của bang và địa phương ..........................................................................236
Các nhóm dân cư đặc biệt .........................................................................................236
Thông tin về người viết đơn thuê ...............................................................................237
Các chiến lược để bảo đảm tiếp tục được nhận quỹ ...................................................237
Phụ lục A: Tài liệu tham khảo .............................................................................239
Phụ lục B: Bảng chú giải thuật ngữ .....................................................................273
Phụ lục C: Hệ thống phân loại sửa đổi 1993 về nhiễm HIV và 
Trường hợp giám sát AIDS mở rộng đối với thanh thiếu niên và người lớn ..........277
Phân loại tế bào lympho CD4+ T..............................................................................277
Phụ lục D: Công cụ sàng lọc ...............................................................................281
Amsler Grid Test ......................................................................................................282
Phụ lục E: Các Quy tắc Đạo đức mẫu ..................................................................285
Các Quy tắc Đạo đức dành cho các Chương trình điều trị bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS và 
mắc các Chứng Rối loạn Lạm dụng Chất gây nghiện .................................................285
Quy tắc Đạo đức dành cho Bác sĩ trị liệu và Tư vấn viên điều trị cho bệnh nhân nhiễm HIV/
AIDS và Mắc các chứng Rối loạn Lạm dụng Chất gây nghiện ...................................288
viii
Phụ lục F: Các trang Web liên quan đến AIDS ....................................................291
Các nguồn thông tin ..................................................................................................291
Các thư viện ..............................................................................................................292
Các trang web cụ thể về aids .....................................................................................292
Các tổ chức về aids ...................................................................................................293
Báo chí y khoa/ aids ..................................................................................................294
Báo, tạp chí ...............................................................................................................295
Các trung tâm thông tin chính phủ và phi chính phủ .................................................295
Bảng chú giải thuật ngữ hiv/aids ..............................................................................296
Chính sách/bào chữa .................................................................................................296
Tiếp cận điều trị/ adap ..............................................................................................296
Bảng liệt kê các thử nghiệm lâm sàng ........................................................................296
Thuốc/các trang web về dược phẩm ..........................................................................297
Trang web y khoa chung ..........................................................................................297
Trang web y khoa đặc biệt .........................................................................................297
Hội nghị ....................................................................................................................298
Quỹ tài trợ .................................................................................................................298
Các trang web khác ...................................................................................................298
Phụ lục G: Các Cơ Quan Y Tế Quốc Gia Và Vùng Lãnh Thổ/ 
Các Văn Phòng Aids ............................................................................................301
Phụ lục H: Thang Đánh Giá Trạng Thái Tâm Thần Tối Thiểu (MMSE) ..............313
Phụ lục I: Các Chuẩn Mực Chăm Sóc: Phác Đồ Điều Trị/ 
Đánh Giá Khách Hàng ........................................................................................315
A. ĐÁNH GIÁ KHÁCH HÀNG ................................................................................315
B. PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ ...........................................................................................315
Phụ lục J: Ban hội thẩm nội dung........................................................................319
Phụ lục K: Nhà phê bình .....................................................................................321
ix
Phác đồ cải thiện điều trị 
(TIP) là gì?
Phác đồ cải thiện điều trị (TIPs) là những hướng dẫn thực tế nhất cho 
việc điều trị lạm dụng chất gây nghiện, một phương pháp hỗ trợ điều trị 
của Trung tâm Điều trị Lạm dụng Chất gây nghiện (CSAT) trực thuộc 
Cơ quan Quản lý Lạm dụng Chất gây nghiện và Sức khỏe Tâm thần 
(SAMHSA). Cơ quan Đánh giá, Phân tích khoa học và Tổng hợp của 
CSAT đã đưa những kinh nghiệm và kiến thức về việc điều trị, nghiên cứu 
và những ý kiến của các chuyên gia hành chính vào trong loạt tài liệu TIPs 
này. Ngày càng nhiều các phương tiện và các cá nhân trên khắp đất nước 
nhận loạt tài liệu TIPs này. Độc giả của TIPs đang mở rộng ở mức công 
cộng. Các phương tiện điều trị lạm dụng chất gây nghiện cá nhân như là 
chứng nghiện rượu và các bệnh lý rối loạn lạm dụng chất gây nghiện khác 
ngày càng được nhìn nhận là những vấn đề quan trọng.
Ban Cố vấn biên tập loạt tài liệu TIPs là một nhóm các chuyên gia về lạm 
dụng chất gây nghiện và các giáo sư về những lĩnh vực liên quan như chăm 
sóc sức khỏe ban đầu, sức khỏe tâm thần và các dịch vụ xã hội, phối hợp 
với các Giám đốc Trung tâm Điều trị Lạm dụng Thuốc và Rượu để đưa ra 
được những chủ đề cho TIPs dựa trên nhu cầu cần cung cấp thông tin và 
hướng dẫn cho lĩnh vực này.
Sau khi chọn được một chủ đề, CSAT sẽ mời những cán bộ của các Cơ 
quan liên bang có liên quan và các tổ chức quốc gia tham gia vào một Ban 
hội thẩm nội dung. Ban này chịu trách nhiệm đề nghị những lĩnh vực cụ 
thể cần tập trung và xem xét nguồn tư liệu để xây dựng nội dung của TIP. 
Sau đó, các khuyến nghị này được truyền đạt đến một Hội đồng thuận 
gồm các chuyên gia không thuộc biên chế chính quyền liên bang được các 
đồng nghiệp của họ đề cử. Hội đồng thuận này sẽ tham gia các cuộc thảo 
luận để đạt được một sự nhất trí cao về những thông tin và các khuyến 
nghị làm nền tảng cho TIP. Các thành viên của mỗi Hội đồng thuận đại 
diện cho các chương trình điều trị lạm dụng chất gây nghiện, bệnh viện, 
trung tâm y tế cộng đồng, chương trình tư vấn, cơ quan phúc lợi trẻ em 
và tư pháp hình sự, và các bác sĩ tư nhân. Một Hội đồng thuận (hoặc các 
xđồng chủ tọa) đảm bảo rằng các hướng dẫn 
phản ánh kết quả của sự hợp tác nhóm.
Các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực sẽ đánh giá 
cẩn thận bản dự thảo. Khi các chuyên gia thống 
nhất những thay đổi trong bản dự thảo, thì TIP 
được chuẩn bị để in và xuất bản trực tuyến. 
Độc giả có thể xem TIPs bằng cách truy cập 
vào trang chủ của Thư viện Y khoa Quốc gia 
theo địa chỉ URL: http:// text.nlm.nih.gov. Việc 
chuyển sang phương tiện truyền thông điện tử 
cũng có nghĩa là TIPs có thể được cập nhật dễ 
dàng hơn vì các chuyên gia vẫn tiếp tục cập 
nhật những thông tin mới nhất về lĩnh vực này. 
Mặc dù mỗi TIP được cố gắng xây dựng kèm 
theo một cơ sở bằng chứng cho những hướng 
dẫn thực hành được khuyến nghị, nhưng CSAT 
thừa nhận rằng lĩnh vực điều trị lạm dụng chất 
gây nghiện đang tiến triển và rằng các nghiên 
cứu thường đi sau những thay đổi tiên phong 
trong lĩnh vực này. Mục tiêu chính của mỗi TIP 
là truyền đạt những thông tin quan trọng nhất 
một cách nhanh chóng và có trách nhiệm. Vì lý 
do này, các khuyến nghị trong TIP là từ kinh 
nghiệm lâm sàng của các thành viên Ban hội 
thẩm hoặc từ tài liệu. Nếu có nghiên cứu để hỗ 
trợ việc tiếp cận cụ thể thì tác giả sẽ cung cấp 
nguồn trích dẫn.
Tip về Điều trị Lạm dụng Chất gây nghiện cho 
người nhiễm HIV/AIDS là một phiên bản của 
TIP 15 về Điều trị Lạm dụng Rượu và các loại 
Chất gây nghiện khác cho người nhiễm HIV 
(CSAT, 1995b), được thiết kế nhằm mục đích 
giúp các nhà cung ứng làm quen với các vấn đề 
khác nhau xung quanh khách hàng bao gồm 
cả người lạm dụng chất gây nghiện và người 
nhiễm vi rút suy giảm miễn dịch ở người (HIV). 
TIP này cũng giúp hiểu rõ hơn về vai trò của 
các nhà cung ứng khác.
Chương 1 cung cấp một cái nhìn tổng quan 
về HIV/AIDS, gồm các dữ liệu mới nhất về vệ 
sinh dịch tễ của Các trung tâm Kiểm soát và 
Ngăn ngừa Dịch bệnh. 
Chương 2 bàn luận về việc đánh giá y khoa và 
điều trị bệnh HIV/AIDS. 
Chương 3 nói về việc điều trị bệnh lí rối loạn 
tâm thần ở người lạm dụng chất gây nghiện 
nhiễm HIV/AIDS. 
Chương 4 giải thích về việc can thiệp dự phòng 
HIV/AIDS.
Chương 5 cung cấp những thông tin về cách 
kết hợp các dịch vụ điều trị thông qua hợp tác 
để đáp ứng được nhu cầu của các khách hàng 
nhiễm HIV có bệnh lí rối loạn lạm dụng chất 
gây nghiện. 
Chương 6 thảo luận về trường hợp quản lý và 
cách tiếp cận nhu cầu dịch vụ của khách hàng.
Chương 7 cung cấp thông tin tư vấn cho khách 
hàng nhiễm HIV/AIDS có bệnh lí rối loạn lạm 
dụng chất gây nghiện, gồm thông tin về vấn đề 
nhân viên, việc sàng lọc và năng lực văn hóa.
Chương 8 thảo luận về vấn đề đạo đức.
Chương 9 trình bày các vấn đề về pháp lý, 
gồm việc bảo mật và sự tiếp cận các dịch vụ và 
chương trình của khách hàng. 
Chương 10 cung cấp thông tin về nguồn kinh 
phí cho các chương trình điều trị khách hàng 
nhiễm HIV/AIDS và việc điều trị lạm dụng 
chất gây nghiện. 
Phần phụ lục cung cấp thêm thông tin về một 
số chủ đề và trình bày về Hệ thống phân loại 
HIV và AIDS sửa đổi năm 1993, các quy 
tắc đạo đức của Liên bang và Nhà nước, các 
Website về AIDS, danh sách các Cơ quan y tế 
thuộc quốc gia và vùng lãnh thổ và các đường 
dây nóng về AIDS.
TIP này còn là một bước đi khác của CSAT 
nhằm hướng tới mục tiêu đưa các nhà lãnh đạo 
quốc gia lại gần với nhau để cải thiện tình trạng 
điều trị lạm dụng chất gây nghiện ở Hoa Kỳ.
Độc giả có thể liên hệ Quỹ Thanh toán Hối 
đoái Quốc gia về Thông tin Ma túy và Rượu 
thuộc Cơ quan Quản lý Lạm dụng Chất gây 
nghiện và Sức khỏe Tâm thần để mua các TIP 
khác. Điện thoại liên hệ:(800) 729-6686 hoặc 
(301) 468-2600; dành cho người khiếm thính: 
(800) 487-4889
xi
Ban Tư vấn Biên tập
Tiến sĩ, Y tá, Mạng lưới Sáng kiến Hành động 
Cộng tác, Karen Allen
Giáo sư và Chủ tịch
Khoa Điều dưỡng
Đại học Andrews
Berrien Springs, Bang Michigan
Tiến sĩ Y khoa, Thạc sĩ Y tế Cộng đồng 
Richard L. Brown
Phó giáo sư
Khoa Y học gia đình
Trường đại học Y Wisconsin
Madison, Bang Wisconsin
Tiến sĩ Y khoa Dorynne Czechowicz
Phó Giám đốc
Hiệp hội Y khoa
Chi nhánh Nghiên cứu Điều trị
Phòng Nghiên cứu lâm sàng và dịch vụ
Viện Quốc gia về Lạm dụng Ma túy
Thạc sĩ văn chương Linda S. Foley
Nguyên giám đốc
Dự án Đào tạo Chuyên viên Tư vấn Chứng 
Nghiện
Hiệp hội quốc gia các Giám đốc Trung tâm 
Điều trị Lạm dụng Thuốc và Rượu
Giám đốc
Dự án Thay đổi Việc Cải thiện Điều trị
Thành phố Washington, D.C
Wayde A. Glover, Hệ thống Quản lý Thông 
tin, Tư vấn viên Chứng nghiện Cấp Quốc gia 
(Cấp độ 2)
Giám đốc
Cộng đồng Chuyên viên Đào tạo và Tư vấn các 
Chứng Nghiện
Richmond, Bang Virginia
Tiến sĩ Y khoa Pedro J. Greer
Trợ lý Hiệu trưởng – Ngành Giáo dục người 
vô gia cư
Đại học Y Miami
Miami, Bang Florida
Tiến sĩ Y khoa Thomas W. Hester
Nguyên Giám đốc bang
Dịch vụ Lạm dụng Chất gây nghiện
Phòng Sức khỏe Tâm thần, Trí tuệ chậm phát 
triển và Lạm dụng Chất gây nghiện
Phòng Nhân sự Georgia
Atlanta, Bang Georgia
Tiến sĩ Tâm lí James G. (Gil) Hill
Giám đốc
Văn phòng Y tế Nông thôn và Lạm dụng Chất 
gây nghiện
Hiệp hội Tâm lí Hoa kỳ
Thành phố Washington, D.C
xii
Tiến sĩ Y Khoa, Thạc sĩ Y tế Cộng Đồng 
Douglas B. Kamerow
Giám đốc
Trung tâm Đánh giá và Thực hành Công nghệ
Cơ quan Nghiên cứu và Chính sách Chăm sóc 
Y tế
Rockville, Bang Maryland
Stephen W. Long
Giám đốc Điều hành
Phòng Phân tích Chính sách
Viện Quốc gia về Chứng nghiện rượu và Lạm 
dụng rượu
Rockville, Bang Maryland
Tiến sĩ Richard A. Rawson
Giám đốc điều hành
Trung tâm Ma trận và Viện Ma trận Chứng 
Nghiện
Phó Giám đốc, Dịch vụ Y học về Chứng nghiện 
Đại học California, Los Angeles
Los Angeles, Bang California
Tiến sĩ Ellen A. Renz.
Cựu Phó Chủ tịch Hệ thống Lâm sàng
Hội Chăm sóc Hành vi MEDCO
Kamuela, Bang Hawaii
Tiến sĩ Y khoa Richard K. Ries.
Giám đốc và Phó Giáo sư
Dịch vụ Sức khỏe Tâm thần dành cho Bệnh 
nhân ngoại trú và Chương trình Bệnh lý Tâm 
thần Đồng diễn
Trung tâm Y tế Harborview 
Seattle, Bang Washington
Tiến sĩ y khoa, Tiến sĩ Tâm lí Sidney H. 
Schnoll.
Chủ tịch
Phòng Y khoa Lạm dụng Chất gây nghiện
Đại hoc Y Virginia
Richmond, Bang Virginia
xiii
Hội đồng thuận
Chủ tịch
Tiến sĩ Y khoa Steven L. Batki
Giáo sư
Khoa Tâm thần học
Trường Đại học Y SUNY
Syracuse, Thành phố New York
Đồng chủ tịch
Tiến sĩ Y khoa, Thạc sĩ Y tế Cộng đồng Peter 
A. Selwyn.
Giáo sư và Chủ tịch
Khoa Y học Gia đình và Y tế Cộng đồng
Trung tâm Y tế Montefiore
Trường Đại học Y Albert Einstein
Bronx, Thành phố New York
Thành viên Ban hội thẩm
Thạc sĩ Y tế Cộng đồng, Thạc sĩ Khoa học 
Thông tin và Thư viện Deborah Wright Bauer
Bác sĩ cố vấn Dự án Y tế
Dự án Georgia Ryan White Title IV
Chi nhánh Dự phòng và Dịch tễ học
Phòng Nhân sự
Atlanta, Bang Georgia
Tiến sĩ Luật học, Thạc sĩ Văn chương 
Margaret K. Brooks
Nhân viên tài năng mới
Montclair, Bang New Jersey
Tiến sĩ Y khoa Robert Paul Cabaj
Giám đốc Y Tế
Dịch vụ Y tế Tâm thần Hạt San Mateo
Ban Dịch vụ Y tế Tâm thần
San Mateo, Bang California
Thạc sĩ Khoa học ngành Công tác Xã hội, 
Nhân viên xã hội ưu tú được cấp phép hành 
nghề - Bác sĩ lâm sàng cấp cao Susan M. 
Gallego
Nhân viên đào tạo, Tư vấn viên, Nhân viên 
Chức năng
Austin, Bang Texas
Tiến sĩ Tâm lí học, Nhân viên Xã hội Lâm 
sàng, Nhân viên Xã hội Cao cấp Larry M. 
Gant
Phó giáo sư
Trường Công tác Xã hội
Đại học Michigan
Ann Arbor, Bang Michigan
Nhân viên Xã hội Cao cấp, Học viện Đào tạo 
Nhân viên Công tác Xã hội Brian C. Giddens
Phó giám đốc
Khoa Công tác Xã hội
Đại học Y tế Washington 
Seattle, Washington
Tiến sĩ Tâm lý, Thạc sĩ Y tế Cộng đồng 
Gregory L. Greenwood
Nghiên cứu sinh TAPS 
Trung tâm Nghiên cứu Dự phòng AIDS
Đại học California tại San Francisco
San Francisco, Bang California
Tiến sĩ Y Khoa Elizabeth F. Howell
Trưởng Chương trình Lạm dụng Chất gây 
nghiện
Phòng Nhân sự Georgia 
Phòng Sức khỏe Tâm thần, Trí tuệ chậm phát 
triển và Lạm dụng Chất gây nghiện
Atlanta, Bang Georgia
xiv
Tiến sĩ Tâm lí học Martin Yoneo Iguchi
Đồng Giám đốc
Nhà Khoa học Hành vi Cao cấp
Trung tâm Nghiên cứu Chính sách về Thuốc
RAND
Santa Monica, Bang California
Thạc sĩ Y tế Cộng đồng, Trợ lý Bác sĩ được 
chứng nhận Susan LeLacheur
Trợ lý Giáo sư ngành Khoa học Chăm sóc Y tế 
và Khoa học Y tế
Đại học George Washington 
Chương trình Trợ lý Bác sĩ
Washington, D.C.
Nhân viên Xã hội Lâm sàng được cấp bằng 
hành nghề Andrea Ronhovde
Giám đốc
Dự án HIV/AIDS và Sức khỏe Tâm thần 
Alexandria 
Trung tâm Sức khỏe Tâm thần Alexandria 
Alexandria, Bang Virginia
Tiến sĩ Tâm lý, Thạc sĩ Y tế Cộng đồng Ronald 
D. Stall
Trung tâm Nghiên cứu Dự phòng AIDS
Đại học California tại San Francisco
San Francisco, California
Tiến sĩ Y khoa Michael D. Stein
Phó Giáo sư
Khoa Y 
Đại học Brown
Providence, Bang Rhode Island
xv
Lời nói đầu
Loạt phác đồ cải thiện điều trị (TIP) thực hiện tốt sứ mệnh của SAMHSA/
CSAT là cải thiện việc điều trị lạm dụng chất gây nghiện bằng cách cung 
cấp những hướng dẫn thực hành tốt nhất cho các bác sĩ lâm sàng, các cán 
bộ quản lý chương trình và những người có nhu cầu sử dụng loạt TIPs này. 
TIPs là kết quả của việc xem xét cẩn thận tất cả các kết quả nghiên cứu 
lâm sàng và dịch vụ y tế liên quan, sự tập trung kinh nghiệm, và các yêu 
cầu thực hiện. Một hội đồng các nhà nghiên cứu lâm sàng không thuộc 
biên chế của chính quyền liên bang, các bác sĩ lâm sàng, các cán bộ quản 
lý chương trình và khách hàng ủng hộ các cuộc tranh luận và thảo luận về 
các lĩnh vực chuyên môn cụ thể cho đến khi họ đi đến một kết luận thống 
nhất cao độ về phương pháp thực hành tốt nhất. Sau đó công việc của hội 
đồng này được xem xét và đánh giá lại bởi các nhà phê bình chuyên môn.
Tài năng, sự cống hiến, và quá trình làm việc chăm chỉ mà Hội đồng và 
những nhà phê bình TIPs mang lại đã khắc phục được khoảng cách giữa 
khả năng của việc nghiên cứu và nhu cầu của các bác sĩ lâm sàng và của 
các nhà quản lý. Chúng tôi rất biết ơn tất cả các cá nhân đã tham gia đóng 
góp vào sự tiến bộ trong lĩnh vực điều trị lạm dụng chất gây nghiện.
Tiến sĩ Nelba Chavez
Quản trị viên
Ban Dịch vụ Y tế Tâm thần và lạm dụng Chất gây nghiện
Tiến sĩ Y khoa, Tiến sĩ Luật học, Thạc sĩ Y tế Cộng đồng, CAS, FASAM 
H. Westley Clark
Giám đốc
Trung tâm Điều trị Lạm dụng Chất gây nghiện
Ban Dịch vụ Y tế Tâm thần và lạm dụng Chất gây nghiện
xvii
Tóm tắt và khuyến nghị
Trong những năm gần đây đã xuất hiện nhiều thay đổi quan trọng trong 
việc điều trị vi rút suy giảm miễn dịch ở người (HIV)/ Hội chứng suy giảm 
miễn dịch mắc phải (AIDS). Để ghi nhận những tiến bộ và tác động của 
nó lên việc điều trị lạm dụng chất gây nghiện, Trung tâm Điều trị Lạm 
dụng Chất gây nghiện (CSAT) đã tập hợp một Hội đồng thuận vào năm 
1998 để cập nhật và mở rộng thông tin cho TIP 15, Điều trị Lạm dụng 
Rượu và các loại Chất gây nghiện khác cho người nhiễm HIV (CSAT, 
1995b)
Những tiến bộ quan trọng trong nghiên cứu đã cải thiện căn bản hiểu biết 
của chúng ta về sinh vật học HIV và sự phát sinh của bệnh AIDS (nghĩa là 
“nguồn gốc” và “sự phát triển”). Sự phát sinh của bệnh AIDS hiện đang 
được biết là kết quả từ khả năng tái tạo của vi-rút HIV với tốc độ 1 tỉ vi-rút 
mới (phần tử vi-rút) mỗi ngày và gần 10 tỉ tỉ vi-rút mới qua mỗi quá trình 
nhiễm HIV. Điều này trái ngược lại với khả năng của cơ thể là sản xuất ra 
các tế bào bạch huyết CD4+ T (tế bào mục tiêu chính của vi rút HIV), 
hình thành nên một quá trình đấu tranh giữa vi-rút HIV và hệ miễn dịch 
kéo dài từ ngày đầu tiên nhiễm HIV tới giai đoạn cuối cùng và tử vong.
Những năm đầu của đại dịch HIV/AIDS ở Mỹ, vai trò của việc lạm dụng 
chất gây nghiện trong việc lây truyền HIV và AIDS trở nên rõ ràng. HIV 
bị lây nhiễm hiệu quả nhất qua đường máu. Kết quả là những người sử 
dụng ma túy qua đường tiêm chích đại diện cho số người lạm dụng chất 
gây nghiện có nhiễm HIV lớn nhất Hoa Kỳ. Bên cạnh việc lây nhiễm HIV 
qua dụng cụ tiêm nhiễm, việc quan hệ tình dục trong hệ thống tình dục 
bảo thủ một cách tương đối là một con đường lây nhiễm HIV khác giữa 
những người tiêm chích ma túy. Những mạng lưới này được đặc trưng bởi 
nhiều bạn tình, giao hợp không có biện pháp bảo vệ, và việc trao đổi tình 
dục vì thuốc. Việc sử dụng rượu và các loại ma túy không qua đường tiêm 
chích trong môi trường này chỉ làm tăng thêm các trường hợp HIV/AIDS. 
Vì việc lạm dụng chất gây nghiện và đại dịch HIV/AIDS có quan hệ với 
nhau, nên việc điều trị lạm dụng chất gây nghiện có thể đóng một vai trò 
xviii
quan trọng trong việc giúp những người lạm 
dụng chất gây nghiện giảm rủi ro hành vi, từ đó 
giảm tỉ lệ mắc phải HIV/AIDS.
Xu hướng hiện nay trong đại dịch HIV/AIDS 
cho thấy rằng một con số không cân xứng của 
các dân tộc thiểu số sống trong các thành phố 
chịu đang ảnh hưởng hoặc có nguy cơ nhiễm 
HIV. Phần dân số này là những người nghèo, 
khó tiếp cận với các phương pháp Y tế công 
cộng truyền thống, và cần được cung cấp các 
dịch vụ nhân sinh và y tế rộng rãi.
Các khuyến nghị và hướng dẫn trong TIP này 
tiếp tục củng cố thêm cách tiếp cận đã được 
đưa ra trong TIP 15, đó là việc tạo ra một hệ 
thống chăm sóc toàn diện, thống nhất cho 
những người lạm dụng chất gây nghiện nhiễm 
HIV. Những mạng lưới hiệu quả, hợp tác phải 
được phát triển giữa các trung tâm điều trị lạm 
dụng chất gây nghiện, các nhân viên y tế, nhân 
viên y tế tâm thần, và các quan chức y tế cộng 
đồng để ngăn chặn sự lan rộng của căn bệnh 
này và cung cấp một dịch vụ chăm sóc chất 
lượng cao cho các cá nhân nhiễm bệnh. Kết 
hợp các ngành có truyền thống làm việc độc lập 
với nhau là một thách thức rất lớn. Một thách 
thức quan trọng khác là phải vượt qua những 
hiểu lầm và sự giao tiếp hạn chế do khác biệt 
về sắc tộc, văn hóa, tình trạng kinh tế, khuynh 
hướng tình dục, và lối sống.
Đại dịch HIV/AIDS đã sinh ra một số trung 
tâm điều trị lạm dụng chất gây nghiện ngay 
giữa các trung tâm lây nhiễm HIV (ví dụ, San 
Francisco, New York, Washington, DC) để 
tăng cường phạm vi dịch vụ mà họ cung cấp 
nhằm đáp ứng tất cả các nhu cầu của khách 
hàng như là điều trị lạm dụng chất gây nghiện; 
điều trị HIV/AIDS; và các nhu cầu y tế, hành 
vi, tâm lý, và xã hội khác. Kết quả là các trung 
tâm điều trị đang cung cấp cho khách hàng các 
phép chẩn đoán, điều trị toàn diện và quản lý 
tất cả các vấn đề hiện tại. Đối với những trường 
hợp dịch vụ không có sẵn, các trung tâm điều 
trị có thể thiết lập mạng lưới giới thiệu và liên 
kết với các nhà cung cấp dịch vụ điều trị khác 
trong cộng đồng.
Độc giả của TIP này rất đa dạng, và các chương 
khác nhau được xây dựng cho riêng một số độc 
giả. Tuy nhiên, bất cứ ai muốn cải thiện việc 
chăm sóc cho người lạm dụng chất gây nghiện 
nhiễm HIV thì nên đọc toàn bộ TIP này. Việc 
dự phòng và điều trị lạm dụng chất gây nghiện 
và HIV/AIDS đòi hỏi một cách tiếp cận đa 
ngành dựa trên những thế mạnh của các nhà 
cung cấp và các quyết định điều trị. Việc trông 
mong bất kỳ một nhà cung cấp đơn lẻ nào nắm 
được hết tất cả các lĩnh vực chăm sóc là điều 
không tưởng. TIP này sẽ giúp một loạt các nhà 
cung cấp làm quen với các vấn đề khác nhau 
xung quanh việc lạm dụng chất gây nghiện và 
HIV/AIDS và thúc đẩy sự hiểu biết tốt hơn về 
vai trò của các nhà cung cấp khác. 
Hội Đồng thuận đã dựa trên những kinh 
nghiệm đáng kể trong cả hai lĩnh vực HIV/
AIDS và điều trị lạm dụng chất gây nghiện. Hội 
đồng bao gồm đại diện của tất cả các ngành có 
liên quan đến điều trị lạm dụng chất gây nghiện 
và HIV/AIDS, gồm các bác sĩ, chuyên viên tư 
vấn thuốc và rượu, nhân viên y tế tâm thần, các 
đại diện chính quyền nhà nước, và luật sư.
TIP được tổ chức thành mười chương, phần 
đầu tiên giới thiệu về HIV/AIDS, bao gồm 
nguồn gốc, chu kỳ sống, và sự tiến triển của 
bệnh. Phần thứ hai của Chương 1 cung cấp 
một cái nhìn tổng quan về những thay đổi của 
dịch tễ học từ năm 1995 khi phiên bản đầu tiên 
của TIP này được phát hành. Các dữ liệu dịch 
tễ học từ các Trung tâm Kiểm soát và Ngăn 
ngừa Dịch bệnh (CDC) được trình bày tóm 
tắt, người đọc sẽ được cung cấp tổng quan về 
đại dịch ở các vùng của Hoa Kỳ, các xu hướng 
hiện tại và tình hình dân số bị ảnh hưởng bởi 
căn bệnh này, và một cuộc thảo luận về những 
thành phần dân cư đặc biệt.
Chương 2, được soạn thảo dành cho các nhân 
viên y tế, thảo luận về những đánh giá y khoa và 
việc điều trị HIV/AIDS, trong đó gồm có việc 
tuân thủ điều trị, các rào cản trong việc chăm 
sóc, điều trị và kiểm tra, dược lý học, và phương 
pháp dự phòng nhiễm trùng cơ hội.
xix
Chương 3, dành cho nhân viên y tế tâm thần, 
xem xét phương pháp điều trị sức khỏe tâm 
thần cho khách hàng gặp vấn đề về lạm dụng 
chất gây nghiện và HIV/AIDS và thảo luận về 
các chứng rối loạn tâm thần phổ biến, đánh giá 
và chẩn đoán, dược học, tư vấn, và các vấn đề 
nhân viên.
Chương 4 trình bày các vấn đề liên quan đến 
phòng, chống HIV. Những vấn đề này bao gồm 
việc đánh giá khách hàng với các rủi ro, tư vấn 
giảm thiểu rủi ro, giảm nguy cơ khi quan hệ 
tình dục, dự phòng trước và sau khi sinh, sự lây 
truyền vi-rút HIV có sức đề kháng, chia sẻ ống 
tiêm, xét nghiệm nhanh HIV, và vấn đề kiểm 
soát lây nhiễm cho các chương trình.
Chương 5 bàn về việc kết hợp các dịch vụ điều 
trị, cũng như tầm quan trọng của mối liên kết 
giữa các chương trình điều trị lạm dụng chất 
gây nghiện và các nhà cung cấp khác. 
Chương 6 cung cấp thông tin về quản lý hồ sơ 
và các tìm kiếm thông tin cho người lạm dụng 
chất gây nghiện nhiễm HIV, bao gồm thông tin 
phục vụ cho việc điều trị lạm dụng chất gây 
nghiện, sức khỏe tâm thần, chăm sóc y tế, thu 
nhập và các mối quan tâm tài chính khác cho 
khách hàng.
Chương 7 xem xét các vấn đề tư vấn, bao gồm 
đào tạo và thái độ của nhân viên, việc sàng lọc, 
và các vấn đề cụ thể cho khách hàng lạm dụng 
chất gây nghiện nhiễm HIV/AIDS.
Chương 8 tìm hiểu về vấn đề đạo đức.
Chương 9 thảo luận về vấn đề pháp lý và cung 
cấp thông tin cơ bản về pháp luật liên bang liên 
quan đến sự kỳ thị và vấn đề bảo mật.
Chương 10, phục vụ cho các nhà quản lý 
chương trình, trình bày thông tin về nguồn kinh 
phí và văn bản trợ cấp.
Với khối lượng thông tin sẵn có về HIV/AIDS, 
TIP này không được xác định sẽ trình bày một 
cách thấu đáo. Một mảng rộng các thông tin 
cung cấp cho những ai muốn tìm hiểu thêm về 
các chủ đề quan tâm. Phần phụ lục trong TIP 
này bổ sung thêm thông tin về nhiều chủ đề và 
gồm cả Hệ thống Phân loại HIV và AIDS Sửa 
đổi năm 1993, các quy tắc đạo đức theo Luật 
Liên bang và Nhà nước, các trang web về AIDS, 
và danh sách các cơ quan y tế thuộc quốc gia và 
vùng lãnh thổ và các đường dây nóng về AIDS.
Để tránh gây lúng túng và sự phân biệt giới 
tính, TIP này sẽ sử dụng xen kẽ giữa “anh” và 
“cô” trong các ví dụ chung chung.
Trong suốt TIP này, thuật ngữ “lạm dụng chất 
gây nghiện” được sử dụng bao gồm cả hai 
nghĩa là “lạm dụng chất gây nghiện” và “phụ 
thuộc vào chất gây nghiện” (theo định nghĩa 
của Sách 
Thống kê và chẩn đoán các bệnh lý rối loạn 
tâm thần, tái bản lần bốn [DSM-IV]. [Hiệp hội 
Tâm thần Mỹ , 1994]). Bởi vì thuật ngữ “lạm 
dụng chất gây nghiện” thường được các chuyên 
gia điều trị lạm dụng chất gây nghiện sử dụng 
để mô tả việc sử dụng quá mức các chất gây 
nghiện.
Thuật ngữ này liên quan đến việc lạm dụng 
rượu bia cũng như các chất gây nghiện khác. 
Độc giả nên xác định bối cảnh thuật ngữ này 
xuất hiện để xác định đúng phạm vi ý nghĩa 
của thuật ngữ. Tuy nhiên, trong hầu hết trường 
hợp, thuật ngữ đề cập đến tất cả các bệnh lý rối 
loạn lạm dụng chất gây nghiện như được mô tả 
trong DSM-IV.
Các khuyến nghị sau đây được sắp xếp theo 
chương. Các khuyến nghị dựa trên các tài liệu 
nghiên cứu hoặc pháp luật sẽ được đánh số 
(1); các khuyến nghị dựa trên kết quả lâm sàng 
được đánh số (2).
Tóm tắt các khuyến nghị
Điều Trị Y Tế
•	 Điều	trị	HIV/AIDS	là	một	việc	cực	kỳ	phức	
tạp. Quan trọng là đội ngũ chăm sóc y tế 
phải có kinh nghiệm điều trị cho các khách 
hàng lạm dụng chất gây nghiện vì kết hợp 
điều trị giữa lạm dụng chất gây nghiện và 
xx
HIV/AIDS đặt ra những thách thức đặc biệt. 
Việc kết hợp chăm sóc như vậy là lựa chọn 
tốt nhất, và đối với các nhân viên y tế làm 
việc tại các trung tâm điều trị lạm dụng chất 
gây nghiện phải có kinh nghiệm từ trước 
trong việc điều trị cho các bệnh nhân nhiễm 
HIV/AIDS. (2)
•	 Nhân	 viên	 chính	 chăm	 sóc	 bệnh	 nhân	 rối	
loạn lạm dụng chất gây nghiện nhiễm HIV 
nên hiểu và đáp ứng những nhu cầu của bệnh 
nhân, khả năng tái phát, và sự đa dạng văn 
hóa. Các mô hình chăm sóc chính được xem 
là một phần của chương trình điều trị lạm 
dụng chất gây nghiện cần được xác định là 
có thể sửa đổi và mở rộng như thế nào nhằm 
đáp ứng nhu cầu đặc biệt của các bệnh nhân 
rối loạn lạm dụng chất gây nghiện nhiễm 
HIV. (2)
•	 Tuân	thủ	điều	trị	ARV	có	nghĩa	là	bệnh	nhân	
phải tuân theo một chế độ điều trị theo quy 
định và thường là phức tạp. Việc tuân thủ 
điều trị nên được duy trì, nếu không có thể 
dẫn đến triệu chứng kháng thuốc. (1)
•	 Một	cách	để	khuyến	khích	tuân	thủ	điều	trị	
là giáo dục cho bệnh nhân và những người 
quan trọng với họ về điều trị HIV/AIDS. (2)
•	 Tốt	nhất	 là	tất	cả	các	chương	trình	điều	trị	
nên có khả năng tiến hành đánh giá nguy cơ 
nhiễm HIV và thực hiện những giáo dục và 
tư vấn cơ bản về HIV/ AIDS cho bệnh nhân. 
Ngoài ra, tất cả các chương trình cần cung 
cấp dịch vụ xét nghiệm HIV và tư vấn trước 
khi và sau khi xét nghiệm. Còn nếu chương 
trình không thể cung cấp được các dịch vụ 
kể trên thì nên liên kết với các trung tâm có 
khả năng thực hiện. Khi bệnh nhân được gửi 
từ các chương trình điều trị lạm dụng chất 
gây nghiện sang chăm sóc y tế chính thì phải 
có hệ thống thông tin rõ ràng nhằm đảm bảo 
rằng các cuộc hẹn được lưu giữ, thông tin về 
chăm sóc y tế của khách hàng được gửi lại 
cho chương trình, và hệ thống thông tin phải 
phù hợp với yêu cầu bảo mật của Liên bang 
và Nhà Nước. (2)
•	 Tốt	nhất	là	việc	chăm	sóc	chính	cần	nên	kết	
hợp nhân lực từ các ngành khác nhau, bao 
gồm các nhân viên xã hội, bác sĩ, bác sĩ đang 
trong quá trình đào tạo, y tá, và nhân viên tư 
vấn có cả các nhân viên điều trị. Nên có một 
người quản lý chung nhằm liên kết các nhân 
viên điều trị với nhau. Các mô hình chăm sóc 
hiện tại cần được đánh giá và xác định có thể 
sửa đổi và mở rộng như thế nào nhằm đáp 
ứng nhu cầu đặc biệt của các bệnh nhân rối 
loạn lạm dụng chất gây nghiện nhiễm HIV. 
(2)
•	 Xét	nghiệm	HIV	là	một	bước	đầu	tiên	quan	
trọng trong việc xác định điều trị các bệnh 
nhân lạm dụng chất gây nghiện nhiễm HIV. 
Điều này có thể giúp đánh giá mức độ nguy 
hiểm của HIV. Khả năng nhiễm HIV của 
bệnh nhân có thể được xác định bằng cách 
sau: nếu khách hàng đã từng có các hành 
vi gây nguy hiểm, nếu khách hàng đã từng 
có bệnh lây qua đường tình dục (STD), nếu 
khách hàng từng dùng chung dụng cụ tiêm 
chích; hoặc nếu khách hàng biểu hiện bất kì 
triệu chứng nào được xác định là mới nhiễm 
HIV hoặc đã nhiễm từ rất sớm. (2)
•	 Chăm	sóc	y	tế	cho	bệnh	nhân	nhiễm	HIV	sẽ	
khác nhau, tùy thuộc vào giai đoạn của bệnh, 
nhưng tất cả bệnh nhân đều được đánh giá 
và theo dõi. Đánh giá các hành vi liên quan 
với việc lây nhiễm HIV là một phần quan 
trọng cho việc đánh giá ban đầu. (2)
•	 Một	lịch	sử	điều	trị	triệt	để	là	một	mốc	quan	
trọng để từ đó các bác sĩ tiến hành đánh giá 
lâm sàng và xây dựng kế hoạch điều trị. Mặc 
dù HIV/AIDS và các biến chứng của nó ảnh 
hưởng đến mọi cơ quan thì việc điều trị vật 
lí cho các bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS nói 
chung nên tập trung vào da, mắt, miệng, cơ 
quan sinh dục, hệ thần kinh, hệ thống bạch 
huyết, trọng lượng bệnh nhân và thân nhiệt. 
Nắm rõ tình trạng miễn dịch của bệnh nhân 
sẽ giúp bác sĩ tập trung điều trị vào các khu 
vực khác trên cơ thể. (2)
•	 Trước	 khi	 bắt	 đầu	 việc	 điều	 trị	 kháng	
retrovirus trên bất kì bệnh nhân nào, nên 
thực hiện trước các nghiên cứu trong phòng 
thí nghiệm, bao gồm HIV axit ribonucleic 
xxi
(RNA) (hoặc vi rút), lượng tế bào CD4 + 
T, số lượng máu, các phản ứng hóa học sàng 
lọc, giang mai, bệnh toxoplasma, dẫn xuất 
protein tinh chế (PPD), vi rút viêm gan A, B, 
C, và chụp X quang ngực. (2)
•	 Quyết	định	bắt	đầu	điều	trị	kháng	retrovirus	
ở bệnh nhân không có triệu chứng bị bệnh 
thường khó khăn và phải viếng thăm bệnh 
nhân nhiều để xem xét lựa chọn điều trị. Các 
yếu tố phải được xem xét cho việc bắt đầu 
điều trị bao gồm mức độ sẵn sàng điều trị 
của bệnh nhân, mức độ suy giảm miễn dịch, 
nguy cơ tiến triển bệnh được xác định bởi 
RNA của HIV trong huyết tương, những rủi 
ro của tác dụng phụ, điều trị liên tục của các 
điều kiện y tế khác, và những nhân tố gây 
khó khăn trong việc điều trị như không có 
bảo hiểm và nhà ở không ổn định. (2)
•	 Tiêu	chí	để	thay	đổi	điều	trị	bao	gồm
o Giảm tối ưu ban đầu trong mức RNA 
của HIV
o Việc tái xuất hiện của vi rút trong máu 
sau khi đã điều trị khỏi
o Liên tục giảm dần lượng tế bào CD4 + T
o Dấu hiệu phát sinh tác dụng phụ
•	 Bệnh	nhân	không	có	khả	năng	tuân	thủ	phác	
đồ điều trị. (Trong mọi trường hợp, các bác 
sĩ phải xác định xem có phải thất bại trong 
việc điều trị là do việc không tuân thủ nghiêm 
ngặt theo phương pháp hay không) [vì độc 
tính hay là không quan tâm bệnh nhân], thay 
đổi trong việc hấp thụ hoặc trao đổi chất đối 
với một hay nhiều loại thuốc, hoặc kháng vi 
rút cho một hoặc nhiều tác nhân. Khi việc 
quyết định thay đổi điều trị dựa trên RNA 
của HIV thì cần phải tiến hành kiểm tra lần 
hai về lượng vi rút trong cơ thể trước khi đưa 
ra quyết định). (1)
•	 Nói	chung	là	nên	đổi	mọi	lọai	thuốc	đã	từng	
kết hợp để điều trị mà không thành công 
ngoại trừ các trường hợp khi lượng vi-rút 
trong cơ thể không thể phát hiện được hay 
có tác dụng phụ do một loại thuốc chuyên 
trị. Trong một số trường hợp mà lượng vi-rút 
trong cơ thể chưa được loại bỏ hoàn toàn thì 
tốt nhất là nên tiếp tục với phương pháp điều 
trị hiện tại nếu như phương pháp đó phần 
nào có tác dụng và bệnh nhân điều trị không 
có nhiều lựa chọn.(1)
•	 Việc	 điều	 trị	 dứt	 được	 những	 cơn	 đau	 cấp	
tính và mãn tính ở bệnh nhân rối loạn do 
lạm dụng chất gây nghiện nhiễm HIV là một 
vấn đề lâm sàng nan giải. Mục đích điều trị, 
cũng giống như các bệnh nhân đang trong 
cơn đau, là làm sao để tối giảm đau tối đa 
và giảm đến mức tối thiểu các tác dụng phụ. 
Các phương pháp điều trị phổ thông (nằm 
nghỉ, làm nóng, chườm đá, xoa bóp bằng tay 
để giảm đau) khuyến khích dùng như là việc 
làm đầu tiên để trị cơn đau. Nếu những biện 
pháp này không làm giảm đau, thì cần phải 
có phương pháp hệ thống hơn. Những loại 
thuốc giảm đau được chứng minh không đủ 
để giảm đau, thuốc giảm đau gây mê có thể 
dùng trong trường hợp cần thiết. (1)
•	 Kế	hoạch	điều	trị	và	những	cơ	sở	lý	do	cho	
việc dùng chất gây mê để kiểm soát cơn đau 
phải rõ ràng với cả người điều trị và bệnh 
nhân. Điều quan trọng là không chỉ bệnh 
nhân sẽ biết rằng anh ta đang được chăm 
sóc cẩn thận mà còn là phương pháp điều trị 
sử dụng chất gây mê sẽ không được vượt quá 
giới hạn thời gian cần thiết dành cho phương 
pháp đó. Các chuyên gia điều trị cơn đau 
nên được tư vấn nhằm xem xét các phương 
pháp giảm đau thay thế. Vì các bệnh nhân 
nhiễm HIV/AIDS thường biểu hiện những 
cơn đau giống như các bệnh nhân ung thư 
nên phương pháp “bảng điều trị giảm đau 
ung thư dạng hình bậc thang” của Tổ chức Y 
tế Thế giới (WHO ) sẽ hữu dụng trong bước 
đầu điều trị giúp các bệnh nhân nhiễm HIV 
giảm cơn đau.(1)
•	 Thiết	lập	giới	hạn	rõ	ràng	và	đặt	ra	một	kế	
hoạch điều trị phù hợp có thể giúp giảm 
nguy cơ lạm dụng thuốc của bệnh nhân. 
Khuyến khích sử dụng các phương pháp sau: 
chỉ định những nơi điều trị lập ra những đơn 
thuốc cho các loại thuốc được kiểm soát, và 
phát thuốc với số lượng trong một khoảng 
xxii
thời gian nhất định (chẳng hạn như 1 tuần 
hay ít hơn), và thông báo cho các bệnh nhân 
biết rằng thuốc được cấp khi bị mất hay bị 
đánh cắp sẽ không được thay thế bằng thuốc 
mới. (2) 
•	 Những	 bệnh	 nhân	 có	 triệu	 chứng	 nhiễm	
AIDS buộc điều trị giảm đau thường xuyên 
bằng phương pháp dùng chất gây mê và cũng 
có thể có đường dẫn thuốc vào bên trong 
cơ thể thông qua tĩnh mạch để tiêm thuốc. 
Những người tiêm chích ma túy rất có nguy 
cơ sẽ dùng đường dẫn thông qua tĩnh mạch 
này nhằm tiêm chích heroin, cocaine và các 
loại thuốc khác. Do đó việc chăm sóc bệnh 
nhân ở những khu dân cư phải được theo dõi 
và hỗ trợ đầy đủ. (2)
•	 Cần	 có	 những	 nỗ	 lực	 liên	 tục	 để	 giáo	 dục	
bệnh nhân về tầm quan trọng của xét nghiệm 
lâm sàng và xóa bỏ mối nghi ngờ cố hữu của 
họ về ngành y tế. Những nỗ lực cụ thể cần 
được thực hiện để đưa nhiều khách hàng lạm 
dụng chất gây nghiện đến với xét nghiệm 
HIV hơn, bao gồm cả phụ nữ và đồng bào 
các dân tộc thiểu số. Nguy cơ của những 
nhóm này hiện nay không được đánh giá 
đúng mức. Nhằm tránh xung đột về lợi ích, 
các y bác sĩ phụ trách xét nghiệm lâm sàng 
và nhóm điều trị chính cho bệnh nhân cần 
phải độc lập hoàn toàn hoặc khác biệt nhau 
đến mức có thể. (2)
•	 Nhóm	 điều	 trị	 phải	 lưu	 ý	 rằng	 bệnh	 nhân	
HIV có thể được sử dụng các liệu pháp thay 
thế hoặc bổ sung; ví dụ như châm cứu, thiền, 
và chế độ ăn uống bổ sung vitamin và thảo 
dược. Tuy nhiên, bệnh nhân không cần phải 
từ bỏ một liệu pháp điều trị nào trừ phi điều 
đó gây ra tác hại. Các bác sĩ có trách nhiệm 
tìm ra liệu pháp thay thế hoặc không chính 
thống nào đang được bệnh nhân sử dụng 
bằng cách thức khách quan, và sau đó thu 
thập càng nhiều thông tin càng tốt về những 
liệu pháp này. Bác sĩ cần tìm hỏi cụ thể về 
việc sử dụng kháng sinh không có giám sát, 
bởi việc này có thể phức tạp hóa việc chẩn 
đoán và điều trị các bệnh nhiễm trùng do vi 
khuẩn cho khách hàng lạm dụng chất gây 
nghiện nhiễm HIV. (1)
•	 Hội	 đồng	 Thuận	 ủng	 hộ	 khuyến	 cáo	 của	
CDC rằng nhiễm HIV được coi là biểu hiệu 
của việc chủng ngừa khuẩn cầu phổi vì nguy 
cơ mắc bệnh viêm phổi do khuẩn cầu phổi 
của bệnh nhân HIV ngày càng tăng lên đáng 
kể. Hiệu quả của vắc-xin này trong giai đoạn 
hệ miễn dịch đã suy giảm nặng vẫn còn được 
xem xét nhưng nếu được thực hiện trong thời 
kỳ đầu của căn bệnh HIV, nó có thể giúp 
duy trì hệ miễn dịch ổn định. Cần phải cân 
nhắc cả việc tiêm ngừa cúm H loại B vì đối 
với bệnh nhân HIV, đặc biệt là những người 
tiêm chích ma túy, thì nguy cơ nhiễm cúm 
H càng cao. Vắc-xin ngừa viêm gan A cũng 
cần được dùng đến khi cần thiết vì hầu hết 
những người tiêm chích ma túy đều dương 
tính với viêm gan C và CDC khuyên dùng 
vắc-xin ngừa viêm gan A cho tất cả các cá thể 
dương tính với viêm gan C. (1)
•	 Những	 nhân	 viên	 điều	 trị	 chính	 nên	 biết	
rằng, nhìn chung, khả năng mắc các chứng 
rối loạn phụ khoa ở những phụ nữ lạm dụng 
chất gây nghiện thường cao hơn đối với 
những phụ nữ khác. Một số rối loạn như 
các bệnh lây qua đường tình dục (STDs) 
là hậu quả gián tiếp của việc lạm dụng chất 
gây nghiện, trong khi những rối loạn khác có 
thể do các yếu tố về lối sống mà ảnh hưởng 
đến tình trạng sức khỏe chung của phụ nữ, 
chẳng hạn như không chăm sóc y tế thường 
xuyên. (1)
•	 Người	 điều	 trị	 cần	 biết	 về	 nhu	 cầu	 dinh	
dưỡng đặc biệt của người lạm dụng chất gây 
nghiện nhiễm HIV. Họ cần thông thạo các 
hướng dẫn về bổ sung dinh dưỡng và có biện 
pháp can thiệp để xác định nguyên nhân gây 
hạn chế tiêu hóa. (2)
Điều Trị Sức Khỏe Tâm Thần
•	 Cá	 nhân	 có	 những	 rối	 loạn	 do	 lạm	 dụng	
chất gây nghiện có tỷ lệ bị rối loạn tâm thần 
cao hơn những người khác cho dù họ có bị 
nhiễm HIV hay không. Tư vấn viên làm việc 
với người lạm dụng chất gây nghiện nhiễm 
HIV cần biết rõ về sự đa dạng của các biểu 
xxiii
hiện tâm thần do HIV hoặc chất gây nghiện 
mang lại. Quan trọng không kém là việc 
phân biệt các triệu chứng tâm thần là do chất 
gây nghiện hay do HIV/AIDS, do các dược 
phẩm điều trị HIV/AIDS, hoặc do các rối 
loạn tâm thần từ trước gây ra. (1)
•	 Các	chương	 trình	điều	 trị	 không	có	nguồn	
lực để đánh giá và điều trị hợp lý các bệnh về 
tâm thần cần phải liên kết chặt chẽ với các 
tổ chức chăm sóc sức khỏe tâm thần để có 
thể chuyển giao bệnh nhân. Các đường dây 
thông tin liên lạc mở sẽ cho phép nhân sự 
trong cả hai địa điểm được biết về chương 
trình điều trị của khách hàng. Nhân viên 
điều trị cần phải duy trì liên lạc với khách 
hàng và duy trì việc điều trị trong và sau khi 
điều trị tâm thần cho họ. (2)
•	 Việc	liên	lạc	giữa	cán	bộ	y	tế	và	tư	vấn	viên	
rất quan trọng nhằm để đảm bảo bệnh nhân 
bị suy giảm nhận thức không bị cho là gian 
dối hay lường gạt. Người chăm sóc luôn phải 
ghi nhớ là việc không hợp tác điều trị của 
một khách hàng bị suy giảm nhận thức có 
thể là hậu quả của sự suy giảm nhận thức đó, 
chứ không phải do họ từ chối, chống cự hay 
miễn cưỡng chấp nhận sự chăm sóc. (2)
•	 Điều	tối	quan	trọng	là	cần	đặt	ra	những	mục	
tiêu điều trị thực tế, phù hợp với năng lực 
hoạt động của khách hàng. (2)
•	 Can	thiệp	điều	trị	cần	phù	hợp	với	nền	văn	
hóa và sắc tộc của khách hàng. Bất cứ khi 
nào có thể, người trị liệu và các trưởng nhóm 
hỗ trợ cần chia sẻ về nền văn hóa của khách 
hàng và nên nói cùng ngôn ngữ. Sự tương 
đồng văn hóa giữa người trị liệu và bệnh 
nhân là rất quan trọng trong việc tạo ra 
niềm tin khi đề cập đến những vấn đề nhạy 
cảm như hỗ trợ từ phía gia đình hay các tập 
tục của dân tộc họ. (2)
•	 Đánh	giá	 và	chẩn	đoán	các	bệnh	 tâm	 thần	
cho người lạm dụng chất gây nghiện nhiễm 
HIV là một thử thách khó khăn do các vấn đề 
phức tạp của bệnh nhân. Bởi vậy việc đánh 
giá thái độ của bệnh nhân trong từng hoàn 
cảnh là rất quan trọng (ví dụ: trầm cảm cấp 
tính thường phổ biến đối với những người 
vừa biết mình dương tính với HIV). (1)
•	 Với	 những	 nghiên	 cứu	 cụ	 thể,	 các	 phương	
pháp tiếp cận tiêu chuẩn về dược lý có thể 
được áp dụng để điều trị rối loạn tâm thần 
cho người lạm dụng chất gây nghiện nhiễm 
HIV. Đánh giá kết quả chẩn đoán y khoa và 
tâm thần luôn phải được thực hiện trước khi 
cung cấp thuốc, không có ngoại lệ. (1)
•	 Khi	 kê	 thuốc	 cho	 người	 lạm	 dụng	 chất	
gây nghiện nhiễm HIV, bác sĩ cần sử dụng 
phương pháp tăng dần mức độ và loại thuốc 
từ từ, từng bước một. Ban đầu nên sử dụng 
các loại thuốc nhẹ và ít có khả năng bị lạm 
dụng, với liều lượng thấp. Nếu cách trên 
không hiệu quả mới phải tăng liều hoặc sử 
dụng các loại thuốc ít an toàn hơn. (1)
•	 Với	 liệu	 pháp	 điều	 trị	 kháng	 retrovirus	 tác	
động mạnh (HAART), bác sĩ phải biết rõ 
những tương tác thuốc tiềm ẩn có thể tăng 
độc tính hoặc giảm nồng độ của thuốc trong 
máu bệnh nhân, dẫn đến kết quả điều trị tối 
ưu và tăng sức đề kháng. Nhân viên tư vấn 
sức khỏe tâm thần phải hiểu biết về những 
triệu chứng cho thấy khách hàng có thể đang 
trải qua một sự tương tác thuốc. (1)
•	 Những	 người	 nhiễm	HIV	 có	 thể	mẫn	 cảm	
hơn với thuốc kê toa cũng như với các chất 
gây nghiện họ đang lạm dụng. Khi kê thuốc, 
các bác sĩ nên cố gắng sử dụng liều thấp nhất 
có hiệu quả để giảm thiểu tác dụng phụ. Với 
khách hàng có triệu chứng AIDS, nên bắt 
đầu với liều rất thấp, tương tự như liều dành 
cho bệnh nhân lão khoa. (1)
•	 Người	lạm	dụng	chất	gây	nghiện	có	nguy	cơ	
tự tử cao. Người nhiễm HIV cũng vậy, nhất là 
khi họ đang trải qua tâm trạng bất ổn. Thuốc 
nên được phân phát với liều lượng nhỏ cho 
đến khi đánh giá được hoàn toàn mức độ tự 
trách nhiệm của người bệnh. Người kê thuốc 
cần biết rằng một số loại thuốc như thuốc 
chống trầm cảm ba vòng (TCAs) (chẳng hạn 
như amitriptyline [Elavil]) có khả năng gây 
tử vong cao nếu sử dụng quá liều. (2)
•	 Tư	vấn	 là	một	phần	quan	 trọng	 trong	điều	
xxiv
trị cho người lạm dụng chất gây nghiện, bao 
gồm cả những người có các chứng rối loạn 
tâm thần. Mục đích của việc tư vấn là để giúp 
người lạm dụng chất gây nghiện nhiễm HIV 
duy trì sức khỏe, chấm dứt việc lạm dụng 
chất gây nghiện, và đạt được mức độ hoạt 
động thần kinh tốt nhất có thể. (2)
•	 Nếu	một	bệnh	nhân	không	muốn	tự	sát	ngay,	
mà muốn nói chuyện về việc tự sát, tư vấn 
viên nên tỏ ra quan tâm, cho phép họ nói về 
cảm giác của mình, đánh giá mức độ nghiêm 
trọng của ý muốn tự sát và hỗ trợ khi cần 
thiết. Các nhân viên tư vấn không nên xem 
nhẹ cảm giác của bệnh nhân vì trò chuyện 
cởi mở về việc tự sát giúp giảm được sự cô 
lập, nỗi sợ và căng thẳng. (2)
•	 Nhóm	hỗ	trợ	giúp	đáp	ứng	một	loạt	các	nhu	
cầu. Các chương trình điều trị lạm dụng 
chất gây nghiện nên tích cực mang bệnh 
nhân đến với các nhóm hỗ trợ bên ngoài 
thích hợp nơi mà nhu cầu của họ có thể 
được đáp ứng. (2)
Phòng Ngừa HIV Chính Cấp Và 
Thứ Cấp
•	 Đối	với	bệnh	nhân	nhiễm	HIV	trong	quá	trình	
điều trị do lạm dụng chất gây nghiện thì phải 
có một phương pháp toàn diện cho điều trị 
bao gồm 3 mục tiêu ba mục tiêu: giúp chủ thể 
sống đang được điều trị tự do và trong tình 
trạng tỉnh táo, làm chậm lại hoặc chặn đứng 
sự tiến triển của HIV/AIDS, và giảm hành vi 
gây ra nguy cơ lây nhiễm HIV. (2)
•	 Có	khá	nhiều	phương	 thức	nhằm	đánh	giá	
nguy cơ gây lây nhiễm HIV cho người khác 
và thông qua đào tạo và hiểu biết căn bản thì 
có thể được đưa vào ứng dụng. Muc tiêu của 
các phương thức đánh giá này nhằm giúp 
đánh giá hành vi có khả năng làm bệnh nhân 
có nguy cơ lây nhiễm HIV. (2)
•	 Việc	quan	trọng	là	phải	có	được	lịch	sử	đầy	
đủ về đời sống tình dục của bệnh nhân và 
nên được thực hiện sớm trong quá trình tư 
vấn, mặc dù là không cần thiết trong thời kì 
điều trị đầu tiên. Bệnh nhân phải được cam 
đoan về tính bảo mật thông tin mà họ cung 
cấp.(2)
•	 Tư	vấn	viên	nên	giúp	bệnh	nhân	nhận	thức	
được đầy đủ các hành vi nguy cơ tiềm ẩn 
trong việc họ đã từng có những hành động 
bao gồm cả việc dùng chung ống tiêm và 
quan hệ tình dục không an toàn. Việc tư vấn 
cũng cần phải tính đến trường hợp giúp nhận 
thức cho các bệnh nhân có xu hướng tình 
dục đa dạng bao gồm cả những bệnh nhân 
đồng tính, lưỡng tính, tình dục khác giới, và 
chuyển đổi giới tính. Việc sử dụng bao cao 
su sử dụng và thực hành tình dục an toàn là 
phần chính của phươgn thức đánh giá. Tư 
vấn viên cần phải biết những gì bệnh nhân 
tin về HIV/AIDS, bao gồm bất kỳ thông tin 
bệnh nhân nhận được từ các chuyên gia điều 
trị khác.
•	 Để	 giúp	 giảm	 hành	 vi	 gây	 ran	 guy	 cơ	 lây	
nhiễm HIV cho các bệnh nhân, các tư vấn 
viên chuyên về rượu và ma túy nên giúp bệnh 
nhân hiểu được sự cần thiết phải thay đổi, 
tạo những hỗ trợ về mặt tâm lý cho bệnh 
nhân nhằm giúp họ thay đổi trong hành vi 
của mình, và hỗ trợ bệnh nhân trong việc 
phát triển các kỹ năng phù hợp để duy trì sự 
thay đổi hành vi đó. (2)
•	 Những	thảo	luận	xung	quanh	vấn	đề	hành	vi	
tạo ra nguy cơ lây nhiễm nên được sử dụng 
bằng ngôn ngữ thích hợp với văn hóa, rõ 
ràng và dễ hiểu. (2)
•	 Chương	trình	giúp	giảm	nguy	cơ	lây	nhiễm	
HIVqua đường tình dục nên được kết hợp 
với chương trình điều trị bệnh nhân lạm 
dụng chất gây nghiện. Chương trình này sẽ 
cung cấp cho bệnh nhân những kiến thức, 
thông tin cơ bản về quan hệ tình dục an toàn, 
cũng như giúp bệnh nhân nắm được những 
cách thức, sự lựa chọn khác trong quan hệ 
tình dục mà chính các bệnh nhân là người 
làm chủ về vấn đề đó. (2)
•	 Chương	trình	giảm	nguy	cơ	lây	nhiễm	HIV	
mang tên IDU (tính ưu việt theo hình bậc 
thang từ trên xuống) là sự lựa chọn tốt nhất, 
ví dụ như là cai triệt để là cách tốt nhất, thứ 
xxv
hai là không sử dung ống tiêm, thứ ba là 
không dùng chung kim tiêm, và thứ tư là chỉ 
sử dụng bơm kim tiêm sạch và cứ thế ta sẽ 
lần lượt có các cách tiếp theo. (2)
•	 Luật	Liên	bang	hiện	nay	cấm	sử	dụng	Quỹ	
Liên bang vào việc thực hiện chương trình 
trao đổi ống tiêm. (1)
•	 Đại	 dịch	 AIDS	 gây	 ra	 một	 số	 thách	 thức	
trong chính sách kiểm soát lây nhiễm và gây 
khó khăn trong việc tiến hành các chương 
trình điều trị lạm dụng chất gây nghiện. Các 
chương trình điều trị nên áp dụng các biện 
pháp ngăn ngừa phổ quát trong các bệnh 
viện và các cơ sở y tế khác. (1)
•	 Cách	tốt	nhất	nhằm	giảm	nguy	cơ	lây	nhiễm	
HIV trong quá trình điều trị cho bệnh nhân 
là tránh tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân. Tuy 
nhiên, trong trường hợp phải tiếp xúc trực 
tiếp với bệnh nhân thì chương trình điều trị 
lạm dụng chất gây nghiên phải thực hiện 
theo khuyến cáo của CDC về việc dự phòng 
sau khi tiếp xúc. (2)
•	 Lúc	 nào	 cũng	 phải	 có	 khâu	 xét	 nghiệm	
HIV lấy kết quả nhanh. Kết quả của các xét 
nghiệm này sẽ quyết định khi nào và bằng 
cách nào thì nên tư vấn phòng chống HIV 
cho đối tượng được xét nghiệm. Tư vấn viên 
phải hiểu những khía cạnh kỹ thuật của các 
xét nghiệm sàng lọc, cũng như làm thế nào 
để đánh giá rủi ro của từng bệnh nhân bị 
nhiễm bệnh. Kết quả nhanh này vẫn còn phải 
được xác thực một lần nữa bởi một một cuộc 
xét nghiệm bổ sung (có thể là phương pháp 
Western blot hoặc phương pháp xét nghiệm 
miễn dịch huỳnh quang). (2)
Dịch Vụ Điều Trị Kết Hợp
•	 Quá	 trình	 điều	 trị	 nghiện	ma	 túy	 và	HIV/
AIDS nên giúp cho bênh nhân hiểu rằng hai 
quá trình điều trị trên có mối quan hệ với 
nhau và các chương trình điều trị phải phối 
hợp lẫn nhau càng nhiều càng tốt để tối đa 
hóa sự chăm sóc cho bệnh nhân nhiễm HIV/
AIDS và cả bệnh nhân điều trị các rối loạn 
do lạm dụng chất gây nghiện.
•	 Các	 tư	 vấn	 viên	 về	 điều	 trị	 lạm	 dụng	 chất	
gây nghiện và nhóm điều trị cho bệnh nhân 
nhiễm HIV/ AIDS nên liên tục phát triển kĩ 
năng trong việc xây dựng và duy trì kế hoạch 
chữa bệnh nhằm hỗ trợ cho cả hai loại bệnh 
nhân kể trên. (2)
•	 Bất	kỳ	nỗ	 lực	nào	nhằm	để	phát	 triển	 việc	
kết hợp điều trị lạm dụng chất gây nghiện 
và điều trị HIV/AIDS, trong một cơ quan 
duy nhất hay thông qua kế hoạch chăm sóc 
cá nhân, thì cần phải chú ý những điều sau: 
có một mô hình quản lý ca bệnh tốt bao gồm 
các dịch vụ xã hội và xem các dịch vụ đó như 
là một phần cốt lõi của kế hoạch điều trị , 
đào tạo cho tất cả các nhóm điều trị theo yêu 
cầu của trung tâm điều trị khác và tạo điều 
kiện dễ dàng cho các trung tâm trên có được 
giấy phép điều trị. (2)
•	 Nhiều	bệnh	nhân	lạm	dụng	chất	gây	nghiện	
nhiễm HIV không thể giảm và ngừng hẳn 
việc sử dụng chất gây nghiện. Trong quá 
trình điều trị cho các bệnh nhân vẫn tiếp tục 
sử dụng chất ma túy, chương trình điều trị 
phải tìm một sự cân bằng giữa các phương 
pháp theo định hướng kiêng cử giúp bệnh 
nhân phải lập tức ngừng sử dụng chất gây 
nghiện, hoặc phương pháp tiếp cận y tế theo 
định hướng công cộng trong trường hợp 
khuyến khích bệnh nhân không thể ngừng 
ngang việc sử dụng ma túy sang giảm dần 
một cách từ từ. (2)
•	 Các	tư	vấn	viên	tư	vấn	cho	người	lạm	dụng	
chất gây nghiện và dương tính với HIV nên 
phổ biến cho họ các tổ chức dịch vụ phòng 
chống AIDS ở địa phương (ASOS) và các 
dịch vụ điều trị lạm dụng chất gây nghiện.
•	 Khi	 thiết	 lập	một	mạng	 lưới	điều	phối	điều	
trị, nhóm điều trị trên phải xem xét vấn đề về 
bảo mật. Nhà cung cấp phải nắm rõ những 
đạo luật, chuẩn mực đạo đức của Nhà nước 
và liên bang, các cơ quan và những chính 
sách cộng đồng và các thoả thuận. Các nhóm 
điều trị cần phải hiểu sự khác biệt giữa “đồng 
ý”và “thông báo chấp thuận.” (2)
xxvi
Tiếp Cận Và Đáp Ứng Các Dịch Vụ 
Có Nhu Cầu
•	 Một	phương	pháp	quản	lý	ca	bệnh	ghi	nhận	
rằng nếu một cá nhân đang lạm dụng chất 
gây nghiện khi được thỏa mãn về các nhu 
cầu cơ bản như y tế nói chung và phương 
tiện ăn ở đầy đủ thì sẽ làm cho cá nhân đó 
giảm khả năng tiếp cận phương pháp điều trị 
có hệ thống. (2)
•	 Hội	 đồng	 khuyến	 cáo	 dùng	 sự	 quản	 lý	 ca	
bệnh để đối phó với nhiều vấn đề gây ra bởi 
HIV/AIDS kết hợp với lạm dụng chất gây 
nghiện. Việc quản lý như vậy sẽ khuyến khích 
tinh thần làm việc theo nhóm giữa các nhóm 
điều trị khác nhau. Ví dụ như nếu giữa các 
nhóm điều trị chính cấp, nhóm quản lý ca 
bệnh nhiễm AIDS, nhóm điều trị tâm thần, 
và nhóm điều trị lạm dụng chất gây nghiện 
có sự liên kết với nhau sẽ mang lại lợi ích cho 
bệnh nhân và góp phần cải thiện chất lượng 
điều trị. (1)
•	 Nhằm	để	 thực	 hiện	 liên	 kết	 đa	 ngành	 như	
cần phải tuân theo một số thủ tục sau: xác 
định ai là nhóm điều trị quan trọng nhất 
trong hệ thống dịch vụ của bệnh nhân, xác 
định bản chất của nhóm (tức là cố định hoặc 
đặc biệt); thảo luận về những kỳ vọng, các 
quy tắc, và cấu trúc của nhóm, thiết lập mối 
liên kết chính thức với các cơ quan khác để 
giúp xây dựng nhóm, nếu có hơn một vài 
nhà quản lý ca bệnh thì phải chỉ định người 
đứng đầu; và phải giữa bí mật tuyệt đối cho 
bệnh nhân.
•	 Để	tăng	cường	hiệu	quả	làm	việc	theo	nhóm,	
các nhóm đa ngành cần định kỳ đánh giá để 
xác định xem có bất kỳ mối quan tâm hoặc 
những nỗi thất vọng giữa các thành viên hay 
không. Cũng cần có một định kỳ đánh giá 
cho phép thành viên xem xét kỹ hơn những 
gì đang và không thực hiện được. (2)
•	 Đôi	 lúc	những	cá	nhân	 lạm	dụng	chất	 gây	
nghiện nhiễm HIV gặp phải khó khăn trong 
việc tìm kiếm và các dịch vụ cần được tài trợ 
cần thiết, thì lúc đó người quản lý sẽ đóng vai 
trò quan trọng trong việc giúp các cá nhân 
trên tìm các dịch vụ cụ thể và gợi ý nhiều 
lựa chọn cho việc tài trợ lẫn công cộng và 
tư nhân. Các nhân viên tư vấn nên nắm rõ 
những lựa chọn tài trợ cho các dịch vụ như 
điều trị lạm dụng chất gây nghiện, điều trị 
sức khỏe tâm thần, chăm sóc y tế và nha 
khoa, và điều trị HIV/ AIDS. (2)
•	 Tư	 vấn	 viên	 cần	 có	 kiến	 thức	 về	 các	 tiêu	
chuẩn đủ điều kiện, thời hạn dịch vụ, và sự 
hỗ trợ trong đất nước của họ cho các chương 
trình trợ giúp tài chính cơ bản, bao gồm cả 
phúc lợi xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, thu 
nhập người khuyết tật, tem phiếu thực phẩm, 
và dạy nghề phục hồi nhân phẩm. (2)
•	 Khi	gặp	phải	khó	khăn	tiềm	ẩn	trong	việc	tìm	
kiếm các nguồn dịch vụ cho bệnh nhân thì 
các nhà tư vấn nên khai thác các nguồn dịch 
vụ thay thế, chẳng hạn như bạn bè, những 
người khác có ý nghĩa trong cộng đồng, và 
cộng đồng; các lĩnh vực khác của Nhà nước; 
và giúp chuyển bệnh nhân đến khu vực có 
sẵn các dịch vụ cần được tài trợ.
Tư Vấn Khách Hàng
•	 Trước	 khi	 tiến	 hành	 bất	 kỳ	 kiểm	 tra,	 đánh	
giá, hoặc lập kế hoạch điều trị, tư vấn viên 
phải xem xét lại quan điểm cá nhân và kinh 
nghiệm làm việc với bệnh nhân lạm dụng chất 
gây nghiện nhiễm HIV. Đối với nhóm điều trị, 
việc đánh giá lại mức độ thoải mái với mỗi 
khách hàng là vô cùng quan trọng bởi vì mỗi 
khách hàng đều khác nhau về phương diện 
nền tảng văn hóa và nhân khẩu học. (2)
•	 Thành	viên	nhóm	điều	trị	phải	được	đào	tạo	
thích hợp về việc kiểm tra, đánh giá và tư vấn 
khách hàng. Quan trọng nhất là họ phải luôn 
trau dồi năng lực, đó là một quá trình liên 
tục. (2)
•	 Nhóm	điều	trị	phải	nhận	biết	và	liên	kết	với	
các chương trình, các tổ chức khác nhằm 
mang đến khách hàng sự chăm sóc tốt hơn. 
Ít nhất, dịch vụ khách hàng phải bao gồm 
những điều sau đây theo thứ tự ưu tiên: điều 
trị lạm dụng chất gây nghiện, chăm sóc y tế, 
nhà ở, chăm sóc sức khỏe tâm thần, chăm 
xxvii
sóc dinh dưỡng, chăm sóc nha khoa, dịch vụ 
phụ trợ, và hệ thống hỗ trợ. (2)
•	 Nhóm	điều	trị	phải	có	biện	pháp	đề	phòng	
khi thông báo cho khách hàng kết quả xét 
nghiệm HIV, cần tuân thủ các quy định để 
đảm bảo giữ bí mật khách hàng. (2)
•	 Nhóm	 điều	 trị	 và	 tư	 vấn	 cần	 xem	 xét	 hai	
nhân tố thiết yếu khi làm việc với những 
thành phần dân số khác nhau về mặt ngôn 
ngữ, văn hoá, chủng tộc hay tộc người: thứ 
nhất là địa vị kinh tế xã hội, thứ hai là mức 
độ giao thoa văn hóa của họ. Cần phân biệt 
tập hợp dân số khi được nhắc đến như một 
tổng thể với khi được nhắc đến như là một bộ 
phận riêng biệt trong tổng thể. (2)
•	 Nhóm	điều	trị	phải	phát	triển	hệ	thống	chăm	
sóc với sự am hiểu về các nền văn hóa. Một 
phần trong đó là làm cho hệ thống dịch vụ 
trở nên dễ tiếp cận và những người có nguy 
cơ mục tiêu có thể sử dụng ở mức độ cao. 
Hệ thống hiệu quả cũng sẽ nhận thức được 
tầm quan trọng của văn hóa, các mối quan 
hệ giao lưu văn hóa, khác biệt văn hóa, và 
khả năng đáp ứng nhu cầu riêng biệt về văn 
hóa. (2)
•	 Những	 khách	 hàng	 đang	 phải	 đối	mặt	 với	
tình trạng bệnh lý và thương tật ngày càng 
nặng cần một loạt các dịch vụ hỗ trợ. Việc tư 
vấn những khách hàng trong tình trạng nguy 
kịch cần mang tính động viên khích lệ, giải 
quyết các vấn đề liên quan đến bệnh tật của 
khách hàng cần được thực hiện với tốc độ 
tùy thuộc vào ý muốn của họ. (2)
•	 Nhóm	 điều	 trị	 cần	 nâng	 cao	 trình	 độ	 của	
mình khi tư vấn cho những khách hàng đang 
ở giai đoạn cuối của căn bệnh AIDS bằng 
cách nhìn nhận lại chính quan niệm của họ 
về cái chết và sắp chết. (2)
•	 Nhóm	điều	trị	cần	thảo	luận	với	khách	hàng	
về việc lựa chọn biện pháp chăm sóc cuối 
đời, chẳng hạn như việc thực hiện một ước 
nguyện khi còn sống, chọn lựa người được 
ủy nhiệm chăm sóc sức khỏe, vân vân, những 
việc này cần được thực hiện trước khi bệnh 
tình trở nên nguy kịch. (2)
•	 Nhằm	chuẩn	bị	cho	việc	mất	đi	cha	mẹ	của	
con họ, các khách hàng cần được hỗ trợ thực 
tế trong những lĩnh vực sau: quyền giám hộ 
hợp pháp, quyền giám hộ dự phòng, để lại 
gia sản cho những người còn sống, và xoa dịu 
cảm giác tội lỗi của những người ở lại. (2)
Các Vấn Đề Đạo Đức
•	 Do	 nhóm	 điều	 trị	 thường	 xuyên	 gặp	 phải	
những vấn đề mang tính cảm xúc khi làm 
việc với bệnh nhân lạm dụng chất gây nghiện, 
họ cần các công cụ để giải quyết những tình 
huống khó xử về mặt đạo đức một cách khách 
quan. Bằng cách đó, và bằng cách kiểm tra 
phản ứng của chính mình khi rơi vào hoàn 
cảnh thực tế, nhóm điều trị sẽ có thể tiến 
hành với các bước đúng đắn nhất.(2)
•	 Mọi	chương	 trình	điều	 trị	 cần	phải	có	một	
quy trình thống nhất khi xử lý các vấn đề liên 
quan đến đạo đức. Bởi lẽ chúng thường rất 
phức tạp, đến mức cần thiết phải có sự đánh 
giá riêng biệt cho từng trường hợp, thế nên 
tập quán của mỗi cơ sở cần bao gồm cả quy 
trình tiếp cận các vấn đề về đạo đức.(2)
Các Vấn Đề Pháp Lý
•	 Nhóm	điều	trị	bệnh	nhân	lạm	dụng	chất	gây	
nghiện sẽ có thể gặp phải sự kỳ thị đối với 
khách hàng của họ khi cố gắng kết nối đến 
các dịch vụ. Tư vấn viên nên biết rõ Luật pháp 
Liên bang và Nhà nước về bảo vệ người khuyết 
tật và cách thức áp dụng luật này cho người 
lạm dụng chất gây nghiện nhiễm HIV. (2)
•	 Mặc	dù	 luật	 pháp	Liên	 bang	 bảo	 vệ	 thông	
tin khách hàng điều trị lạm dụng chất gây 
nghiện và luật pháp Nhà nước bảo vệ thông 
tin liên quan đến HIV/AIDS, cả hai đều cho 
phép khách hàng được tiết lộ thông tin ở mức 
độ khác nhau. Vì vậy, khi nhân viên điều trị 
dự tính thực hiện việc công bố thông tin về 
một khách hàng đang điều trị lạm dụng chất 
gây nghiện bị nhiễm HIV/AIDS, thì cần phải 
xem xét hai bộ luật trên.
•	 Các	quy	 tắc	 về	 bảo	mật	 trong	điều	 trị	 lạm	
dụng chất gây nghiện đối với người nhiễm 
xxviii
HIV/AIDS rất cụ thể. Thông thường, sẽ 
không có hơn 2 điều khoản được áp dụng 
trong bất kỳ tình huống cụ thể nào. Trường 
hợp tiết lộ thông tin về việc điều trị lạm dụng 
chất gây nghiện phải theo lộ trình an toàn 
do luật pháp Liên bang quy định. Trường 
hợp tiết lộ thông tin về điều trị liên quan đến 
HIV/AIDS, lộ trình cần tuân thủ với quy 
định của cả hai bộ luật (Liên bang và Nhà 
nước). Khi có nghi vấn, cách tốt nhất là áp 
dụng điều luật quy định khắt khe hơn. (2)
•	 Bất	cứ	tư	vấn	viên	hay	chương	trình	nào	đang	
cân nhắc việc cảnh báo ai đó về tình trạng 
HIV/AIDS của một khách hàng mà không 
được sự đồng ý của khách hàng đó cần phân 
tích thận trọng rằng liệu trong thực tế, có hay 
không nghĩa vụ phải cảnh báo và liệu có thể 
thuyết phục khách hàng tự thực hiện việc này, 
hoặc đồng ý cho nhân viên của chương trình 
điều trị tiến hành việc này hay không. (2)
Cân Nhắc Về Chính Sách Và 
Kinh Phí
•	 Tối	 thiểu,	 các	 chương	 trình	 điều	 trị	 nhận	
được tài trợ khi điều trị cho phụ nữ cũng 
phải được cung cấp hoặc có chế độ đãi ngộ 
đối với những dịch vụ dành cho phụ nữ 
mang thai và có con, bao gồm cả những phụ 
nữ đang cố gắng giành lại quyền nuôi con: 
chăm sóc y tế ban đầu, chăm sóc trẻ em tiểu 
học (bao gồm cả chủng ngừa), chế độ điều 
trị chuyên biệt cho mỗi giới đối với người lạm 
dụng chất gây nghiện, can thiệp y tế đối với 
trẻ em thuộc quyền chăm sóc của người nữ 
đang điều trị, và quản lý đầy đủ từng ca cũng 
như việc di chuyển. (1)
•	 Những	 bang	 có	 tỷ	 lệ	 số	 ca	 nhiễm	 AIDS	
nhất định phải dành ít nhất 5% trong tổng 
Quỹ Phòng chống và Điều trị Lạm dụng 
Chất gây nghiện (SAPT) cho các dịch vụ 
can thiệp bước đầu về HIV/AIDS dành cho 
những người đang điều trị lạm dụng chất gây 
nghiện. Dịch vụ can thiệp bước đầu về HIV/
AIDS được định nghĩa là việc tư vấn tiền xét 
nghiệm, dịch vụ xét nghiệm, và tư vấn hậu 
xét nghiệm. Tất cả các chủ thể cung cấp dịch 
vụ can thiệp bước đầu về căn bệnh HIV cho 
một cá nhân nào đó phải tuân thủ các điều 
khoản về thanh toán và các hạn chế về kinh 
phí tài trợ. (1)
•	 Bất	cứ	tổ	chức	nào	được	hỗ	trợ	kinh	phí	từ	
quỹ SAPT dành cho dịch vụ điều trị người 
tiêm chích ma túy phải tích cực vận động 
người nghiện tham gia điều trị. Liên bang 
yêu cầu các tổ chức sử dụng những mô 
hình có cơ sở khoa học vững chắc, hoặc nếu 
không thì sử dụng những mô hình có sẵn để 
có phương thức tiếp cận hợp lý, có triển vọng 
tạo được hiệu quả. (1)
11 Giới thiệu về HIV/AIDS
Các trường hợp đầu tiên của hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải 
(AIDS) được báo cáo tại Hoa Kỳ vào mùa xuân năm 1981. Đến năm 1983 
vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV), vi rút gây bệnh AIDS, đã bị 
phân lập. Những năm đầu của đại dịch HIV/AIDS ở Mỹ, việc lạm dụng 
chất gây nghiện được xác định là nguyên nhân gây lây lan bệnh AIDS. Sử 
dụng ma túy qua đường tiêm chích (IDU) được xác định là con đường lây 
nhiễm HIV trực tiếp và lây truyền giữa những người tiêm chích ma túy. 
Nhóm lớn nhất các trường hợp nhiễm AIDS đầu tiên gồm những người 
đồng tính nam và người lưỡng tính (nam giới có quan hệ tình dục với nam 
giới (hoặc MSM). Các trường hợp nhiễm HIV đầu tiên do lây nhiễm qua 
đường quan hệ tình dục thường có liên quan đến việc sử dụng rượu và các 
chất gây nghiện khác, và đa số các trường hợp này xảy ra ở những người 
nam giới có quan hệ tình dục đồng giới. Đó là những người da trắng, sống 
ở thành thị và có giáo dục.
Hiện nay, số người tiêm chích ma túy đại diện cho tỉ lệ dân số lạm dụng 
chất gây nghiện nhiễm HIV lớn nhất tại Hoa Kỳ. Tỷ lệ người nhiễm HIV/
AIDS trong số những người tiêm chích ma túy khác nhau theo khu vực địa 
lý.Thep khảo sát của các Trung tâm điều trị lạm dụng chất gây nghiện, các 
vùng Đông Bắc, miền Nam, và Puerto Rico có tỉ lệ cao nhất Hoa Kỳ. Từ 
tháng 7 năm 1998 đến tháng 6 năm 1999, 23% trường hợp mắc AIDS ở 
cả nam và nữ là do tiêm chích ma túy (Theo Trung tâm Kiểm soát và Ngăn 
ngừa Dịch bệnh [CDC], 1999b).
Tiêm chích ma túy là con đường lây nhiễm HIV nhanh và hiệu quả. Vi rút 
HIV được truyền chủ yếu qua đường máu do sử dụng bơm kim tiêm, ống 
chích, hoặc các loại dụng cụ tiêm chích ma túy khác (ví dụ như bếp, nước 
rửa, bông) mà trước đó được sử dụng bởi một người nhiễm HIV. Thiếu 
kiến thức về kỹ thuật sử dụng kim tiêm an toàn và thiếu những giải pháp 
thay thế cho việc sử dụng chung kim (ví dụ: chuẩn bị sẵn kim tiêm mới và 
sạch) góp phần làm gia tăng HIV/AIDS. 
2 Giới thiệu về HIV/AIDS
Con đường lây nhiễm HIV khác giữa những 
người tiêm chích ma túy là do quan hệ tình dục 
trong các mạng lưới hoạt động tình dục đóng, 
có nghĩa là có nhiều bạn tình, quan hệ tình 
dục không có biện pháp bảo vệ, và bán dâm 
(Friedman và cộng sự, 1995.). Việc sử dụng 
rượu và các chất gây nghiện không tiêm chích 
khác càng làm tăng thêm các ca nhiễm HIV/
AIDS (Edlin và cộng sự, 1994; Grella và cộng 
sự, 1995.).
Một yếu tố nguy cơ chính gây lây nhiễm HIV/
AIDS giữa những người tiêm chích ma túy là 
việc sử dụng nhiều lần, một nghiên cứu cho 
thấy rằng những người lạm dụng với mức độ 
cao cho biết càng có nhiều bạn tình trong 12 
tháng trước đó, thì họ càng mắc phải nhiều 
bệnh lây qua đường tình dục (STDs) trong thời 
gian sống của họ, và tần suất càng lớn hơn nếu 
họ thực hiện hành vi mua bán dâm, quan hệ 
tình dục vì thuốc, và quan hệ tình dục với người 
tiêm chích ma túy (Word và Bowser, 1997). 
Dưới đây là những khái niệm quan trọng về 
HIV/AIDS và các bệnh lí rối loạn lạm dụng 
chất gây nghiện có ảnh hưởng đến việc xây 
dựng TIP này: 
•	 Lạm dụng chất gây nghiện làm tăng nguy 
cơ nhiễm HIV. Nhiễm HIV căn bản là do 
sử dụng kim tiêm bị ô nhiễm hoặc đã qua 
sử dụng để tiêm chích hêrôin. Ngoài ra, 
những người lạm dụng chất gây nghiện có 
thể đặt mình vào nguy cơ lây nhiễm HIV nếu 
tham gia vào các hành vi quan hệ tình dục 
không an toàn để đổi lấy bột hoặc côcain. 
Tuy nhiên, thực tế này không giảm thiểu tác 
động của các chất gây nghiện khác nếu được 
sử dụng (ví dụ như các chất gây ảo giác, các 
chất xông/hít, các chất kích thích, thuốc kê 
theo toa ).
•	 Những người lạm dụng chất gây nghiện có 
nguy cơ bị nhiễm HIV thông qua hành vi 
quan hệ tình dục. Khi đang bị ảnh hưởng 
bởi chất gây nghiện, hoặc bị cưỡng chế, cả 
nam và nữ đều có thể có các hành vi tình dục 
không an toàn (ví dụ: quan hệ tình dục bằng 
miệng, hoặc qua đường âm đạo, hậu môn 
không được bảo vệ; sử dụng chung đồ chơi 
tình dục; tiếp xúc hoặc nuốt các chất dịch 
hoặc chất thải của cơ thể, quan hệ tình dục 
với người bị nhiễm HIV) nhằm mục đích có 
được các chất gây nghiện.
•	 Điều trị lạm dụng chất gây nghiện phục 
vụ cho việc phòng chống HIV. Điều trị lạm 
dụng chất gây nghiện song hành với việc 
chăm sóc và điều trị liên tục cho bệnh nhân 
sẽ giúp giảm thiểu việc liên tục sử dụng các 
chất gây nghiện nguy hiểm. Giảm sự lệ thuộc 
của bệnh nhân vào chất gây nghiện sẽ làm 
giảm khả năng lây nhiễm.
•	 Các chứng rối loạn lạm dụng chất gây 
nghiện, HIV/AIDS, và các chứng rối loạn 
tâm thần tương tác với nhau một cách phức 
tạp. Mỗi chứng rối loạn giống như một chất 
xúc tác tiềm năng hoặc gây trở ngại cho 
việc điều trị quá trình khác, ví dụ điều trị 
lạm dụng chất gây nghiện có thể ảnh hưởng 
tiêu cực đến việc tuân thủ các phác đồ điều 
trị HIV/AIDS; Rối loạn lạm dụng chất gây 
nghiện và HIV/AIDS luôn gắn liền với các 
chứng rối loạn; HIV/AIDS đang làm thay 
đổi diện mạo và bộ mặt của việc điều trị 
lạm dụng chất gây nghiện; các vấn đề pháp 
lý phức tạp phát sinh khi điều trị lạm dụng 
chất gây nghiện và HIV/AIDS, những phụ 
nữ nhiễm HIV bị rối loạn lạm dụng chất gây 
nghiện có những nhu cầu đặc biệt.
•	 Giảm thiểu rủi ro cho phép tiếp cận việc 
dự phòng HIV/AIDS một cách toàn diện. 
Chiến lược này thúc đẩy thay đổi các hành 
vi liên quan đến chất gây nghiện và tình dục 
nhằm giảm thiểu rủi ro mắc phải hoặc lây 
truyền HIV của khách hàng.
Phần đầu của chương này cung cấp một cái 
nhìn tổng quan về nguồn gốc của HIV/AIDS 
và sự lây truyền và tiến triển của bệnh. Phần 
thứ hai của chương trình bày tóm tắt các dữ 
liệu dịch tễ học từ CDC. Phần thứ hai này thảo 
luận về tác động của HIV/AIDS lên các vùng 
ở Hoa Kỳ và thành phần dân số mà có nguy cơ 
lây nhiễm HIV cao nhất.
3Giới thiệu về HIV/AIDS
Tổng quan về HIV/AIDS
Nguồn gốc của HIV/AIDS 
Trong số nhiều lý thuyết và huyền thoại về 
nguồn gốc của HIV, lời giải thích có vẻ hợp lý 
nhất là HIV xuất hiện từ loài khỉ. Một nghiên 
cứu gần đây (Gao và cộng sự, 1999) xác định 
được một phân loài của loài tinh tinh có nguồn 
gốc ở phía tây xích đạo Châu Phi là nguồn gốc 
của HIV-1, đây là loại vi rút gây ra đại dịch 
AIDS toàn cầu. Các nhà nghiên cứu tin rằng vi 
rút lây từ khỉ sang người khi các thợ săn đã tiếp 
xúc với máu bị nhiễm bệnh. Khỉ có thể mang 
một loại vi rút tương tự như HIV, được gọi là 
SIV (vi rút gây suy giảm miễn dịch ở khỉ), và có 
các bằng chứng chứng minh HIV và SIV có liên 
quan với nhau (Simon và các cộng sự, 1998; 
Zhu và cộng sự, 1998). 
AIDS xuất hiện là do lây nhiễm HIV và có 
đặc điểm là làm giảm nghiêm trọng các tế bào 
CD4 + T, có nghĩa là một người nhiễm HIV 
có hệ thống miễn dịch rất yếu và dễ mắc phải 
các bệnh lây nhiễm đe dọa đến tính mạng (như 
bệnh viêm phổi do Pneumocystis carinii). AIDS 
xuất hiện ở giai đoạn sau của bệnh HIV.
Quá trình theo dõi bệnh tại Hoa Kỳ bắt đầu từ 
rất sớm sau khi phát hiện ra đại dịch, nhưng 
ngay cả đến nay, việc theo dõi dữ liệu chỉ cho 
thấy có bao nhiêu cá nhân mắc AIDS, chứ 
không chỉ ra có bao nhiêu người đã nhiễm HIV. 
Các ca mắc AIDS được tính toán giống như 
phần nổi của tảng băng, trong khi phần lớn 
hơn là HIV lại bị nhận chìm xuống nước. Nhiều 
Bang đang tính toán các trường hợp nhiễm 
HIV hiện nay và đã nhận lại những kết quả tích 
cực từ việc điều trị lây nhiễm ngay ở các giai 
đoạn đầu và bởi vì việc chỉ tính đến các trường 
hợp mắc AIDS đã không còn đủ khả năng để 
xác định các xu hướng của đại dịch. Tuy nhiên, 
vì người nhiễm HIV thường không phát hiện 
các triệu chứng trong nhiều năm, nên họ có thể 
không được xét nghiệm hoặc không nằm trong 
số các trường hợp đợc tính toán. CDC ước tính 
có khoảng 650.000 đến 900.000 người ở Hoa 
Kỳ hiện đang sống chung với HIV (theo CDC, 
1997c). 
Năm 1996, số trường hợp mắc AIDS mới 
(không phải trường hợp nhiễm HIV) và tử vong 
do AIDS đã bắt đầu giảm ở Hoa Kỳ kể từ lần 
đầu tiên kể vào năm 1981. Tử vong do AIDS 
đã giảm từ năm 1996 ở tất cả các nhóm chủng 
tộc và sắc tộc và giữa nam và nữ (theo CDC, 
1999a). Tuy nhiên, các dữ liệu gần đây nhất 
của CDC cho thấy tỉ lệ giảm này đang diễn ra 
chậm lại (theo CDC, 1999b).
Tỉ lệ giảm này là nhờ vào những tiến bộ trong 
điều trị HIV bằng nhiều loại thuốc, hay điều trị 
kết hợp; các phương pháp điều trị nhằm ngăn 
ngừa nhiễm trùng cơ hội thứ cấp; và giảm tỷ 
lệ nhiễm HIV vào giữa những năm 1980 trước 
khi giới thiệu các liệu pháp kết hợp. Điều thứ 
hai có thể là nhờ vào các dịch vụ cải thiện cho 
người có HIV và tiếp cận chăm sóc sức khỏe. 
Nói chung, những người được tiếp cận với hệ 
thống chăm sóc HIV/AIDS liên tục và tốt nhất 
sẽ tăng cơ hội sống lâu hơn.
HIV/AIDS vẫn chủ yếu là căn bệnh của những 
nhóm nam có quan hệ đồng giới và nam giới 
tiêm chích ma tuý, nhưng nó lại đang lây lan 
nhanh nhất ở phụ nữ và thanh thiếu niên, đặc 
biệt trong cộng đồng người Mỹ gốc Phi và gốc 
Tây Ban Nha. HIV là một loại vi rút phát triển 
mạnh tại một số điều kiện sinh thái nhất định. 
Các điều kiện sau đây sẽ dẫn đến tỷ lệ lây nhiễm 
cao hơn: một loại vi rút mạnh hơn, nồng độ vi 
rút cao, sự phổ biến của các loại bệnh lây qua 
đường tình dục (STDs), lạm dụng thuốc, sự 
lan tràn của huyết thanh mang HIV cao trong 
cộng đồng, tỉ lệ các hoạt động quan hệ tình dục 
không được bảo vệ với nhiều bạn tình cao, và 
cơ hội tiếp cận thấp với hệ thống chăm sóc sức 
khỏe. Những điều kiện sinh thái trên tồn tại ở 
một mức độ lớn giữa các cộng đồng người tiêm 
chích ma túy ở đô thị, nghèo khổ và tách ra 
khỏi đời sống xã hội.
Do đó, những người nam có quan hệ tình dục 
đồng giới và phụ nữ Mỹ gốc Phi và gốc Tây 
Ban Nha, con cái của họ, và thanh thiếu niên 
trong các cộng đồng này có nguy cơ mắc HIV 
rất cao.
4 Giới thiệu về HIV/AIDS
Lây truyền HIV 
HIV không thể tồn tại bên ngoài tế bào của con 
người. HIV phải được truyền trực tiếp từ người 
này sang người khác qua chất dịch cơ thể có 
chứa tế bào nhiễm HIV, như máu, tinh dịch, 
dịch tiết âm đạo, hoặc sữa mẹ. Con đường lây 
truyền HIV hiệu quả nhất là tiếp xúc trực tiếp 
giữa máu của một người nhiễm HIV và máu 
của người khác. (Xem Hình 1-1 về minh họa 
cấu trúc của vi rút). Điều này có thể xảy ra 
khi sinh con cũng như thông qua truyền máu 
hoặc cấy ghép nội tạng trước năm 1985. (Xét 
nghiệm các nguồn cung cấp máu bắt đầu vào 
năm 1985, và các cơ hội lây truyền này đã giảm 
đáng kể.) Sử dụng thiết bị tiêm chích đã được 
một người nhiễm HIV sử dụng trước đó là con 
đường truyền HIV trực tiếp khác.
Hình 1-1
Cấu trúc của HIV
Vi-rút làm suy giảm hệ miễn dịch ở người (HIV)
Màng Lipid
GP120
GP41
RNA
P18
P24
HIV
HIV nảy chồi
Protein 
thiết yếu
Provirus
Virus 
RNA
Virus RNA
T4 lymphocyte
Lymphocyte nucleus
Virus DNA
Reverse
transcriptase
RNA DNA
Màng Lipid
Nguồn: Packer, 1998. Được phép in lại.
5Giới thiệu về HIV/AIDS
Quan hệ tình dục cũng là một đường truyền 
HIV hiệu quả bởi vì các mô của trực tràng, hậu 
môn và âm đạo là bề mặt niêm mạc có thể chứa 
chất dịch cơ thể người bị nhiễm bệnh HIV và 
các bề mặt này có thể dễ dàng bị tổn thương, 
cho phép vi rút xâm nhập vào cơ thể. Một người 
có khả năng nhiễm HIV qua đường hậu môn 
cao gấp khoảng năm lần thông qua giao hợp 
âm đạo vì các mô của khu vực hậu môn dễ bị 
phá vỡ và chảy máu trong khi sinh hoạt tình 
dục (Royce và Cộng sự, 1997).
Phụ nữ có khả năng nhiễm HIV qua quan hệ 
bằng đường âm đạo cao gấp 8 lần nếu người 
đàn ông bị nhiễm HIV hơn là trong tình hình 
ngược lại (Trung tâm Nghiên cứu Phòng chống 
AIDS, 1998). HIV có thể truyền từ người nữ 
sang người nam trong khi giao hợp, nhưng điều 
này ít xảy ra vì da của dương vật không dễ dàng 
bị tổn thương.
Lây nhiễm HIV từ nữ giới qua nữ giới rõ ràng 
là rất hiếm, nhưng cần được xem xét như là một 
phương tiện có thể lây truyền vì khả năng tiếp 
xúc với các màng nhầy để tiết âm đạo và máu 
trong kỳ kinh nguyệt (CDC, 1997a).
Quan hệ tình dục bằng miệng cũng là một nguy 
cơ tiềm năng, nhưng ít có khả năng truyền bệnh 
hơn so với giao hợp qua đường hậu môn hoặc 
âm đạo. Nước bọt dường như có một số tác 
dụng giúp ngăn ngừa lây nhiễm HIV, và các mô 
ở miệng ít có khả năng bị thương trong khi sinh 
hoạt tình dục so với âm đạo hoặc hậu môn. Tuy 
nhiên, nếu một người đã bị nhiễm trùng hoặc 
chấn thương trong miệng hoặc nướu răng, thì 
nguy cơ nhiễm HIV qua đường quan hệ tình 
dục bằng miệng sẽ tăng.
Vai trò của cắt bao quy đầu đối với 
sự lây nhiễm HIV ở nam giới
 Một khả năng liên kết giữa nam giới cắt bao 
quy đầu và lây nhiễm HIV được quan sát lần 
đầu tiên trong quá trình nghiên cứu được tiến 
hành tại Kenya cuối thập niên 1980 (Cameron 
và cộng sự, 1998; Greenblatt và cộng sự, 1988; 
Simonsen và cộng sự, 1988). Kể từ đó, nhiều 
nghiên cứu đã được thực hiện dựa trên các mối 
quan hệ có thể có giữa nam giới cắt bao quy 
đầu và nhiễm HIV. Các dữ liệu đã không tiết 
lộ mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa cắt bao 
quy đầu và lây nhiễm HIV, và quan điểm khoa 
học đã được chia ra về chủ đề này. Trong khi 
một số nghiên cứu chỉ ra rằng cắt bao quy đầu 
có thể đóng vai trò bảo vệ trong việc ngăn ngừa 
lây nhiễm HIV (Kelly và cộng sự, 1999; Moses 
và cộng sự, 1998;... Urassa và cộng sự, 1997), 
thì phần lớn còn lại các nghiên cứu khoa học 
gần đây đã kết luận rằng điều ngược lại là đúng 
sự thật và cắt bao quy đầu thực sự có thể làm 
tăng tỷ lệ lây nhiễm HIV (Van Howe, 1999). 
Rõ ràng, nghiên cứu và phân tích xa hơn về việc 
cắt bao quy đầu như là cách dự phòng chống 
lây nhiễm HIV là điều cần thiết. 
Nguy cơ lây truyền 
Một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ lây nhiễm 
HIV. Yếu tố đầu tiên là sự hiện diện của một 
bệnh lây qua đường tình dục khác (ví dụ, bệnh 
loét bộ phận sinh dục) ở bạn tình, điều này làm 
tăng nguy cơ lây nhiễm HIV qua đường tình 
dục. Bởi vì cùng các hành vi nguy cơ dẫn đến 
những người mắc bệnh lây qua đường tình dục 
này tăng khả năng lây nhiễm HIV. STDs cũng có 
thể gây tổn thương bộ phận sinh dục, mở đường 
cho HIV xâm nhập, các bệnh này có thể làm 
tăng số lượng các tế bào mục tiêu của HIV (tế 
bào CD4 + T), và làm cho người này chịu một 
nồng độ tập trung cao của HIV (CDC, 1998a). 
Vì lý do này, tất cả các khách hàng hoạt động 
tình dục, đặc biệt là phụ nữ, nên được kiểm tra 
STDs thường xuyên như bệnh lậu và chlamydia. 
Nhiều STDs gây ra các triệu chứng ở nam giới 
lại không có triệu chứng ở nữ giới. Khi các vết 
loét sinh dục được điều trị và chữa khỏi, nguy cơ 
lây nhiễm HIV sẽ giảm xuống.
Một yếu tố khác làm tăng nguy cơ lây nhiễm là 
nồng độ HIV lưu truyền trong máu cao. Điều 
này xảy ra ngay sau khi nhiễm trùng ban đầu 
và trở lại vào giai đoạn cuối của bệnh. Điều trị 
bằng thuốc mới có thể giữ nồng độ này (gọi 
là nồng độ vi rút) thấp hoặc không phát hiện 
được, nhưng điều này không có nghĩa là các 
cá nhân khác không thể bị nhiễm bệnh. Vi rút 
HIV vẫn còn tồn tại –chỉ đơn giản là không thể 
6 Giới thiệu về HIV/AIDS
phát hiện được bằng các xét nghiệm hiện đang 
có sẵn. Vì mối tương quan giữa huyết tương 
và chất lỏng sinh dục chứa nồng độ vi rút biến 
đổi, nên sự lây truyền vẫn có thể xảy ra mặc 
dù không phát hiện được nồng độ vi rút trong 
huyết thanh (Liuzzi và cộng sự, 1996.).
Một khi HIV lây nhiễm cho người chưa bị 
nhiễm HIV mà không sử dụng thuốc chống 
HIV, thì vi rút tái sinh sản rất nhanh chóng. 
Người ta biết rằng những vi rút kháng thuốc có 
thể được truyền từ người này sang người khác. 
Những biện pháp chữa trị cho người bị nhiễm 
vi rút kháng thuốc vẫn chưa được biết, nhưng 
cách chữa trị có thể là rất khó.
Có nhiều quan niệm sai lầm khi xem xét việc 
lây nhiễm HIV. Ví dụ, HIV không lây truyền từ 
người này sang người kia qua tiếp xúc thường 
ngày vốn không liên quan đến việc truyền máu 
hay quan hệ tình dục. Nó không lây nhiễm qua 
muỗi và không truyền qua chỗ ngồi trong nhà 
vệ sinh hay từ việc ăn thức ăn được chuẩn bị 
bởi người mắc bệnh AIDS. Chưa có ai bị nhiễm 
AIDS bằng cách hôn một người mắc bệnh 
AIDS, hay thậm chí là dùng chung bàn chải 
đánh răng (dù việc dùng chung bàn chải đánh 
răng vẫn không được khuyến khích). Các quan 
niệm sai lầm khác mà người ta có thể có bao 
gồm những quan niệm sau:
•	 “Nó không thể xảy ra với tôi.” –HIV có 
thể lây nhiễm cho bất kỳ ai có quan hệ tình 
dục, hay dùng chung dụng cụ tiêm chích với 
người nhiễm bệnh.
• “Tôi sẽ biết nếu như bạn tình (hay người 
dùng chung dụng cụ tiêm chích) của tôi bị 
nhiễm bệnh.”—Hầu hết những người nhiễm 
HIV đều không có biểu hiện hay cảm thấy 
bị ốm và thậm chí không biết rằng họ đã bị 
nhiễm bệnh.
• “Miễn là tôi được điều trị cho bất kỳ bệnh 
lây nhiễm qua đường tình dục nào tôi mắc 
phải, thì tôi sẽ an toàn” – Không hình thức 
chữa bệnh nào hiện nay có thể chữa được 
hay phòng được HIV, và dù việc chữa các 
bệnh lây nhiễm khác làm giảm nhẹ nguy 
cơ, thì vẫn có nguy cơ cao mắc bệnh HIV 
thông qua quan hệ tình dục không có biện 
pháp bảo vệ hay dùng chung dụng cụ tiêm 
chích.
•	 	“Nếu tôi chỉ có một bạn tình, và không dùng 
chung dụng cụ tiêm chích, thì tôi không cần 
lo về HIV”—Điều này chỉ đúng khi người 
bạn tình không bị lây nhiễm và không gặp 
phải nguy cơ nhiễm bệnh nào sau đó. Nếu 
người bạn tình bị nhiễm hoặc có khả năng 
bị nhiễm, thì bất cứ ai quan hệ tình dục với 
người đó hay dùng chung dụng cụ tiêm chích 
với người đó đều có nguy cơ nhiễm HIV cao.
•	 “Nếu tôi rửa hay tắm sau khi quan hệ tình 
dục, tôi sẽ không nhiễm HIV”—Rửa và tắm 
sẽ không ngăn được HIV.
•	 “Nếu tôi không cho ai dùng chung ống tiêm, 
tôi sẽ không nhiễm HIV” –HIV cũng có thể 
lây nhiễm qua xoong nồi, máy lọc và thuốc 
dùng chung.
Vòng đời của HIV
Có thể ngăn ngừa lây nhiễm thậm chí sau khi 
giải phóng HIV. Ở San Francisco, phương pháp 
phòng bệnh sau khi giải phóng được đề xuất sử 
dụng ở những người tin là mình có nguy cơ lây 
nhiễm HIV cao vì tiếp xúc với một người đã biết 
hoặc bị nghi ngờ là nhiễm HIV. Biện pháp chữa 
trị được bắt đầu trong vòng 72 giờ sau khi tiếp 
xúc và bao gồm liệu pháp kết hợp. Liệu pháp 
này có thể bao gồm một thuốc ức chế proteaza, 
dùng trong 1 tháng và được dùng tiếp sau đó 
trong 12 tháng.
Một khi một lượng nhỏ HIV xâm nhập vào cơ 
thể một người, nó bám vào bề mặt của một tế 
bào mục tiêu (tế bào CD4+ T). Vi rút thâm 
nhập vào vỏ ngoài tế bào bằng cách trút bỏ vỏ 
vi rút của nó, cho phép lượng HIV giải phóng 
một chuỗi axit ribonucleic HIV (RNA) vào tế 
bào. Chuỗi axit này sau đó biến đổi thành axit 
deoxyribonucleic (DNA). DNA HIV thâm nhập 
vào nhân tế bào và được sao chép lên nhiễm sắc 
thể của tế bào. Điều này dẫn tới việc tế bào bắt 
đầu tái sản xuất ra nhiều HIV hơn, và cuối cùng, 
tế bào phóng thích những lượng HIV nhiều hơn. 
Sau đó những lượng mới này bám vào các tế bào 
mục tiêu khác và chúng trở thành nhiễm bệnh. 
Hình 1-2 minh họa HIV xâm nhập một tế bào 
CD4+ T và tái sinh sản ra sao.
7Giới thiệu về HIV/AIDS
Hình 1-2
Giản đồ HIV xâm nhập tế bào và tái sinh sản
1 Nhà của HIV trong 
tế bào CD4+T
2 Màng bao bên 
ngoài bị loại bỏ
3 Chuỗi RNA có HIV 
chuyển thành ADN
7 HIV bùng phát từ 
tế bào
Tế bào CD4+T
Nhân tế bào
4 AND chứa 
HIV tấn 
công nhân 
tế bào
5 AND chỉ huy 
nhiễm sắc 
thể bên trong 
nhân để tạo 
nhiều HIV 
hơn
6 Màng bao mới 
gắn với vi-rút HIV
Nguồn: Packer 1998. Được phép in lại
1
2
3
4
5
7
6
8 Giới thiệu về HIV/AIDS
Đo lượng HIV trong máu
Các bác sĩ có thể đo sự hiện diện của HIV trong 
một người bằng các số liệu là (1) lượng tế bào 
CD4+ T và (2) lượng vi rút. Lượng tế bào 
CD4+ T đo số lượng tế bào CD4+ T (tức là 
lượng tế bào bạch huyết) trong một mililit máu. 
Đây là lượng tế bào mà HIV có khả năng lây 
nhiễm nhất, và số lượng những tế bào này phản 
ánh sức khỏe tổng quát của hệ miễn nhiễm của 
một người.
Những tế bào CD4+ T hoạt động như những 
dấu hiệu thông báo cho hệ miễn nhiễm của một 
cơ thể rằng một căn bệnh lây nhiễm đang tồn 
tại và cần phải chống lại. Vì HIV trốn đằng sau 
chính những tế bào chịu trách nhiệm cho việc 
báo hiệu sự tồn tại của nó, nên nó có thể sống 
sót và tái sinh sản mà người bị nhiễm không 
biết gì về sự tồn tại của nó trong nhiều năm. 
Mặc dù cơ thể có thể sản xuất lượng tế bào 
CD4+ T tương ứng để thay thế cho hàng tỷ 
tế bào bị HIV chưa được chữa trị phá hủy mỗi 
ngày, nhưng cuối cùng thì HIV giết nhiều tế 
bào CD4+ T đến nỗi hệ miễn nhiễm bị tổn hại 
không thể kiểm soát nỗi các bệnh lây nhiễm 
khác, những bệnh này có thể làm người đó bị 
ốm. Đây là giai đoạn cuối của HIV, khi mà 
AIDS thường được chẩn đoán dựa trên sự hiện 
diện của những bệnh cụ thể (tức là những bệnh 
nhiễm trùng cơ hội).
Lượng vi rút thể hiện trong mức độ RNA HIV 
(thông tin di truyền) tuần hoàn trong dòng 
máu. Mức độ này trở nên rất cao không lâu 
sau khi một người mới bị nhiễm HIV, sau đó nó 
giảm xuống. Các cuộc kiểm tra lượng vi rút đo 
được số bản sao vi rút trong một mililit huyết 
tương, những cuộc kiểm tra hiện nay có thể 
đếm được 50 bản sao trong mỗi mililit, và thậm 
chí nhiều cuộc kiểm tra chi tiết hơn có thể đo 
được 5 bản sao trong mỗi mililit.
Để giải thích mối quan hệ giữa lượng tế bào 
CD4+ T và lượng vi rút và chúng được sử dụng 
kết hợp ra sao để xác định giai đoạn tiến triển 
bệnh của một người, có thể sử dụng một phép 
loại suy “con tàu chuyển động”. Lượng tế bào 
CD4+ T được dùng để đo khoảng cách của 
một người tới điểm có nguy cơ cao trong việc 
nhiễm các bệnh nhiễm trùng cơ hội, hay chết. 
Lượng vi rút được dùng để đo mức độ các tế 
bào CD4 + T bị phá hủy. Do đó, lượng tế bào 
CD4+ T là vị trí của con tàu trên đường ray, 
còn lượng vi rút là tốc độ của con tàu đi đến kết 
cục (tức là AIDS và sau đó là cái chết).
Sau khi một người bị nhiễm HIV, cơ thể cần 
khoảng 6 đến 12 tuần và thỉnh thoảng khoảng 
6 tháng để sản sinh các protein chống lại vi 
rút. Các protein này được gọi là các kháng thể 
HIV (protein chống bệnh tật) và được tìm thấy 
trong một phương pháp kiểm tra HIV có tên là 
ELISA(enzyme-linked immunosorbent assay). 
Xét nghiệm ELISA rất chi tiết – nó gần như 
luôn luôn phát hiện ra HIV nếu có). Các công 
trình xét nghiệm ELISA hiếm khi cho kết quả 
dương tính sai (kết quả dương tính ở những 
người không bị nhiễm). Vì thế, một kết quả 
ELISA dương tính phải luôn được xác nhận 
bằng một xét nghiệm thứ hai, chi tiết hơn được 
gọi là vệt Western. Theo CDC, mức độ chính 
xác của ELISA và vệt Western kết hợp với nhau 
là cao hơn 99 phần trăm. Các phương pháp xét 
nghiệm HIV nhanh và các phép kiểm tra tại 
nhà cũng là lựa chọn cho các bệnh nhân; xem 
Chương 2 để biết cuộc thảo luận chi tiết hơn về 
các kiểu xét nghiệm này.
6 đến 12 tuần giữa thời gian nhiễm bệnh và thời 
gian một cuộc xét nghiệm HIV của ELISA trở 
nên dương tính được gọi là “giai đoạn cửa sổ”. 
Trong suốt thời gian này, người đó sẽ dễ dàng 
nhiễm bệnh cho bất kỳ bạn tình hay người dùng 
chung kim tiêm nào nhưng không có kết quả 
xét nghiệm dương tính nếu một cuộc kiểm tra 
lượng vi rút đắt tiền hơn không được thực hiện.
Lượng vi rút được xác định bằng cách dùng một 
phương pháp kiểm tra lượng vi rút; ba loại kiểm 
tra lượng vi rút là phản ứng chuỗi polymerase 
RNA-HIV (PCR), DNA nhánh HIV (bDNA), 
và phương pháp khuếch đại dựa trên các dãy 
axit nucleic RNA-HIV (NASBA). Mỗi phương 
pháp kiểm tra này đo đạc số lượng vi rút đang 
sao chép hay đang sinh sản trong máu; do đó 
một giá trị thấp hơn cho thấy nguy cơ thấp hơn 
của tiến triển nhanh chóng. Kết quả kiểm tra 
lượng vi rút tốt nhất là “không được tìm thấy”, 
9Giới thiệu về HIV/AIDS
dù điều này không có nghĩa là vi rút biến mất, 
chỉ có nghĩa là nó không tái sinh sản năng động 
ở một mức độ có thể đo được.
Tiến triển bệnh
Một khi một người đã nhiễm HIV, người đó 
nên hiểu tiến triển bệnh đi từ lây nhiễm ban 
đầu, đến thời kỳ ủ bệnh, nhiễm bệnh có triệu 
chứng, và cuối cùng là AIDS. Người ta không 
biết con đường của HIV không được chữa trị 
nhưng nó có thể kéo dài 10 năm hay lâu hơn 
ở một số người. Trong vài năm bị nhiễm HIV, 
các triệu chứng nhẹ có thể phát triển, sau đó là 
những bệnh nhiễm trùng nặng cho thấy AIDS 
xảy ra. Việc chữa trị có vẻ làm kéo dài cuộc 
sống một cách đáng kể và cải thiện chất lượng 
cuộc sống ở hầu hết các bệnh nhân, dù việc dự 
đoán khả năng sống sót sau khi chẩn đoán mắc 
bệnh AIDS thì không chính xác.
Lây nhiễm ban đầu
Việc lây nhiễm HIV ban đầu có thể gây ra hội 
chứng kháng vi rút đột ngột, hội chứng này 
thường bị lầm là bệnh cúm, bệnh tăng bạch cầu 
đơn phân, và hay một trận cảm lạnh nặng. Hội 
chứng này được ghi nhận ở khoảng nửa số người 
nhiễm HIV (Russell và Sepkowitz, 1998) và 
thường xảy ra giữa 2 và 6 tuần sau khi bị nhiễm. 
Các triệu chứng có thể bao gồm sốt, nhức đầu, 
đau họng, mệt mỏi, đau toàn thân, sụt cân, và 
sưng hạch bạch huyết. Các triệu chứng khác là 
phát ban, loét miệng hay cơ quan sinh dục, tiêu 
chảy, buồn nôn và nôn, và chứng tưa. Lượng 
CD4+ T có thể rơi xuống rất thấp trong suốt 
những tuần đầu, dù nó thường trở lại mức độ 
bình thường sau khi cơn bệnh đầu tiên chấm 
dứt. Cơn bệnh đầu tiên có thể kéo dài vài ngày 
hay thậm chí vài tuần.
Sự lan truyền HIV lớn nhất xảy ra khắp thân thể 
lúc mới bệnh. Khoảng 6 tháng sau khi nhiễm 
bệnh, lượng vi rút sản sinh ra mỗi ngày có thể 
đạt đến “điểm thắng”. Một điểm thắng cao hơn 
thường có nghĩa là tiến triển bệnh HIV nhanh 
hơn. Các bác sĩ có thể sẽ đề xuất biện pháp 
chữa trị ban đầu để giảm điểm thắng, có khả 
năng dẫn đến cơ hội tốt hơn trong việc kiểm 
soát sự lây nhiễm.
Những nhà cố vấn dùng rượu và thuốc nên thảo 
luận về những triệu chứng báo hiệu lây nhiễm 
HIV ban đầu với bệnh nhân của họ và khuyến 
khích bệnh nhân đi xét nghiệm HIV nếu họ có 
những triệu chứng như thế. Điều này sẽ không 
chỉ khuyến khích bệnh nhân bị nhiễm tham gia 
điều trị sớm mà còn cung cấp cơ hội cho những 
nhà cố vấn giúp đỡ những bệnh nhân chưa 
nhiễm tự bảo vệ theo cách đó.
Thời kỳ ủ bệnh/thời kỳ cửa sổ
Sau giai đoạn lây nhiễm ban đầu là thời kỳ ủ 
bệnh, hay thời kỳ cửa sổ. Trong suốt thời kỳ 
này những người nhiễm HIV không được chữa 
trị có rất ít triệu chứng, nếu như có. Thời kỳ 
này kéo dài trung bình khoảng 10 năm. Triệu 
chứng phổ biến nhất trong thời kỳ này là viêm 
hạch bạch huyết, hay sưng hạch bạch huyết. 
Các hạch bạch huyết ở quanh cổ và dưới những 
cánh tay chứa các tế bào chống lại sự lây nhiễm. 
Các hạch bạch huyết bị sưng ở vùng bẹn có thể 
là bình thường và không biểu thị nhiễm HIV. 
Khi bất cứ bệnh nhiễm trùng nào có mặt, các 
hạch bạch huyết thường sưng, thỉnh thoảng là 
rất đau. Với HIV, chúng sưng và có khuynh 
hướng bị sưng mà thường không đau.
Lây nhiễm ban đầu có triệu chứng
Vào năm đầu tiên khi nhiễm bệnh, lượng tế 
bào CD4+ T rơi xuống mức độ khoảng 30 đến 
90 tế bào mỗi năm. Khi lượng tế bào CD4+ 
T rơi xuống dưới 500, các triệu chứng HIV 
nhẹ có thể xảy ra. Tuy nhiên, nhiều người sẽ 
không có triệu chứng nào cả cho tới khi lượng 
tế bào CD4+ T đã rơi xuống rất thấp (200 hay 
ít hơn). Vi khuẩn, vi rút, và nấm mốc thường 
sống trên và trong cơ thể người bắt đầu gây ra 
những bệnh tật còn được biết đến như là những 
bệnh lây nhiễm cơ hội.
Các triệu chứng ban đầu của việc lây nhiễm 
bao gồm tiêu chảy mãn tính, bệnh Zona, nấm 
âm đạo tái phát, chứng tưa, bệnh bạch sản ở 
miệng (một loại vi rút có thể gây ra các mảng 
trắng trong miệng), các kết quả thử nghiệm 
Pap bất thường, chứng giảm tiểu cầu, hoặc bị 
tê hay ngứa các ngón chân ngón tay. Hầu hết 
những triệu chứng này xảy ra với lượng tế bào 
10 Giới thiệu về HIV/AIDS
CD4+ T ở giữa 200 và 500. Các triệu chứng 
của những căn bệnh truyền nhiễm này thường 
báo hiệu một vấn đề của hệ miễn dịch nhưng 
chúng không đủ nghiêm trọng để phân loại là 
bệnh AIDS. Xin chuyển đến phần Phụ lục D để 
có danh mục đầy đủ của các triệu chứng.
AIDS
Vào thập niên 80, người ta định nghĩa AIDS 
là sự suy giảm hệ thống miễn dịch của cơ thể 
và có ít nhất một căn bệnh có thể dẫn đến sự 
lây nhiễm HIV. Những chứng bệnh nhằm phát 
hiện ra AIDS lúc ấy lại không có biểu hiện triệu 
chứng rõ ràng và chỉ có thể phát hiện bằng xét 
nghiệm HIV. Năm 1993, sự bổ sung thêm các 
loại bệnh “chỉ điểm” AIDS đã góp phần phát 
hiện thêm nhiều trường hợp phụ nữ nhiễm 
AIDS và người tiêm ma túy. Kể từ đó, danh 
sách những bệnh để chẩn đoán ra AIDS bao 
gồm lao phổi, viêm phổi tái phát do ký sinh 
trùng và ung thư cổ tử cung xâm lấn.Theo 
Trung tâm kiểm soát dịch bệnh của chính phủ 
Hoa Kỳ, người nhiễm HIV có số lượng tế bào 
bạch cầu Lympho T4 ít hơn hoặc bằng 200 thì 
được cho là đã nhiễm AIDS.
Lao phổi và ung thư cổ tử cung xâm lấn là 2 
chứng bệnh “chỉ điểm” AIDS được quan tâm 
đặc biệt. Bệnh lao lây nhiễm HIV có thể truyền 
cho người không mắc bệnh. Thông thường, 
nó gây ra các triệu chứng ho khan mãn tính 
(thỉnh thoảng có máu), mệt mỏi và sút cân 
trầm trọng. Lao phổi đòi hỏi sự điều trị liên tục 
ít