Hóa học & Kỹ thuật môi trường 
H. K. Hòa, T. V. Hiếu, N. T. L. Chi, “Đề xuất giải pháp  Xuân Hương, thành phố Đà Lạt.” 76 
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NGĂN CHẶN HIỆN TƯỢNG TẢO NỞ HOA 
Ở HỒ XUÂN HƯƠNG, THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT 
 Hoàng Khánh Hòa1*, Trương Văn Hiếu2, Nguyễn Thúy Lan Chi3 
Tóm tắt: Hiện tượng tảo nở hoa (algal bloom) và đặc biệt là sự bùng nổ tảo độc 
(harmful algal bloom) xảy ra ngày càng thường xuyên hơn ở hồ Xuân Hương, thành 
phố Đà Lạt. Tình trạng này đang gây nên những ảnh hưởng to lớn đến một trong 
những danh lam thắng quan trọng nhất của thành phố Đà Lạt. Hậu quả có thể là 
những thiệt hại rất lớn không những đến ngành du lịch mà còn đến sức khỏe của 
cộng đồng người dân thành phố và khách du lịch. Đã có nhiều nỗ lực và đầu tư tài 
chính lớn cho việc bảo vệ, tôn tạo hồ Xuân Hương nhưng việc cải thiện chất lượng 
nước hồ và ổn định hệ thủy sinh trong hồ lại chưa được chú ý đúng mức và cho đến 
nay vẫn chưa có hướng để giải quyết một cách triệt để và lâu dài vấn đề này. Tham 
luận này trình bày một số nhận định về nguyên nhân gây tảo nở hoa và đề xuất giải 
pháp cải thiện và bảo vệ chất lượng nước hồ Xuân Hương. 
Từ khóa: Phú dưỡng, Bùng nổ tảo. 
1. MỞ ĐẦU 
Hồ Xuân Hương là một thắng cảnh nổi tiếng, được công nhận là một di tích văn 
hóa của thành phố Đà Lạt. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa, phát triển du lịch đồng 
thời với việc tăng cường hoạt động canh tác nông nghiệp trong một diện tích lưu 
vực khá chật hẹp làm cho chất lượng nước hồ ngày càng bị xấu đi, giá trị của thắng 
cảnh quý báu này có nguy cơ bị suy giảm. Do đặc điểm thủy văn và việc tiếp nhận 
nhiều nguồn nước không kiểm soát nên chất lượng nước hồ ngày càng xấu, đặc 
biệt là mức độ nhiễm bẩn các chất dinh dưỡng rất cao. Hậu quả là từ năm 1995 đến 
nay, đặc biệt là sau khi tích nước lại vào cuối năm 2010 hiện tượng bùng nổ tảo 
xuất hiện ngày càng thường xuyên hơn. Để đảm bảo kiểm soát chất lượng nước hồ 
Xuân Hương lâu dài và ổn định cần có một giải pháp tổng thể, bao gồm cả việc 
quản lý một cách khoa học các nguồn gây ô nhiễm trong lưu vực, thiết lập hệ thống 
quan trắc cảnh báo khả năng xảy ra ô nhiễm và các biện pháp phòng ngừa, ngăn 
chặn hay khắc phục các sự cố ô nhiễm có thể xảy ra. Trên cơ sở các kết quả nghiên 
cứu về chất lượng nước hồ Xuân Hương mà nhóm tác giả đã tham gia theo đặt 
hàng của Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 1995- 2004 và theo 
dõi tình trạng bùng nổ tảo tại hồ này trong nhiều năm qua nhóm tác giả đưa ra một 
số nhận định về nguyên nhân tảo nở hoa và đề xuất ý tưởng cải thiện và bảo vệ 
chất lượng nước hồ Xuân Hương. 
2. NHẬN ĐỊNH VỀ NGUYÊN NHÂN TẢO NỞ HOA 
2.1. Hình thái hồ Xuân Hương 
Thành phố Đà Lạt được quy hoạch xây dựng dọc hai bờ suối Cam Ly với ý 
tưởng hình thành các phân khu chức năng ở chuỗi hồ nhân tạo. Hồ Xuân Hương là 
hồ chính trong chuỗi hồ đó, được hình thành một phần vào năm 1919 và đến năm 
1935 thì hoàn chỉnh như ngày nay sau khi xây xong cầu ông Đạo và loại bỏ các 
đập cũ[1]. Diện tích lưu vực suối Cam Ly tính đến cầu ông Đạo là 26,5 km2, chiều 
dài suối tính đến đập là 8 km. Hồ Xuân Hương là một hồ chứa nhân tạo, nông 
(trung bình là 3 m) và có dung lượng trung bình (0,72 triệu m3). Từ khi hoành 
Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 77
chỉnh (năm 1935) đến nay hồ được được nạo vét cải tạo ba lần (1977, 1999, 2010). 
Hình thái hồ được thể hiện trong hình 1[1]. Mối quan hệ của diện tích và thể tích hồ 
theo cao trình mặt nước sau cải tạo toàn diện năm 2010 như sau: 
với r2 = 0,95 
(1) 
với r2 = 0,99 
(2) 
Xây dựng hoàn chỉnh 1935: 
 S = 430.000 m2; V=1.200.000 m3 
Trước nạo vét 1977: 
 S=320.000 m2; V=720.000 m3 
Sau nạo vét 1999 theo TK: 
 S=434.462 m2; V=902.235 m3 
Sau cải tạo toàn diện 2010: 
 Tại ngưỡng xiphông Z=+1476,44 m: 
 S=349.391 m
2 
V=1.045.316 m
3
. 
Cao trình chống ngập Z=+1476,90 
 S= 401.515 m
2 
V=1.254.681 
Hình 1. Hình thái hồ Xuân Hương. [1] 
Mực nước trong hồ được điều chỉnh qua hệ thống xiphông và tháo đáy. Do vùng 
lưu vực tự nhiên đã bị thay đổi mạnh mẽ bởi đô thị hóa và phát triển nông nghiệp, 
dòng chảy đến hồ cũng có những thay đổi cơ bản. Các hồ chứa thượng nguồn bị 
bồi lắng một phần nên tác dụng trữ nước để điều hòa trong năm giảm đáng kể. 
Phần lớn nước đến hồ đã qua sử dụng cho các mục đích khác nhau (nông nghiệp, 
sinh hoạt, công nghiệp). 
2.2. Đánh giá mức độ phú dưỡng hồ Xuân Hương 
Tải lượng dinh dưỡng vào hồ có thể ước tính theo mô hình kinh nghiệm của 
OECD và Loehr [2] như sau: 
 (3) 
Trong đó: 
 L: Tổng lượng dinh dưỡng hàng năm (kg/năm) xâm nhập vào hồ. 
 S1, S2,, Sn: Diện tích (ha) của các loại hình sử dụng đất. 
 a1, a2,, an: Các hệ số xuất dinh dưỡng (kg/ha.năm) ứng với từng kiểu đất. 
Áp dụng mô hình này và các hệ số xuất N và P kinh nghiệm trên ứng với 3 loại 
hình sử dụng đất chính ở lưu vực hồ Xuân Hương (sân Golf được xem là đất nông 
nghiệp) tải lượng nitơ và phốtpho hàng năm vào hồ được ước tính như nêu trong 
bảng 1 [1]. 
Theo Vollenweider [3] tải lượng cho phép đối với tổng N và tổng P tùy thuộc 
vào độ sâu của hồ (bảng 2) [3]. Hồ Xuân Hương có độ sâu trung bình là 3 m, nếu 
chiếu theo các giá trị cho phép và nguy hiểm ở độ sâu trung bình 5 m thì tải lượng 
nitơ (16,5-241 g/m2/năm) và phốtpho (1,6-13 g/m2/năm) vào hồ Xuân Hương cao 
hơn rất nhiều so với tải lượng nguy hiểm (N = 2,0 và P = 0,13 g/m2/năm). 
Hóa học & Kỹ thuật môi trường 
H. K. Hòa, T. V. Hiếu, N. T. L. Chi, “Đề xuất giải pháp  Xuân Hương, thành phố Đà Lạt.” 78 
Bảng 1. Ước tính tải lượng Nitơ và Phốtpho vào hồ Xuân Hương. 
Kiểu 
sử dụng đất 
Diện tích 
(ha) 
Nitơ Phốtpho 
Hệ số xuất 
N 
(kg/ha/năm) 
Lượng N 
(kg/năm) 
Hệ số xuất 
P 
(kg/ha/năm) 
Lượng P 
(kg/năm) 
Rừng 522,35 1,0-6,3 522,35 -3290,81 0,01 –0,88 36,56 -459,67 
Nông 
nghiệp 
961,15 2,1-79,6 2018,42-76507,5 0,06-2,9 57,67 -2787,33 
Đô thị 646,34 5-7,3 3231,7- 4718,28 0,77-2,2 497,68 -1421,95 
Tổng 2129,84 5772,46 -
84516,63 
 559,01 -4668,95 
Tải lượng theo đơn vị diện tích (g/m2/năm) – Diện tích mặt nước = 349391 m2 
L/S (g/m2/năm) 16,5 – 241 1,6 –13 
Bảng 2. Tải lượng cho phép đối với tổng P, tổng N ở các hồ có độ sâu khác nhau. 
 Độ sâu trung bình 
(m) 
Tải lượng cho phép 
(g/m2/năm) 
Tải lượng nguy hiểm* 
(g/m2/năm) 
Tổng N Tổng P Tổng N Tổng P 
5 1,0 0,07 2,0 0,13 
10 1,5 0,10 3,0 0,20 
50 4,0 0,25 8,0 0,50 
100 6,0 0,40 12,0 0,80 
* Tải lượng nguy hiểm (dẫn đến bùng nổ tảo) tính theo diện tích mặt hồ (m2) 
 Mô hình Vollenweider [2] được sử dụng để tính hàm lượng phốtpho theo công 
thức sau: 
(4) 
Trong đó: TP : Hàm lượng phốtpho tổng số trung bình 
 LP: Lượng photpho theo diện tích hàng năm 
 qs: Lượng nước dao động hàng năm (m/năm) 
 tw: thời gian tồn lưu nước, tw = V/Q; (V: Thể tích hồ; Q: Lượng nước vào 
hồ m3/năm). 
Theo kết quả tính toán thủy văn dòng chảy trung bình vào hồ Xuân Hương hàng 
năm là 0,728 m3/s; lượng nước đến hàng năm là Q = 23 triệu m3/năm; thể tích hồ V 
= 1.045.316 m3; độ sâu trung bình của hồ Xuân Hương ở ngưỡng tràn xi-phông Z 
= V/S = 1045316/349391 = 2,99 3 m. Với tải lượng LP= 1,6 - 13 (g/m
2/năm) hàm 
lượng phốtpho tính theo mô hình trên (công thức 2) là khoảng 0,025341 -0,205894 
g/m3, tức là tương đương với khoảng 0,025 - 0,206 mg/l. Hàm lượng này vượt giá 
trị ngưỡng quy ước môi trường phú dưỡng với chỉ số phốtpho (>20µg/l). 
Xét về mặt địa hình thì hồ Xuân Hương là điểm cuối cùng hội tụ các dòng chảy 
trong lưu vực do đó hầu hết các chất bẩn rửa trôi theo dòng chảy đều tập trung về 
Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 79
đây. Ước tính hiện nay (năm 2016) có khoảng 100.000 người sống và sinh hoạt 
trong vùng lưu vực (trong đó khoảng 50.000 dân địa phương của phường 8,9, một 
phần của phường 10, 2; và 50.000 sinh viên, giáo viên ở các trường đại học, cao 
đẳng trong khu vực hồ). Theo Alexander J. Horne[4] trung bình mức xuất Nitơ là 
10,8 g/người/ngày và phốtpho là 2,18 g/người/ngày. Với số dân trong lưu vực và 
mức xuất dinh dưỡng như nêu trên thì ước tính mỗi năm có khoảng 390 tấn Nitơ và 
80 tấn phốtpho phát sinh trong vùng lưu vực hồ Xuân Hương. Trước đây đóng góp 
của hoạt động nông nghiệp là đáng kể, nhưng hiện nay do áp dụng công nghệ canh 
tác hiện đại (kiểm soát tốt phân bón và tưới tiêu) nên mức xuất muối dinh dưỡng 
được nhận định là giảm và chỉ đóng vai trò thứ yếu. 
Từ các kết quả tính toán và các thông tin nêu ở trên có thể nhận định mức độ và 
nguy cơ gia tăng ô nhiễm dinh dưỡng ở hồ Xuân Hương là rất cao; nguồn ô nhiễm 
chính gây phú dưỡng cho hồ Xuân Hương là chất thải đô thị. 
2.3. Tình trạng bùng nổ tảo ở hồ Xuân Hương 
Sau khi hoàn thành việc nạo vét và tích nước cuối năm 2010 thì xuất hiện ngay 
tảo nở hoa ở hồ Xuân Hương. Đóng van tích nước cuối tháng 12/2010 thì sau đó 
02 tháng đã xảy ra hiện tượng bùng nổ tảo và đến tháng 10/2011 thì mức độ bùng 
nổ tảo trầm trọng hơn. Sau đó, từ năm 2011 đến 2016 liên tiếp xảy ra các đợt bùng 
nổ tảo hàng năm, cụ thể là: tháng 2 và 5 năm 2012; tháng 4 năm 2013; tháng 5 năm 
2015 và tháng 4 năm 2016. Tần xuất xuất hiện bùng nổ tảo dày hơn rất nhiều so 
với các thời kỳ trước năm 2010. 
Đối với hồ Xuân Hương, điều kiện khí hậu thuận lợi cho phát triển của các loài 
tảo. Lượng ánh sáng dồi dào, trung bình là 2358 giờ/năm; nhiệt độ không khí thích 
hợp, trung bình năm 17,9 oC [1]. Các điều kiện khác như hồ nông (trung bình 3 m), 
dòng chảy trong hồ không lớn, sóng nhỏ, không có loài thực vật nước có rễ trong 
hồ, lượng muối dinh dưỡng cao hơn mức nguy hiểm đều được đánh giá là thuận lợi 
cho tảo bùng phát. Ngoài ra, hồ Xuân Hương là một thủy vực không ổn định, hệ 
thủy sinh bị xáo trộn thường xuyên do nạo vét, tháo cạn nước và tiếp nhận các 
nguồn nước mới có độ nhiễm bẩn nặng, cũng là điều kiện dễ bùng nổ tảo. 
Hiện tượng tần xuất bùng nổ tảo gia tăng sau cải tạo hồ năm 2010 có thể do các 
nguyên nhân sau: (i) Mức độ phú dưỡng của hồ có thể tăng cao do xáo trộn lớp 
trầm tích trong quá trình nạo vét (ở trường hợp 2/2011) và tiếp nhận nước lũ lần 
đầu (19/4/2011) cuốn theo theo nhiều chất bẩn rửa trôi (trường hợp 10/2011), ô 
nhiễm dinh dưỡng gia tăng do chất thải sinh hoạt (trong các năm tiếp theo); (ii) Hệ 
thủy sinh đã bị thay mới hoàn toàn do tháo sạch nước và nạo vét bùn trước đó, lưới 
thức ăn của thủy vực mới chưa kịp hình thành, hệ động vật sử dụng tảo làm thức 
ăn (cá, tôm, động vật phiêu sinh, động vật đáy) chưa kịp phát triển; (iii) Điều kiện 
thời tiết thuận lợi cho tảo bùng phát. 
Nghiên cứu hệ thủy sinh hồ Xuân Hương giai đoạn 1995-2004 cho thấy diễn 
biến hệ thực vật phiêu sinh qua các thời kỳ ở hồ Xuân Hương là khá phức tạp 
(bảng 3) [1]. 
Tảo silic và tảo lam thường là các loại ưu thế trong các thời điểm khảo sát. Tuy 
nhiên loài tảo lục Chlamydomonas sp. cũng xuất hiện với vai trò loài ưu thế trong 
hai đợt khảo sát vào tháng 8, 10/2004. Có thế thấy rằng ngoài dấu hiệu về sự gia 
Hóa học & Kỹ thuật môi trường 
H. K. Hòa, T. V. Hiếu, N. T. L. Chi, “Đề xuất giải pháp  Xuân Hương, thành phố Đà Lạt.” 80 
tăng nhanh chóng mật độ phiêu sinh thực vật thì cơ cấu loài ưu thế cũng thay đổi. 
Số loài ưu thế giảm dần so với trước đây, loài ưu thế cũng thay đổi liên tục theo 
thời gian. Nguyên nhân hiện tượng này có thể là do hàm lượng và tỷ lệ các muối 
dinh dưỡng trong hồ thay đổi. Đặc điểm này gây khó khăn hơn cho việc kiểm soát 
bùng nổ tảo ở hồ Xuân Hương. 
Bảng 3. Diễn biến hệ thực vật phiêu sinh qua các thời kỳ ở hồ Xuân Hương. 
Thời điểm 
khảo sát 
Số 
loài 
Mật độ ( tế bào/m3) 
(thấp nhất - cao nhất) 
Loài chiếm ưu thế 
11/1995 - 312.000 - 3.183.000 
Tảo silic Melosira granulata, 
Tảo lam Oscillatoria 
princeps, Oscillatoria limosa 
09/1999 - 8.707.000 - 11.458.000 Tảo silic Melosira granulata 
03/2000 100.200.000 - 118.700.000 
Tảo silic Melosira granulata 
07/2003 83 
1.180.000.000 - 
16.130.000.000 
Tảo silic Nitzschia acicularis 
Tảo lam Microcystis botrys. 
09/2003 44 413.500.000 - 1.620.000.000 Tảo silic Melosira granulata 
08/2004 105 4.320.000 - 11.500.000 Tảo lục Chlamydomonas sp. 
10/2004 56 6.780.000 - 11.460.0000 Tảo lục Chlamydomonas sp. 
11/2004 105 5.590.000- 34.350.000 
Tảo lam Anabaena spiroides 
Tảo silic Synedra ulna 
3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TỔNG THỂ NGĂN CHẶN TẢO NỞ HOA 
3.1. Một số hạn chế của các giải pháp đề xuất trước đây 
Hiện trạng tảo nở hoa (sự bùng nổ mật độ một hai vài loài tảo ưu thế) thực chất 
là kết quả của sự phá vỡ cân bằng của hệ thủy sinh cả khía cạnh hóa lý và sinh học 
mà hậu quả tiếp theo (nghiêm trọng hơn) làm biến đổi hoàn toàn hệ thủy sinh, mất 
hết đa dạng sinh học và nhiễm độc nguồn nước. Việc phục hồi lại những hồ này 
khó khăn, tốn kém và đòi hỏi thời gian dài. Giải pháp thay nước hồ và sử dụng hóa 
chất diệt tạo đã được đề xuất trước đây, tuy nhiên các giải pháp này có những 
nhược điểm sau: 
3.1.1. Giải pháp thay nước hồ (cơ học hoàn toàn) 
Hình 2. Dự án thay nước và nạo vét hồ Xuân Hương năm 2010. 
Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 81
Hạn chế của giải pháp thay nước hồ là: Lãng phí tài nguyên nước, phá vỡ cân 
bằng nước trong lưu vực, thay đổi đột ngột hệ thủy sinh hồ, đòi hỏi phải có thời 
gian để thiết lập lại hệ thủy sinh mới với các loài thích nghi mới, đòi hỏi thời gian 
khá lâu để tích đủ lượng nước cần thiết. Thực tế cũng cho thấy dự án xả hết nước 
hồ để nạo vét năm 2010 (hình 2) đã gây các tác động tiêu cực như sau: 
- Phát lộ các trầm tích lắng đọng trong hồ, có thể có cả các muối dinh dưỡng 
tích tụ trong nhiều năm qua, làm tăng hàm lượng chất dinh dương khi tích nước lại. 
- Tiếp nhận các nguồn nước thải đô thị chưa qua xử lý. 
- Hệ thủy sinh của vốn có của hồ Xuân Hương bị phá hủy hoàn toàn, không còn 
các loại cá, tôm, động vật phiêu sinh, động vật đáy. Dẫn đến không còn các loài 
thủy sinh đối kháng (dùng tảo làm thức ăn) và cạnh tranh. 
- Với điều kiện mặt hồ thoáng, nhiều ánh sáng, hàm lượng dinh dưỡng cao hiện 
tượng bùng nổ tảo dễ xuất hiện. Hậu quả là bùng nổ tảo xuất hiện sau một thời gian 
ngắn với tần xuất tăng lên so với các năm trước đấy. 
3.1.2. Giải pháp sử dụng hóa chất diệt tảo 
Sử dụng hóa chất diệt tảo là giải pháp bắt buộc khi khẩn cấp thường không 
mang tính bền vững và lâu dài. Những nhược điểm của phương pháp này là: Chỉ 
tác dụng trong thời gian ngắn, không ngăn chặn được về lâu dài; tăng hàm lượng 
các hóa chất sử dụng để diệt tảo trong nước; thay đổi hệ thủy sinh theo hướng 
tiêu cực (một số loài tảo có ích có vai trò đồng hóa các chất dinh dưỡng cũng bị 
tiêu diệt). 
3.2. Đề xuất giải pháp tổng hợp 
3.2.1. Quan điểm 
Phải có sự nhất quán về quan điểm đối với vai trò, vị trí của hồ Xuân Hương, 
các giải pháp đề xuất phải bám sát những quan điểm được xác lập như sau: 
- Hồ xuân Hương là hồ cảnh quan, là một thắng cảnh quan trọng nhất của thành 
phố Đà Lạt, phải luôn đảm bảo chất lượng nước và mực nước theo yêu cầu. 
- Không tham gia vào nhiệm vụ điều tiết lũ, dòng chảy đô thị. 
- Không phục vụ cho bất cứ mục đích cấp nước nào (kể cả sử dụng để tưới cho 
sân Golf như đã làm từ trước đến nay). 
3.2.2. Nhiệm vụ 
Để bảo vệ hồ Xuân Hương cần phải thực hiện tốt 02 nhiệm vụ sau đây: 
- Ổn định mực nước hồ ở mọi thời gian trong năm (thông qua việc cung cấp đủ 
lượng nước bù cho lượng tiêu hao do bay hơi) đồng thời duy trì được lưu lượng 
nhất định qua xi phông để bảo đảm lượng nước tối thiểu cho thác Cam Ly. 
- Đảm bảo chất lượng nước hồ đạt một tiêu chuẩn nhất định (không ảnh hưởng 
đến cảnh quan và chất lượng môi trường của khu vực) và duy trì mức phù dưỡng 
không vượt ngưỡng có khả năng gây hiện tượng tảo nở hoa. 
3.2.3. Giải pháp quy hoạch môi trường 
Cần phải có kế hoạch quản lý tổng hợp các hoạt động trong vùng lưu vực để 
chủ động kiểm soát chất lượng nước hồ, ngăn ngừa tình trạng bùng nổ tảo độc. Các 
Hóa học & Kỹ thuật môi trường 
H. K. Hòa, T. V. Hiếu, N. T. L. Chi, “Đề xuất giải pháp  Xuân Hương, thành phố Đà Lạt.” 82 
dự án phát triển kinh tế xã hội trong vùng lưu vực cần phải được xem xét kỹ lưỡng, 
tránh gia tăng các hoạt động có khả năng sinh thêm nguồn ô nhiễm, đặc biệt là 
nguồn ô nhiễm dinh dưỡng. Quy hoạch sử dụng đất hợp lý, đảm bảo duy trì tối 
thiểu các mặt đệm tự nhiên để giữ nước trong lưu vực. Các dự án, hoạt động khai 
thác nước trong lưu vực cần phải được nghiên cứu, đánh giá nghiêm túc, tránh làm 
cạn kiệt nguồn nước bổ cập cho hồ Xuân Hương. 
3.2.4. Quy hoạch thủy lợi 
Quy hoạch thủy lợi nhằm tăng năng lực điều tiết/điều hòa của các hồ thượng 
nguồn. Các nội dung chính của công tác quy hoạch thủy lợi gồm: (i) Mở rộng dung 
lượng chứa của 02 hồ thượng nguồn gồm hồ Chiến Thắng và hồ Mê Linh; (ii) Bổ 
sung chức năng điều tiết cho 03 hồ lắng trước hồ Xuân Hương. 
3.2.5. Cải tạo các hồ lắng kết hợp với xử lý nước 
Cải tạo các hồ lắng bao gồm cả tăng sức chứa kết hợp với xử lý nước với các 
nhiệm vụ sau: (i) Tham gia vào điều tiết dòng chảy đô thị trong lưu vực; (ii) chủ 
động điều tiết dòng chảy ổn định cho hồ Xuân Hương; (iii) tăng không gian mở đô 
thị, tạo cảnh quan đẹp; và (iv) giảm hàm lượng chất dinh dưỡng. Các hồ lắng được 
đề xuất cải tạo, mở rộng như nêu trong hình 3. Sơ đồ nguyên lý hồ hai cấp kết hợp 
với xử lý nước vào hệ thống hồ được trình bày trong hình 4. Kỹ thuật xử lý được 
đề xuất là lọc nhỏ giọt (trickling filter) và hồ sinh học. Phương pháp lọc nhỏ giọt 
có nhiều điểm phù hợp với trường hợp cụ thể của hồ Xuân Hương, nếu được vận 
hành tốt có khả năng loại được 90% các muối nitơ [5]. 
Hình 3. Đề xuất cải tạo mở rộng các hồ lắng. 
Nghiên cứu khoa học công nghệ 
Tạp chí Nghiên cứu KH&CN quân sự, Số Đặc san NĐMT, 09 - 2017 83
Điều tiết vào hồ 
Xuân Hương
Hố thu và bơm
Tưới nhỏ giọt
Điều tiết giữa hai hồ
Hồ 1
Hồ 2
Hình 4. Sơ đồ nguyên lý cải tạo các hồ lắng. 
3.2.6. Biện pháp sinh học để cải tạo ổn định hệ thủy sinh trong lòng hồ 
- Thả nuôi tự nhiên nhiều loài thủy sản bản địa (đặc biệt là các loài ăn lọc, sử 
dụng tảo làm thức ăn) 
- Ổn định tầng bùn đáy, tạo điều kiện phát triển đa dạng hệ động vật đáy. 
3.2.7. Thiết lập hệ thống giám sát, cảnh báo chất lượng nước hồ 
Nguy cơ lớn nhất đối với hồ Xuân Hương là xuất hiện các đợt bùng nổ tảo gây 
ảnh hưởng trầm trọng đến cảnh quan của thành phố du lịch. Do đó việc giám sát hồ 
cần tập trung vào kiểm soát sự phát triển của các loài tảo trong hồ. Ba chỉ tiêu 
thường hay được quan trắc đồng thời về tình trạng tảo trong hồ là: Độ trong 
Secchi, Chlorophyll a và tổng Phốtpho (là chất dinh dưỡng kích thích sự phát triển 
của tảo). Sử dụng đồng thời 03 thông số này có thể thu thập được thông tin quan 
trọng về quan hệ của điều kiện phú dưỡng và sự phát triển của tảo. 
4. KẾT LUẬN 
Tình trạng phú dưỡng và hiện tượng bùng nổ tảo xảy ra ngày càng thường 
xuyên hơn ở hồ Xuân Hương đòi hỏi phải triển khai nhanh chóng và đồng bộ các 
giải pháp thích hợp để bảo vệ hồ. Tần suất xuất hiện bùng nổ tảo nhiều hơn do tải 
lượng các muối dinh dưỡng từ chất thải đô thị vào hồ rất lớn, hệ thủy sinh hồ 
thường xuyên bị xáo trộn, thay đổi, thiếu ổn định và nghèo về đa dạng loài. Để bảo 
vệ hồ cần thực hiện 2 nhiệm vụ chính là tích, điều tiết hợp lý nước trong lưu vực 
và kiểm soát xử lý các nguồn nước vào hồ đảm bảo tải lượng dinh dưỡng dưới mức 
nguy hiểm. Xử lý nước bằng phương pháp tưới nhỏ giọt và hồ sinh vật trước các 
hồ lắng như đã đề xuất là giải pháp thích hợp để khử các muối dinh dưỡng, ngăn 
ngừa được hiện tượng phú dưỡng hóa của hồ Xuân Hương. Ổn định thủy vực hồ, 
tạo điều kiện để phát triển hệ thủy sinh hồ đa dạng về loài là giải pháp sinh học 
quyết định chất lượng và tính bền vững của hồ Xuân Hương. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng, “Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Lâm 
Đồng năm 2004,” (2005), tr. 96-116. 
[2]. Lưu Lan Hương; Nguyễn Thị Hồng Hạnh. “Kết quả nghiên cứu tình trạng phú 
dưỡng của Hồ Lắc”, 
[3]. C.F. Mason, “Biology of Freshwater Pollution,” 2nd ed. Longman Scienticfic & 
Technical, Hong Kong (1991). 
Hóa học & Kỹ thuật môi trường 
H. K. Hòa, T. V. Hiếu, N. T. L. Chi, “Đề xuất giải pháp  Xuân Hương, thành phố Đà Lạt.” 84 
[4]. Alexander J. Horne; Charles R. Goldman, “Limnology,” Mac Graw Hill, 
Singapore (1994). 
[5]. EPA 832-F-00-015/September 2000. “Wastewater Technology Fact Sheet -
Trickling Filter Nitrification”. 
 ABSTRACT 
PROPOSED SOLUTION TO PREVENT ALGAL BLOOMS 
IN XUAN HUONG LAKE, DALAT CITY 
Algal blooms and especially harmful algal blooms are occurring more 
and more frequently in the Xuan Huong Lake of Dalat City. This situation is 
causing a huge influence in the most important place of interest of the city. 
The consequences could be very large damage not only to tourism but also to 
the health of community residents and city visitors. There have been many 
efforts and significant financial investment for the protection and restoration 
of Xuan Huong Lake, but improving water quality and aquatic ecosystem 
stability in the lake has not been paying enough attention, and so far there is 
no direction for a radical and long-term solution of the problem. In this 
paper, some insights on the cause of algal blooms and proposes solutions to 
improve or/and protect water quality of the Xuan Huong lake are presented. 
Keywords: Eutrophication, Algal blooms. 
Nhận bài ngày 11 tháng 8 năm 2017 
Hoàn thiện ngày 25 tháng 8 năm 2017 
Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 9 năm 2017 
Địa chỉ : 1 Viện Nhiệt đới môi trường; 
 2 Phân Viện Khí tượng Thủy văn và Môi trường phía Nam; 
 3 Đại học Tôn Đức Thắng. 
 * Email: 
[email protected].