Đề tài Xu hướng quốc tế hoá kinh tế thế giới và sự ra đời của AFTA

Tài liệu Đề tài Xu hướng quốc tế hoá kinh tế thế giới và sự ra đời của AFTA: Lời mở đầu Trong xu hướng quỗc tế hoá đời sống kinh tế thế giới, với những cấp độ toàn cầu hoávà khu vực hoá, lực lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài phạm vi biên giới của mỗi quốc gia, sự phân công lao động , quốc tế phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu; vai trò của các công ty đa quốc gia được tăng cường, việc hình thành các liên kết khu vực ngày một phát triển, hầu hết các quốc gia đang chuyển sang mô hình kinh tế với việc khai thác ngày càng triệt để lợi thế so sánh của mỗi nước.Để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của thương mại quốc tế trên thị trường thế giới ngày nay,các quốc gia trên hành tinh chúng ta trong quá trình phát triển đã từng bước tạo lập nên các mối quan hệ song phươngvà đa phương, từng bước tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế với nhiều mức độ khác nhau nhằm đưa lại lợi ích thiết thực cho mỗi bên.Chính các liên kết kinh tế quốc tế là sự biểu hiện rõ nét của hai xu hướng: Khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức sống động và đặc biệt quan trọng trong n...

doc44 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1048 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Xu hướng quốc tế hoá kinh tế thế giới và sự ra đời của AFTA, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong xu hướng quỗc tế hoá đời sống kinh tế thế giới, với những cấp độ toàn cầu hoávà khu vực hoá, lực lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài phạm vi biên giới của mỗi quốc gia, sự phân công lao động , quốc tế phát triển cả về bề rộng lẫn bề sâu; vai trò của các công ty đa quốc gia được tăng cường, việc hình thành các liên kết khu vực ngày một phát triển, hầu hết các quốc gia đang chuyển sang mô hình kinh tế với việc khai thác ngày càng triệt để lợi thế so sánh của mỗi nước.Để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của thương mại quốc tế trên thị trường thế giới ngày nay,các quốc gia trên hành tinh chúng ta trong quá trình phát triển đã từng bước tạo lập nên các mối quan hệ song phươngvà đa phương, từng bước tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế với nhiều mức độ khác nhau nhằm đưa lại lợi ích thiết thực cho mỗi bên.Chính các liên kết kinh tế quốc tế là sự biểu hiện rõ nét của hai xu hướng: Khu vực hoá và toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức sống động và đặc biệt quan trọng trong những năm gần đây. Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của toàn cầu hoá, khu vực hoá, của hội nhập quốc tế, do vậy các quốc gia đang phát triển sẽ không có sự lựa chọn nào khác hơn là lựa chọn mô hình công nghiệp hoá theo hướng hội nhập quốc tế. Phù hợp với xu thế này Việt Nam đã và đang tham gia tích cực và có hiệu quả cao vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và khu vực mậu dịch tự do ASEAN (ASEAN free trade area: AFTA) Đây là sự kiện và bước ngoặt đáng ghi nhận. Đồng thời cũng là vấn đề hết sức mới mẽ đôí với các doanh nghiệp Việt Nam vốn vẫn quen với “vòng tay bảo hộ ”của Nhà Nước. Theo ý kiến của các chuyên gia, nhiều DNCNVN còn hoạt động như thời bao cấp, kém năng động, phần lớn đến nay vẫn chưa sẵn sàng cho hội nhập. Do vậy khi tham gia vào AFTA , thực hiện biểu thuế ưu đãi có hiệu lực chung(CEPT) Tức khi nhà nước phải giảm và tiến tới xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan ngăn cách buôn bán giữa Việt Nam và các nước ASEAN thì việc nghiên cứu , xem xét, thảo luận, phân tích đánh giá những cơ hội, thách thức đối với các DNCNVN, đồng thời đưa ra nhiều những phương hướng và giải pháp để các DNCNVN phát huy được thế mạnh, tận dụng được cơ hội của mình cũng như hạn chế những ảnh hưởng xấu, vượt qua thách thức để tồn tại trong môi trường mới là hết sức cần thiết. Vì đây là nghiên cứu mang tính khoa học đầu tiên và cùng với những hạn chế về kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tiễn nên đề án còn nhiếù sai sót, em mong cô giáo Thạc sĩ Nguyễn Thu Thuỷ giúp đỡ, chỉ bảo để đề án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I: Khái Quát Chung Về AFTA I / Khu vực hoá kinh tế và các hình thức chủ yếu của nó Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới đang diễn ra ở những cấp độ khác nhau với xu hướng toàn cầu hoá đi đôi với xu hướng khu vực hoá. Toàn cầu hoá kinh tế là hình thành một thị trườngthế giới thống nhất, một hệ thống tài chính, tín dụng toàn cầu , là việc phát triển và mở rộng phân công lao động quốc tế theo chiều sâu, là sự mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học công nghệ giữa các nước trên quy mô toàn cầu;là việc giải quyết các vấn đề kinh tế –xã hội có tính chất toàn cầu như vấn đề dân số,tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ mội trường sinh thái…Trong khi đó , khuvực hoá kinh tế chỉ diễn ra trong một không gian địa lý nhất định dưới nhiều hình thức như: khu vực mậu dịch tự do, đồng minh (Liên minh) thuế quan, đồng minh tiền tệ,thị trường chung, đồng minh kinh tế…Nhằm mục đích hợp tác,hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, từng bước xoá bỏ những cản trở trong việc di chuyển tư bản,lực lượng lao động, hàng hoá dịch vụ …Tiến tới tự do hoá hoàn toàn những di chuyển nói trên giữa các nước thành viên trong khu vực. ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển (hay còn gọi là các quốcgia công nghiệp phát triển), thì xu hướng tham gia hội nhập vào nềnkinh tế các nước trong khu vực và bảo hộ mậu dịch ngày càng gia tăng. Việc tham gia mạnh mẽ và rộng rãi vào các khối liên kết kinh tế khu vực, từng bước tiến tới sự nhất thể hoá cao thông qua các văn bản,hiệp định kí kết đã đưa lại cho các quốc gia trong liên minh sự ổn định, hợp tác cùng phát triển. Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp của các quốc gia thành viên được hưởng những ưu đãi về thương mại cũng như phải gánh vác các nghĩa vụ về tài chính, giảm thuế cũng như các miễn giảm khácv.v..(các quốc gia trong hiệp hội mậu dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA ), các quốc gia trong liên minh châu âu(EU) là những liên kết phản ánh rõ nét các xu hướng trên). Kinh tế giữa các nước thành viên.Theo thoả thuận hợp tác này, các quốc gia trong liên minh bên cạnh việc xoá bỏ thuế quan và những hạn chế về mậu dịch khác giữa các quốc gia thành viên, còn cần phải thiết lập một biểu thuế quan chung của khối đối với các quốc gia ngoài liên minh ,tức là phải thực hiện chính sách cân đối mậu dịch với các nước không phải là thành viên. Thị trường chung: Đây là một liên minh quốctế ở mức độ cao hơn liên minh thuế quan,tức là ngoài việc áp dụng các biện pháp tương tự như liên minh thuế quan trong trao đổi thương maị, hình thức liên minh này còn cho phép tư bản và lực lượng lao động tự do di chuyển giữa các nước thành viên thông qua từng bước hình thành thị trường thống nhất (các quốc gia trong cộng đồng kinh tế Châu Âu). Liên minh tiền tệ: Đây là một liên minh chủ yếu trên lĩnh vực tiền tệ. Theo thoả thuận này các nước thành viên phải phối hợp chính sách tiền tệ thống nhất trong toàn khối, thống nhất đồng tiền dự trữ và đồng tiền sử dụng chung trong khối. Liên minh kinh tế: Đây là một liên minh quốc tế với một mức độ cao hơn về sự tự do di chuyển hàng hoá,dịch vụ, tư bản và lực lượng lao động giữa các quốc gia thành viên, đồng thời thống nhất biểu thuế quan chung áp dụng cho cả nước không phải là thành viên. Ngoài ra, các nước thành viên còn thực hiện thồng nhất các chính sách kinh tế; tài chính, tiền tệ.(Liên minh Châu Âu: EU từ năm 1994 được coi là liên minh kinh tế ). II/ Xu hướng quốc tế hoá kinh tế thế giới và sự ra đời của AFTA Xu hướng quốc tế hoá kinh tế thế giới Có thể nói rằng toàn cầu hoá, khu vực kinh tế là xu hướng đang chiếm ưu thế trong nền kinh tế hiện đại, do đó thương mại quốc tế ngày càng được tự do hoá. Đã xuất hiện nhiều tổ chức kinh tế manh tính khu vực như EU, APEC, AFTA , Asean…. Trình độ quốc tế càng cao thì tỷ trọng trao đổi giữa các quốc gia càng lớn. Theo một báo cáo về tình hình kinh tế thế giới trong giai đoạn 1990-2000 của WB (lấy giá năm 1988 làm chuẩn) thì thị trường thế giới về các ngành công ngiệp quan trọng nhất tăng từ 6.188 tỷ USD năm 1973 lên 7683 tỷ năm 1980 và 9852 tỷ USD năm 1988 và dự kiến năm 2000 sẽ tăng lên tới 14522 tỷ USD trong đó trao đổi giữa các quốc gia chiếm tỷ trọng ngày càng tăng từ 15,3% năm 1973 lên 22,8% năm 1988 và dự kiến đến năm 2000 sẽ là 28,5% . Điều gì đã làm cho thương mại thế giới phát triển như ngày nay ? Đó là sự bùng nổ của tự do hoá trương mại khu vực và toàn cầu thể hiện qua việc xuất hiện ngày càng nhiều các tổ chức kinh tế mang tính khu vực. Tự do hoá thương mại được khởi xướng ở Bắc Mỹ và Châu Âu. ở Châu á, tiếp sau Nhật Bản là Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kong, Singapo đã theo đuổi chính sách hướng ngoại, mở cửa và tích cực hội nhập vào thị trường quốc tế ; thực hiện tự do hoá từng bước . Kết quả bốn nước này đã tăng thu nhập đầu người từ mức 20% so với các nước công nghiệp vào năm 1965 lên 70% vào năm 1995. Con đường hướng ngoại,thực hiện tự do hoá thương mại được thực hiện tiếp nối ở Chi Lê, Malayxia và Thái Lan vào đầu thập niên 70 và sau đó là Trung Quốc vào đầu thập niên 80. Nhiều người cho rằng khi hội nhập vào kinh tế khu vực sẽ giảm bảo hộ sản xuất trong nước, do đó sẽ tăng thất nghiệp và giảm tăng trưởng. Lịch sử đã chứng minh không một nước nào có thể đạt tốc độ phát triển nhanh mà không mở cửa kinh tế, không tích cực hội nhập . Theo WB số người sống ở mức nghèo khổ ở Châu á (dưới 1USD/ ngày) đã giảm từ 700tr người xuống còn 300tr người năm 1995. Trung quốc nhờ thoả thuận với Mỹ mở cửa thị trường hơn nữa và chuẩn bị ra nhập WTO sẽ làm cho thu nhập quốc dân tăng thêm 30% năm nhờ vậy tăng thêm 12 triệu việc làm. Rõ ràng xu hướng khu vực hoá Kinh tế là tất yếu. Nó mang lại những lợi ích kinh tế to lớn cho cả người sản xuất và người tiêu dùng trong các nước thành viên . Một quốc gia nào đó gia nhập các nước thực hiện ưu đãi mậu dịch thường đưa lại những lợi ích chủ yếu sau đây: Một là, tạo lập quan hệ mậu dịch giữa các nước thành viên, mở rộng hơn nữa khả năng xuất nhập khẩu hàng hoá của các nước trongliên minh với các nước, các khu vực khác trên thế giới. Cũng trong điều kiện này mà tiềm năng kinh tế của các nước thành viên được khai thác một cách có hiệu quả. Chính việc tạo lập mậu dịch tự do hội nhập khu vực đã làm tăng thêm phúc lợi thông qua việc thay thế các ngành, trước hết là công nghiệp của các nước chủ nhà có chi phí cao (lãng phí nguồn lực) bằng những ngành có chi phí thấp hơn (tức có hiệu quả hơn) của những quốc gia nhận được sự ưu đãi. Cũng trong điều kiện này, lợi ích của người tiêu dùng cũng được tăng lên nhờ hàng hoá của các nước thành viên đưa vào nước chủ nhà luôn nhận được sự ưu đãi. Do đó giá hàng hoá giảm xuống làm cho người dân ở nước chủ nhà có thể mua được khối lượng hàng hoá lón hơn mức chi phí thấp hơn. Hai là, Hội nhập khu vực còn góp phần vào việc chuyển hướng mậu dịch. Sự chuyển hướng này diễn ra phổ biến khi hình thành liên minh thuế quan, vì khi đó các điều kiện buôn bán giữa các nước thành viên trong liên minh sẽ trở nên thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn. Ngay cả trong trường hợp một nước nào đó trong liên minh tiến hành nhập khẩu những sản phẩm của các quốc gia ngoài liên minh với giá thấp hơn, nhưng nay được thay thế bằng nhập khẩu những sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong liên minh mà giá cả lại cao hơn (do được hưởng chính sách ưu đãi thuế quan…) Chính những ưu đãi này giữa các nước thành viên trong liên minh đã đưa tới sự chuyển hướng mậu dịch nói trên (tức là thay thế những người cung cấp sản phẩm cùng loại có chi phí thấp hơn nhưng không được hưởng các chính sách ưu đãi bằng những người cung cấp những sản phẩm với chi phí cao hơn (kém hiệu quả ) nhưng được hưởng sự ưu đãi của khối. Có thể đưa ra một ví dụ giản đơn để minh hoạ như sau: Trước đây Singapo thường nhập cà phê của Braxin với giá thấp hơn của Việt Nam vì giá cà phê cuả Braxin là 1500 USD/ tấn còn Việt Nam là 1600USD/tấn với mức thuế nhập khẩu cho cả hai trường hợp là 20%. Nhưng sau khi Việt Nam ra nhập liên minh thuế quan thì bây giờ giá ca phê nhập khẩu từ Việt Nam không bị đánh thuế nữa và chỉ là 1600 USD/tấn thấp hơn giá cà phê nhập từ Braxin (1800USD/ tấn) vì có thuế nhập khẩu là 20%. Chính vì vậy, việc nhập khẩu cà phê của Singapore sẽ chuyển hướng từ thị trường Braxin sang thị trường Việt Nam. Cần phải nhận thấy rằng việc chuyển hướng mậu dịch chỉ đưa lại lợi ích cục cho các quốc gia trong nội bộ liên minh. Còn xét một cách tổng thể trên phạm vi thế giới thì liên minh thuế quan cục bộ đã làm giảm phúc lợi chung của thế giới nếu như liên minh đó đưa tới xu hướng khuyến khích các ngành sản xuất kém hiệu quả. Như vậy, những tác động tích cực và tiêu cực do thương mại đưa lại là sự kết hợp chặt chẽ của sự thay đổi cả trong lĩnh vực sản xuất và trong lĩnh vực tiêu dùng. Đó là sự thay thế của các ngành sản xuất trong nước bằng ngành hàng của các nước đối tác trong liên minh (tác động về sản xuất) và sự thay thế tiêu dùng hàng nội địa bằng hàng của các nước đối tác (tác dụng với tiêu dùng). Tác động tổng thể đối với các nước thành viên phụ thuộc chủ yếu vào mức độ tác động tích cực và tiêu cực mà thương mại tạo ra. Nếu những tác động tích cực đưa lại những lợi ích lớn hơn những lợi ích tổn hại do tác động tiêu cực gây ra đối với một nước thành viên nào đó, thì khi đó hiệp định mậu dịch tự do xét một cách tổng thể là có lợi đối với quốc gia thành viên đó. Tổng quát lại có thể khẳng định rằng hội nhập vào khu vực, tham gia tích cực vào khu vực mậu dịch tự do chỉ mang lại hiệu quả cao nếu những người sản xuất có hiệu quả nhất (chi phí thấp nhất) là các nước thành viên hoặc khi hiệp định về mậu dịch không làm giảm đi những hoạt động buôn bán giữa các nước thành viên với các khu vực và các quốc gia còn lại trên thế giới. Ba là, hội nhập vào khu vực, thực hiện tự do hoá thương mại tạo điều kiện cho mỗi quốc gia thành viên có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp thu vốn, công nghệ, trình độ quản lý,… từ quốc gia khác trong liên minh. Về lâu dài tự do trương mại góp phần tăng năng xuất lao động , tăng trưởng kinh tế. Tự do hoá thương mại thúc đẩy tăng trưởng kinh té bằng hai cách: tăng xuất khẩu và tăng năng xuất cận biên của hai yếu tố sản xuát là vốn và lao động. Trước hết, việc đâỷ mạnh xuất khẩu sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất của từng quốc gia, điều đó được thể hiện: - Thực hiện tự do hoá thương mại đang gây ra áp lực lớn đối với mỗi quốc gia trong liên minh trong các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, buộc các ngành phải phấn đấu giảm giá hoặc giữ giá ở mức tương đối thấp. Muốn vậy các ngành này phải nhanh tróng thay đổi công nghệ, áp dụng rộng rãi những kinh nghiệm quản lý, những thành tựu mới và hiện đại của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ. - Trong điều kiện hội nhập, các quốc gia thành viên đang có xu hướng tập trung đầu tư và phát triển các ngành sản xuất hàng xuất khẩu có hiệu quả nhất và phát huy tối ưu những lợi thế về nguồn lực của mình. - Việc hội nhập vào khu vực sẽ cho phép mỗi quốc gia thành viên năng cao hiệu quả xuất khẩu theo quy mô và do đó thúc đẩy tăng trưởng sản xuất. - Đẩy mạnh xuất khẩu có hiệu quả tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia tăng vốn tích luỹ và do đó thúc đẩy tái sản xuất mở rộng không ngừng. - Tăng cường xuất khẩu góp phần tạo lập cân bằng cán cân thanh toán theo hướng tích cực, tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia đây là điều kiện quan trọng để giảm lãi xuất cho vay khuyến khích người sản xuất kinh doanh vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tốc độ tăng trưởngvà phát triển kinh tế… Tiếp đến việc tăng hiệu quả sản xuất nhờ nâng cao năng xuất cận biên của hai yếu tố sản xuất cho phép mỗi quốc gia thành viênkhông cần phải thay đôỉ cơ cấu vật chất của sản xuất, thậm chí không tăng thêm chi phí sản xuất mà vẫn đạt hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên bất cứ vấn đề gì cũng có tính hai mặt của nó. Việc hội nhập kinh tế khu vực cũng có mặt trái của nó, cũng có những thách thức mà một quốc gia phải lường trước, tính toán để hạn chế , vượt qua. Đó là : - Các nước thành viên phải nhanh chóng điều chỉnh lại các cân đối trong nền kinh tế trên cơ sở xoá bỏ những hạn chế về thương mại như thuế quan, hàng rào phi thuế quan, trong đó phải kể đến sự điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu vùng,cơ cấu giá và tỷ giá hối đoái. - Vấn đề việc làm và giải quyết thất nghiệp . - Cải cách hệ thống tài khoá, đặc biệt là những trường hợp thuế quan mậu dịch có tỷ trọng đáng kể trong nguồn thu ngân sách và do đó làm nảy sinh những khó khăn cho việc cân đối ngân sách của chính phủ. - Cần phải thiết lập khuôn khổ pháp lý chung (luật chơi chung) đối với các nước thành viên trước hết cần giải quyết một số vấn đề có liên quan tới các quy định thuế quan, hải quan, chuẩn mực lao động, môi trường sinh thái, chất lượng sản phẩm. - Vấn đề giải quyết công bằng, bình đẳng trong xã hội và giữa các nước trong nội bộ khu vực. Khả năng thu được lợi ích tối đa của mỗi quốc gia khi hội nhập vào nền kinh tế các nước trong khu vực. Do diều kiện cụ thể của mỗi nước, do trình độ phát triển kinh tế còn khác nhau, các doanh nghiệp tham gia hoạt động trong điều kiện hội nhập cũng không giống nhau nên mức độ thu lợi cũng có thể khác nhau. Chính vì vậy việc điều hoà các lợi ích giữa các quốc gia và trong nội bộ quốc gia xét cả ở trên tầm vĩ mô và vi mô trở nên cực kỳ quan trọng. Sự ra đời của AFTA . Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới đã đặt ra những thử thách to lớn không thể vượt qua với hiệp hôị các quốc gia Đông Nam á. Nếu không có sự cố gắng chung của toàn hiệp hội , đó là sự xuất hiện của những tổ chức hợp tác khu vực như EU,NAFTA mà asean e ngại sẽ trở thành các khối thương mại khép kín. Do đó sẽ làm cho hàng hoá của asean vấp phải những trở ngại khi thâm nhập các thị trường này. Mặt khác aean đang mất dần lợi thế so ánh về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực để thu hút đầu tư nước ngoài so với Trung Quốc, Nga và các nước Đông Âu. Kinh tế asean tăng trưởng với nhịp độ cao nhưng vẫn phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài. Năm 1992 theo sáng kiến của Thái lan , hội nghị thượng đỉnh các nước asean họp tại Singapo đã quyết định thành lập khối mậu dịch tự do Asean: AFTA với ba mục tiêu cơ bản: Tự do hoá thương mại Asean bằng việc loại bỏ các hàng rào thúê quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan . Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một khối thị trường thống nhất. Làm cho Asean thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi đặc biệt là phát triển các thoả thuận thương mại khu vực trên thế giới. Để biến Asean thành khu vực mậu dịch tự do và thực hiện các mục tiêu của AFTA thì các nước thành viên đã kí kết Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT. Đây là động lực quan trọng nhất. Nội dung của CEPT là trong vòng 10 năm (19 93-2003) giảm thuế quan trong thương mại nội bộ Asean xuống còn từ 0- 5% đối với sáu nước thành viên cũ Asean vào năm 2006 đối với Việt Nam và muộn hơn với Lào, Campuchia đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi thuế quan. Để thực hiện chương trình giảm thuế này, toàn bộ các mặt hàng trong doanh mục biểu thuế quan của mỗi nước được chia vào 4 danh mục sau: 1. Danh mục các sản phẩm giảm thuế gồm các mặt hàng được đưa vào cắt giảm thuế quan ngay với lịch trình giảm nhanh và giảm bình thường. 2. Danh mục sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế gồm các mặt hàng tạm thời sẽ chưa phải giảm thuế và sau một thời gian nhất định các quốc gia phải đưa toàn bộ các mặt hàng này vào danh mục giảm thuế. 3. Danh mục sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm, các mặt hàng trong doanh mục này có thời hạn cắt giảm thuế quan muộn hơn, cụ thể là năm 2010 hoăc muộn hơn nữa đối với mặt hàng nhạy cảm cao. 4. Danh mục loại trừ hoàn toàn gồm những sản phẩm không tham gia Hiệp định CEPT. Đây là có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức… Bên cạnh việc cắt giảm thuế quan ,CEPT còn quy định việc xoá bỏ hạn chế về số lượng nhập khẩu , các rào cản phi thuế quan khác và lĩnh vực hợp tác trong lĩnh vực hải quan. Hiệp định CEPT áp dụng mọi sản phẩm chế tạo kể cả sản phẩm nông sản. Muốn được hưởng ưu đãi giảm thuế trong khuôn khổ CEPT cần thoả mãn hai điều kiện sau. 1. Phải là sản phẩm nằm trong doanh mục sản phẩm giảm thuế và được hội đồng AFTA xác nhận. 2. Các sản phẩmphải có tối thiểu 40%giá trị được chế tạo từ các nước thành viên Asean. 3. Sản phẩm đó phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế của cả nước nhập và nước xuất khẩu, và phải có mức thuế quan(nhập khẩu)bằng hoặc thấp hơn 20%. III. Sự cần thiết gia nhập AFTA của Việt Nam. Chuyển sang nền kinh tế mở, Việt nam đanh từng bước hội nhập vào xu thế tự do hoá thương mại toàn cầu, trong đó việc tham gia AFTA của VN được coi là bước khởi đầu quan trọng nhất, có thể ví như cuộc diễn tập toàn diện đầy đủ để chuẩn bị gia nhập diễn đàn hợp tác Châu á - TBD cũng như tổ chức thương mại thế giới WTO. Ngày 28.7.1995, VN trở thành thành viên chính thức, với tư cách là thành viên của hiệp hội, tháng 12 năm 1995 tại hội nghị thượng đỉnh các nước Asean lần thứ 5, VN đã thực hiện chương trình ưu đãi về thuế quan có hiệu lực chung CEPT bắt đầu 1/1/1996 công bố danh mụcvà tiến hành cắt giảm thuế quan cho cả lộ trình 1996-2000. Việt Nam tham gia Asean, thực hiện AFTA/ CEPT trong hoàn cảnh kinh tế không giống các nước thành viên khác. Hiện nay Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của công cuộc CNH, HĐH đất nước. Nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu rất nhiều so với các nước trong khu vực Thu nhập quốc dân của nước ta còn rất thấp, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn rất nhỏ bé, cơ cấu kinh tế còn rất lạc hậu , mặc dù công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao 18,7% năm 2000 so với 1999, nhưng tỷ trọng ngành Công Nghiệp trong toàn bộ nền KTQD còn thấp. Ngành công nghiệp chế biến chiếm 80,5% toàn ngành Công nghiệp và chiếm 18,7 % tổng sản phẩm quốc dân. Kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ bé. Tổng kim ngạch XK hai chiều bình quân của giai đoạn 1996-2000 là 22,5 tỷ USD. Tỷ trọng XK trong GDP bình quân 1996 -2000 là 37,6%. Tình hình xuất khẩu thời kì 1995- 2000 Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Kim ngạch 5448 7255 9185 9361 11523 14308 Tốc độ tăng(%) 34,4 33,2 26,6 21,9 23,1 23,9 Nguồn niên giám thống kê 1998 và báo cáo của Bộ Thương Mai Tỷ lệ hàng sơ chế trong tổng giá trị xuất khẩu vẫn cao 54,8% trong khi một số nước Asean, tỷ lệ hàng chế biến hay đã tinh chế thường cao hơn như Indônêxia 52%, Malayxia 85%, Philippin 75%, Singapo 80%, Thái Lan 71%. Đặc biệt khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới thường thấp do chất lượng thấp, giá cả cao, mẫu mã không phong phú hệ thống pháp luật yếu và chưa tương thích với luật pháp của các quốc gia trong khu vực, đội ngũ cán bộ còn yếu kém. Trong hoàn cảnh như vậy ,Việt Nam tham gia vào AFTA là một tất yếu không những vì Việt Nam đã là thành viên của ASEAN mà còn do những tác động tích cực của nó đối với sự phát triển kinh tế của đất nước ta. Chính những thực trạng khó khăn trên của Việt Nam lại là cơ hội để Việt Nam tham gia AFTA Hội nhập AFTA là điều kiện để Việt Nam đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HDH, phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp vào năm 2002. Do Việt Nam phải cắt giảm thuế theo hiệp định CEPT nên giá cả hàng hoá Asean nhập vào Việt Nam sẽ trở nên rẻ làm tăng số dư của người tiêu dùng. Hội nhập AFTA sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá sang các nước Asean vì hàng rào của họ cũng được cắt giảm thuế bảo hộ như của mình. Một thị trường rộng lớn với đòi hỏi không quá cao về chất lượng sẽ được mở ra cho các DNVN, thị trường tiêu dùng được mở rộng ra là một yếu tố giúp VN huy động tiềm năng lao động và tài nguyên dồi dào của mình và tăng xuất khẩu kể cả đối với các hàng hoá xuất khẩu sang thị trường ngoài Asean thì lợi ích mà AFTA mang lại cho Việt Nam là giảm giá thành sản xuất nhờ mua được vật tư đầu vào với gía hạ hơn từ các nước Asean. Chính điều đó làm cho Việt Nam hấp dẫn hơn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Trước sự cạnh tranh khốc liệt khi nhà nước giảm thuế theo CEPT sẽ buộc cả phiá nhà nước và phía các doanh nghiệp công nghiệp cố gắng hội nhập, có những thay đổi trong tư duy, trong chính sách , chiến lược để tạo ra môi trường pháp lý, kinh doanh, đầu tư hiệu quả hơn, học hỏi, tiếp thu nâng cao trình độ để có thể tham gia vaò cuộc cạnh tranh đầy khốc liệt. Hội nhập AFTA sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam hình thành mở rộng hơn nữa các mối quan hệ giữa nền kinh tế Việt Nam với khuôn khổ nền kinh tế chung của khu vực và thế giới. Đây chính là cơ hội nữa để nền kinh tế Việt Nam bắt kịp với những xu hướng chung của khu vực và thế giới, tìm ra tiếng nói chung, chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng quốc tế mà trước hết là với các nước trong khối mậu dịch tự do Asean, mở ra một thế đứng vững vàng hơn trong quan hệ của Việt Nam với các liên minh quốc tế khác, đặc biệt là với liên minh Châu Âu, khu vực Mậu dich tự do Bắc Mỹ,NAFA , WTO, APEC.. Chương II: hội nhập AFTA –cơ hội và thách thức với các doanh nghiệp công nghiệp việt nam I. Thực trạng, vị thế của các DNCNVN trong khu vực 1/ Thực trạng : a / Thành tựu: Từ khi nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường, nhà nước thực hiện các chính sách mở cửa thì nền kinh tế nói chung và các DNCNVN nói riêng đã đạt được một số thành tựu đáng mừng. Tổng kim ngạch xuất khẩu hai chiều bình quân của giai đoạn 1999-2000 là 22,5 tỷ USD so với 7,5 tỷ USD trong thời kỳ 1990- 1995. Tỷ trọng xuất khẩu trong GDP bình quân tăng từ 26,4% trong 1990-1995 lên 37,6% năm 1996-2000. Chúng ta dã mở rộng quan hệ quốc tế , kí hiệp định thương mại với 60 nước (đặc biệt mối quan hệ với Mỹ vào tháng 7/2000). Năm 1995 chúng ta có quan hệ buôn bán với trên 100 nước và vùng lãnh thổ, nay là 170 nước và khắp các châu lục. Công nghiệp có mức tăng trưởng cao đạt 15,7% năm 2000 so với 1999, khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 9,5%, khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 11,5% , khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 21,8%. Các doanh nghiệp nhà nước đã được cải tổ, sắp xếp lại sản xuất nên số doanh nghiệp nhà nước giảm từ 1993 năm 1995 xuống còn 1786 năm 2000. Vốn cũng được củng cố tăng cường, nguồn vốn tăng 113% từ 59798 tỷ năm 1995 lên 127594 tỷ năm 2000. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được tăng lên về số lượng , giai đoạn 1996-2000 tăng thêm hơn 500 doanh nghiệp .Vốn đầu tư tăng 28,5%/ năm. Khu vực tư nhân cũng ngày càng phát triển cả về số lượng và phạm vi hoạt động. Thị trường trong nước thì các doanh nghiệp của ta ngày càng củng cố được vai trò và chỗ đứng của mình, dần dần khôi phục lòng tin đối với khách hàng thông qua chỉ tiêu chất lượng ngày càng được nâng cao, giá thành giảm xuống, mẫu mã phong phú phù hợp với thị hiếu, nhu cầu khách hàng trong nước và quốc tế. b/ Hạn chế: Tuy nhiên, đó chỉ là những thành tựu bước đầu nhỏ bé so với các nước trong khu vực, chúng ta vẫn còn một khoảng cách khá xa cần vượt qua. Các DNCNVN còn yếu thế và lực. Cơ sở hạ tầng , máy móc thiết bị của các doanh nghiệp còn thiếu đồng bộ và lạc hậu. Ngoài các xí nghiệp do nước ngoài đầu tư, các xí nghiệp công nghiệp trong nước chỉ có khoảng được coi là trang thiết bị vào loại tương đối tiên tiến, tốc độ đổi mới thiết bị công nghệ còn khiêm tốn, khoảng 10 –11%. Điều này đã hạn chế rất nhiều đối với nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất. Nhiều sản phẩm sản xuất trong nước có giá cao hơn sản phẩm cùng loại nhập khẩu từ 20 –40%. Các DNCNVN hiện nay vẫn chưa coi trọng vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng klhả năng cạnh tranh. Đến giữa năm 1999, cả nước mới có trên 100 doanh nghiệp được cấp chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000, trong đó dnnn chiếm 70%, riêng vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ mới có 16 xí nghiệp. Phần nhiều các DNCNVN phải dựa vào đối tác nước ngoài biểu trưng, thiết kế sản phẩm, quy trình công nghệ tiếp thị và phân phối sản phẩm. Hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao và đang có xu hướng giảm dần. Theo báo cáo của phòng Thương Mại Việt Nam số nợ phải trả của DNNN bằng 12% vốn của Nhà nước trong khi nợ phải thu chiếm 60% nợ phải trả. Mặt khác qui mô vốn của DNNN rất nhỏ, số DNNN có vốn dưới 5 tỉ đồng chiếm 65,4 %, vốn trên 10 tỉ đồng chỉ có 20,89%. Những khó khăn về vốn về thị trường cộng với sự yếu kém, lỏng lẻo, công kềnh của bộ máy quản lý doanh nghiệp đã dẫn tới tình trạng thua lỗ. Hiệu quả sử dụng vốn rất thấp có đến hơn 50% số DNNN có tỉ suất sinh lời trên tổng số vốn thấp hơn lãi suất tiết kiệm. Hơn nữa, các DNNN đang gặp khó khăn trong quá trình chuyển đổi cơ cấu, phần lớn các sản phẩm kém khả năng cạnh tranh do chí phí tăng cao (nhập nguyên nhiên liệu ,công suất sử dụng máy móc thấp, kỹ năng quản lý, trình độ công nhân có tay nghề cao và khả năng tiếp thị còn hạn chế) . Mặt khác, các DNNN mới tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và Thế giới vào đầu những năm 90, do đó gặp nhiều khó khăn về kinh nghiệm tiếp cận thị trường cũng như các thông tin cần thiết liên quan đến quá trình hội nhập. Trong khi đó các DNVN cho đến nay vẫn chưa xác định được nội dụng hoạt động và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trước sự cọ sát với các đối tác doanh nghiệp trong khu vực. c/ Nguyên nhân : Các hạn chế trên một phần là do yếu tố khách quan đó là tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam á và Châu á đã làm giảm hẳn nguồn vốn đầu tư và dự án đầu tư nước ngoài, hàng xuất khẩu bị chững lại, nguyên nhân chính là từ phía chủ quan của doanh nghiệp và từ luật đầu tư và hệ thống pháp luật còn kém hấp dẫn sự chú ý của các nhà đầu tư. Dù đã có những sửa đổi để phù hợp với luật đầu tư của khu vực và thế giới nhưng điều kiện ưu đãi ở một số lĩnh vực chưa được hình thành đồng bộ, môi trường hợp tác cạnh tranh chưa được tạo lập đầy đủ, còn tồn tại nhiều hình thức hành chính bao cấp mang tính xin cho với thủ tục phiền hà thiếu tính công khai. Các DNQD chưa thực sự muốn bỏ lớp bảo vệ bên ngoài, chưa thực sự tiếp nhận cơ chế thị trường một cách tích cực, thiếu năng động sáng tạo ở mọi lĩnh vực, sự trì trệ trong cơ chế thị trường sẽ không có sự tồn tại. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì vốn và qui mô nhỏ, sợ thất bại chưa dám đầu tư sản xuất kinh doanh với những cơ hội đem lại lợi nhuận lớn và độ rủi ro cao, thực sự chưa đáng coi là nhà kinh doanh của thời kỳ hiện đại. 2/Vị thế hiện nay của các doanh nghiệp CNVN trong khu vực, 2.1/ Về mậu dịch: Trong thời gian trước đây, Việt Nam chủ yếu buôn bán với các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu. Hàng hoá nhập khẩu thường là nông sản thô thông qua các nghị định thư kí kết giữa các chính phủ. Toàn bộ kim ngạch xuất nhập khẩu nằm trong tay các DNNN. Từ khi thực hiện chính sách đổi mới vào nằm 1996, số lượng các bạn hàng buôn bán của Việt Nam được tăng lên đáng kể. Quan hệ thương mại Việt Nam Asean tăng mạnh với tốc độ khoảng 27%/năm và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cán cân thương mại. Thương mại Việt Nam – Asean chiếm tới 1/3 kim ngạch ngoại thương của Việt Nam trong đó xuất khẩu chiếm và nhập khẩu chiếm 1/3. Quan hệ Thương mại khu vực vẫn nằm trong tay các DNNN là chủ yếu. Các mặt hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là chủ yếu là nông sản thô, thực phẩm chiếm 48% , nhiên liệu chiếm 34% và các mặt hàng chế tạo chiếm 18% (số liệu năm 1994) nghĩa là khi tham gia vào CEPT, các doanh nghiệp Việt Nam được hưởng ưu đãi về thuế quan ít hơn so với các doanh nghiệp các nước trong khu vực. Các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam sang Asean bao gồm : dầu thô, đậu,cao su,chè, ngô, hạt điều, tiêu, rau quả tươi,thuỷ sản, thép, gỗ ,than, thiếc, hàng thủ công. Như vậy trong số các sản phẩm này, có rất ít các sản phẩm được coi là hàng công nghiệp chế biến - mặt hàng được ưu đãi thuế quan ở mức cao và tiến hành nhanh nhất. Các mặt hàng này chỉ có tính chất bổ xung cho cơ cấu kinh tế của các quốc gia ASEAN chứ không có vị thế cạnh tranh thực sự. Khoảng cách giữa các mức thuế hiện hành và mức thuế dưới 5% sau khi thực hiện AFTA đối với những mặt hàng công nghiệp chế biến mà một số doanh nghiệp Việt Nam có thể tăng cường xuất khẩu trong tương lai gần như đồ nhựa, da, cao su, dệt may, đá quý,… không lớn. Ngược lại, các mặt hàng này dễ bị ASEAN chiếm lĩnh ngay trên thị trường nội địa Viêt Nam khi thuế nhập khẩu ở mức thấp. Các nhà sản xuất đồ nhựa của Việt Nam có thể rơi vào tình trạng như cách đây vài năm khi đồ nhựa Thái Lan tràn ngập thị trường với chất lượng tốt, kiểu dáng phong phú và giá thành tương đối rẻ. Mức độ cạnh tranh giữa các hàng hoá của ASEAN trên thị trường nội địa sẽ càng trở nên gay gắt hơn khi AFTA được thực hiện đầy đủ. Hàng hoá nhập về từ ASEAN chủ yếu dùng làm đầu vào cho doanh nghiệp sản xuất và hàng công nghiệp như: nhôm, xi măng, hoá chất, hàng điện tử, phân hoá học, thuốc chữa bệnh, giấy, xăng dầu, các phương tiện vận chuyển. Hơn một nữa trong số này có mức thuế thấp hơn 5% và 857 mặt hàng đã được đưa vào danh sách tham gia CEPT kể từ 1/1996. Sự tham gia đó chỉ ảnh hưởng rất nhỏ tới sản xuất trong nước cũng như buôn bán. Đối với quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước ngoài ASEAN thì lợi ích thu được đối với các doanh nghiệp sản xuất là giảm giá thành sản xuất nhờ mua được vật tư đầu vào với giá hạ hơn từ các nước ASEAN góp phần tăng cường khối lượng hàng hoá xuất khẩu. Tuy nhiên các nướcASEAN cũng xuất khẩu ra thị trường thế giới những sản phẩm tương tự Việt Nam cho nên họ cũng tăng sức cạnh tranh khi ra nhập AFTA. 2.2/ Về sản xuất. Như đã đề cập ở trên, hàng công nghiệp chế tạo xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu, một con số rất khiêm tốn nếu đem so sánh với con số tương ứngcủa các nước ASEAN khác. Các mặt hàng công nghiệp chế tạo của Việt Nam hầu như chưa có mặt trên thị trường ASEAN, ngược lại hàng hoá công nghiệp chế tạo của ASEAN đã thâm nhập khá sâu vào Việt Nam. Trong số 15 nhóm hàng giảm thuế nhanh, các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới khó có thể có sản phẩm để xuất khẩu. Hàng hoá do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất vừa chưa có chất lượng được tin cậy lại chưa gây được ấn tượng về hình thức, kiểu dáng. Ngành công nghiệp điện tử non trẻ của Việt Nam phải đương đầu với cú sốc mạnh khi có sự nhập khẩu ồ ạt các sản phẩm điện tử ASEAN-một trong những sản phẩm mà các nước ASEAN mạnh hơn chúng ta rất nhiều và rất chú trọng khai thác thị trường hơn 80 triệu dân của Việt Nam. Các Doanh Nghiệp Việt Nam có thế mạnh ở những ngành sử dụng nhiều lao động do tiền lương ỏ Vệt Nam tươngđối thấp so với các nước ASEAN khác. Tuy nhiên sản phẩm của các ngành này lại không được tiêu thụ chủ yếu ở ASEAN mà xuất sang các khu vực khác. Do vậy, việc tham gia AFTA chưa có tác động quan trọng đến các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng sử dụng nhiều lao động II> Cơ hội và thách thức đối với các DNCNVN khi hội nhập AFTA 1/ Cơ hội. Quan điểm của DNVN hiện nay cho rằng tham gia vào AFTA, DNVN sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức hơn là cơ hội . Lý giải điều này bắt nguồn từ thực trạng yếu kém của DNCNVN cũng như năng lực cạnh tranh của DNCNVN trước các đối tác ASEAN, đặc biệt là ASEAN 5. Tuy nhiên nếu xem xét nội dung AFTA đối chiếu vào hoạt động của DNCNVN có thể thấy nếu các DNCNVN có những chiến lược, giải pháp đúng đắn có thể tận dụng được những cơ hội thuận lợi. Thứ nhất, AFTA tạo điều kiện thuận lợi mở cửa thị trường hàng hoá dịch vụ xuất khẩu cho các DNCNVN hội nhập vào thương mại khu vực. Nội dung của AFTA đã đưa lại những nguyên tắc về xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối sử trong thương mại, các tranh chấp thương mại được giải quyết công bằng, thực hiện bình đẳng trong đàm phán. Thông qua các nguyên tắc này, khi các doanh nghiệp Việt Nam tham gia AFTA , các sản phẩm sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi thấp hơn cả thuế suất tối hậu quốc (MFN) mà các nước ASEAN giành cho các nước thành viên WTO, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá Việt Nam có thể thâm nhập thị trường các nước ASEAN. Thực tế thương mại hai chiều giữa Việt Namvà ASEAN kể từ khi Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN(1995) và khi Việt Nam tham gia AFTA (1996) đến nay cho thấy các sản phẩm đóng góp của DNCNVN trong thương mại nội bộ khu vực tăng lên Năm XK(tỷ USD) NK(tỷ USD) Tổng số(tỷ USD) 1995 1996 1997 1998 1999 1,112 1,364 1,911 2,372 2,463 2,378 2,788 3,166 3,749 3,288 3,490(23,9%) 4,152(33,4%) 5,077(25,5%) 6,122(29,1%) 5,751(28,4%) Nguồn (Vụ hợp tác đa biên, Bộ thương mại, tháng 5-2000 ) Thứ hai, thông qua AFTA, các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam có cơ thuận lợi mở rộng hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ, mua được nguồn nguyên liệu đầu vào rẻ hơn từ các nước ASEAN, tận dụng lợi thế sẵn có về nhân công, tài nguyên thiên nhiên trong nước nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh. Khi môi trường thương mại nội bộ khu vực ngày càng tự do, cũng có nghĩa là mức độ hội nhập giữa các thành viên ngày càng tăng lên: Các hình thức liên kết khác như đầu tư nội bộ ASEAN (AIA), hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO), tài chính , năng lượng, GWT… đang tạo điều kiện cho các DNCNVN một ’’sân chơi” rộng để có khả năng nâng cao hiệu quả và chất lượng sản phẩm. Mặt khác, do có đảm bảo bằng cam kết đa phương nên các nhà đầu tư ASEAN và nước ngoài yên tâm đầu tư và chuyển giao công nghệ tại thị trường Việt Nam cũng như các DNCNVN đầu tư ra nước ngoài cũng được đối sử binh đẳng. Hơn nữa, các DNCNVN có thể hạ giá thành sản phẩm do mua được nguyên liệu đầu vào rẻ hơn từ các nước ASEAN. Đây là cơ hội không dễ có được đối với bất cứ một doanh nghiệp nào. Những khó khăn do khan hiếm nguyên nhiên vật liệu cho sản xuất sẽ được loại bỏ khi gia nhập AFTA. Nếu các DNCNVN tận dụng được cơ hội này, họ có thể vươn lên cạnh tranh tốt với các đối thủ ngoài khu vực. Tính trong 10 năm qua (1989- 1999) phần FDI từ các nước ASEAN vào Việt Nam ngày càng tăng chiếm 27,8% tổng số FDI tại Việt Nam. Bằng nguồn vốn này , ASEAN 5 đã đóng góp 17,5% doanh thu; 11,4% giá trị xuất khẩu; 13,4% việc làm; 19,3% thuế doanh thu; 13,2% thuế lợi tức; 18,9% thuế xuất nhập khẩu và 50,9% các loại thuế khác so với tổng các chỉ tiêu tương ứng FDI tại Việt Nam (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư MPT, 12-1999) Thứ ba, khi tham gia AFTA, các DNCNVN có khả năng rút ngắn khoảng cách tụt hậu, tranh thủ và bổ sung các lợi thế sẳn có giữa các doanh nghiệp trong nội bộ khu vực. Mặc dù có sự trùng lặp và cơ cấu ngoại thương giữa Việt Nam và ASEAN nhưng có nhiều lĩnh vực các DNCNVN có thể khai thác từ thị trường ASEAN như Việt Nam có thế mạnh về các sản phẩm nông sản, hàng dệt, may mặc trong khi đó ta cũng có nhu cầu nhập khẩu các thiết bị máy móc hạng trung bình, các sản phẩm hoá chất, bán thành phẩm từ các nước ASEAN với giá thấp hơn so với các khu vực khác trên thế giới. Nếu tranh thủ được các lợi thế này các DNCNVN sẽ có lợi do tăng được khả năng cạnh tranh với các đối tác bên ngoài ASEAN về giá cả, chi phí vận chuyển. Ngoài ra trong quá trình hội nhập kinh tế, các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp thu kỹ thuật công nghệ, đặc biệt đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ, từ các nước ASEAN Thứ tư, tham gia AFTA sẽ tạo tạo sức ép buộc các DNCNVN phải tự đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh,tích cực áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ và cung cách làm ăn mới. Hơn nữa khi gia nhập AFTA sẽ buộc và khuyến khích các DNCNVN tập trung vào những ngành được hưởng ưu đãi và ngừng sản xuất những mặt hàng không đủ sức cạnh tranh. Sức ép to lớn từ phía AFTA đòi hỏi các DNCNVN phải cố gắng nỗ lực để đuổi kịp và vượt các nước ASEAN về mẫu mã chất lượng giá cả hàng hoá. Các Doanh nghiệp Công nghiệp Việt Nam sẽ trải qua quá trình sàng lọc tự nhiên thông qua cạnh tranh quốc tế Những doanh nghiệp vốn vẫn được trợ cấp sẽ nhanh chóng bị thay thế bởỉ những doanh nghiệp nứơc ngoài hay doanh nghiệp trong nước có đủ khả năng, nếu không tự mình cố gắng đổi mới vươn lên. Nền sản xuất trong nước sẽ hiệu quả hơn và thích ứng nhanh hơn đối với các điều kiện quốc tế thay đổi. Thứ năm, vị thế của các Doanh nghiệp Công nghiệp Việt Nam được cải thiện nhờ quá trình đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ khu vực và thế giới. Trên cơ sở nguyên tắc đồng thuận cũng như sức mạnh tập thể của tổ chức ASEAN, các DNCNVN sẽ tạo được thế và lực trong đàm phán thương mại song phương và đa biên với các cường quốc kinh tế cũng như các tổ chức quốc tế như APEC,EU, WTO… 2/ Thách thức Bên cạnh những cơ hội những thuận lợi có được khi tham gia AFTA thì với những hạn chế còn tồn tại, các DNCNVN hiện nay đang phải đương đầu với một số khó khăn và thách thức chủ yếu sau đây: Thứ nhất, năng lực cạnh tranh yếu, năng suất lao động, hiệu quả của các sản phẩm, dịch vụ của các DNCNVN còn thấp dẫn đến giá cả chất lượng mẫu mã của các sản phẩm hàng của các DNCNVN khó có thể cạnh tranh được với hàng hoá của các nước ASEAN khi hàng rào thuế quan và phi thuế quan được dỡ bỏ. Thứ hai, hiện trạng các DNCNVN hiện có khoảng 53000 doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế với gần 3 triệu lao động. Tuy nhiên, nếu so sánh với các doanh nghiệp của các nước ASEAN, phần lớn các DNCNVN là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh. Về tỷ trọng của công nghiệp chế tạo hiện nay chỉ bằng mức của Thái Lan 1970, tức là chỉ chiếm 15% GDP. Tài sản cố định bình quân cho một lao động của Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), chỉ có 44 triệu đồng, trong đó gần một nửa doanh nghiệp nhà nước chỉ có 20 triệu đồng. Đối với doanh nghiệp tư nhân, bao gồm 23000 doanh nghiệp vốn tài sản cố định chỉ chiếm 16% tổng số vốn tài sản cố định của doanh nghiệp nhà nước. Hơn nữa trang thiết bị máy móc của doanh nghiệp CNVN phần lớn lạc hậu, tiêu hao năng lượng, nguyên liệu lớn hơn nhiều so với các doanh nghiệp của một số nước ASEAN khác. trình độ công nghệ của các doanh nghiệp CNVN tụt hậu khoảng 25-30 năm so với Thái Lan dẫn đến chi phí đầu vào cao hơn từ 30-50% so với các đối tác ASEAN khác Nhómngành Công nghệ Nước Inđô Malai Philip Singapo Thái VN CN thấp 47,7% 24,3% 45,2% 10,5% 42,7% 58,7% CN cao 29,7% 51,1% 29,0% 73,0% 30,8% 20,6% CN TB 22,6% 24,6% 25,7% 16,5% 26,5% 20,7% Nguồn : NGTK 1998 và báo cáo của bộ Thương Mại Tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thực hiện còn chậm do nhiều nguyên nhân(cơ sở pháp lý, tâm lý do dự, thói quen bao cấp, khả năng kinh doanh… ). Do đó khả năng cạnh tranh tính năng động của các DNCNVN nhìn chung còn yếu.Khi hội nhập vào AFTA với môi trường kinh doanh mới mang tính cạnh tranh đầy khốc liệt thì nguy cơ các doanh nghiệp CNVN thua ngay trên sân nhà do các sản phẩm hàng hoá của mình không thể cạnh tranh được với sản phẩm của các nước ASEAN có giá thấp hơn chất lượng cao hơn, mẩu mã phong phú hơn, là điều có thể thấy trước. Hiện tại hàng hoá nhập khẩu đang tràn ngập thị trường, bóp chết hoặc làm điêu đứng không ít ngành công nghiệp bản địa (ngay cả khi hàng rào thuế quan còn được duy trì khá cao) như hàng dệt, cơ khí, điện dân dụng …, đặc biệt đáng lo ngại là những ngành có hàm lượng vốn , kỹ thuật cao. Bởi sự chênh lệch về trình độ hiện tại là rất rõ rệt và khi hàng rào bảo họ mậu dịch bị xoá bỏ thì các ngành sản xuất trong nước sẽ chịu những sức ép lớn hơn nhiều. đó là bài toán hết sức hóc búa mà các DNCNVN phải tìm được lời giải nếu không muốn bị phá sản, trao thị trường vào các đối thủ cạnh tranh. Thứ hai, vấn đề cân đối sử dụng vốn để đầu tư và tái đầu tư sản xuất của các DNCNVN còn những điều bất ổn. Nếu so sánh với tiềm năng, nguồn vốn của doanh nghiệp một số nước Asean khác (Singapo, Thái Lan, Maliaxia…), vốn đầu tư của các DNCNVN đều trong tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng. Theo các số liệu, DNVN hiện nay cần phải huy động khoảng 20.000 tỷ VNĐ, chưa kể các nguồn vốn đầu tư đến cơ sở hạ tầng , mặt bằng sản xuất….Riêng nguồn vốn lưu động của các DNNN mới chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu. Đây là bài toán khó đặt ra cho ngân sách NN. Tuy nhiên điều nghịch lý ở chỗ một số DNCNVN mặc dù thiếu vốn nhưng ngại vay vốn từ nhà băng hoặc huy động vốn từ các nguồn khác. Thực tế cho thấy lãi suất cho vay của ngân hàng với các doanh nghiệp hiện nay thấp khoảng 1% kèm theo các thủ tục vay vốn đơn giản nhưng cũng không thu hút được nhiều doanh nghiệp vay vốn. Sở dĩ có tình trạng này là do các doanh nghiệp lúng túng khi làm thủ tục giải ngân cũng như khó khăn tìm đầu ra cho nơi tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, chính sách thẩm định nguồn vốn cho vay của nhà băng còn bộc lộ nhược điểm khi đánh giá thực trạng và năng lực kinh doanh của từng xí nghiệp. Chúnh vì vậy dẫn đến tình trạng những doanh nghiệp kinh doanh lành mạnh cần có vốn đầu tư chưa được đáp ứng kịp thời. Ngược lại có những doanh nghiệp sản xuất không hiệu quả, sử dụng vốn sai mục đích do những mối quan hệ với một số cán bộ phụ trách ngân hàng đã chiếm dụng vốn đáng kể, dẫn đến thất thoát nghiêm trọng nguồn vốn ngân sách, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình kinh doanh, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cần vay, được cấp phát vốn. Điều này hết sức bất lợi với các DNCNVN khi hội nhập AFTA, doanh nghiệp cần vốn để đầu tư, thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao được khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong khu vực. Thêm vào đó khi hội nhập AFTA thì nguồn thu ngân sách từ thuế của Nhà Nước giảm sẽ ảnh hưởng ngay lập tức đến các doanh nhgiệp sản xuất thuộc các ngành sản xuất mang tính chiến lược đang được trợ cấp. Thứ ba, phần lớn các DNCNVN chưa có sự chuẩn bị đầy đủ cho quá trình hội nhập kinh tế khu vực, chưa đưa ra được các chiến lược, chính sách thích ứng để tham gia AFTA . Vấn đề này liên quan đến nhiều yếu tố. Trước hết, mức độ phổ cập các thông tin liên quan đến vấn đề AFTA đối vói các doanh nghiệp còn thiếu, không đồng bộ. Nội dung của chương trình AFTA còn mang tính khái quát mà chưa có những nội dung cụ thể gắn với mục tiêu và chính sách hội nhập kinh tế của doanh nghiệp , chưa có các biện pháp điều chỉnh sản xuất để tồn tại và phát triển trong môi trường mở cửa, không còn hàng rào bảo hộ. Nhiều doanh chưa nghiệp có định hướng phát triển xuất khẩu một cách khả thi để tận dụng cơ hội của AFTA mang lại. Kế hoạch Xuất Khẩu ( nếu có ) chỉ là những chỉ tiêu Xuất Khẩu dựa trên kế hoạch về sản lượng so sánh với kế hoạch tiêu dùng mà không có những phân tích so sánh cụ thể dựa trên tiêu chí về giá thành, chất lượng, khả năng tiêu thụ… Các doanh nghiệp chưa có thói quen khai thác tìm hiểu thông tin nội dung về AFTA, hầu như rất xa lạ với những quy chế, quy định và những ưu thế của CEPT/ AFTA. Mặc dù chính phủ và các Bộ, Ngành đã triển khai nhiều chương trình phổ biến về CEPT/ AFTA nhìn chung các doanh nghiệp ( kể cả các doanh nghiệp lớn của Nhà Nước ) vẫn chưa thực sự quan tâm đến chương trình này. Theo số liệu của Bộ Thương Mại, có rất ít DNCNVN nộp đơn xin cấp Form D ( giấy chứng nhận hàng hoá có xuất sứ Asean ) để được hưởng lợi ích của chương trình CEPT/ AFPT. Tổng lượng xuất khẩu của VN sang ASEAN dùng Form D chỉ chiếm 0,07 – 0,08% trên tổng kim ngạch XK ( trong khi đó tỷ trọng này ở các nước ASEAN là 1% ). Ngoài ra, lịch trình cắt giảm thuế theo nội dung CEPT về tổng thể được chuẩn bị tương đối đầy đủ nhưng các danh mục sản phẩm cắt giảm thuế của từng doanh nghiệp triển khai còn chậm chạp và lúng túng. Nhìn chung, các doanh nghiệp chưa định ra được chiến lược và chính sách cạnh tranh sản phẩm để đến thời điểm 2006 khi kết thúc chương trình tự do hoá thương mại của VN trong khuôn khổ AFTA, các DNCNVN có khả năng chủ động cạnh tranh để chiếm phần tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong nước và khu vực. Phần lớn cơ cấu sản phẩm của các DNCNVN hiện nay chủ yếu là các sản phẩm sơ chế, sử dụng lao động, do đó giá trị gia tăng thấp, khả năng cạnh tranh yếu so với các doanh nghiệp của một số nước ASEAN khác. Do đó cán cân thương mại VN – ASEAN còn chênh lệch lớn. Hàng Xuất Khẩu của ASEAN chiếm xấp xỉ 25% tổng giá trị Xuất Khẩu của Việt Nam trong khi đó hàng Xuất Khẩu của Việt Nam chiếm 1% tổng giá trị Nhập khẩu của ASEAN. Thứ tư, các DNCNVN vừa mới bắt đầu tham gia hoạt động trên thị trường thế giới trong điều kiện thị trường thế giới đã được phân chia, phân công lao động đã được xác lập tương đối ổn định, các DNCNVN đang còn non trẻ đã phải chấp nhận cuộc cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia có nhiều kinh nghiệm trên thương trường, tiềm lực mạnh. Công tác tổ chức thông tin giữa cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp chưa cao. Các cơ quan quản lý nhà nước chưa quan tâm đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc phát triển sản xuất, tạo nguồn hàng, hướng dẫn và đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu. Thứ năm, khả năng tiêu thụ của thị trường nội địa chậm, hạn chế đến việc kích thích các DNVN nâng cao hiệu quả sản xuất, cải cách cơ cấu mặt hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh. Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh của DNCNVN mà còn làm giảm tốc độ đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp nước ngoài tại VN. Thực tế diễn biến ở thị trườngVN hiện nay cho thấy tình trạng “ cung vượt cầu” trong một số sản phẩm CN như điện tử, dệt may, vải sợi, xe máy, sắt thép…. Nguyên nhân chủ yếu là do sức mua trong nước giảm. Kết quả dẫn đến hiện tượng tồn đọng vốn lưu chuyển cũng như làm tăng lãi suất vay ngân hàng của các doanh nghiệp . Chính vì thế cũng làm giảm vị thế cạnh tranh cũng như cải thiện môi trường kinh doanh của các DNCNVN. Việc Việt Nam gia nhập AFTA là yêu cầu tất yếu, có vậy chúng ta mới phát huy hết thế mạnh của việc tham gia vào hoạt động kinh tế khu vực. Tuy nhiên, việc loại bỏ hàng rào ngăn cản buôn bán giữa Việt Nam và các nước ASEAN tất yếu sẽ tạo ra những tác động tích cực và tiêu cực tới nền kinh tế Việt Nam nói chung và các DNCNVN nói riêng. Vấn đề đặt ra là các DNCNVN phải phát huy thế mạnh và tận dụng cơ hội của mình cũng như hạn chế những ảnh hưởng xấu của nó tới hoạt động kinh doanh của mình. Các DNCNVN phải coi những tác động tích cực đó là cơ bản và là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp tồn tại và phát triển ; đưa đất nước tiến lên ngang trình độ với các nước trong khu vực trong thời gian ngắn nhất III ) Những giải pháp và phương hướng cơ bản Về bản chất, hội nhập tức là mở cửa kinh tế, mở cửa thị trường trong nước, chấp nhận cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên “sân nhà” theo những luật chơi chung do cộng đồng kinh tế quy định. Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, với sự xâm nhập và bành tướng của các công ty đa quốc gia thì sức ép đổi mới với các DNCNVN ngày càng lớn để có thể thích nghi được với những tính chất, đòi hỏi mới. Do đó Doanh Nghiệp cần phải tự mình đưa ra phương hướng , giải pháp để tồn tại và phát triển cùng với sự hỗ trợ từ phía Nhà Nước I. Về phía DN Đối với một đất nước thì hội nhập là con đường duy nhất để phát triển, còn đối với từng Doanh Ngghiệp thì không phải hoàn toàn như vậy. Chỉ có Doanh Nghiệp nào chuẩn bị tốt để hội nhập thì mới có cơ may tồn tại, nếu không thì nguy cơ bị đào thải, bị loại khỏi cuộc đua là hoàn toàn hiện thực. Tuy vậy, hiện nay hầu hết các DNCNVN chưa ý thức được nguy cơ đó, coi hội nhập là việc của Nhà Nước. Thực ra đây là quan niệm sai lầm, để tận dụng được các cơ hội phát triển do hội nhập mang lại, các DNCNVN phải làm rất nhiều việc, cần thực hiện nó với tinh thần chuẩn bị tốt nhất để hội nhập. Những điều này không mới nhưng nhiều Doanh Nghiệp có thể không đánh giá hết tầm quan trọng của chúng. * Tự kiểm tra và đánh giá về Doanh Nghiệp mình Việc tự kiểm tra, đánh giá nghiêm túc về Doanh Nghiệp mình có tầm quan trọng đặc biệt, nó cho Doanh Nghiệp biết Doanh Nghiệp đang đứng ở đâu, trên cơ sở đó Doanh Nghiệp có thể đề ra đối sách thích hợp để phát triển. Đây là việc mỗi DNCNVN cần phải làm ngay coi như bước đầu tiên trong quá trình hội nhập. Một phương pháp thường được sử dụng để tự đánh giá là phân tích SWOT tức là tìm ra những điểm mạnh (strongths), điểm yếu (weekness), cơ hội ( opportunites ) và thách thức ( theats ). Điểm mạnh và điểm yếu là những vấn đề nội tại của Doanh Nghhiệp. Cần xem xét các bộ phận khác nhau như Tài Chính, Kế toán, thiết bị, số lượng và chất lượng hàng tồn kho, tay nghề và khả năng của nhân viên, xác định xem những yếu tố nào giúp ích cho công việc kinh doanh ( điểm mạnh ) và những yếu tố cản trở nó ( điểm yếu ). Cơ hội và thách thức là những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến Doânh Nghiệp. Cần xem xét môi trường rộng hơn xung quanh, đặc biệt là những thay đổi đang diễn ra, và xác định xem chúng giúp ích cho sự phát triển của Doanh Nghiệp hay cản trở nó. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội thách thức sẽ giúp cho Doanh Nghiệp tự tin trong hoạt động. Điểm mạnh và cơ hội sẽ giúp Doanh Nghiệp phát triển một cách hiệu quả nhất cũng như những điểm yếu và nguy cơ cần khắc phục để ngăn ngừa không cho chúng làm hại dến sự phát triển của Doanh nghiệp. * Cải thiện chất lượng kinh doanh của Doanh Nghiệp để nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh của Doanh Nghiệp Nói đến khả năng cạnh tranh ta thường nói đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giá cả… xem xét trong mối tương quan so sánh với các Doanh Nghiệp khác. Sự tồn tại và phát triển của một Doanh Nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào năng lực cạnh tranh. Vì vậy nâng cao khả năng cạnh tranh phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu của Doanh Nghiệp. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, Doanh Nghiệp phải có các biện pháp cải thiện chất lượng hiệu quả hoạt động của Doanh Nghiệp, cần tập trung vào một số vấn đề sau: Trước hết cần cải tiến phương thức quản lý hoạt động, đặc biệt là quản lý tài chính, quản lý các yếu tố đầu vào nhằm giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng hiệu quả sử dụng vốn. Đây là vấn đề khá quan trọng. Nhiều Doanh Nghiệp cho rằng phải thường xuyên đổi mới Công Nghệ thì mới đảm bảo được khả năng cạnh trạnh. Điều này nhìn chung là đúng nhưng chưa đủ. Với trang thiết bị là như nhau nhưng Doanh Nghiệp vẫn có thể có năng suất lao động khác nhau, chí phí khác nhau, hiệu quả khác nhau, nói cách khác là sức cạnh tranh klhác nhau. Một trong những bí quyết thành công của các Doanh Nghiệp Nhật Bản đó là họ rất chú ý đến cải tiến quản lý, họ chú ý đến từng chi tiết nhỏ nhất của quá trình sản xuất, hợp lý hoá tối đa nhằm giảm chi phí. Đồng thời họ cố gắng tạo ra bầu không khí làm việc thoải mái, tin cậy giữa chủ Doanh Nghiệp và công nhân, chia sẻ thành quả hoạt động của Doanh Nghiệp. Đây là những điều mà DNCNVN cần học tập. Nhiều khi thành công cỉa Doanh Nghiệp lại bắt đầu từ những việc tưởng như là nhỏ nhặt đó. Hai là, đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ gắn với năng lực quản lý và trình độ tay nghề của cán bộ, công nhân viên trong Doanh Nghiệp để nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Đối với nhiều Doanh Nghiệp của ta hiện nay, đây là khâu yếu và còn ở dưới tầm yêu cầu, do đó cần đặc biệt coi trọng vấn đề đổi mới công nghệ. Sản phẩm, hàng hoá của Việt Nam khi hội nhập AFTA cần phải đạt tiêu chuẩn quốc tế. Mỗi Doanh Nghiệp cần xuất phát từ nhu cầu thị trường về số lượng, chủng loại chất lượng sản phẩm và kỹ năng điều kiện của mình mà lựa chọn, trình độ và phương thức đổi mới công nghệ thích hợp. Về định hướng và trình độ : Đổi mới HĐH công nghệ truyền thống để nâng cao chất lượng sản phẩm theo hương duy trì, phát triển yếu tố văn hoá của sản phẩm và đảm bảo sự thích ứng của sản phẩm với yêu cầu thị trường. Trang bị hiện đại và đồng bộ cho dây truyền sản xuất. Phương thức đổi mới , có thể đổi mới công nghệ bằng các cách : Liên doanh với nước ngoài để chuyển giao công nghệ hiện đại từ nước ngoài ; Hợp tác gia công sản xuất với nước ngoài sẽ trang bị công nghệ máy móc , thiết bị và trừ dần vào sản phẩm ; vay vốn ngân sách để mua trang thiết bị hiện đại.. Đồng thời phải tạo điều kiện cho cán bộ, công nhân của Doanh Nghiệp có cơ hội nâng cao trình độ tay nghề đặc biệt các cán bộ phải được đào tạo cơ bản, nâng cao về kinh tế, quản trị kinh doanh, về luật quốc tế, về tài chính quốc tế… Ba là nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng điều này phụ thuộc vào thái độ và cách phục vụ, mở rộng mạng lưới tiếp thị để tạo thêm giá trị cho sản phẩm Bốn là phải quản lý chất lượng trước, trong và sau giai đoạn sản xuất . các sản phẩm của Doanh Nghiệp phải phấn đấu đạt tiêu chuẩn sản phẩm quốc tế, cải tiến chất lượng bao bì và nhất thiết các sản phẩm phải thực hiện mã vạch. Có lẽ đã đến lúc các Doanh Nghiệp phải nghiên cứu áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000 như là giấy thông hành cho các Doanh Nghiệp đưa sản phẩm của mình ra thị trường thế giới. Để thực hiện các vấn đề trên đây, các DNVN cần có những thông tin đầy đủ cập nhật về công nghệ, thị trường sản phẩm, có sự hỗ trợ tư vấn chuyên môn và chuyên môn hoá công tác quản lý. * Chủ động xây dựng chiến lược hội nhập cho các Doanh Nghiệp. Để có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện hội nhập và tàon cầu hoá kinh tế như hiện nay thì bên cạnh chiến lược tổng thể của Nhà Nước, Bộ Chủ Quản, từng Doanh Nghiệp cũng phải xây dựng chiến lược cho Doanh Nghiệp. Nội dung chiến lược Doanh Ngghiệp tập trung vào ba vấn đề cơ bản sau : Thứ nhất: Phân tích lợi thế cạnh tranh của Doanh Nghiệp tương quan với các Doanh Nghiệp cùng ngành, các đối tác cạnh tranh: - Xác định các đặc điểm kinh tế chủ chốt như thị trường , thị phần, các điệu kiện của thị trường, khách hàng, công nghệ, đặc điểm của sản phẩm, quy mô tối ưu của sản lượng.. - Xác định các nhân tố tác động đến sự phát triển của từng ngành, điều kiện cạnh tranh, điều kiện thay đổi công nghệ, nguyên vật liệu, phương hương kinh doanh , xu hướng tiêu dùng của thị trường - Phân tích các nhân tố cạnh tranh chủ yếu đối với Doanh Nghiệp: các đối thủ cùng trong ngành tương tự, các đối thủ mới và tiềm năng, mối quan hệ giữa Doanh Nghiệp với các nhà cung cấp nguyên vật liệu, vốn đầu tư, quan hệ khách hàng… Thứ hai, nghiên cứu dự báo tình hình và sự cạnh tranh trên thị trường trong, khu vực và thế giới trong bối cảnh Việt Nam hội nhập vào các tổ chức quốc tế và khu vực như AFTA, WTO. Đồng thời cũng nghiên cứu những tác động xu hướng chuyển động thương mại của một số đối tác cạnh tranh với thị trường Việt Nam như Trung Quốc tham gia WTO, thi trường EU.. Thứ ba, từ cơ sở trên các DNCNVN xác định chiến lược kinh doanh của Doanh Nghiệp. Chiến lược kinh doanh của Doanh Ngghiệp phải tập trung vào một số vấn đề chủ yếu : - Một là, chọn lựa chiến lược cụ thể cho Doanh Nghiệp trên cơ sở phân tích các yếu tố lợi thế của Doanh Nghiệp, về sản phẩm , chi phí sản xuất , yếu tố giá thành , khả năng tiêu thụ sản phẩm…. - Hai là tạo lợi thế cạnhtranh thông qua giá trị gia tăng của sản phẩm và dịch vụ thiết kế sản phẩm , lựa chọn và nghiên cứu các sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm , dịch vụ, công tác tiếp thị phù hợp với yêu cầu khách hàng trong nước khu vực và thế giới. - Ba là sản phẩm của từng Doanh Nghiệp phải mang những đặc trưng riêng về bí quyết sản phẩm , nhãn máy các kênh kiểm soát và phân phối sản phẩm - Bốn là, phải đề ra các kế hoạch ngẵn hạn trung hạn trong chiến lược Kinh Doanh tổng thể của từng Doanh Nghiệp, trong đó cần chú ý đến mục tiêu trước mắt cũng như dự báo về từng loại sản phẩm nhằm làm cho sản phẩm từng Doanh Nghiệp vừa có tính thích ứng vơí thị trường hiện nay vừa đón bắt được những xu hướng tiêu thụ của thị trường dự báo. Các doanh nghiệp cần phải triệt để tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan nhà nước, của các tổ chức phi chính phủ để có được những thông tin đáng tin cậy. Phòng thương mại và công ty Việt Nam, Bộ thương mại, Tham tán thương mại của các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài và nhiều địa chỉ khác có thể là những điạ chỉ mà doanh nghiệp sẽ tìm được sự giúp đỡ cần thiết. * Từng bước cải thiện chất lượng môi trường kinh doanh của doanh nghiệp Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp là sự hội tụ của nhiều yếu tố khác nhau bao gồm các biện pháp vĩ mô và vi mô nhằm tạo cho doanh nghiệp biết sử dụng khai thác quy trình từ sản xuất đến lưu thông hàng hoá. Các yếu tố này bao gồm biện pháp xúc tiến xuất khẩu, đầu tư, cơ sở hạ tầng, trình độ quản lý và tay nghề, các chính sách hỗ trợ sản phẩm… Quan trọng hơn cả là các doanh nghiệp phải xác định việc tham gia AFTA là nhiệm vụ, trách nhiệm của chính Doanh Nghiệp để tồn tại, phát triển trong điều kiện cạnh tranh mở cửa nền kinh tế. * Tăng cường sự phối hợp, cộng tác trong kinh doanh. Các Doanh Nghiệp cần phải ý thức được rằng nếu đơn độc sẽ rất khó có khả năng tồn tại. Khả năng cạnh tranh không phải khi nào cũng đưa lại hiệu quả cao nếu như các Doanh Nghiệp không có sự cộng tác với nhau. Do vậy trong thời gian tới các Doanh nghiệp cần có sự cộng tác, sự phối hợp tốt hơn thông qua các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức đại diện của Doanh Nghiệp. Hợp tác trong kinh doanh không những mang lại cho các DN cơ hội học tập lẫn nhau, cả những kinh nghiệm thành công lẫn thất bại, mà còn tăng thêm trọng lượng, tiếng nói của khu vực của Doanh Nghiệp; đồng thời cơ hôi hợp tác quốc tế cũng sẽ tăng lên. Sự phối hợp, công tác không nên giới hạn trong phạm vi quốc gia, mà phải hướng về khu vực và thế giới. Ngoài ra, các Doanh Nghiệp phải chủ động đưa ra các danh mục sản phẩm có khả năng cạnh tranh, giảm bớt hoặc xoá bỏ các danh mục sản phẩm kém hoặc không có lợi thế cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh ASEAN nhằm tối ưu hoá hiệu quả kinh doanh của DNCNVN trong quá trình hội nhập kinh tế 2. Về phía nhà nước: Xét ở phạm vi điều tiết vĩ mô, vai trò của nhà nước có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả của các DNCNVN khi tham gia AFTA. Chương trình vì vậy nhà nước phải có sự hỗ trợ đối với các DNCNVN trong quá trình hội nhập Trước hết, cần đảm bảo hài hoà các lợi ích ngắn hạn, trung hạn và dài hạn giữa ba bộ phận nhà nước, Doanh Nghiệp và người tiêu dùng trong khi xây dựng lộ trình tham gia AFTA (thuế quan, phi thuế quan, thủ tục hải quan…). Do đó vấn đề đặt ra ở đây là trước khi đưa ra chính sách liên quan đến AFTA, nhà nước cần có sự tham khảo các ý kiến đóng góp của các nhà Doanh Nghiệp nhằm tránh tình trạng các chính sách đưa ra không hiệu quả hoặc thay đổi chính sách liên tục gây nên sự xáo trộn về kế hoạch sản xuất của các Doanh nghiệp Hai là, nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều tiết và lành mạnh hoá cơ chế tài chính quốc gia, đảm bảo duy trì được các cân đối vốn của nền kinh tế. Đặc biệt Nhà Nước đưa ra các biện pháp cơ cấu lại nguồn thu ngân sách để bù đắp cho phần thiếu hụt do cắt giảm thuế nhập khẩu thông qua các chính sách cải cách thuế chuyển từ thuế gián thu sang thuế trực thu Ba là, nhà nước cũng có những chính sách cụ thể, hợp lý để khuyến khích các Doanh Ngghiệp trong quá trình tham gia AFTA: - Ưu điểm tín dụng sửa đổi bổ sung những ưư đãi thuế cho sản xuất, xuất khẩu. - Thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu, đặc biệt đối với sản phẩm có tính chất nhập cao ( nguyên nhiên liệu, nông sản, thực phẩm…) - Chuyển dần từ cơ chế ban phát, “ xin cho ” về hạn ngạch qoata XNK sang cơ chế đấu thầu hoặc cơ chế tự do kinh doanh của Doanh Nghiệp - Cải thiện nhanh chóng việc đáp ứng vốn lưu độngcho các DN có những ưu đãi tín dụng đặc biệt cho các DN tham gia sản xuất , kinh doanh các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật và cạnh tranh cao. - Nhà nước nên giúp DN tiếp thĩút khẩu. Vấn đè này rất quan trọng khi tham gia AFTA. Nếu DN làm một mình thì vừa thua thiệt cho DN, vừa thiệt cho quốc gia. ở tất cả các nước XK mạnh, chính phủ có chính sách tài chínhvà biện pháp tổ chức, giúp đỡ nước họ tìm kiếm thị trường. DNCNVN đồng vốn đã yếu, nếu lại phải tự thân xoay sở với các đối thủ được chính phủ nước họ hỗ trợ thì sự thua thiệt đã ddược báo trước - Chính sách cử dụng ngoại hối của Dôanh Nghiệp, trong đó quy định tỷ lệ hợp lý giữa phần ký thác ngoại hối vào ngân hàng và phần tự do sử dụng ngoại hối của Doanh Nghiệp trong quá trình xuất – nhập khẩu. Bốn là, đẩy nhanh qua trình cơ cấu lại khu vực DNNN, thực hiện qúa trình cổ phần hoá DNNN kết hợp với đa dạng hoá các hình thức sở hữu, sát nhập Doanh Nghiệp như thực hiện sát nhập công ty, liên doanh, công ty cổ phần tạo điều kiện cho DN chức năng chủ động trong việc hội nhập và hợp tác kinh doanh với các đối tác của ASEAN. Đặc biệt cần ưu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Các điều kiện thuận lợi có thể được tạo ra từ các chính sách khuyến khích sản xuất tư nhân, cam kết bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô của chính phủ. Khu vực kinh tế tư nhân phát triển sẽ có thể tạo ra một khả năng cạnh tranh lớn cho hàng hoá Việt Nam cả về chất lượng và mẫu mã. Các Doanh Nghiệp tư nhân do gắn bó về lợi ích một cách cụ thể nên thường chú trọng hơn đến mẫu mã, quy cách sản phẩm và thực tiễn cho thấy động lực thúc đấy quá trình tiến triển AFTA là khu vực kinh tế tư nhân. Khu vực kinh tế tư nhân được phát triển và cải tổ mạnh mẽ ở các nước ASEAN trong nhiều năm qua. Thâm chí các nhà nghiên cứu về ASEAN và AFTA cho rằng đó là yếu tố có vai trò quan trọng nhất giúp cho những chương trình liên kết kinh tế, buôn bán và các dự án phát triển công nghiệp chung của ASEAN được thực hiện thành công. Vì vậy Nhà Nước cần phải có những cải cách sâu sắc đối với khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước phù hợp với những đòi hỏi của một nền kinh tế thị trường nói chung và yêu cầu của AFTA nói riêng. Năm là, nhà nước cần phải có chính sách bảo hộ hợp lý để bảo vệ thị trường trong nước trước các sức ép khu vực, trước sự tấn công của hàng hoá nước ngoài bảo đảm cho các DNCNVN có thể tồn tại và phát triển. Chúng ta đã từng biết là mọi sự xoá bỏ hay duy trì bảo hộ thị trường trong nước đều có những mặt trái của nó. Nếu bảo hộ qua lâu theo kiểu khép kín nền kinh tế, các nhà sản xuất sẽ ỷ lại và trì trệ. Ngược lại nếu xoá bỏ nhanh thì sẽ dẫn đến tiêu diệt sản xuất trong nước giao thị trường nội địa cho nước ngoài. Do vậy sự bảo hộ trong nước trong xu thế tự do hoá thương mại ở Việt Nam buộc phải có một số nguyên tắc cơ bản : - Chỉ bảo hộ những mặt hàngmà sản xuất trong nước đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế, có tiềm năng phát triển về sau,tạo được nguồn thu ngân sách và giải quyết lao động. - Việc bảo hộ đó được thống nhất cho mọi thành phần kinh tế kể cả các DN có vốn đầu tư nước ngoài. - Chính sách bảo hộ được quy định cho từng trường hợp, từng thời gian và không bảo hộ vĩnh viễn cho bất kỳ hàng hoá nào - Bảo hộ thị trường trong nước, dp đó cần phải phù hợp với các tiến trình tự do hoá thương mại và các hiệp định quốc tế mà VN đã ký kết. Năm là, nhà nước cần phải thay đổi và điều chỉnh luật đầu tư và thị trường trong nước, tạo ra sự hấp dẫn lôi cuốn với nhà đầu tư, nó tạo cơ hội để các Doanh Nghiệp nước ta học kinh nghiệm, quản lý sản xuất kinh doanh của các nước tiên tiến , tiếp thu hiệu quả khoa học công nghệ mới, đồng thời Nhà Nước cũng phải đầu tư xây dựng những cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng như mạng lưới giao thông, hệ thống điện nước, xây dựng phát triển các khu công nghiệp mới, hệ thống giao thông không chỉ eo hẹp trong phạm vi thành phố mà còn mở rộng vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Nó vừa là cơ hội cho các Doanh Nghiệp mở rộng thị trường cũng như tạo điều kiện cho các khu vực này phát triển. Trong thời gian để các Doanh Nghiệp nước ta hội nhập thì Nhà Nước phải nghiêm cấm chặt chẽ không để hàng lậu đưa vào nước ta để các Doanh Nghiệp nước ta có thời gian củng cố địa vị vai trò thị trường trong nước, tránh tình trạng hụt hẫng khi mở cửa, xoá bỏ hàng rào thuế quan. Kết luận Tóm lại, việc trở thành thành viên chính thức của khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA ) đã đặt các Doanh Nghiệp công nghiệp Việt Nam trước những cơ hội to lớn cũng như những thách thức ngặt nghèo. Gia nhập AFTA sẽ góp phần quan trọng làm tăng khả năng lưu chuyển hàng hoá, vốn, lao động và công nghệ giữa Việt Nam và các nước Asean và cũng làm tăng khả năng chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng CNH của Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tận dụng được nguồn nguyên liệu mới cung cách quản lý và quản trị kinh doanh tiên tiến hơn,hàng hoá dể thâm nhập vào các nước Asean hơn.. Tuy nhiên , cách thức đặt ra cũng không phải là nhỏ mức độ cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn, doanh nghiệp công nghiệp Việt nam phải đối phó với các doanh nghiệp Asean có khả năng tài chính và kỷ thuật hùng hậu trong khi xuất phát điểm của chúng ta thấp hơn hẳn họ: thể chế thị trường còn yếu kém, lập pháp chưa ổn định, cung cách làm ăn còn lạc hậu, thiếu hiệu quả,khả năng về vốn và công nghệ còn kém xa.. Điều đó yêu cầu các DNCNVN phải tích cực, chủ động tìm kiếm các cơ hội, tận dụng các cơ hội, nhanh chóng khắc phục những yểu kém, tồn tại trong hoạt động quản lý điều hành. Để đạt được sự phối hợp hoạt động có hiệu quả nhất, nhà nước cũng phải có những biện pháp vĩ mô mạnh mẽ và thích hợp với một thị trường cởi mở và rộng lớn hơn. Mục lục Lời mở đầu Chương I: Khái quát chung về AFTA I. Khu vực hoá kinh tế và các hình thức chủ yếu của nó. 1. Nhận định chung 2. Các hình thức chủ yếu của nó II. Xu hướng quốc tế hoá kinh tế và sự ra đời của AFTA. 1. Xu hướng quốc tế hoá kinh tế. 2. Sự ra đời của AFTA III. Sự cần thiết ra nhập AFTA của Việt Nam Chương II: Hội nhập AFTA: cơ hội và thách thức đối với các Doanh nghiệp Công nghiệp Việt Nam. I. Thực trạng, vị thế hiện nay của các doanh ngiệp công nghiệp Việt Nam trong khu vực. 1. Thực trạng hiện nay của các DNCNVN. 1.1. Thành tựu. 1.2. Hạn chế 1.3. Nguyên nhân 2. Vị thế hiện nay của các DNCNVN trong khu vực. 2.1. Về mậu dịch 2.2. Về sản xuất. II. Cơ hội và thách thức đối với các DN CNVN khi hội nhập AFTA . 1. Cơ hội. 2. Thách thức III. Những phương hướng và giải pháp cơ bản. 1. Về phía doanh nghiệp công nghiệp VN 2. Về phía nhà nước Kết Luận. Tài Liệu Tham Khảo Sách : Ngô Xuân Dân - Đỗ Đức Bình : Hội nhập với AFTA – Cơ hội và thách thức .NXB.. Nguyễn Đình Hương : Quan hệ thương mại Việt Nam – ASEAN và chúnh sách xuất nhập khẩu của VN. Chính trị quốc gia 1999 Hoàng thị thanh Nhàn : Công nghiệp hoá hướng ngoại : Sự thần kỳ của các nước Châu á HN – CTQG 1998 Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp H : Chính trị quốc gia Trần Xuân Kiên : Chìa khoá để nâng cao năng lực tiếp thị và sức cạnh tranh của các DNVN; HN Thống kê 1998 Tạp chí : AFTA và sự hội nhập của Việt Nam : PTKT số112/2000 Đường vào AFTA không xa : TBKT số 149 Hoàn thiện hệ thống thuế. Việt nam trên chặng đường hội nhập với AFTA, CEPT : TTTC số 12/98 Việt nam với quá trình tự do hoá thương mại ASEAN : KTTG số 1/99 Quan hệ giữa chính sách thương mại và công nghiệp trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế : TM số 12/2000 Xây dựng nền kinh tế tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế – PTKT số 118/2000 Công nghiệp Việt nam : những cơ hội thách thức trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế : CN số 22/99 Để nâng cao khả năng cạnh tranh hội nhập của các DN VN : KTDB số 4/00 Tác động của AFTA và các giải pháp để thích ứng của VN : TC số 7/97 AFTA/ CEPT : Bước ngoặt trong sự phát triển kinh tế của ASEAN TC số 7/97 AFTA trong mắt các nhà quản lý : Cơ hội và thách thức cho DN TTTTVN số 11+12/00 Bài toán đặt ra đối với các DNVN tham gia AFTA NCĐNA số 1/2001 Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế KT& DB số 6/00 Khu vực mậu dịch tự do ASEAN AFTA. SLĐ&XH số 2/01 Nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu Việt nam Hỗ trợ DN TPHCM hội nhập AFTA số 1/99. Tám giải pháp với 300 tỷ đồng cho vay đổi mới công nghệ, lãi suất 6%/năm.CN số 5/00

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDA285.doc
Tài liệu liên quan