Đề tài Xây dựng mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Xây dựng mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam: LỜI MỞ ĐẦU  Các công cụ phái sinh nói chung và nghiệp vụ hợp đồng tương lai hay quyền chọn nói riêng là một trong những hình thức được đánh giá là rất hữu dụng trên thị trường hàng hóa và thị trường chứng khoán. Đặc biệt là đối với thị trường chứng khoán, một thị trường đầy rủi ro thì công cụ phái sinh này sẽ giúp nhà đầu tư tránh được tình trạng thua lỗ nặng khi thị trường đi xuống sâu và ngược lại, nhà đầu tư có thể đạt mức lợi nhuận rất cao khi thị trường có xu hướng như thế nào. Hiện nay, không chỉ các thị trường toàn cầu nói chung hay thị trường Việt Nam nói riêng, mọi người đều lo ngại về vấn đề quản lý rủi ro, và đây cũng là thời điểm tốt để một thị trường non trẻ, với nhiều biến động về giá trong thời gian qua như Việt Nam có thể xem xét đến việc áp dụng những hình thức giao dịch như quyền chọn chứng khoán. Quyền chọn có vai trò rất quan trọng trong việc quản lý rủi ro nên hình thức này giúp nhà đầu tư có thêm tự tin khi tham gia thị trường, điều n...

pdf60 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 919 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Xây dựng mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU  Các công cụ phái sinh nói chung và nghiệp vụ hợp đồng tương lai hay quyền chọn nói riêng là một trong những hình thức được đánh giá là rất hữu dụng trên thị trường hàng hóa và thị trường chứng khoán. Đặc biệt là đối với thị trường chứng khoán, một thị trường đầy rủi ro thì công cụ phái sinh này sẽ giúp nhà đầu tư tránh được tình trạng thua lỗ nặng khi thị trường đi xuống sâu và ngược lại, nhà đầu tư có thể đạt mức lợi nhuận rất cao khi thị trường có xu hướng như thế nào. Hiện nay, không chỉ các thị trường toàn cầu nói chung hay thị trường Việt Nam nói riêng, mọi người đều lo ngại về vấn đề quản lý rủi ro, và đây cũng là thời điểm tốt để một thị trường non trẻ, với nhiều biến động về giá trong thời gian qua như Việt Nam có thể xem xét đến việc áp dụng những hình thức giao dịch như quyền chọn chứng khoán. Quyền chọn có vai trò rất quan trọng trong việc quản lý rủi ro nên hình thức này giúp nhà đầu tư có thêm tự tin khi tham gia thị trường, điều này giúp thu hút thêm nhà đầu tư tham gia thị trường. Vì vậy, đối với những thị trường chứng khoán mới nổi như Việt Nam , mới được gần 8 năm tuổi đời với sự bất ổn trong của tâm lý nhà đầu tư, quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam nếu so sánh với thị trường chứng khoán thế giới thì có một sự “khập khiễng” rõ nét, nên việc sử dụng một công cụ để phòng ngừa rủi ro là không thể thiếu. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài với những cơ sở lý luận đã được học tại trường, tôi quyết định chọn đề tài: “Xây dựng mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam”. Đây là một sản phẩm mới nhằm phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư, cũng như là một công cụ phòng ngừa rủi ro cho thị trường chứng khoán. Chuyên đề có nội dung bao gồm: Mục đích nghiên cứu Phân tích tình hình thị trường chứng khoán – option chứng khoán thế giới, rút ra bài học kinh nghiệm cho thị trường chứng khoán Việt Nam. Từ thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam, nhận diện các yếu tố rủi ro trên thị trường, qua đó thấy được sự cần thiết của việc thành lập thị trường quyền chọn ở Việt Nam, những thuận lợi và khó khăn khi thành lập thị trường Quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam. Nghiên cứu, tìm hiểu và làm rõ một số vấn đề cơ bản về quyền chọn, cấu trúc thị trường quyền chọn, những điểm nổi bật căn bản của thị trường quyền chọn so với thị trường chứng khoán. Qua kiến thức về Quyền Chọn, các mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán thế giới, đưa ra ý tưởng thiết lập mô hình quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam, mức phí quyền chọn hợp lý, điều kiện và giải pháp cho thị trường Quyền chọn. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu các lý luận về sản phẩm quyền chọn và thị trướng quyền chọn. Nghiên cứu quá trình hoạt động của thị trướng chứng khoán Việt Nam từ lúc thành lập đến thời điểm cuối thàng 3/2008. Nghiên cứu mô hình thị trường Chứng Khoán Việt Nam, mô hình thị trường quyền chọn các nước trên thế giới, và các điều kiện thực tiễn để ứng dụng một mô hình quyền chọn vào Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như thống kê – mô tả, phân tích – tổng hợp, so sánh – đối chiếu, và quan sát từ thực tiễn để khái quát bản chất của các vấn đề cần nghiên cứu. Đề tài này của nhóm tác giả dựa vào cơ sở lý thuyết chuyên ngành tài chính doanh nghiệp kết hợp với nguồn dự liệu thu thập được từ thực tế (sách báo, tạp chí, internet…) Kết cấu của đề tài Với phạm vi nghiên cứu như trên, nội dung chính của đề tài gồm 4 chương: Chương 1: Lịch sử phát triển của thị trường quyền chọn cổ phiếu – Bài học kinh nghiệm cho thị trường chứng khoán Việt Nam Chương 2: Thị trường chứng khoán Việt Nam – Rủi ro và hướng khắc phục Chương 3: Tổng quan về quyền chọn Chương 4: Mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam Phần phụ lục, tài liệu tham khảo. MỤC LỤC  Phần mở đầu  Phần nội dung CHƯƠNG I: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN CỔ PHIẾU – BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM 1.1 Lịch sử hình thành và phát triển thị trường quyền chọn chứng khoán ............................1 1.2 Thị trường quyền chọn giao dịch có tổ chức ......................................................................2 1.2.1 Thị trường Mỹ ...............................................................................................................2 1.2.2 Thị trường Nhật .............................................................................................................4 1.2.3 Thị trường Hàn Quốc ....................................................................................................6 1.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ thị trường các nước trên thế giới .........................7 CHƯƠNG II: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM – RỦI RO VÀ HƯỚNG KHẮC PHỤC 2.1 Tính hình thị trường chứng khoán Việt Nam ....................................................................9 2.1.1 Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam ...........................................................9 2.1.2 Những đặc điểm đáng nổi bật của TTCK nước ta từ năm 2006 đến nay ...................... 11 2.1.3 Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng hàm chứa nhiều rủi ro ............................ 13 2.1.4 Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên của thị trường chứng khoán Việt Nam .............. 17 2.2 Sự cần thiết của Option chứng khoán ................................................................................. 18 2.2.1 Tạo ra công cụ bảo vệ cho nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán ....................... 18 2.2.2 Đa dạng hoá cơ hội kinh doanh cho các nhà đầu tư tài chính trong và ngoài nước ................................................................................................................................... 19 2.2.3 Thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán ................................................... 19 2.2.4 Ảnh hưởng tích cực đến các doanh nghiệp trong nước và nền kinh tế ......................... 19 2.2.5 Thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam ..................................... 20 2.3 Một số thuận lợi và khó khăn khi xây dựng thị trường quyền chọn cổ phiếu ở Việt Nam hiện nay .......................................................................................................................... 21 2.3.1 Những thuận lợi .............................................................................................................. 21 2.3.1.1 Tiềm năng phát triển thị trường chứng khoán ......................................................... 21 2.3.1.2 Sức cầu về đầu tư chứng khoán cao ......................................................................... 21 2.3.1.3 Sự quyết tâm và cam kết của Chính phủ xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam................................................................................................................ 22 2.3.1.4 Sự ra đời của các hiệp hội ....................................................................................... 22 2.3.1.5 Kinh nghiệm từ việc ứng dụng quyền chọn trong giao dịch ngoại tệ và vàng ở Việt Nam ............................................................................................................................. 22 2.3.1.6 Đặc điểm kinh tế của Việt Nam ............................................................................... 22 2.3.2 Những khó khăn ............................................................................................................. 23 2.3.2.1 Chưa có hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động này ............................................ 23 2.3.2.2 Hạn chế về mặt pháp lý,quy mô họat động ............................................................. 23 2.3.2.3 Nhận thức và trình độ của các nhà đầu tư,người quản lý ......................................... 24 2.3.2.4 Tiến trình cổ phần hoá và niêm yết diễn ra quá chậm .............................................. 24 2.3.2.5 Chính sách quản lý, kiểm soát thị trường còn hạn chế ............................................ 25 CHƯƠNG III: TỔNG QUAN VỀ QUYỀN CHỌN 3.1 Giới thiệu về quyền chọn .................................................................................................. 26 3.1.1 Định nghĩa ................................................................................................................. 26 3.1.2 Quyền chọn mua ........................................................................................................ 26 3.1.3 Quyền chọn bán ........................................................................................................ 27 3.1.4 Phân loại quyền chọn theo thời gian thực hiện ........................................................... 28 3.2 Cấu trúc cơ bản của thị trường quyền chọn .................................................................... 28 3.2.1 Điều kiện niêm yết ..................................................................................................... 29 3.2.2 Quy mô hợp đồng ...................................................................................................... 29 3.2.3 Giá thực hiện ............................................................................................................ 30 3.2.4 Chi phí giao dịch, phí thanh toán và hoa hồng ........................................................... 30 3.2.5 Ngày đáo hạn ........................................................................................................... 30 3.2.6 Hạn mức vị thế và hạn mức thực hiện ........................................................................ 31 3.3 Thị trường quyền chọn và thị trường cổ phiếu ................................................................ 31 3.3.1 Quyền chọn cổ phiếu có nhiều nét tương đồng với cổ phiếu trên sàn giao dịch ............. 31 3.3.2 Mặc dù có những điểm tương đồng, nhưng thị trường quyền chọn và thị trường cổ phiếu vẫn có những điểm khác nhau quan trọn ...................................................................... 32 3.3.2.1 Về phương diện giao dịch và thời gian ................................................................... 32 3.3.2.2 Về phương diện quản trị rủi ro ............................................................................... 32 3.3.2.3 Về phương diện đòn bẩy ......................................................................................... 33 3.3.2.4 Thị trường quyền chọn cũng cung cấp một thông tin hiệu quả về xu hướng giá ...... 34 3.3.2.5 Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả ............................................................... 34 3.3.2.6 Thị trường sản phẩm phái sinh chứa đựng đầy rủi ro so với thị trường giao ngay? ................................................................................................................................. 35 CHƯƠNG IV: MÔ HÌNH THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM 4.1 Điều kiện cần để xây dựng thị trường quyền chọn chứng khoán .................................... 37 4.1.1 Có hệ thống cơ sở pháp lý hoàn thiện ....................................................................... 37 4.1.2 Điều kiện về hàng hóa trên TTCK ............................................................................. 37 4.1.3 Điều kiện về thông tin trên thị trường ....................................................................... 37 4.1.4 Điều kiện về kỹ thuật ................................................................................................ 38 4.1.5 Điều kiện về con người ............................................................................................. 38 4.2 Mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam .............................................. 38 4.2.1 Môi trường giao dịch ............................................................................................... 39 4.2.2 Sàn giao dịch quyền chọn ......................................................................................... 39 4.2.3 Phương thức giao dịch ............................................................................................. 40 4.2.4 Phí quyền chọn ......................................................................................................... 43 4.3 Thị trường quyền chọn chứng khoán và nhà đầu tư ....................................................... 45 4.3.1 Mua quyền chọn mua cổ phiếu ................................................................................ 45 4.3.2 Mua quyền chọn bán cổ phiếu ................................................................................. 46 4.4 Giải pháp xây dựng mô hình thị trường quyền chọn chứng khoán ở Việt Nam............. 47 4.4.1 Hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán và thị trường option chứng khoán................................................................................................................................ 47 4.4.2 Hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho thị trường option chứng khoán và hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin .................................................................................................. 48 4.4.3 Nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường chứng khoán ................................... 48 4.4.4 Nâng cao vai trò , trách nhiệm của các cơ quan chức năng ...................................... 49 4.4.5 Tăng cung kích cầu cho thị trường chứng khoán và option chứng khoán .................. 49 4.4.6 Thực hiện các chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán ......................................................................................................... 49 4.4.7 Tăng cường công tác đào tạo, nghiên cứu và thông tin tuyên truyền......................... 50 4.4.8 Tăng cường hoạt động tư vấn cho các nhà đầu tư .................................................... 50  Phần kết luận  Phần phụ lục Phụ lục 1: Thực trạng công ty chứng khoán tại Việt Nam - Thực tế hoạt động và những thách thức tiềm ẩn. Phụ lục 2: Thị trường chứng khoán Việt Nam trước những thách thức của việc gia nhập WTO. Phụ lục 3: Những giải pháp điều chỉnh đối với thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới. Phụ lục 4: Tính ưu việt của hợp đồng quyền chọn cổ phiếu so với các loại khác. Phụ lục 5: Chiến lược phòng ngừa rủi ro bằng quyền chọn. Phụ lục 6: Mô hình định giá Black-Scholes. Phụ lục 7: Danh mục phí quyền chọn. Phụ lục 8: Các loại hợp đồng giao dịch quyền chọn cổ phiếu. HỆ THỐNG BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Doanh số cổ phiếu, option trên thị trường chứng khoán Mỹ từ 1990 – 2006. Bảng 1.2: Tỷ lệ các công ty niêm yết trên các sàn giao dịch ở Nhật Bảng 1.3: Các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Nhật Bản năm 2007 Bảng 1.4: Hoạt động giao dịch của nhà đầu tư ngày 07/04/2008 HỆ THỐNG CÁC HÌNH VẼ ĐỒ THỊ Hình 2.1.1: Biểu đồ VN-Index và khối lượng giao dịch tăng trong tuần đầu tháng 4, giảm dần sau đó. Hình 2.1.2: Biểu đồ chỉ số VN – Index sàn TP. Hồ Chí Minh Hình 3.1.2:Quyền chọn mua – Vị thế của người mua(bán) quyền chọn Hình 3.1.3: Quyền chọn bán – vị thế của người mua(bán) quyền chọn Hình 4.2.3: Phương thức giao dịch quyền chọn trên thị trường chứng khoán Việt Nam NHỮNG TỪ VIẾT TẮT  TTCK : Thị trường chứng khoán UBCKNN : Ủy ban chứng khoán Nhà Nước CP : Cổ phiếu NHNN : Ngân hang Nhà Nước CTNY : Công ty niêm yết NHTMQD : Ngân hang thương mại quốc doanh NHTMCP : Ngân hang thương mại cổ phần DNNN : Doanh nghiệp nhà nước CTCK : Công ty chứng khoán CNTT : Công nghệ thông tin CHƯƠNG I: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG QUYỀN CHỌN CỔ PHIẾU – BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM 1.1 Lịch sử hình thành và phát triển thị trường quyền chọn chứng khoán Hệ thống thị trường quyền chọn hiện nay có nguồn gốc từ thế kỷ thứ 19, khi quyền chọn mua và chọn bán được chào bán đối với cổ phiếu. Những năm đầu tiên của thập niên 1900, một nhóm các công ty được gọi là Hiệp hội các Nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn mua và quyền chọn bán đã thành lập thị trường các quyền chọn. Mục đích của hiệp hội này là cung cấp kỹ thuật nhằm đưa những người mua và người bán lại với nhau. Nếu một người nào đó muốn mua quyền chọn, một thành viên của hiệp hội này sẽ tìm kiếm một người bán sẵn sàng muốn ký hợp đồng bán quyền chọn. Nếu công ty thành viên không thể tìm được người tự bán, tự công ty sẽ bán quyền chọn. Vì vậy, một công ty thành viên có thể vừa là nhà môi giới - người mang người mua và người bán đến với nhau - hoặc là nhà kinh doanh - người thực hiện vị thế giao dịch. Tuy nhiên, thị trường quyền chọn phi tập trung này bộc lộ rõ nhiều khiếm khuyết.  Thứ nhất, do không có thị trường thứ cấp, thị trường này không cung cấp cho người nắm giữ quyền chọn cơ hội bán quyền chọn cho một người khác trước khi quyền chọn đáo hạn. Các quyền chọn được thiết kế để được nắm giữ cho đến khi đáo hạn, và rồi thì chúng sẽ được thực hiện hoặc để cho hết hiệu lực. Vì vậy, hợp đồng quyền chọn có rất ít, thậm chí không có tính thanh khoản.  Thứ hai, việc thực hiện hợp đồng của người bán chỉ được đảm bảo bởi công ty môi giới kiêm kinh doanh. Nếu người bán hoặc công ty thành viên của Hiệp hội các Nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn mua và quyền chọn bán bị phá sản, người nắm giữ quyền chọn coi như tổn thất hoàn toàn.  Thứ ba, phí giao dịch tương đối cao, một phần cũng do hai nguyên nhân kể trên. Năm 1973, đã có một thay đổi mang tính cách mạng trong thế giới quyền chọn. Sàn giao dịch Chicago Board of Trade (CBOT) - sàn giao dịch lâu đời nhất và lớn nhất về các hợp đồng giao sau hàng hoá, đã tổ chức một sàn giao dịch dành riêng cho giao dịch quyền chọn cổ phiếu. Sàn giao dịch này được đặt tên là Chicago Board Options Exchange (CBOE), mở cửa giao dịch quyền chọn mua vào ngày 26/04/1973 và giao dịch các hợp đồng quyền chọn bán trong tháng 06/1977. CBOE đã tạo ra một thị trường trung tâm cho các hợp đồng quyền chọn. Bằng cách tiêu chuẩn hóa các kỳ hạn và điều kiện của hợp đồng quyền chọn, nó đã làm tăng tính thanh khoản cho thị trường. Đặc biệt quan trọng nhất, CBOE đã bổ sung một trung tâm thanh toán đảm bảo cho người mua rằng người bán sẽ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo hợp đồng. Vì vậy, không giống như trên thị trường phi tập trung, người mua quyền chọn không còn phải lo lắng về rủi ro tín dụng của người bán. Điều này khiến quyền chọn trở nên hấp dẫn hơn đối với công chúng. Từ thời điểm đó, nhiều sàn giao dịch chứng khoán và gần như tất cả sàn giao dịch giao sau bắt đầu giao dịch quyền chọn. Được kích thích bởi nhu cầu của công chúng về quyền chọn, ngành kinh doanh này đang tăng trưởng mạnh mẽ cho đến khi thị trường chứng khoán sụp đổ vào năm 1987. Bị tổn hại bởi các cú sốc này, nhiều nhà đầu tư cá nhân đã sử dụng quyền chọn trước đây đã tránh xa thị trường, và khối lượng giao dịch chỉ mới được hồi phục ở mức năm 1987 trong thời gian gần đây. Vào đầu thập niên 1990, các sàn giao dịch cố gắng trở nên sáng tạo hơn để giành lại thị phần giao dịch và kích thích mối quan tâm của công chúng đối với quyền chọn. Tuy nhiên, các xu hướng này không có nghĩa là quyền chọn đang mất dần tính đại chúng. Thật ra, chúng trở nên phổ biến hơn bao giờ hết đối với các định chế tài chính và doanh nghiệp, nhưng mức tăng trưởng thì tập trung ở các thị trường phi tập trung. Tuy nhiên, thị trường phi tập trung vẫn còn một số hạn chế, cơ bản nhất là rủi ro tín dụng tồn tại và loại trừ nhiều khách hàng vốn không thể thiết lập độ tín nhiệm cho mình ra khỏi thị trường này. Ngoài vấn đề rủi ro tín dụng, quy mô các giao dịch trên thị trường phi tập trung lớn hơn khả năng của nhiều nhà đầu tư. Từ đó, thị trường quyền chọn giao dịch có tổ chức đã ra đời. 1.2 Thị trường quyền chọn giao dịch có tổ chức Trong thị trường quyền chọn, sàn giao dịch có tổ chức phát triển và đáp ứng được việc thiếu chuẩn hóa và thanh khoản của thị trường phi tập trung. Sàn giao dich có tổ chức sẽ có những quy định cụ thể điều kiện và quy định của hợp đồng. Sau đây chúng ta sẽ cùng tìm hiểu sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của thị trường quyền chọn như thế nào tại một số nước trên thế giới. 1.2.1 Thị trường Mỹ Tháng 4 năm 1973 Chicago Board of Trade thành lập thị trường mới, sàn Chicago Board Option Exchange về trao đổi Option về cổ phiếu. Từ đó thị trường Option trở nên phổ biến đối với nhà đầu tư. Thị trường chứng khoán Mỹ (The American Stock Exchange – AMEX ) bắt đầu thực hiện giao dịch Option vào năm 1975. Khoảng đầu thập niên 80 khối lượng giao dịch tăng lên nhanh chóng đến mức mà số lượng cổ phiếu theo hợp đồng Option bán hàng ngày vượt quá khối lượng giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán New York. Hiện nay thị trường Option tồn tại khắp nơi trên thế giới. Tính tích cực của công cụ option chứng khoán ngày càng hấp dẫn các nhà đầu tư Mỹ. Không ai có thể phủ nhận rằng công cụ này đã giúp họ thoát khỏi các vụ thua lỗ có thể lên tới hàng chục triệu USD trên thị trường chứng khoán cũng như giúp các nhà đầu tư an tâm hơn khi đến với thị trường đầy rủi ro này. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, thị trường chứng khoán Mỹ đã xảy ra nhiều biến động lớn, do nhiều nguyên nhân đã tác động tiêu cực đối với thị trường này có thể kể đến, bao gồm:  Thứ nhất, giới đầu tư đã rút vốn ồ ạt nhiều lần trong năm trong mối lo ngại về khủng hoảng trên các thị truờng tiền tệ mà trong đó chủ yếu là ảnh hưởng mạnh mẽ từ những khoản cho vay thế chấp nhà đất đang trở nên là những khoản nợ khó đòi khi thị trường nhà đất ở Mỹ đóng băng. Điển hình là vụ CitiGroup và vụ Northern Rock (NR) - một trong những tập đoàn ngân hàng hàng đầu thế giới, cũng là hai ngân hàng có khoản cho vay thế chấp nhà lớn nhất nước Mỹ. Ngày 15/09/2007, hàng trăm khách hàng đã hốt hoảng kéo đến các chi nhánh của ngân hàng NR để rút toàn bộ số tiền tiết kiệm khi nghe tin cổ phiếu của NR đã giảm đến 32%. Còn cổ phiếu của CitiGroup đến nay đã giảm hơn 45% so với cuối năm 2006.  Thứ hai, sự đóng băng trên thị trường nhà đất và khủng hoảng tín dụng tại Mỹ đã dấy lên những lo ngại về nguy cơ suy thoái kinh tế của quốc gia hàng đầu thế giới. Những công bố mới đây nhất về một số chỉ tiêu kinh tế hàng đầu của Mỹ cho thấy nền kinh tế lớn nhất thế giới có thể sẽ phải đối mặt với một đợt suy thoái kinh tế mới trong thời gian tới. Cả IMF và nhiều chuyên gia kinh tế đều cho rằng, kinh tế Mỹ trong năm 2007 sẽ chỉ đạt mức khoảng 1,9% (so với mức dự báo 2,5% hồi cuối năm ngoái) - đây là mức thấp nhất trong vòng 5 năm qua.  Thêm vào đó, các nhà kinh tế còn cảnh báo rằng, nền kinh tế Mỹ sẽ còn tụt dốc hơn nữa trong năm tới. Ba vấn đề chủ yếu khiến người dân Mỹ và các nhà đầu tư trở nên bi quan hơn, đó là vấn đề về tình trạng thất nghiệp, giá tiêu dùng tăng cao và giá xăng ngày càng leo thang (trong những tháng cuối năm, giá xăng đã leo lên mức gần 100 USD/thùng). Mặc dù trước sự chao đảo của TTCK và khủng hoảng tín dụng, Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã không thể đứng ngoài cuộc, FED đã có can thiệp rất nhiều vào thị trường nhưng dường như chưa đủ lực để hỗ trợ cho sự phục hồi trên các TTCK Mỹ. Lúc này, với sự có mặt của công cụ phòng ngừa rủi ro option là thật sự cần thiết cho các nhà đầu tư Mỹ. Việc đầu tư vào sản phẩm phái sinh này được nhiều nhà đầu tư quan tâm, bởi nếu nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu thì khả năng thua lỗ có thể rất lớn, trong khi sử dụng option nhà đầu tư chỉ chịu một mức phí và giảm thiểu được khoản lỗ lớn khi thị trường Mỹ biến động như thế này. Bảng 1.1: Dưới đây là bảng số liệu về doanh số cổ phiếu, option trên thị trường chứng khoán Mỹ. Qua đó chúng ta có thể nhận thấy có sự gia tăng đáng kể từ năm 1990 – 2006: Qua số liệu trên ta thấy, hợp đồng quyền chọn chứng khoán ngày càng được các nhà đầu tư Mỹ quan tâm và sử dụng để phòng ngừa rủi ro. Có thể không chỉ riêng Mỹ mà các nước khác cùng ngày càng phát triển công cụ phái sinh này. 1.2.2 Thị trường Nhật Sàn giao dịch chứng khoán Tokyo (TSE) là sàn giao dịch chứng khoán và các hợp đồng phái sinh hàng đầu Nhật Bản và Châu Á. So với quy mô thế giới, TSE cũng được xem như là một trong những thị trường giao dịch nòng cốt. Bên cạnh các loại hàng hoá được giao dịch thông thường trên sàn là cổ phiếu, trái phiếu chính phủ, TSE còn giao dịch các hợp đồng tương lai, quyền chọn tài sản, chứng khoán và chỉ số chứng khoán. Vào năm 1870, một hệ thống chứng khoán được đưa vào Nhật và được trình lên chính phủ. Đến tháng 05/1878, sắc lệnh thị trường ban hành. Thị trường chứng khoán Tokyo được thành lâp vào ngày 15/05/1878 và bắt đầu hoạt động vào ngày 01/06/1878. - 03/09/1988, dựa vào sự thành công của sàn giao dịch CBOE và một số sàn giao dịch Châu Âu, TSE bắt đầu tiến hành giao dịch các hợp đồng tương lai cho chỉ số chứng khoán Tokyo và giao dịch các hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng khoán Tokyo vào năm 1989. - Năm 1989, TSE bắt đầu giao dịch quyền chọn chỉ số chứng khoán - Năm 1997, TSE đưa vào giao dịch các hợp đồng quyền chọn chứng khoán dựa trên 166 cổ phiếu cơ sở của các công ty Nhật. - Năm 1999, TSE chuyển sang hệ thống giao dịch điện tử và đưa vào sử dụng năm 2000. - 09/04/2001, TSE phối hợp với Công ty Standard & Poor chọn ra 150 chứng khoán cơ sở có độ thanh khoản cao nhất thời bấy giờ làm danh mục đầu tư chuẩn và tiến hành giao dịch các hợp đồng quyền chọn chỉ số chứng khoán S & P và TOPIX 150. - 01/08/2007 ,Tập đoàn Sàn giao dịch chứng khoán Nhật Bản được thành lập. - 17/11/2007, Ban hành quy định giao dịch chứng khoán Nhật Bản. - 01/12/2007, Quy định giao dịch chứng khoán Nhật bản bắt đầu được thưc hiện. Tính đến năm 2007 thì sàn giao dịch niêm yết 3.924 công ty Bảng 1.2: Tỷ lệ các công ty niêm yết trên các sàn giao dịch ở Nhật Nguồn : Các nhà đầu tư khá đa dạng, từ các nhà đầu tư tổ chức đến các nhà đầu tư cá nhân, từ nhà đầu tư trong nước đến nhà đầu tư nước ngoài…ở các sàn khác nhau, nhưng nhìn chung số lượng nhà đấu tư cá nhân chiếm tỷ trọng khá lớn. Bảng 1.3: Các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Nhật Bản năm 2007 Nguồn : Trước sự phát triển mạnh mẽ, thị trường TSE ngày càng xuất hiện nhiều loại sản phẩm. Đặc biệt là các sản phẩm phái sinh, mà ở đây hợp đồng quyền chọn có vai trò khá quan trọng trong việc bảo vệ và tạo môi trường đầu tư lý tưởng. Hiện nay, hợp đồng quyền chọn được thực hiện trên sàn giao dịch TSE thông qua các thành viên giao dịch tổng hợp (General Trading Participant), tất cả các lệnh và tiến trình giao dịch đều được thực hiện trên hệ thống tự động (Computerized Oder Routing and Execution System for Futures and Option – CORE FOP), tất cả các lệnh giao dịch sẽ được nhập vào hệ thống từ các cổng giao dịch của thành viên thông qua hệ thống vi tính nối mạng. Từ năm 2008 đến năm 2010, TSE sẽ thực hiện một kế hoạch quản lý trung hạn. Kế hoạch này đưa ra để khẳng định tương lai tươi sáng của TSE bao gồm cập nhật những thông tin thay đổi theo điều kiện thị trường, thiết lập mục đích quản lý và những vấn đề ưu tiên phát triển trong 3 năm tới. TSE đang tiếp tục phát triển một thị trường năng động, có tính thanh khoản cao cho lượng tiền rủi ro khắp nơi trên thế giới, bằng việc mở rộng thị trường không chỉ trên toàn quốc mà còn trên toàn thế giới, một thị trường tin cậy và quen thuộc với tất cả các nhà đầu tư và công ty niêm yết trên thế giới. Trung tâm tài chính của Nhật và những thị trường vốn, những công ty trong tập đoàn TSE sẽ liên kết với nhau để dành được mục tiêu này. Họ sẽ hợp tác để hoàn thành công tác mở rộng và cải tiến số lượng và chất lượng. Với môi trường đầu tư lý tưởng này, khối lượng hợp đồng quyền chọn ngày càng tăng vọt để bảo vệ cho nhà đầu tư, đa dạng hóa các cơ hội kinh doanh của nhà đầu tư… từ đó thu hút được đông đảo nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng khoán nói riêng và nền kinh tế Nhật Bản nói chung. 1.2.3 Thị trường Hàn Quốc Sàn giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (Korea Stock Exchange – KSE) là sàn giao dịch chứng khoán và các hợp đồng phái sinh lâu đời bậc nhất hàng đầu ở Hàn Quốc và Châu Á. Qua nhiều năm tìm tòi và đổi mới, KSE giờ đây đã ngày càng hoàn thiện về quy mô và sản phẩm giao dịch. Sau đây chúng ta sẽ điểm qua vài nét cơ bản về lịch sử của thị trường chứng khoán Hàn Quốc. Thị trường chứng khoán Hàn Quốc được thành lập vào ngày 03/03/1956 và lấy tên là Korea Stock Exchange. Lúc đó, KSE chỉ thực hiện giao dịch cổ phiếu của các công ty chứng khoán được niêm yết trên sàn giao dịch. Dựa vào sự thành công của sàn giao dịch CBOE và một số sàn giao dịch Châu Âu về hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương lại, KSE đã thành lập thị trường quyền chọn cổ phiếu vào ngày 28/01/2002. Từ khi thị trường quyền chọn ra đời, thị trường chứng khoán của Hàn Quốc ngày càng ổn định và phát triển vững chắc. Khối lượng giao dịch quyền chọn đã chiếm một tỷ lệ khá cao trong giao dịch ở sàn Hàn Quốc. Và các nhà đầu tư quyền chọn thì khá đa dạng. Họ đều thực hiện quyền chọn để bảo vệ danh mục cổ phiểu của họ cũng như thực hiện các khoản đầu cơ với rủi ro mà họ mong muốn. Với đặc trưng như thế, nên thị trường quyền chọn chiếm tỷ lệ khá cao. Ngoài ra các tổ chức hàng đầu như các công ty chứng khoán và các nhà đầu tư nước ngoài đã thực hiện những lệnh giao dịch lớn với các hợp đồng quyền chọn để kiếm lợi trên thị trường phái sinh này. Đó cũng là điểm mạnh của thị trường quyền chọn KSE trong việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và các tổ chức hàng đầu ở Hàn Quốc tham gia thị trường chứng khoán nước họ. Do đó mà KSE đã có tốc độ phát triển ngày càng mạnh mẽ và đáng kinh ngạc. Bảng 1.4: Hoạt đồng giao dịch của nhà đầu tư ngày 07/04/2008 Nhóm nhà đầu tư Purchases Sales Total (Contract) Percent Net Purchase Trading Volume (Contract) Percent Trading Volume (Contract) Percent Ngân hàng 2,576 0.02% 2,964 0.03% 5,540 0.03% -388 Nước ngoài 2,697,363 25.45% 2,713,750 25.61% 5,411,113 25.53% -16,387 Futures 386,828 3.65% 386,659 3.65% 773,487 3.65% 169 Cá nhân 3,857,858 36.40% 3,750,667 35.39% 7,608,525 35.89% 107,191 Cty bảo hiểm 147,309 1.39% 159,846 1.51% 307,155 1.45% -12,537 Quỹ đầu tư 60,723 0.57% 58,848 0.56% 119,571 0.56% 1,875 Thương gia 1 0.00% 0 0.00% 1 0.00% 1 Kiều bào 21,695 0.20% 22,103 0.21% 43,798 0.21% -408 Khác 0 0.00% 0 0.00% 0 0.00% 0 Quỹ lương hưu 63,946 0.60% 60,102 0.57% 124,048 0.59% 3,844 Cty CK 3,360,113 31.70% 3,443,473 32.49% 6,803,586 32.10% -83,360 Tổng cộng 10,598,412 100% 10,598,412 100% 21,196,824 100% 0 Thêm vào đó, Hàn Quốc đã từng bước cải thiện hệ thống thanh toán của mình để có thể theo kịp với đà phát triển của thị trường. Từ thì trường thô sơ là chỉ giao dịch qua giấy thay đổi bằng hệ thống điện tử với sự thuận tiện và tính an toàn khá cao. Cũng nhờ những cải thiện trong hệ thống thanh toán mà khả năng giao dịch quyền chọn của KSE ngày càng nhanh gọn, hoàn thiện và an toàn hơn khi thanh toán hợp đồng cho nhà đầu tư. Mặc dù từ khi thành lập thị trường quyền chọn cổ phiếu, hệ thống giao dịch cũng gặp nhiều rủi ro về thanh toán như rủi ro về tín dụng, thanh khoản, luật pháp, hoạt động và hệ thống…. Và với nhiều biện pháp được thực hiện, rủi ro thanh toán được giảm thiểu thông qua thời gian thanh toán ngắn hơn, mọi hoạt động thanh toán được thực hiện thông quan hệ thống DVP, xu hướng quốc tế hóa của sàn giao dịch và hệ thống luật pháp được cải thiện…. đã phần nào mang lại sự an toàn trong giao dịch cho các nhà đầu tư. Và đó là những cải thiện hết sức cần thiết để đem đến một thị trường có tính thanh khoản cao của sàn giao dịch KSE như ngày nay. 1.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ thị trường các nước trên thế giới Với tình hình thị trường chứng khoán khá ảm đạm của Việt Nam hiện nay, và tình hình thị trường chứng khoán thế giới nhiều biến động như thế, kinh nghiệm lịch sử của các nước đi trước là liều thuốc tốt để có thể ổn định thị trường phát triển bền vững trong tương lai. Qua ba thị trường chứng khoán lớn Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, chúng ta đã rút ra được những bài học quý báu sau: Trong quá trình xây dựng và phát triển TTCK Nhà nước có vai trò hết sức to lớn, là kim chỉ nam và là người dẫn dắt thị trường khi còn non trẻ. Do đó, nhà nước phải định hướng và có chiến lược dài hạn để phát triển TTCK. Vì vậy, để xây dựng và phát triển thành công TTCK, nhà nước cần định hướng mục tiêu rõ ràng về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của TTCK để giành cho nó những chính sách và môi trường kinh tế - xã hội - chính trị phù hợp. Với bài học kinh nghiệm từ Nhật và Hàn Quốc, mặc dù đều xuất phát từ những tiềm năng nhỏ, khó khăn về điều kiện cho đến một nước lớn, nhiều tiềm năng như Mỹ để có sự phát triển vượt bậc như ngày này đều do có được sự định hướng tốt và hỗ trợ đúng đắn của nhà nước. Nhà nước cần tạo môi trường pháp lý rõ ràng minh bạch, trung thực cho TTCK. Bởi lẽ TTCK của các nước đang phát triển không thể là kết quả hình thành của các yếu tố tự phát trong nền kinh tế do điều kiện thế giới hiện nay đã hết sức khác với thế kỷ 17. Do vậy một môi trường pháp lý đủ để các tổ chức có thẩm quyền điều hành một TTCK đạt đến độ công khai, trung thức và công bằng mới có sức thu hút cung và cầu chứng khoán. Nhà nước cần khuyến khích mở rộng và phát triển các yếu tố nội tại của TTCK như hàng hóa, các Công ty phát hành, Công ty chứng khoán và nhà đầu tư. Một môi trường kinh tế ổn định với mức lạm phát lành mạnh, với hệ thống lãi suất khuyến khích đầu tư và mua chứng khoán đi cùng chiến lược tăng trưởng kinh tế có hiệu quả là môi trường tốt nhất cho TTCK nảy sinh và phát triển nhanh. Ngoài ra kinh nghiệm phát triển TTCK ở các nước cũng chỉ ra rằng Nhà nước dù có vai trò rất quan trọng nhưng TTCK là một thực thể kinh tế thị trường khách quan, sự tác động của Nhà nước trong trường hợp can thiệp quá sâu vào các quyết định kinh tế của các chủ thể như nhà đầu tư, tổ chức phát hành, Công ty chứng khoán vi phạm các nguyên tắc của hoạt động TTCK cũng phải trả giá. Như tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua. Do đó, về lĩnh vực này Hàn Quốc là bài học thành công của quản lý Nhà nước linh hoạt mà ta cần học hỏi. Sàn giao dịch cần phát triển mạnh hơn nữa hệ thống giao dịch tự động để có thể cải thiện giao dịch và tăng sự an toàn, nhanh chóng hơn nữa cho nhà đầu tư trong việc thi hành lệnh cũng như thiết lập các giao dịch cấp thời. Để thị trường có thể vực dậy trong đà sụt giảm liên tục như hiện nay, cũng như vẫn bảo đảm được tính thanh khoản cho thị trường và khối lượng giao dịch không bị sụt giảm, thì cách tốt nhất là thành lập một thị trường mới, thị trường quyền chọn chứng khoán, một thị trường hỗ trợ rất hiệu quả cho thị trường chứng khoán. Cũng từ thị trường Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, ta càng nhận ra sự cần thiết của thị trường quyền chọn là như thế nào? Tiềm năng, cũng như khả năng của nó ra sao? Và chúng ta sẽ tìm hiều rõ hơn về thị trường quyền chọn ở các phần tiếp theo. Tóm lại, kinh nghiệm của thế giới là nhiều vẻ. Chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của họ song quan trọng hơn là cần biết sáng tạo trong điều kiện cụ thể của nước mình. CHƯƠNG II: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM – RỦI RO VÀ HƯỚNG KHẮC PHỤC 2.1 Tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam Thị trường chứng khoán là phong vũ biểu của nền kinh tế mỗi nước. Sự phát triển của TTCK một cách ổn định là tác nhân quan trọng không chỉ cho sự phát triển của thị trường tài chính nói riêng mà đối với cả nền kinh tế nói chung. 2.1.1 Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam Sau gần 7 năm kể từ ngày Trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh chính thức khai trương và đi vào hoạt động (20/07/2000), thị trường chứng khoán Việt Nam đã được hình thành và phát triển với sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước.  Thống kê cơ bản thị trường chứng khoán Việt Nam tới quý I năm 2008 Tính đến ngày 31/03/2008, mức vốn hoá toàn thị trường chứng khoán đạt khoảng 307 ngàn tỷ đồng, chiếm khoảng 25% GDP. Hiện nay, mức vốn hóa này giảm 48% so với mức vốn hóa thị trường cuối năm 2007 bắt nguồn từ đà sụt giảm rất lớn trong Quý 1 vừa qua. Hiện nay có khoảng 150 doanh nghiệp niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và 133 doanh nghiệp niêm yết tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội. Số tài khoản giao dịch cá nhân tính đến 31/01/2008 đạt 365.061 tài khoản. Tính đến cuối Quý I năm 2008 có 87 công ty chứng khoán và 30 công ty quản lý quỹ đang hoạt động. Cuối năm 2007, có 70 công ty chứng khoán và 23 công ty quản lý quỹ được phép hoạt động. Có trên 10.000 tài khoản giao dịch thuộc khối đầu tư nước ngoài, trong đó có trên 640 tài khoản là của các tổ chức đầu tư nước ngoài. Con số này gia tăng khá lớn khi tổng số tài khoản thuộc khối này trong năm 2007 đạt ở con số 7.500, trong đó có 300 tài khoản của nhà đầu tư tổ chức nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài (tính đến 31/3/2008) nắm giữ khoảng 22% cổ phần của các công ty niêm yết, doanh số giao dịch chiếm khoảng 34% giao dịch toàn thị trường. Giá trị danh mục đầu tư của họ trên thị trường chính thức ước đạt 4,17 tỷ USD, giảm 45% so với thời điểm cuối năm 2007 (7,6 tỷ USD). Theo thống kê UBCKNN, trong Quý I năm 2008 có 15 công ty được phép chào bán hơn 61 triệu cổ phiếu ra công chúng, tương ứng với khoảng trên 1.361 tỷ đồng. Tổng khối lượng phát hành năm 2007 là 2,46 tỷ cổ phiếu với giá trị tương ứng trên 48.000 tỷ đồng. Hình 2.1.1: VN-Index và khối lượng giao dịch tăng trong tuần đầu tháng 4, giảm dần sau đó. Tuần cuối tháng 4: Khối lượng và giá trị giao dịch lại sụt giảm mạnh, với chỉ hơn 6 triệu đơn vị được giao dịch mỗi ngày tương ứng với 265 tỷ đồng/ngày trên HOSE. Trên sàn Hà Nội, 2 giá trị tương ứng là 3,6 triệu CP/ngày và 148,8 tỷ đồng/ngày. Cùng với xu thế sụt giảm của giá trị giao dịch, VN-Index cũng tiếp tục đi xuống. Tính đến ngày 29/4, VN-Index vẫn đang ở ngưỡng sát 500 điểm, đóng cửa ở mức 522,36 điểm. Tương tự, HaSTC-Index đóng cửa ngày 29/4 ở mức 169,11 điểm, tiến rất sát mức đáy ngày 25/3 là 166,57 điểm Trong tháng 4, nhiều doanh nghiệp đã công bố kết quả kinh doanh Quý 1 năm 2008. Đúng như dự đoán, đa số doanh nghiệp bị ảnh hưởng tiêu cực từ tình hình kinh tế Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung trong quý vừa qua, chủ yếu do thị trường nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, khan hiếm nguồn vốn vay và khó khăn ở thị trường đầu ra. Nhiều doanh nghiệp có tỷ trọng doanh thu và lợi nhuận tài chính lớn cũng thiệt hại nặng nề, do thị trường chứng khoán liên tục sụt giảm. Một số doanh nghiệp báo cáo lợi nhuận giảm hoặc hầu như không tăng so với Quý 4 năm 2007, hoặc mới chỉ đạt rất thấp kế hoạch của năm 2008. Trong mùa đại hội cổ đông, nhiều doanh nghiệp cũng đã phải cắt giảm các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2008. Hệ thống các tổ chức trung gian trên TTCK đã hình thành và phát triển nhanh chóng. Sự ra đời của Luật Chứng khoán (có hiệu lực từ ngày 01/01/2007) đã tạo khung pháp lý cao cho TTCK phát triển góp phần thúc đẩy khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế của TTCK Việt Nam. Những vấn đề liên quan đến TTCK, trong đó những quy định về đăng ký, lưu ký, công khai và minh bạch, giám sát và kiểm tra của các cơ quan chức năng quản lý hoạt động của TTCK từng bước được hoàn thiện. Đáng chú ý là Chính phủ đã chỉ đạo việc phối hợp giữa Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước trong việc tăng cường kiểm soát TTCK ở nước ta, do đó thị trường này vẫn đang ổn định và phát triển khá mạnh. 2.1.2 Những đặc điểm nổi bật của TTCK nước ta từ năm 2006 đến nay Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư vào cổ phiếu ở nước ta mang tâm lý “đám đông”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả những người mua, bán theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”, hiện tượng “bong bóng” là có thật và cũng qua đó nhiều người được hưởng từ “một vốn, bốn lời” thậm chí tới mười hoặc hơn mười lời. Tình hình sôi động của TTCK trong thời gian này phản ánh hiện tượng:  Nền kinh tế Việt Nam đã và đang tăng trưởng và có xu hướng tiếp tục tăng trưởng.  Vốn cho đầu tư phát triển được huy động qua kênh TTCK và tiếp tục phát triển qua kênh này trong thời gian tới, do nhiều doanh nghiệp lớn (trong đó có các ngân hàng thương mại nhà nước) tiến hành cổ phần hoá, phát hành trái phiếu, thực hiện niêm yết tại các công ty chứng khoán.  Các ngân hàng thương mại cổ phần sau quá trình tái cơ cấu đã làm ăn tốt, đang ổn định và phát triển, tiếp tục tái cơ cấu để tăng cường năng lực cạnh tranh và hội nhập theo các cam kết của WTO, trong đó có việc phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn. Các ngân hàng thương mại đang tìm mọi cách để tăng vốn, trong đó bao gồm cả việc phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng (phát hành mới, phát hành thêm, thưởng cuối năm bằng cổ phiếu) và đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho cổ phiếu ngân hàng luôn “nóng”. Nền kinh tế đã có sự chuyển dịch đáng kể vốn từ ngân hàng thương mại sang đầu tư chứng khoán theo 2 hướng:  Các nhà đầu tư cá nhân rút tiền gửi tiết kiệm để đầu tư chứng khoán.  Những nhà đầu tư (bao gồm cả công ty chứng khoán của ngân hàng lại vay tiền của ngân hàng thương mại để kinh doanh chứng khoán (theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ các ngân hàng thương mại cho các công ty chứng khoán ngân hàng vay để kinh doanh chứng khoán tại thời điểm cuối năm 2006 là 2,6%). Qua đây cũng phần nào tác động đến hoạt động của ngân hàng thương mại và cả Ngân hàng Nhà nước với vai trò quản lý và điều hành chính sách tiền tệ. Trong những năm qua, các công ty chứng khoán đều đã triển khai được các nghiệp vụ cơ bản là môi giới và tự doanh, tích cực tham gia tư vấn niêm yết với kết quả kinh doanh có chiều hướng phát triển tốt. Các công ty phần lớn đã mở thêm chi nhánh và đại lý nhận lệnh để mở rộng phạm vi hoạt động. Từ năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận cho thành lập Công ty Liên doanh quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán đầu tiên tại Việt Nam nhằm giúp cho hoạt động đầu tư vào thị trường chứng khoán đa dạng và mang tính chuyên nghiệp hơn góp phần quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên so với tiềm năng phát triển của nền kinh tế, xu hướng hội nhập quốc tế thì quy mô của thị trường chứng khoán Việt Nam còn quá nhỏ bé, tổng giá trị chứng khoán niêm yết (cổ phiếu và trái phiếu tính theo mệnh giá) mới chỉ chiếm khoảng trên 1,9% GDP chưa đáp ứng được nhu cầu huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế và chưa tổ chức được thị trường thứ cấp hiệu quả đối với trái phiếu, đặc biệt là trái phiếu Chính phủ. Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán cũng đã trải qua nhiều biến động thăng trầm "sốt nóng và nguội lạnh" gây tâm lý dè dặt và thiếu niềm tin cho nhà đầu tư tham gia thị trường. Trong giai đoạn này có một số yếu tố khách quan thuận lợi, tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển. Trong đó, đáng kể là số lượng cổ phiếu còn được phép mua của các cổ phiếu blue-chips trên thị trường dành cho nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài mua vào. Bên cạnh đó, việc Việt Nam tham gia nhập WTO cũng như các hành lang pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán tạo tiền đề tốt cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư mạnh vào thị trường. Thị trường chứng khoán bị tác động cả bởi nhịp điệu của thị trường tài chính thế giới, thị trường phụ thuộc ngày càng mạnh vào sự chuyển dịch các dòng đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài. Không ai có thể phủ nhận rằng TTCK Việt Nam đã có những bước phát triển rất tích cực, ngày càng trở thành một kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Nhưng TTCK Việt Nam cũng đã mang lại cho các nhà đầu tư một bài học đắt giá rằng, đầu tư chứng khoán hiện nay có rủi ro khá cao. Một minh chứng khá rõ nét là sự lên xuống thất thường của Vn-Index luôn nằm ngoài dự đoán của các chuyên gia. Các phiên giao dịch của thị trường chứng khoán Việt Nam những tháng gần xuống rất thấp. VN-Index không ngừng xuyên thủng đáy 900 điểm từ đầu tháng 1 và đã có thể chạm ngưỡng 450 điểm nếu không có sự tác động từ việc giảm biên độ giao dịch của UBCKNN. Hình 2.1.2: Biểu đồ chỉ số VN – Index sàn TP. Hồ Chí Minh Từ giữa tháng 1/2008, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) liên tục áp dụng các chính sách thắt chặt tiền tệ như hạn chế mua vào ngoại tệ, giảm tỷ lệ dư nợ cho vay mua chứng khoán, thắt chặt cho vay kinh doanh bất động sản, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại các ngân hàng thương mại, đồng loạt tăng các loại lãi suất chủ chốt. Mới đây NHNN đã tiến hành rút một lượng lớn tiền mặt ra khỏi lưu thông qua việc phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc. Trước đó, IPO Vietcombank cũng đã hút một lượng tiền tương đối lớn từ lưu thông. Về lý thuyết, rút bớt tiền mặt ra khỏi lưu thông có tác dụng làm giảm lạm phát, nhưng những mặt trái của nó là ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường chứng khoán và đến bản thân các doanh nghiệp niêm yết. Dưới tác động của chính sách tiền tệ, lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại dao động ở mức 15%, tăng 3%/năm chỉ trong mấy ngày khiến chi phí vốn của doanh nghiệp tăng cao vì “bão” lãi suất, đặc biệt đối với các doanh nghiệp có tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu cao. Diễn biến trên thị trường chứng khoán trong thời gian gần đây đã ảnh hưởng không nhỏ tới tiến độ cổ phần hóa của các doanh nghiệp nhà nước. Từ đầu năm đến nay, tại Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM chỉ có 15 doanh nghiệp thực hiện đấu giá cổ phần. Ngoại trừ Sabeco và Habeco có vốn lớn, còn lại chủ yếu là những doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ. Nếu như trước đây các nhà đầu tư tích cực tìm kiếm lịch IPO để tham gia đấu giá cổ phiếu thì hiện nay rất ít người quan tâm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự “vắng lặng” của các đợt IPO trong thời gian gần đây, trong đó quan trọng nhất là sự sụt giảm mạnh mẽ của thị trường chứng khoán, những quan ngại về vấn đề lạm phát, tình trạng cung vượt cầu. Nếu không có những giải pháp đột phá thì có thể chương trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước tới năm 2010, một trong những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO sẽ khó thành hiện thực. 2.1.3 Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng hàm chứa nhiều rủi ro Tuy thị trường chứng khoán Việt Nam là một thị trường mới, mặc dù có cơ hội đầu tư rất lớn, nhưng cũng ẩn chứa không ít rủi ro, trong đó có những rủi ro lớn mà nhà đầu tư cần quan tâm:  Rủi ro kinh tế Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của một công ty là căn cứ cơ bản và khá phổ biến cho quyết định của nhà đầu tư. Xem xét sự biến động tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty là gián tiếp dự đoán giá cả của chứng khoán Công ty. Các nhà đầu tư có thể nhận định tình hình sản xuất kinh doanh thông qua các nhân tố kinh tế sau: tốc độ tăng trưởng kinh tế, thị trường, lãi suất, lạm phát, tỷ giá hối đoái... Nền kinh tế ổn định và tăng trưởng sẽ làm gia tăng nhu cầu đầu tư của xã hội và có thể sẽ làm gia tăng giá chứng khoán trên thị trường. Ngược lại, trong nền kinh tế bất ổn định hoặc chậm phát triển thì giá chứng khoán có thể giảm do nhu cầu đầu tư thấp và rủi ro khi đầu tư vào chứng khoán sẽ tăng. Khi đó sẽ ảnh hưởng đến tính thanh khoản của chứng khoán làm cho thị trường có thể sẽ ngày càng tệ hại hơn.  Nạn đầu cơ chứng khoán. Thực tế vừa qua trên TTCK Việt Nam những nhà đầu tư chân chính rất ít mà phần lớn là những nhà buôn chứng khoán. Họ có ít kiến thức về thị trường, về quản trị kinh doanh. Họ lao vào chứng khoán do thấy đã có nhiều người phất to từ thị trường này. Họ mua chứng khoán không vì mục tiêu đầu tư và hưởng cổ tức từ lợi nhuận của doanh nghiệp mà họ đầu cơ chứng khoán, mua đi bán lại hưởng chênh lệch giá. Chứng khoán đối với họ là một trò chơi như chơi xổ số, chơi hụi. Do vậy đã làm nhu cầu chứng khoán tăng lên giả tạo, làm cho giá thị trường cao hơn giá trị thực của cổ phiếu đó. Dẫn đến thị trường như là một quả bong bóng bơm dần và sẽ phát nổ khi bong bóng quá căng, làm cho thị trường rơi vào tình trạng khủng hoảng và sẽ gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế.  Nạn lạm phát chứng khoán. Khi giá cổ phiếu liên tục tăng lên, cổ phiếu các doanh nghiệp được giao dịch hết. Doanh nghiệp huy động vốn một cách nhanh chóng và dễ dàng, đó cũng là cơ hội thuận lợi hiếm hoi đối với doanh nghiệp. Thực trạng này đã thúc đẩy doanh nghiệp tiếp tục phát hành cổ phiếu nhiều hơn, mở rộng việc huy động vốn. Thực tế trên TTCK nước ta trong thời gian qua có rất nhiều công ty phát hành cổ phiếu đợt 2, đợt 3... Số cổ phiếu phát hành trong những đợt này đều không đại biểu cho lượng giá trị tài sản nào, bởi lẽ giá trị công ty không được xác định lại. Một hoạt động khác cũng được coi là lạm phát chứng khoán. Đó là các công ty trả cổ tức bằng cổ phiếu. Nhiều công ty không trả cổ tức cho nhà đầu tư bằng tiền mà bằng cổ phiếu, nhờ đó mà hàng triệu cổ phiếu được phát hành thêm một cách mặc nhiên và doanh nghiệp thu được khoản tiền đáng kể. Cũng vì thế mà lạm phát chứng khoán trầm trọng hơn. Khi sự thật sáng tỏ và những phản ứng của công ty, thì các nhà đầu tư nhận thấy giá trị cổ phiếu bị giảm đi liên tục, cổ tức mà cổ phiếu mang lại rất thấp hoặc không có, mệnh giá cổ phiếu chỉ còn là cái vỏ bề ngoài và giá cổ phiếu giảm liên tục theo giá trị thực của nó. Nhà đầu tư đã bị tước đoạt phần lớn số tiền vốn của mình mà không hề biết, không hiểu vì sao. Các nhà đầu tư có tâm lý hoang mang và nghi ngờ TTCK, tìm cách thu hồi vốn. Họ tìm cách để bán cổ phiếu ra, hạn chế mua vào, xu thế này đã làm giá cổ phiếu giảm và không ổn định. Do đó, biện pháp cấp thiết nhất là cẩn phải ổn định tâm lý nhà đầu tư, tăng tính thanh khoản của thị trường bằng việc giúp nhà đầu tư có được một công cụ hoàn thiện để bảo vệ tài sản của họ.  Rủi ro về mặt chính sách. Rủi ro này là không thể tránh khỏi đối với tất cả các thị trường chứng khoán mới hình thành. Ở nước ta, một ví dụ điển hình cho thấy khi chỉ số cổ phiếu tăng lên đến 570 điểm thì Ủy ban quản lý chứng khoán sẽ ra chính sách giữ tỷ lệ cổ phiếu, hạn chế đầu tư nước ngoài. Khi chỉ số chứng khoán giảm mạnh xuống còn 130 điểm thì Ủy ban này lại ra chính sách mở rộng khuyến khích đầu tư nước ngoài khiến cho chỉ số cổ phiếu đàn hồi trở lại con số 280 điểm. Một ví dụ điển hình là chỉ thị 03 do NHNN ban hành, ảnh hưởng từ chỉ thị này đã lộ rõ trên TTCK. Chỉ số VN – Index sụt xuống xoay quanh mức trên 1.000 điểm, thay vì đã đạt gần tới ngưỡng 1.100 điểm vào đầu tháng 6 năm 2007. NHNN quyết định sẽ áp dụng quy định khống chế dư nợ cầm cố dưới 3% trên tổng dư nợ của các ngân hàng thì nhiều khả năng thị trường sẽ có sự chao đảo. Lượng tiền từ TTCK phần nào sẽ chảy ngược trở lại thị trường tiền tệ. Các ngân hàng phải thu hồi vốn của nhà đầu tư để tránh sai phạm đối với quy định đưa ra của NHNN. Những tác động nay đã phần nào ảnh hưởng đến sự dụng vốn của nhà đầu tư, làm cho những người dùng vốn Ngân hàng để đầu tư gặp những biến cố bất lợi khi thị trường xuống, cùng sự thu hồi vốn của ngân hàng khẩn cấp, dẫn đến lượng cung tiền đầu tư chứng khoán giám sút, làm thị trường ngày càng đi xuống như hiện nay do nhà đầu tư phải bán chứng khoán trả nợ đến hạn cho ngân hàng. Vì thế, ổn định chính sách, ổn định cung tiền là điều cần thiệt trong thời điểm hiện nay.  Rủi ro mang tính lưu động. Do thị trường chứng khoán VN có quy mô nhỏ, lượng cổ phần của các công ty tham gia cũng rất hạn chế, chỉ số cổ phiếu lại lên xuống thất thường, điều đó dễ gây ra nhiều rủi ro mang tính lưu động. Ví dụ, trong quá trình chỉ số cổ phiếu tăng từ 570 điểm lên 1.100 điểm, lượng giao dịch mạnh, nhưng muốn mua cũng không mua được, khi đã mua được thì giá cổ phiếu đã lên đến đỉnh điểm. Khi chỉ số cổ phiếu bắt đầu giảm từ 1.100 điểm xuống, muốn bán cũng rất khó bán, khi bán được thì cũng đã rớt xuống đến “giá sàn”. Điều này ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến tâm lý nhà đầu tư, và nó sẽ kéo theo nhiều hệ quả nghiêm trọng. Và theo như kinh nghiệm của nhiều thị trường chứng khoán thế giới, để có thể ổn định được tính thanh khoản, thị trường quyền chọn là hiệu quả nhất khi kết hợp đúng đắn với chính sách nhà nước.  Rủi ro về mặt góp vốn. Thị trường cổ phiếu VN thực hiện hình thức giao dịch T+3, nhưng có một số công ty chứng khoán và ngân hàng lại liên kết với nhau đưa ra dịch vụ ngoại ngạch, bao gồm:  Nhà đầu tư có thể nhận được tiền mặt ngay trong ngày mà họ bán ra cổ phiếu, trong khi đó ngân hàng vẫn thu lợi nhuận theo lãi suất thị trường.  Thế chấp chứng khoán để vay tiền ngân hàng. Nhà đầu tư có thể thế chấp cổ phiếu đã hoặc chưa giao dịch trên thị trường chứng khoán để vay tiền, tỷ lệ vay là: 100% mệnh giá của cổ phiếu đã đem ra giao dịch hoặc 30% giá hết giờ giao dịch của ngày hôm đó, trong khi đó đối với các cổ phiếu chưa tham gia thị trường chỉ có thể thế chấp bằng 80% mệnh giá, thời hạn thế chấp từ 3 đến 6 tháng, có thể kéo dài 3 tháng, lãi suất được tính theo lãi suất thị trường trong thời hạn kéo dài, hiện nay lãi suất vay mỗi tháng là từ 0,85% - 0,90%.  Mua chứng khoán góp vốn : Theo quy định hiện hành của VN, khi nhà đầu tư mua chứng khoán trước hết cần gửi số tiền tương đương với giá của chứng khoán đó, nhưng chứng khoán góp vốn lại không cần phải gửi nhiều tiền như vậy, trước tiên ngân hàng sẽ cho nhà đầu tư vay khoản tiền mặt tương đương với 30%-40% giá của chứng khoán, sau đó sẽ lấy cổ phiếu sau khi mua làm vật cầm cố. Chính việc góp vốn đầu tư như thế cũng ảnh hưởng khá lớn đến nền kinh tế, các ngân hàng thương mại khi giá chứng khoán sụt giảm, làm ảnh hưởng đến khoản tiền thu hồi nợ từ nhà đầu tư.  Rủi ro về tỷ suất hối đoái. Hiện tại những điều luật liên quan đến việc quản lý ngoại hối của Việt Nam còn khá thô sơ, giao dịch ngoại hối về cơ bản dựa trên phương thức giao dịch bằng tiền mặt là chính. Các nhà đầu tư gặp rất nhiều phiền toái trong việc giao dịch, hơn nữa việc đổi tiền mặt rất dễ gây biến động về tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá hối đoái biến động sẽ làm ảnh hưởng tới các nhà đầu tư nước ngoài, làm ảnh hưởng tới lượng tiền quy đổi ra đồng VND khi đầu tư vào thị trường chứng khoán. Tỷ giá hối đoái tăng → lượng tiền nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường chứng khoán tăng và ngược lại. Từ đó dẫn đến sự biến động trong giá chứng khoán khi tỷ giá biến động, ảnh hưởng đến nhà đầu tư trong nước trong việc phụ thuộc quá nhiều vào nhà đầu tư nước ngoài.  Rủi ro đến từ phía các cơ quan quản lý. Đây là rủi ro tác động lớn nhất đến thu nhập của nhà đầu tư, bởi nó tác động tới toàn thị trường và hầu như nhà đầu tư không thể chống đỡ được. Nhắc lại vấn đề gây tranh cãi nhất trong thời gian qua là Chỉ thị 03 quy định về dư nợ cho vay chứng khoán và việc gia tăng tỉ lệ dự trữ của các ngân hàng thương mại - một kênh vốn quan trọng cho thị trường chứng khoán. Ngay lập tức chiếc bình thông từ ngân hàng sang chứng khoán bị chặn lại, ngân hàng mất đi một nguồn lợi lớn, nhà đầu tư thì lao đao khi mất đi nguồn hỗ trợ tài chính, chưa kể nhiều nhà đầu tư phải rút vốn khỏi thị trường để trả nợ cho ngân hàng. Cộng với nguồn cung không nhỏ từ các đợt IPO lớn và các đợt phát hành thêm dồn dập vì không có lộ trình cụ thể trong 6 tháng đầu năm. Cán cân cung - cầu mất cân đối, thị trường sụt giảm, thị giá cổ phiếu mất đến 30% vào thời điểm đen tối nhất của thị trường. Đó là chưa kể đến tác động về dự thảo đánh thuế 25% vào thu nhập từ chứng khoán khiến nhiều nhà đầu tư hoang mang. Vẫn biết việc đánh thuế thu nhập cá nhân là hoàn toàn hợp lý, nhưng mức đánh thuế bao nhiêu để thu nhập thực tế mà nhà đầu tư nhận được bù đắp được rủi ro mà họ gặp phải là một vấn đề phải lưu tâm. Sự can thiệp quá sâu của các cơ quan quản lý vào thị trường chứng khoán sẽ ngăn cản sự phát triển của thị trường, bởi nó làm tăng tính rủi ro hệ thống và nhà đầu tư sẽ "chùn chân" khi cân nhắc việc tham gia vào thị trường.  Rủi ro đến từ phía tổ chức phát hành Chủ yếu là do việc chưa hoàn chỉnh trong hệ thống công bố thông tin. Độ trễ về thời gian do năng lực công bố thông tin hoặc do cố ý khiến nhà đầu tư không nắm rõ hoặc biết được thông tin về tổ chức phát hành. Thông tin không cân xứng là nguyên do đem lại khoản lợi nhuận không nhỏ cho một số cá nhân và gây thiệt hại cho nhiều nhà đầu tư khác. Trong khi đó, một hiện tượng trên thị trường thời gian qua là việc các công ty đua nhau tăng vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tài chính, chứ không phải là tập trung cho sản xuất. Theo thống kê, trong năm 2006 trên 90% số doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động đầu tư tài chính và chỉ có chưa đầy 50% trong số đó hạch toán lợi nhuận "dương". Đây chính là một khe hở cần quản lý thì lại không được sự quản lý chặt chẽ. Trong ngắn hạn, có thể hoạt động này mang lại nguồn lợi nhuận bất thường đáng kể cho doanh nghiệp, nhưng trong dài hạn với cung cách đầu tư thiếu chuyên nghiệp, doanh nghiệp không những không phát triển được hoạt động sản xuất, kinh doanh như kế hoạch đã đề ra, mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông mình nếu việc thua lỗ xảy ra.  Rủi ro đến từ các báo cáo nghiên cứu thị trường Những báo cáo thị trường của các tổ chức đầy danh tiếng trong và ngoài nước như IMF, HSBC hay SSI, TSC có những tác động nhất định đến tâm lý thị trường. Điều đáng bàn luận ở đây là tính chính xác của các báo cáo nước ngoài này khi nêu những thống kê và những cảnh báo về thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhất là những khuyến nghị mang tính nhạy cảm kiểu như: P/E của thị trường chứng khoán Việt Nam đang ở mức quá cao, hay "VN-Index giảm xuống 900 điểm vào cuối năm 2007"... khiến không ít nhà đầu tư có những dự đoán tiêu cực về thị trường. 2.1.4 Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên của thị trường chứng khoán Việt Nam Trước hết, phải nói rằng thị trường chứng khoán là một thị trường mới nên công chúng đầu tư chưa thực sự hiểu biết về hoạt động chứng khoán, cũng như chưa thấy được lợi ích của việc tham gia thị trường. Trong khi đó sự thiếu vắng các nhà đầu tư có tổ chức (bảo hiểm, quỹ đầu tư, các tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp) trên thị trường đã ảnh hưởng đến tính ổn định của thị trường bởi tác động tâm lý của các nhà đầu tư nhỏ, thiếu tính chuyên nghiệp. Các nhà đầu tư cá nhân còn thiếu kiến thức về chứng khoán, còn có tâm lý bầy đàn, thiếu sự mạnh dạn trong đầu tư, và mang tính đầu cơ trong ngắn hạn… Các doanh nghiệp Việt Nam còn mang nặng tư tưởng của cơ chế bao cấp, còn trông chờ vào nguồn vay ưu đãi, chưa muốn huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Nhiều doanh nghiệp lại e ngại kiểm toán và công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, và sự thiếu vắng các doanh nghiệp lớn ra niêm yết trên thị trường chứng khoán đã không hấp dẫn các nhà đầu tư, do vậy, hàng hoá trên thị trường còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng. Thêm vào đó, tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước chưa gắn kết được với việc phát hành chứng khoán ra công chúng và niêm yết trên thị trường chứng khoán. Các chính sách khuyến khích, ưu đãi, đặc biệt là ưu đãi về thuế đối với các tổ chức tham gia thị trường chưa được chú ý đúng mức, có ảnh hưởng không nhỏ đến sự vận hành và phát triển của thị trường chứng khoán. Mặt khác, việc quản lý và điều hành thị trường còn bất cập, hạn chế do sự thiếu chủ động và thiếu kinh nghiệm thực tiễn của cơ quan quản lý và giám sát thị trường. Do sự phát triển của nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng, đến nay, hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán đã bộc lộ những điểm hạn chế nhất định làm cản trở sự phát triển của thị trường, chưa bao quát và phù hợp với điều kiện thực tế cũng như định hướng chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2010. Hơn nữa, hệ thống các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán ở tầm Nghị định chưa mang tính pháp lý cao, chưa đồng bộ, do vậy không thể giải quyết được một cách triệt để những mâu thuẫn với các văn bản pháp luật khác có liên quan. Phạm vi điều chỉnh của các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán còn hẹp, chưa bao quát và điều chỉnh thống nhất việc phát hành chứng khoán ra công chúng, các hoạt động kinh tế chứng khoán của các đối tượng tham gia thị trường, chưa tạo cơ sở pháp lý cao cho hoạt động của các tổ chức dịch vụ chứng khoán v.v...  Do đó, điều quan trọng nhất hiện nay là phải đưa ra được giải pháp hợp lý cho thị trường chứng khoán, và sự bảo vệ hữu hiệu cho nhà đầu tư trước tình hình như hiện này, vì thế, thị trường quyền chọn là giải pháp tốt nhất cho thị trường chứng khoán Việt Nam. 2.2 Sự cần thiết của Option chứng khoán 2.2.1 Tạo ra công cụ bảo vệ cho nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Bằng việc sở hữu quyền chọn, nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán có thể cố định giá mua, bán chứng khoán của mình trong một khoảng thời gian nhất định (là thời gian hiệu lực của hợp đồng quyền chọn). Do đó, nếu biết vận dụng các kỹ thuật mua bán chứng khoán kết hợp với quyền chọn, các nhà đầu tư có thể hạn chế rủi ro trong kinh doanh chứng khoán một cách hữu hiệu. Hơn nữa, việc kết hợp mua bán chứng khoán và các hợp đồng quyền chọn sẽ tạo ra những chiến lược tự bảo hiểm đồng vốn cho các nhà đầu tư - đối với chứng khoán riêng rẻ hay cả danh mục đầu tư - chống lại xu hướng giá cả biến động bất lợi nhưng vẫn thu được lợi nhuận nếu giá cả thay đổi theo hướng có lợi. Đây là đặc trưng nổi trội của công cụ quyền chọn so với các sản phẩm phái sinh khác trên thị trường. 2.2.2 Đa dạng hoá cơ hội kinh doanh cho các nhà đầu tư tài chính trong và ngoài nước Việc ứng dụng giao dịch quyền chọn đem lại cho người đầu tư trên TTCK Việt Nam một công cụ đầu tư mới. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với người đầu tư ở Việt Nam bởi những lý do sau đây:  Hàng hóa trên TTCK Việt Nam hiện nay đang rất ít, cơ hội lựa chọn đầu tư của người đầu tư không nhiều;  Hơn nữa với tính cách khá thận trọng, người đầu tư Việt Nam ngại bỏ ra những khoản tiền lớn để đầu tư;  Trên thực tế, thu nhập đầu người ở Việt Nam còn rất thấp, nên một công cụ đầu tư với số vốn ban đầu bỏ ra tương đối ít sẽ rất thích hợp với đại đa số người đầu tư Việt Nam. Chính vì vậy, với những đặc tính của hợp đồng quyền chọn chứng khoán, rõ ràng nó đã đáp ứng được những mong đợi của người đầu tư Việt Nam. Do đó, nếu quyền chọn chứng khoán được ứng dụng giao dịch trên TTCK Việt Nam sẽ thu hút thêm được rất nhiều người đầu tư vào thị trường 2.2.3 Thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Với ý nghĩa quyền chọn cổ phiếu vừa là công cụ bảo vệ lợi nhuận, và là công cụ giảm thiểu rủi ro hữu hiệu và đồng thời là một loại hàng hóa có thể mua bán trên TTCK nên khi ứng dụng giao dịch quyền chọn sẽ làm cho TTCK rất sôi động. Với vai trò là một công cụ bảo vệ lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro, quyền chọn tạo tâm lý an toàn hơn trong đầu tư vào cổ phiếu, do đó thu hút được thêm nhiều người đầu tư còn e ngại về mức độ mạo hiểm, rủi ro trên TTCK mạnh dạn tham gia thị trường. Với vai trò là một hàng hóa trên TTCK, quyền chọn cổ phiếu mang đến khát khao kiếm lợi nhuận nên khi quyền chọn được ứng dụng giao dịch, nhiều nhà đầu tư sẽ tham gia thị trường để kinh doanh quyền chọn. Khi nhiều người đầu tư tham gia thị trường sẽ làm cầu hàng hóa chứng khoán tăng. Điều này làm cho thị trường trở nên sôi động và cơ hội phát triển, mở rộng thị trường là rất cao. 2.2.4 Ảnh hưởng tích cực đến các doanh nghiệp trong nước và nền kinh tế Đối với các công ty niêm yết để quyền chọn cổ phiếu một công ty được niêm yết thì công ty đó (công ty niêm yết - CTNY) phải đáp ứng được những điều kiện của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) đề ra như số lượng cổ phiếu đang lưu hành, số lượng cổ phiếu được giao dịch trên thị trường, số cổ đông nắm giữ cổ phiếu, giá cổ phiếu… Hơn nữa, không một CTNY nào muốn quyền chọn bán cổ phiếu công ty mình được mua bán liên tục bởi đó là dấu hiệu cho thấy thị trường dự đoán giá cổ phiếu công ty sẽ đi xuống, và điều này cũng cho thấy uy tín của công ty trên thị trường đang giảm dần. Như vậy, công ty có thể nhìn vào xu hướng giao dịch quyền chọn trên thị trường mà nhận biết được sự đánh giá của thị trường đối với công ty mình, điều này giúp công ty có những điều chỉnh kịp thời trong chiến lược kinh doanh để giữ uy tín của công ty trên thị trường. Như vậy, quyền chọn giúp người đầu tư giám sát gián tiếp hoạt động của các CTNY. Khi có thêm người giám sát, đòi hỏi CTNY phải nỗ lực hơn trong hoạt động kinh doanh,quan tâm đến hiệu quả hoạt động, đánh bóng thương hiệu, lành mạnh hoá tài chính và cải thiện tình hình sản xuất kinh doanh trong đơn vị. Đối với các công ty chứng khoán và các định chế tài chính khác, thị trường quyền chọn hợp đồng quyền chọn gia tăng cơ hội kinh doanh và kiếm lời trên các hoạt động giao dịch, hỗ trợ, tư vấn và thanh toán, góp phần thúc đẩy quá trình hoàn thiện hoá hệ thống giao dịch, môi giới và tăng thu cho ngân sách Nhà nước trong tương lai. 2.2.5 Thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam Từ năm 2002 đến nay, dòng vốn đầu nước ngoài vào Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, số lượng và quy mô hoạt động các quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng. Đến tháng 09/2006, đã có 19 quỹ đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam với tổng số vốn đầu tư gần 2 tỷ USD (trong đó, Dragon Capital: 600 triệu USD, VinaCaptital: 450 triệu USD, Indochina: 150 triệu USD, Vietnam Holding: 112 triệu USD...), các quỹ này đã rót vào Trung tâm chứng khoán TP.HCM tổng cộng 840 triệu USD. Tuy nhiên, hiện nay, lượng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn. Trong 5 năm tới Việt Nam cần 140 - 150 tỷ USD đầu tư phát triển, nếu vốn đầu tư gián tiếp chỉ ở mức 2 -3 tỷ USD như hiện nay, so với vốn đầu tư trực tiếp, vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam vẫn ở mức thấp khoảng 2-3%, trong khi tỷ lệ này ở một số nước trong khu vực là 30-40% thì tác động rất hạn chế đến sự phát triển nền kinh tế. Do đó, bên cạnh các điều kiện vĩ mô cơ bản như hoàn thiện hệ thống pháp lý, đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước..., công tác phát triển thị trường chứng khoán nói chung và thị trường phái sinh chứng khoán nói riêng là giải pháp cấp bách và phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay. Như vậy, việc phát triển thị trường chứng khoán phái sinh trong tương lai ở Việt Nam vừa đóng vai trò thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài, vừa là tác nhân gián tiếp gia tăng tính năng động của thị trường chứng khoán, thông qua các chức năng phòng ngừa rủi ro, tăng tính thanh khoản và cung cấp thông tin về thị trường tài chính, giúp nhà đầu tư có thêm tự tin khi tham gia thị trường, điều này giúp thu hút thêm nhà đầu tư tham gia thị trường, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, tạo môi trường đầu tư hiệu quả... Thị trường giao dịch các hợp đồng phái sinh chứng khoán khi được phát triển sẽ là một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy nâng cao chiều sâu tài chính cho thị trường tài chính trong nước. 2.3 Một số thuận lợi và khó khăn khi xây dựng thị trường quyền chọn cổ phiếu ở Việt Nam hiện nay 2.3.1 Những thuận lợi 2.3.1.1 Tiềm năng phát triển thị trường chứng khoán Tiềm năng phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam là rất lớn, trên cơ sở ổn định về chính trị, tốc độ tăng trưởng và các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế. Tổng giá trị vốn các đơn vị cổ phần ngày càng gia tăng do Luật Doanh nghiệp đang phát huy tác dụng mạnh trong đời sống kinh tế, hoạt động cổ phần hóa đang được Chính phủ chú trọng đẩy mạnh. Trong số những doanh nghiệp trên, có các ngân hàng thương mại, các tổng công ty lớn của nhà nước, khi cổ phiếu của các công ty này được niêm yết trên sàn sẽ là nguồn hàng chất lượng thu hút nhiều nhà đầu tư trong cũng như ngoài nước tham gia vào thị trường, đây là nguồn cung về hàng cho thị trường chứng khoán phát triển. Ngoài ra, việc trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội khai trương và đi vào hoạt động ngày 08/03/2005 phần nào đã đáp ứng được phần nào nhu cầu rất lớn của nhà đầu tư hiện nay, họ có cơ hội để tiếp cận với các cổ phiếu của các công ty vừa và nhỏ, mà số công ty này ở Việt Nam chiếm khoảng 80%. Trong tương lai, sẽ có rất nhiều cổ phiếu được niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, đặc biệt là cổ phiếu của các công ty, tổ chức tài chính lớn, uy tín. Những cổ phiếu này tạo nên lượng cổ phiếu cơ sở dồi dào tạo điều kiện cho ra đời quyền chọn. 2.3.1.2 Sức cầu về đầu tư chứng khoán cao Các nhà đầu tư trong nước, với khoảng trên 10 tỷ USD tiền đang nhàn rỗi trong công chúng, là nguồn cầu tiềm năng rất lớn cho thị trường chứng khoán Việt Nam. Cùng với chính sách mở rộng tỷ lệ tham gia vào thị trường cho các nhà đầu tư nước ngoài, khuyến khích thành lập, liên kết các quỹ đầu tư tài chính, quỹ đầu tư chứng khoán…là các yếu tố khả quan trong công tác kích cầu trên thị trường. Sự ra đời của Quỹ đầu tư chứng khoán của Công ty quản lý quỹ Việt Nam gần đây đã tạo thêm một kênh huy động có hiệu quả, làm động lực thúc đẩy sự phát triển cả về mặt cung và cầu của hàng hóa cho thị trường. Như vậy, có rất nhiều thành phần đầu tư đang quan tâm đến thị trường chứng khoán Việt Nam, đây là yếu tố thuận lợi cho việc ra đời quyền chọn. Nhưng còn phải phụ thuộc nhiều vào công tác xây dựng tính hệ thống và hiệu quả cho thị trường. 2.3.1.3 Sự quyết tâm và cam kết của Chính phủ xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam Trước tầm quan trọng của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế thị trường, Chính phủ quyết tâm “Phát triển thị trường chứng khoán cả về quy mô và chất lượng hoạt động nhằm tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam; duy trì trật tự, an toàn, mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế”. Điều đó được thể hiện qua việc Chính phủ ban hành hàng loạt các nghị định, nghị quyết, quyết định, Thông tư nhằm điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán theo hướng tích cực và hoàn thiện. 2.3.1.4 Sự ra đời của các hiệp hội Sự ra đời của các hiệp hội (hiệp hội kinh doanh chứng khoán, hiệp hội các nhà đầu tư tài chính,…) một mặt, liên kết hỗ trợ, trao đổi thông tin kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ,…; mặt khác, kiến nghị về các chính sách lên cơ quan quản lý nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia và thúc đẩy thị trường phát triển. 2.3.1.5 Kinh nghiệm từ việc ứng dụng quyền chọn trong giao dịch ngoại tệ và vàng ở Việt Nam Đầu năm 2003 Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam chính thức cho ra đời sản phẩm mới có tên gọi là quyền chọn ngoại tệ. Sau Eximbank, các ngân hàng khác cũng ứng dụng sản phẩm này là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam…, và một ngân hàng nước ngoài là Citibank. Quyền chọn ngoại tệ hiện nay được sử dụng như một công cụ bảo vệ người mua bán ngoại tệ trước sự biến động của tỷ giá. Việc ứng dụng giao dịch quyền chọn ngoại tệ, người kinh doanh, đầu tư ở Việt Nam bắt đầu quen với việc sử dụng quyền chọn. Đây là tiền đề cho một thị trường quyền chọn chứng khoán trong tương lai ra đời và phát triển. 2.3.1.6 Đặc điểm kinh tế của Việt Nam Hiện nay nền kinh tế Việt nam đã và đang thực sự trở thành nền kinh tế thị trường đầy đủ, đang có rất nhiều thay đổi về mặt chính sách: Mở cửa thị trường vào không gian WTO, áp dụng các Luật chơi chung với quốc tế, lãi suất đã được tự do hoá; lộ trình tự do hoá tài chính đã đi qua rất nhiều bước và trên thực tế, các luồng vốn đã tương đối tự do chảy vào và chảy ra khỏi Việt nam cả trực tiếp và gián tiếp với qui mô và tần suất ngày càng lớn; chính sách tỷ giá cũng từng bước linh hoạt theo tín hiệu thị trường... Những bối cảnh trên đã, đang là những nhân tố khách quan thúc đẩy các bên tham gia thị trường tài chính Việt nam phải đổi mới tư duy khi nhận thức về vai trò của thị trường các công cụ tài chính phái sinh... 2.3.2 Những khó khăn 2.3.2.1 Chưa có hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động này Hiện nay, Luật Chứng khoán chưa có quy định về giao dich quyền chọn, gây khó khăn cho người đầu tư, hạn chế sự phát triển thị trường và đặc biệt là Nghị định chưa hề đề cập đến hoạt động giao dịch quyền chọn chứng khoán. 2.3.2.2 Hạn chế về mặt pháp lý, quy mô hoạt động Ngân hàng muốn kinh doanh sản phẩm phái sinh phải xin phép Ngân hàng Nhà nước và chỉ được hoạt động khi có sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước, điều này cũng khiến ngân hàng “ngại” triển khai nghiệp vụ này. Mặc dù thị trường các công cụ tài chính phái sinh đã hình thành ở Việt Nam, nhưng còn rất nhỏ bé và chưa phổ biến. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn thấp dưới “tầm” tác động của các cơn gió lớn hay cơn bão tài chính quốc tế, tư duy kinh doanh truyền thống còn phổ biến. Ngoài ra, Bản thân các khách hàng nói chung, các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng còn dè dặt áp dụng công cụ phái sinh. Được biết, với Ngân hàng HSBC mặc dù hoạt động tại Việt Nam đã hơn 6 năm với trên 1.000 doanh nghiệp là khách hàng “ruột”, nhưng sau 2 năm được phép sử dụng các công cụ phái sinh, mới chỉ có một vài doanh nghiệp trong số hàng ngàn doanh nghiệp khách hàng đó dám ứng dụng nghiệp vụ này.Với Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), các nghiệp vụ phái sinh vẫn còn ít được khách hàng áp dụng, thậm chí có công cụ chưa có khách hàng nào giao dịch. Xét cả về môi trường chính sách, vẫn còn rất thiếu và yếu đã tham gia gây cản trở sự phát triển của thị trường công cụ tài chính phái sinh ở Việt nam. Có những qui định thậm chí trực tiếp bóp chết sự phát triển công cụ phái sinh như qui định về thuế đánh trên lãi thu được từ việc thực hiện công cụ hoán đổi. Qui định này vừa gây kìm hãm, vừa khó thực hiện và công cụ này nhằm phòng chống rủi ro để tối đa hoá lợi nhuận chứ không phải là mục tiêu lợi nhuận. Tại hầu hết các nước trên thế giới đều không đánh thuế đối với doanh thu (nếu có) từ công cụ phái sinh vì các công cụ này được sử dụng để phòng chống rủi ro trên thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Thêm nữa, các nhà đầu tư cá nhân được tạm thời miễn thuế trên phần lợi nhuận đạt được từ việc mua bán cổ phiểu của các CTNY, các nhà đầu tư là tổ chức lại không được miễn thuế, nên họ chịu bất lợi so với các nhà đầu tư cá thể. Và thuế áp dụng cho các nhà đầu tư là tổ chức nước ngoài trên phần lợi nhuận từ việc bán cổ phiếu còn chưa khuyến khích, làm hạn chế sự tham gia của người đầu tư nước ngoài. 2.3.2.3 Nhận thức và trình độ của các nhà đầu tư, người quản lý Nhân sự của các doanh nghiệp Việt Nam thường làm việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, ít chịu tiếp thu cái mới, thiếu sự năng động, nhạy bén, trong khi sản phẩm phái sinh là những sản phẩm khá phức tạp, đòi hỏi người sử dụng phải có trình độ cao. Thêm nữa, mạng lưới của các NHTMQD trải rộng khắp cả nước, với hơn 100 chi nhánh, do đó nếu muốn triển khai thì đòi hỏi trình độ giữa các chi nhánh phải tương đồng, điều này rất khó xảy ra. Có thể sản phẩm phái sinh sẽ chỉ được thực hiện tại một số tỉnh, thành lớn, nhưng như thế sẽ tạo nên sự thiếu đồng bộ giữa các chi nhánh. Đối tượng sử dụng các công cụ phái sinh chủ yếu là doanh nghiệp, nhưng sự hiểu biết của doanh nghiệp về các sản phẩm phái sinh còn hạn chế, trong khi đó môi trường hoạt động ít biến động nên họ cảm thấy không có nhu cầu hoặc chưa ý thức trong việc phòng chống rủi ro, nhất là đối với các DNNN. Các nhà đầu tư cá nhân chủ yếu mang tính ngắn hạn, chưa ổn định và thường theo phong trào, làm ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của thị trường. Nhà đầu tư tổ chức chưa thực sự quan tâm đến việc đầu tư vào chứng khoán và có nhiều quy định hạn chế đầu tư áp dụng đối với các tổ chức này. Sở dĩ như vậy là do tính chuyên nghiệp của thị trường còn ở mức rất thấp, kể cả người đầu tư, người môi giới, kinh doanh và người điều hành, quản lý thị trường. Từ áp lực của một nhóm nhỏ người đầu tư để rồi đưa ra những giải pháp can thiệp sai nguyên tắc, không thực tế, là nguyên nhân gây ra sự không ổn định và nhiều rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam . Tham gia thị trường tài chính Việt nam còn thiếu các nhà đầu tư am hiểu về lợi ích cũng như kỹ thuật tính toán lợi nhuận từ các loại nghiệp vụ này. Các nhà môi giới chuyên nghiệp, các trung gian tài chính đủ năng lực tổ chức thị trường phái sinh còn quá ít trên thị trường tiền tệ, thị trường tín dụng, thị trường chứng khoán Việt nam để thúc đẩy các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ vào thị trường phái sinh. 2.3.2.4 Tiến trình cổ phần hoá và niêm yết diễn ra quá chậm Mặc dù chủ trương của Chính phủ là sắp xếp lại doanh nghiệp theo hướng khoán, bán, cho thuê và cổ phần hoá,.. nhưng đến nay, tiến trình cổ phần hoá diễn ra hết sức chậm chạp và tất nhiên sẽ không thể gia tăng hàng hóa cho thị trường chứng khoán và hàng hoá cơ sở cho giao dịch quyền chọn. Tính đến thời điểm hiện nay, cả nước cổ phần hóa được gần 3.500 doanh nghiệp Nhà nước và bộ phận doanh nghiệp Nhà nước. Số doanh nghiệp được cổ phần hóa nhiều nhưng số vốn của doanh nghiệp được cổ phần hóa mới chiếm 12% tổng số vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước. Trong đó, chỉ có 24,1% cổ phần do cổ đông bên ngoài nắm giữ, nghĩa là chỉ có khoảng 3,6% vốn Nhà nước được bán ra bên ngoài, cán bộ công nhân viên nắm giữ 29,6%, Nhà nước vẫn nắm giữ 46,3%. Về thực chất vẫn là cổ phần hóa khép kín, chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư chiến lược 2.3.2.5 Chính sách quản lý, kiểm soát thị trường còn hạn chế Hiện nay trong nền kinh tế nước ta tồn tại một tâm lý ỷ lại và liều lĩnh khá phổ biến. Người dân “liều lĩnh” như vậy một phần vì họ thiếu thông tin, nhưng quan trọng hơn là vì họ ỷ lại Ngân hàng Nhà nước sẽ “bảo kê” cho hệ thống ngân hàng, không để xảy ra hiện tượng khủng hoảng tín dụng.và các nhà đầu tư chứng khoán cũng ỷ lại vào các nhà điều hành thị trường chứng khoán, với tâm lý rằng “Chính phủ sẽ không để thị trường chứng khoán xuống dốc được!”. Vì thế, khi mà thị trường đi xuống, và các tín hiệu phân tích kỹ thuật lẫn yếu tố cơ bản đều không ủng hộ một sự tăng giá nhanh và mạnh. Điều này cũng do chính bản thân Nhà nước cũng đưa ra tuyên bố trấn an khi thị trường sụt giảm, đồng thời chính bản thân giới phân tích cũng vịn vào câu chữ mà đưa ra những phân tích lạc quan thái quá. Ngược lại, đến khi Nhà nước vì phải “thiên vị” một mục tiêu khác mà giảm phần ưu ái cho một vài thị trường, thì các nhà đầu tư trên những thị trường này bắt đầu than phiền, phản ứng lại với các chính sách, đề nghị “cứu” thị trường. Không thể đổ lỗi hoàn toàn cho việc nhà đầu tư ỷ lại, mà phải xét lại chính cách điều hành dân kêu đến đâu thì xử lý đến đấy của Nhà nước đã tạo ra tâm lý ỷ lại cho họ. Doanh nghiệp kinh doanh lỗ cũng kêu, đô la giảm cũng bị than phiền, nhà đầu tư lỗ cũng trách Nhà nước vì Nhà nước không tạo ra một văn hóa quản trị rủi ro cho toàn xã hội, khiến người dân chỉ biết hưởng lợi từ chính sách, khi chính sách có biến động bất lợi thì chỉ biết tìm đến Nhà nước chứ không tự cứu. Bên cạnh đó, giá cổ phiếu biến động không lớn vì bị điều chỉnh bởi biên độ giao động giá (hiện nay là 1%). Trong khi đó, quyền chọn không phải là công cụ có giá trị vĩnh viễn mà có thời gian đáo hạn cụ thể. Điều này dễ nảy sinh tâm lý, giá có thể không thay đổi nhiều trong thời gian hiệu lực của quyền chọn, nhà đầu tư không thích bỏ thêm phí để mua quyền chọn. Tuy nhiên, có thể thấy hiện tại biên độ giao động là một công cụ bảo vệ tính ổn định của thị trường non trẻ một cách hữu hiệu. Điều này cho thấy, việc ứng dụng giao dịch quyền chọn chỉ có thể được áp dụng khi mà TTCK Việt Nam đã tương đối phát triển, thị trường tương đối ổn định và đi vào quy luật, khi đó, giá có thể do cung cầu quyết định và đó cũng là thời điểm thích hợp để ứng dụng giao dịch quyền chọn. CHƯƠNG III: TỔNG QUAN VỀ QUYỀN CHỌN 3.1 Giới thiệu về quyền chọn 3.1.1 Định nghĩa Quyền chọn là một hợp đồng giữa hai bên – người mua và người bán – trong đó cho người mua quyền, nhưng không phải là nghĩa vụ, để mua hoặc bán một số lượng chứng khoán nào đó vào một ngày trong tương lai với giá đã đồng ý vào ngày hôm nay. Người mua quyền chọn trả cho người bán một số tiền gọi là phí quyền chọn. Người bán quyền chọn sẵn sàng bán hoặc tiếp tục nắm giữ chứng khoán theo các điều khoản của hợp đồng nếu người mua muốn như vậy. Một quyền chọn để mua chứng khoán gọi là quyền chọn mua (call). Một quyền chọn để bán chứng khoán gọi là quyền chọn bán (put). 3.1.2 Quyền chọn mua Quyền chọn mua là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người mua có quyền được mua một số lượng chứng khoán nhất định tại mức giá đã xác định và sẽ được thực hiện vào trước hoặc ngay khi đã đến ngày đáo hạn của hợp đồng. Hãy xem ví dụ sau: Vào ngày 16/09/2002, nhiều sàn giao dịch chào bán các quyền chọn đối với cố phiếu của Microsoft. Một quyền chọn mua có giá thực hiện là $50, và có ngày đáo hạn là 19/10. Hiện nay, cổ phiếu Microsoft có giá là $47,78. Người mua quyền chọn nhận được quyền mua cổ phiếu vào bất cứ lúc nào cho đến ngày 19/10 ở mức giá $50 một cổ phiếu. Do đó người bán quyền chọn có nghĩa vụ bán cổ phiếu ở mức giá $50 một cổ phiếu bất cứ khi nào người mua muốn cho đến ngày 19/10. Vì đặc quyền này mà người mua phải trả cho người bán một mức phí là $1,65. Người mua sẽ không thực hiện ngay quyền chọn vì giá trên thị trường là $47,78, thấp hơn mức giá thực hiện $50. Và người mua chắc chắn phải mong đợi rằng giá cổ phiếu sẽ tăng hơn $50 trước khi quyền chọn hết hiệu lực. Giả định khi đến hạn giá cổ phiếu tăng lên trên $50, thì chắc chắn người mua sẽ thực hiện quyền chọn của họ để mua cổ phiếu Microsoft với giá thực hiện là $50 theo hợp đồng. Và ngược lại, nếu giá cổ phiếu thấp hơn $50 khi đến ngày đáo hạn, họ sẽ bỏ quyền chọn và thực hiện mua ngoài thị trường với mức giá thấp hơn so với hợp đồng. Hình 3.1.2: Quyền chọn mua – Vị thế của người mua (bán) quyền chọn 3.1.3 Quyền chọn bán Quyền chọn bán là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người bán có quyền được bán một số lượng chứng khoán nhất định tại mức giá đã xác định và sẽ được thực hiện vào trước hoặc ngay khi đã đến ngày đáo hạn của hợp đồng. Hãy xem xét ví dụ về quyền chọn bán với cổ phiếu của Microsoft vào ngày 16/9/2002, với giá thực hiện là $50 một cổ phiếu và ngày đáo hạn là 19/10. Cổ phiếu hiện nay được bán với giá $47,78. Phí để thực hiện quyền chọn này là $4,20. Người mua quyền chọn bán sẽ không thực hiện quyền bán các cổ phiếu của Microsoft với giá thực hiện là $50 vì mức phí cộng với giá cổ phiếu hiện tại cao hơn so với giá thực hiện. Và người mua quyền chọn bán chắc chắn mong đợi sự sụt giảm của cổ phiếu trong tương lai. Giả định khi đến hạn, giá cổ phiếu sụt thấp hơn mức giá $50 thì chắc chắn họ sẽ thực hiện quyền chọn của họ để bán cổ phiếu Microsoft với giá thực hiện trên hợp đồng quyền chọn. Ngược lại, nếu mức giá trên thị trường cao hơn $50 thì họ sẽ bỏ hợp đồng quyền chọn và không bán lại cổ phiếu đó nữa. Phí ($1,65) 0 Giá thực hiện ($50) Điểm hòa vốn ($51,65) Giá cổ phiếu tăng Vùng lãi Lãi (a) – vị thế của người mua quyền chọn mua Lỗ Giá thực hiện ($50) Điểm hòa vốn ($51,65) Giá cổ phiếu gia tăng Vùng lỗ (b) – vị thế của người bán quyền chọn Lãi Lỗ Phí ($1,65) Hình 3.1.3: Quyền chọn bán – vị thế của người mua (bán) quyền chọn 3.1.4 Phân loại quyền chọn theo thời gian thực hiện Quyền chọn kiểu Mỹ (American style option): cho phép người nắm giữ quyền chọn thực hiện hợp đồng quyền chọn vào bất kỳ ngày nào trong thời hạn hợp đồng và trước ngày đáo hạn Quyền chọn kiểu châu Âu (European style Option): chỉ cho phép người nắm giữ thực hiện hợp đồng quyền chọn vào ngày đến hạn. Việc thanh toán giữa hai bên thực tế xảy ra sau khi hợp đồng đến hạn từ 1 đến 2 ngày làm việc, giống trường hợp ngày giá trị trong các giao dịch giao ngay (spot). Sự phân biệt giữa hai loại quyền chọn kiểu châu Âu và quyền chọn kiểu Mỹ không liên quan đến vị trí địa lý. Đa số hợp đồng quyền chọn được trao đổi chính yếu trên thị trường Mỹ. Tuy nhiên, quyền chọn kiểu châu Âu có đặc điểm dễ phân tích hơn quyền chọn kiểu Mỹ. 3.2 Cấu trúc cơ bản của thị trường quyền chọn Các giao dịch quyền chọn hoàn toàn không bị bó hẹp trong các sàn giao dịch tập trung mà còn được thực hiện trên thị trường tự do OTC. Tuy nhiên, một cấu trúc thị trường quyền chọn được chuẩn hoá vẫn là mối quan tâm hàng đầu đối với tất cả các nhà đầu tư, vì qua đó, họ có thể yên (a) – vị thế của người mua quyền chọn bán Phí ($4,2) 0 Giá thực hiện ($50) Điểm hòa vốn ($45,8) Giá cổ phiếu gia tăng Vùng lãi Lãi Lỗ 0 Phí ($4,2) Giá thực hiện ($50) Điềm hòa vốn ($45,8) Giá cổ phiếu gia tăng Vùng lỗ Lãi Lỗ (b) – vị thế của người bán quyền chọn bán tâm về các quy trình, thủ tục, cơ sở pháp lý và quan trọng nhất là cơ sở đảm bảo tính thanh khoản của hợp đồng quyền chọn. Đối với thị trường phi tập trung, một số định chế nhất định, có thể là ngân hàng hay các công ty môi giới, sẵn sàng đứng ra tạo lập thị trường quyền chọn. Còn thị trường quyền chọn được niêm yết trên sàn được tạo ra bởi sàn giao dịch quyền chọn, chính vì thế mà nó phải có các quy định cơ bản sau: 3.2.1 Điều kiện niêm yết Điều kiện niêm yết của sàn giao dịch quy định những cổ phiếu đủ điều kiện có thể giao dịch quyền chọn. Sàn giao dịch cũng quy định những điều kiện tối thiểu mà một cổ phiếu phải đạt được để duy trì việc niêm yết quyền chọn. Tuy nhiên, trong tất cả các trường hợp, sàn giao dịch có quyền thực hiện các ngoại lệ trong quy định niêm yết và bỏ niêm yết. Tất cả các quyền chọn ở một dạng cụ thể - chọn mua hoặc chọn bán - đối với một cổ phiếu đã định sẵn được xem là nằm trong một loại quyền chọn. Ví dụ, quyền chọn mua Microsoft là một loại quyền chọn và quyền chọn bán Microsoft là một loại khác. Một chuỗi quyền chọn (option series) là tất cả các quyền chọn của một loại định sẵn có cùng giá thực hiện và ngày đáo hạn. Ví dụ, quyền chọn mua Microsoft váo tháng 9 giá 50 là một chuỗi, và quyền chọn bán Microsoft tháng 10 giá 45 là một chuỗi khác. Trong bất cứ trường hợp nào, chính sàn giao dịch sẽ xác định liệu quyền chọn đối với một cổ phiếu cụ thể sẽ được niêm yết hay không, bản thân công ty không có ảnh hưởng. 3.2.2 Quy mô hợp đồng Một hợp đồng quyền chọn giao dịch trên sàn tiêu chuẩn gồm 100 cố phiếu đơn lẻ. Vì vậy, nếu một nhà đầu tư mua một hợp đồng, có nghĩa là mua quyền chọn 100 cổ phiếu. Trường hợp ngoại lệ của qui mô hợp đồng tiêu chuẩn diễn ra khi hoặc cổ phiếu bị chia tách hoặc công ty tuyên bố chi trả cổ tức bằng cổ phiếu. Trong trường hợp đó, số cổ phiếu đại diện bởi một hợp đồng tiêu chuẩn được điều chỉnh để phản ánh thay đồi trong mức vốn hóa của công ty. Ví dụ, một công ty tuyên bố chi trả một mức cổ tức bằng cổ phiếu là 15%, số cổ phiếu đại diện bởi hợp đồng hiện hành thay đổi từ 100 lên 115. Ngoài ra giá thực hiện được điều chỉnh thánh 1/1.15 = 0,8696, làm tròn lên mức 1/8 gần nhất – 0,875 – của giá trị cũ. Nếu việc chia tách cổ phiếu, hoặc chia cổ tức bằng cổ phiếu dẫn đến số cổ phiếu mới là bội số lẻ của 100, những người nắm giữ các hợp đồng hiện hành được đảm bảo bằng các hợp đồng bổ sung. Ví dụ, nếu một cổ phiếu được tách thành hai cổ phiếu, người mua và người bán sẽ nhận được hai hợp đồng ứng với mỗi hợp đồng cũ. Bên cạnh đó, giá thực hiện cũng giảm còn phân nửa giá trị trước đây. 3.2.3 Giá thực hiện Trên sàn giao dịch quyền chọn, giá thực hiện được chuẩn hóa. Sàn giao dịch quy định mức giá thực hiện có thể ký kết hợp đồng quyền chọn. Các nhà đầu tư phải sẵn lòng giao dịch quyền chọn với mức giá thực hiện được quy định. Dĩ nhiên, các giao dich OTC có thể nhận bất cứ mức giá thực hiện nào mà hai bên tham gia thỏa thuận. Việc thiết lập giá thực hiện của quyền chọn cổ phiếu, sàn giao dịch thường tuân theo quy luật là các mức giá thực hiện có khoảng chênh lệch $2,50 nếu giá cổ phiếu thấp hơn $25, khoảng $5 nếu giá cố phiếu từ $25 đến $200, và trong khoảng $10 nếu giá cổ phiếu trên $200. Đối với các quyền chọn chỉ số, các khoảng chênh lệch giá thực hiện có khác biệt nhiều do biên độ rộng của nhiều chỉ số khác nhau. Có một số ngoại lệ đối với các quy luật này. Các quyền chọn có giao dịch rất sôi động có giá thực hiện rất gần nhau. Ngoài ra còn có quyền chọn FLEX, quyền chọn linh hoạt, là một dạng quyền chọn có tính chuẩn hóa của các thị trường giao dịch quyền chọn có tổ chức. Các quyền chọn FLEX có thể có bất cứ mức giá thực hiện nào. 3.2.4 Chi phí giao dịch, phí thanh toán và hoa hồng Phí giao dịch trên sàn và phí thanh toán là các khoản phí tối thiểu do sàn giao dịch ấn định, trung tâm thanh toán và công ty thanh toán để xử lý một giao dịch. Với các nhà kinh doanh thông qua môi giới, các phí này được tính gộp trong hoa hồng của người môi giới. Còn với những nhà tạo lập thị trường, các khoản phí này do công ty thanh toán của nhà tạo lập thị trường thu. Khi thực hiện quyền chọn cổ phiếu, nhà đầu tư phải trả hoa hồng cho việc mua bán cổ phiếu. Nếu một nhà đầu tư thực hiện một quyền chọn thanh toán bằng tiền, giao dịch này chỉ kéo theo một bút toán kế toán. Một số công ty môi giới không tính phí thực hiện quyền chọn thanh toán bằng tiền. Khi bất kỳ dạng quyền chọn nào hết hiệu lực mà không được thực hiện, thường thì công ty môi giới không tính hoa hồng. 3.2.5 Ngày đáo hạn Ngày đáo hạn của các quyền chọn OTC được thiết kế phù hợp với như cầu của người mua và người bán. Trên sàn giao dịch quyền chọn, mỗi cổ phiếu được phân loại vào các chu kỳ đáo hạn riêng. Các chu kỳ đáo hạn là (1) tháng 1, 4, 7 và 10; (2) tháng 2, 5, 8 và 11; và (3) tháng 3, 6, 9 và 12. Các chu kỳ này được gọi là chu kỳ tháng 1, 2 và 3. Các ngày đáo hạn hiện có hiệu lực là tháng hiện tại, tháng tiếp theo và 2 tháng tiếp theo trong chu kỳ tháng 1, 2 hoặc 3 mà chứng khoán được phân vào. Ví dụ, đầu tháng 6, IBM, cổ phiếu được phân vào chu kỳ tháng 1, sẽ có quyền chọn đáo hạn vào tháng 6 và tháng 7 cộng với hai tháng sau trong chu kỳ tháng 1: tháng 10 và tháng 1 sắp tới. Khi quyền chọn tháng 6 hết hiệu lực, quyền chọn tháng 8 sẽ được bổ sung; khi quyền chọn tháng 7 đáo hạn, quyền chọn tháng 9 sẽ được bổ sung; và khi quyền chọn tháng 8 hết hiệu lực, quyền chọn tháng 4 sẽ được đưa vào. Quyền chọn chỉ số thường có ngày đáo hạn là tháng hiện tại và 2 tháng sau đó. Kỳ hạn của quyền chọn đối với cổ phiếu đơn lẻ kéo dài không quá 9 tháng trừ một số ngoại lệ. LEAPS (cổ phiếu được nắm giữ dài hạn – Long term Equity Anticipation Share) là các quyền chọn đối với một số cổ phiếu cụ thể và chỉ số có thời gian đáo hạn lên đến 3 năm. Quyền chọn FLEX cũng có thể có bất cứ ngày đáo hạn nào, có thể lên đến 5 năm đối với quyền chọn chỉ số và 3 năm đối với quyền chọn đối với cổ phiếu riêng lẻ. Ngày đáo hạn của quyền chọn giao dịch trên sàn là ngày thứ bảy liền sau ngày thứ sáu tuần thứ ba của tháng. Ngày cuối cùng mà quyền chọn giao dịch là ngày thứ sáu tuần thứ ba của tháng. 3.2.6 Hạn mức vị thế và hạn mức thực hiện Hạn mức vị thế (position limit): là số lượng quyền chọn tối đa mà một nhà đầu tư có thể nắm giữ về một phía của thị trường mà các sàn giao dịch đã áp đặt. Hạn mức thực hiện (exercise limit): tương tự như hạn mức vị thế. Một hạn mức thực hiện là số quyền chọn tối đa có thể được thực hiện trong vòng 5 ngày làm việc liên tục bất kỳ bởi mỗi nhà đầu tư riêng lẻ hay một nhóm các nhà đầu tư cùng hành động với nhau. Các số liệu về hạn mức thực hiện cũng giống hạn mức vị thế. Mục tiêu của hạn mức thực hiện và hạn mức vị thế là nhằm ngăn cản từng cá nhân hoặc một nhóm người có tác động đáng kể đến thị trường. Tuy nhiên, vẫn chưa có gì rõ ràng rằng các hạn chế như vậy là cần thiết. Tuy nhiên chúng thật sự ngăn chở các nhà đầu tư lớn sử dụng quyền chọn trên sàn giao dịch, và chúng làm giảm tính thanh khoản. Chúng có thể tổn hại sàn giao dịch thông qua việc buộc các nhà đầu tư có tổ chức thực hiện giao dịch trên thị trường OTC. 3.3 Thị trường quyền chọn và thị trường cổ phiếu 3.3.1 Quyền chọn cổ phiếu có nhiều nét tương đồng với cổ phiếu trên sàn giao dịch Cả quyền chọn và cổ phiếu đều được niêm yết trên sàn giao dịch. Lệnh mua và lệnh bán quyền chọn cũng được thực hiện thông qua nhà môi giới cũng giống như cách đặt lệnh mua và lệnh bán khi giao dịch cổ phiếu trên sàn. Và tất cả mọi giao dịch của quyền chọn và giao dịch cổ phiếu đều được thực hiện trên sàn giao dịch. Cũng giống như giao dịch cổ phiếu, với giao dịch quyền chọn, người mua sẽ thực hiện lệnh mua, còn người bán thực hiện lệnh bán. Trong giao dịch cổ phiếu, lệnh mua bán được thực hiện đối với cổ phiếu. Còn với quyền chọn cổ phiếu, lệnh được thực hiện chính là quyền được mua hoặc bán 100 cổ phiếu (mỗi hợp đồng quyền chọn) về một cổ phiếu cơ sở tại một mức giá thỏa thuận vào một thời điểm đã xác định trong tương lai. Những nhà đầu tư quyền chọn cũng có khả năng kiếm lời trên sự chênh lệch giá và biết được mọi thông tin về giao dịch và chỉ số thị trường cũng giống như nhà đầu tư về cổ phiếu. Người mua và người bán quyền chọn có thể nhanh chóng biết được mức giá tại thời điểm mà lệnh được thi hành. 3.3.2 Mặc dù có những điểm tương đồng, nhưng thị trường quyền chọn và thị trường cổ phiếu vẫn có những điểm khác nhau quan trọng 3.3.2.1 Về phương diện giao dịch và thời gian: Không giống như giao dịch cổ phiếu, quyền chọn có một thời gian giao dịch nhất định. Cổ phiếu có thể được nắm giữ không giới hạn với hi vọng giá trị của nó sẽ tăng lên, còn quyền chọn thì lại có ngày đáo hạn cụ thể. Nếu quyền này không được thực hiện sau một thời gian ấn định, hợp đồng option đáo hạn, người mua sẽ bị mất khoản phí thực hiện quyền chọn một cách vô ích. Hợp đồng quyền chọn thì không có số lượng giới hạn về hợp đồng, cũng giống như với các cổ phiếu có giá trị. Một quyền chọn đơn giản chỉ là một hợp đồng bao gồm việc người mua sẵn sàng chi trả một mức giá để quyền đó có hiệu lực và người bán sẵn sàng nhượng lại quyền này với mức giá như vậy. Vì vậy không giống như cổ phiếu, số hợp đồng quyền chọn còn hiệu lực phụ thuộc duy nhất dựa trên số người mua và người bán ký nhận và chuyển nhượng quyền đó. Trong giao dịch, mua bán cổ phiếu là hợp đồng chắc chắn về quyền sở hữu cổ phiếu đó, với quyền chọn thì không có sự đảm bảo về quyền được thực hiện sở hữu cổ phiếu vì phụ thuộc giá cả quyền chọn vào ngày đáo hạn. Vị thế của quyền chọn được ghi trong bản in được chuẩn bị bởi công ty môi giới của người mua hoặc người bán. Một sự đổi mới trong thị trường quyền chọn, sự giao dịch ko chắc chắn đã được giảm nhiều về công việc giấy tờ và giảm sự trì hoãn. Trong khi quyền sở hữu cổ phiếu thì cung cấp cho người nắm giữ được nắm giữ cổ phiếu của công ty, có quyền bầu cử, và được nhận cổ tức khi công ty chia lợi nhuận, còn người sở hữu quyền chọn chỉ được nhận lợi tức về sự chênh lệch giá cổ phiếu khi thực hiện quyền chọn. 3.3.2.2 Về phương diện quản trị rủi ro Giá của quyền chọn cố phiếu có quan hệ với giá của cố phiếu đó trên thị trường giao ngay, các quyền chọn có thể được sử dụng để làm giảm hay tăng rủi ro của cố phiếu đó. Trong khi đó, khi nhà đầu tư chỉ giao dịch trên thị trường chứng khoán thì sẽ gặp hoàn toàn rủi ro khi giá của cố phiếu rớt giá và chỉ có lợi nhuận khi giá tăng lên. Do đó, khi nhà đầu tư sử dụng quyền chọn đối với cổ phiếu này, thì họ có thể kiếm được lợi nhuận dù thị trường có đi xuống hay đi lên. Ví dụ, khi nhà đầu tư mua một cố phiếu trên thị trường và thực hiện một hợp đồng quyền chọn bán sẽ làm giảm rủi ro của nhà đầu tư. Nếu giá cố phiếu giảm xuống, giá của hợp đồng quyền chọn bán cũng sẽ giảm. Khi đó, nhà đầu tư sẽ thực hiện quyền chọn, và bán cổ phiếu mà họ sở hữu với giá mua đã thỏa thuận trước, và thực hiện việc mua lại cổ phiếu đó trên thị trường giao ngay với giá thấp hơn, do đó nhận được một khoản lợi nhuận ít nhất có thể bù đắp phần nào mức lỗ từ cổ phiếu giảm giá của họ. Với trường hợp thị trường tăng giá, thị họ sẽ bỏ lệnh thực hiện hợp đồng quyền chọn và chịu mất đi một khoản phí quyền chọn giống như việc bỏ tiền để mua một hợp đồng bảo hiểm cho cổ phiếu của họ. Dạng giao dịch này được gọi là phòng ngừa rủi ro. Ngoài ra, các nhà đầu tư có khẩu vị rủi ro khác nhau. Một số nhà đầu tư có khả năng chấp nhận rủi ro tốt hơn các nhà đầu tư khác. Tuy nhiên, tất cả các nhà đầu tư đếu muốn giữ cho khoản đầu tư của mình ở một mức rủi ro có thể chấp nhận được. Với thị trường giao ngay, các nhà đầu tư ít có khả năng linh động về việc chuyển giao rủi ro của mình. Nhưng với thị trường sản phẩm phái sinh (quyền chọn với cổ phiếu, trái phiếu), nó cho phép những người muốn làm giảm rủi ro của mình chuyển giao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là các nhà đầu cơ. Vì vậy, các thị trường này rất hiệu quả trong việc phân phối lại rủi ro giữa các nhà đầu tư, không có ai cần phải chấp nhận một mức rủi ro không phù hợp với bản thân mình. Do đó, các nhà đầu tư sẵn sàng cung cấp nhiều vốn hơn cho thị trường tài chính. Điều này sẽ tạo ra nhiều lợi ích cho nền kinh tế, vì nó tạo điều kiện cho nhiều công ty có khả năng huy động vốn trên thị trường hơn và giữ cho chi phí sử dụng vốn càng thấp càng tốt. Ngược lại với phòng ngừa rủi ro là đầu cơ. Trừ khi người phòng ngửa rủi ro tìm được một người phòng ngửa rủi ro khác có nhu cầu đối lập hoàn toàn với mình, rủi ro của người phòng ngửa rủi ro phải được hấp thụ bởi nhà đầu cơ. Thị trường các sản phẩm phái sinh cung cấp một công cụ hiệu quả cho hoạt động đầu cơ. Thay vì giao dịch cổ phiếu hoặc trái phiếu cơ sở, nhà đầu tư có thể giao dịch sản phẩm phái sinh. Nhiều nhà đầu tư thích đầu cơ với công cụ sản phẩm phái sinh hơn là bằng chứng khoán cơ sở. Việc đầu cơ dễ dàng hơn bằng sản phẩm phái sinh lại tạo điều kiện cho việc phòng ngừa rủi ro ít tốn kém hơn. Tuy nhiên, đầu cơ là một hoạt động gây nhiều tranh cãi. Thị trường các sản phẩm phái sinh đã nhận rất nhiều chỉ trích từ những người ngoài cuộc, bao gồm cả những cáo buộc rằng hoạt động của họ cũng tương tự nhưng việc hợp pháp hóa bài bạc. Vậy chúng ta sẽ xem xét vấn đề này ở các phần sau. 3.3.2.3 Về phương diện đòn bẩy Khi ta bỏ cùng một số vốn nhưng đầu tư trên cả thị trường giao ngay (chứng khoán) và thị trường quyền chọn thì thị trường quyền chọn cho ta một tỷ suất sinh lợi cao hơn so với khi đầu tư trực tiếp trên thị trường chứng khoán. Ví dụ: Khi một nhà đầu tư có số vốn là 2.000$, họ mua cổ phiếu ABC với giá ngày hôm nay là 32$ và bán lại với mức giá 36$ trong 3 tháng tới. Điều này có nghĩa là họ đã mua 60 cổ phiếu ABC với tổng số tiền là 1,920$ (= 60 x 32$ ), và ba tháng sau họ bán 60 cổ phiếu này và thu được 2,160$ (= 60x36$), vậy tỷ suất sinh lợi là (2,160 – 1,920)/1,920=12.5%. Nếu họ dùng số tiền đó để mua quyền chọn cổ phiếu ABC với giá thực hiện là 32$ được giao dịch với mức phí là 2.3$ và đáo hạn trong 3 tháng tới. Do trên chứng khoán phái sinh, tất cả các quyền chọn được căn cứ trên 100 cố phiếu, nên khi nhà đầu tư mua một quyền chọn cổ phiếu ABC, họ phải trả cho người bán 230$ (= 2.3$ x 100). Nên với số vốn là 2.000$, nhà đầu tư có thể mua tối đa 8 quyền mua với giá 1840$ (= 8 x 230$). Sau 3 tháng, giá cố phiếu tăng là 36$, do đó nhà đầu tư sẽ thực hiện quyền chọn mua của mình và mua 800 cổ phiếu với giá 25,600$ (= 800 x 32$) và ngay lập tức họ bán những cổ phiếu này với mức giá 36$/cổ phần, họ thu về được 28,800$ (= 800 x 36$). Giao dịch này

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBai hoan chinh.pdf
Tài liệu liên quan