Đề tài Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái

Tài liệu Đề tài Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái: MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt suất của dân tộc Việt Nam và của nhân loại đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá, một hệ tư tưởng có giá trị về nhiều mặt. Trong đó tư tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát triển của dân tộc ta. Tư tưởng đại đoàn kết đã trở thành tình cảm, suy nghĩ của mọi người Việt Nam yêu nước, là sợi dây liên kết cả dân tộc tạo nên sức mạnh to lớn đưa tới thắng lợi vẻ vang của Cách mạng tháng Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam độc lập hoàn toàn, đất nước Việt Nam thống nhất trọn vẹn năm 1975. Thực tiễn, minh chứng rõ rằng: khi nào Đảng ta, dân tộc ta đoàn kết một lòng, thực hiện triệt để tư tưởng đại đoàn kết của Người, thì cách mạng lúc đó thuận lợi, thu được nhiều thành công. Ngược lại lúc nào, nơi nào dân ta vi phạm đoàn kết, xa rời tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, thì lúc đó nơi đó cách mạng gặp khó khăn, thậm chí tổn thất....

doc58 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1678 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt suất của dân tộc Việt Nam và của nhân loại đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá, một hệ tư tưởng có giá trị về nhiều mặt. Trong đó tư tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát triển của dân tộc ta. Tư tưởng đại đoàn kết đã trở thành tình cảm, suy nghĩ của mọi người Việt Nam yêu nước, là sợi dây liên kết cả dân tộc tạo nên sức mạnh to lớn đưa tới thắng lợi vẻ vang của Cách mạng tháng Tám năm 1945, dân tộc Việt Nam độc lập hoàn toàn, đất nước Việt Nam thống nhất trọn vẹn năm 1975. Thực tiễn, minh chứng rõ rằng: khi nào Đảng ta, dân tộc ta đoàn kết một lòng, thực hiện triệt để tư tưởng đại đoàn kết của Người, thì cách mạng lúc đó thuận lợi, thu được nhiều thành công. Ngược lại lúc nào, nơi nào dân ta vi phạm đoàn kết, xa rời tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, thì lúc đó nơi đó cách mạng gặp khó khăn, thậm chí tổn thất. Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong thời gian qua, nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong khi sự nghiệp đổi mới đang có yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của nhân dân thì việc đoàn kết tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều hạn chế ở một số vùng có đồng bào theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số... Do vậy chỉ có thể huy động sức mạnh đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta mới đưa đất nước tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Huyện Văn Yên có vị trí, vai trò quan trọng, nằm trên trục giao thông quan trọng cả đường thủy (sông Hồng), đường bộ (đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai), đường sắt (có tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai). Huyện lại có đông dân tộc anh em sinh sống với phong tục tập quán, trình độ học vấn, điều kiện kinh tế, chế độ tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau... nên dễ bị các thế lực phản động lôi kéo, dụ dỗ gây mất tình đoàn kết trong cơ sở Đảng cũng như trong tổ chức quần chúng trên địa bàn huyện. Do đó vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện là rất quan trọng và cần thiết. Việc hiểu rõ và vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc nói chung và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái nói riêng là vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy tác giả đã mạnh dạn chọn vấn đề: “Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu vấn đề Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng của cách mạng nước ta. Do đó, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến vấn đề này. Có nhiều bài viết của các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã nhấn mạnh tầm quan trọng, vai trò và ý nghĩa của đại đoàn kết dân tộc, như: trong tác phẩm Trường Chinh Tuyển Tập (1937 - 1954), Nxb Sự Thật, Hà Nội có bài viết “Mặt trận dân tộc thống nhất và vấn đề đại đoàn kết”. Tổng bí thư Nông Đức Mạnh (2008) đã có bài viết “Thành tựu của đất nước là sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc”, Tạp chí cộng sản, số 2 (146). Đồng thời cũng khẳng định lời nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh “ Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Êđê, XêĐăng hay BaNa và các dân tộc thiểu số khác đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt… Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt”; Tô Huy Rứa (2009) đã khẳng định “Đại đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu, yếu tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, Tạp chí cộng sản, số 22 (190); Phùng Hữu Phú (chủ biên) (1995) với tác phẩm “Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh”, Nxb Sự Thật, Hà Nội. Ngoài ra, còn có các bài viết liên quan như: “Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất và suốt đời xây đắp khối đại đoàn kết dân tộc” của Vũ Kim Trọng, Tạp chí xây dựng Đảng, năm 2010; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ”, của Hạnh Nguyễn, Tạp chí Mặt trận, số 72, năm 2009. Trên địa bàn miền núi huyện Văn Yên (tỉnh Yên Bái) cho đến nay đã có một số công trình, bài viết đề cập đến nhưng ở nhiều góc độ khác nhau. Những tài liệu nêu trên sẽ giúp ích cho việc tham khảo trong quá trình thực hiện nghiên cứu của tác giả. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Đề tài đi sâu tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc để tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân tố hăng hái tham gia phong trào cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự nhất trí về mặt chính trị và tinh thần của xã hội ta, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Vạch ra những nguyên nhân làm hạn chế việc vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, cũng như đề xuất những biện pháp nhằm củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Tìm hiểu việc vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái. Đề xuất những biện pháp nhằm củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái. Nghiên cứu đề tài này tác giả còn hi vọng sẽ góp một tài liệu nhỏ của mình về tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh cho việc vận dụng vào công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương mình. 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu - Khách thể nghiên cứu: Ở địa bàn huyện Văn yên tỉnh Yên Bái. - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu với sự vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp lôgich và lịch sử, so sánh và tổng hợp cùng với phương pháp điều tra xã hội học. 6. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm 2 chương. Chương 1: Những vấn đề cơ bản trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Chương 2: Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH 1.1. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một hệ thống những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tập hợp và tổ chức lực lượng cách mạng nhằm phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là tư tưởng xây dựng, củng cố và mở rộng lực lượng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và xây dựng xã hội mới. 1.1.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng Với Hồ Chí Minh “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta” [15; 510]. Đoàn kết tạo ra sức mạnh trong mọi cuộc đấu tranh, Người cho rằng: muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh vũ trang cách mạng, bằng cách mạng vô sản. Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc mình, Hồ Chí Minh nhận thức được trong thời phong kiến chỉ có những cuộc đấu tranh thay đổi triều đại nhưng chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông cha ta với tư tưởng: vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức và khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước. Chính chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày của lịch sử này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được Người ghi nhận như những bài học lớn cho sự hình thành tư tưởng của mình. Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, mở đầu cho thời kỳ cai trị và áp bức của chúng đối với dân tộc ta trong suốt gần 80 năm trời ròng rã. Nhưng cũng chính trong vòng gần 80 năm đó, chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc lại sôi nổi hơn bao giờ hết. Nó kết thành một làn sóng vô cùng to lớn, mạnh mẽ, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn thông qua các xu hướng khác nhau để cứu nước dù cuối cùng tất cả các xu hướng đó đều bị thất bại. Hồ Chí Minh đã cảm nhận được những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử trong giai đọan này. Đây cũng chính là lý do, là điểm xuất phát để Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã không đoàn kết thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa cách mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới. Muốn có lực lượng cách mạng phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó, đoàn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng. Người đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng vô sản vào thực tiễn Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng thuộc địa, trong đó Người quan tâm nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn được Người nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Ví dụ như: tại sao Pháp - một đất nước có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến tranh hiện đại lại phải thua một Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược?. Đó là vì đồng bào Việt Nam đã đoàn kết như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ. Chỉ có một chí: Quyết không chịu mất nước. Chỉ có một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại. Để thấy rõ hơn vị trí của sức mạnh lực lượng toàn dân đoàn kết trong thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra: vì sao có cuộc thắng lợi đó?. Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực lượng của toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo lá cờ Việt Nam để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc. Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai thắng được lực lượng đó. Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Và Người khuyên dân ta rằng: “Dân ta xin nhớ chữ đồng: Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” [8; 206]. Đây chính là con đường đưa dân ta tới độc lập, tự do. Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều luận điểm về vấn đề đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế: đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công, Đoàn kết là điểm mẹ: “Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu cũng tốt” [13; 392]; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” [14; 607]. 1.1.2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thể hiện thành thương dân, không thương dân thì không có tinh thần yêu nước. Dân ở đây là số đông, phải làm cho số đông đó ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, sống tự do, hạnh phúc. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chúng ta không chỉ thấy rõ việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân mà còn coi đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu cách mạng. Do đó, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 3/3/1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc. Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh coi vấn đề đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của cách mạng. Hồ Chí Minh còn cho rằng, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc chính là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân, trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, Đảng có nhiệm vụ thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng đấu tranh một cách tự giác, có tổ chức thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người. Như vậy, đại đoàn kết không đơn thuần là phương pháp tập hợp lực lượng cách mạng, mà đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Vì vấn đề cơ bản của cách mạng suy cho cùng là phải có bộ tham mưu đưa ra đường lối tập hợp sức mạnh toàn dân đánh giặc. Vấn đề đại đoàn kết dân tộc phải xuất phát từ đòi hỏi khách quan của cách mạng do quần chúng tiến hành. Đại đoàn kết dân tộc là chính sách chứ không phải là một thủ đoạn chính trị. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch của cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. 1.2. Nội dung của đại đoàn kết dân tộc 1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm Dân có nội hàm rất rộng. Người dùng các khái niệm này để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người không tín ngưỡng, không phân biệt già, trẻ, gái trai, giàu, nghèo. Nói đến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa là phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nêu rõ: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài… Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ” [12; 438]. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng, bao gồm mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo. Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Người đã nhiều lần nhắc nhở: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ” [12; 438]. Để thực hiện được đoàn kết, Người còn căn dặn: cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân. Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh có lập trường giai cấp rõ ràng, đó là đại đoàn kết toàn dân với nòng cốt là khối liên minh công - nông - tri thức do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Người đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác” [12; 438]. Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất. Về sau, Người nêu thêm lấy liên minh công - nông - lao động trí óc làm nền tảng cho đại đoàn kết toàn dân. Nền tảng càng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc. 1.2.2. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, làm cách mạng để xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó biến thành lực lượng vật chất có tổ chức và tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Cả dân tộc hay toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn, nếu không quần chúng nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu con người cũng chỉ là một số đông không có sức mạnh. Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, xét trên một khía cạnh nào đó, chính là đi tìm sức mạnh để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động. Và sức mạnh mà Người đã tìm được là đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Từ khi tìm thấy con đường và sức mạnh để cứu nước, Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp, tầng lớp, từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo… đó là các già làng, trưởng bản, các hội ái hữu, tương trợ, công hội, nông hội, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng, hội phụ lão, hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo yêu nước, các nghiệp đoàn... bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận chính là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà còn cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương, về Tổ quốc Việt Nam. Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xây dựng được Mặt trận dân tộc thống nhất có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng. Các tổ chức Mặt trận ở nước ta đều là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân. Để Mặt trận dân tộc thống nhất trở thành một tổ chức cách mạng to lớn, theo Hồ Chí Minh, nó cần được xây dựng theo những nguyên tắc cơ bản sau: Thứ nhất, đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cở sở yêu nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu. Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công - nông - lao động trí óc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thứ ba, hoạt động của Mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống nhất lợi ích của tầng lớp nhân dân là cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng. Thứ tư, khối đoàn kết trong Mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ cùng nhau tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” - lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt. Đoàn kết trong Mặt trận là lâu dài, chân thành, thẳng thắng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Hồ Chí Minh xác định chúng ta làm cách mạng nhằm mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta. Người nêu rõ: đoàn kết phải gắn liền với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết, nâng cao tinh thần tự phê bình và phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục những mặt chưa tốt trong nội bộ. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái vì nước vì dân. 1.3. Nguyên tắc đại đoàn kết Hồ Chí Minh 1.3.1. Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và các quyền thiêng liêng của con người Đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Hạt nhân của nguyên tắc này là giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích phức tạp, chồng chéo giữa cá nhân - tập thể, gia đình - xã hội, bộ phận - toàn thể, giai cấp - dân tộc, quốc gia - quốc tế theo phương châm chỉ đạo là: Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết và tất cả do con người. Ví dụ như trong: Chính sách giảm tô 25 % trong kháng chiến chống thực dân Pháp Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Chủ ruộng giảm tô cho đúng”, đồng thời cũng nhắc nhở: “Tá diền nộp tô cho đều” [10; 591]. Chính sách này đã giải quyết thỏa đáng lợi ích ruộng đất giữa địa chủ và nông dân nghèo trong điều kiện phải đoàn kết để kháng chiến thắng lợi. Địa chủ có ruộng cho thuê và nông dân nghèo thuê ruộng đều phải hi sinh một phần lợi ích của mình để đoàn kết nhau lại, thực hiện khẩu hiệu: “Tổ quốc trên hết”, “Tất cả cho kháng chiến thắng lợi”. Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ đoàn kết, là sức mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để Người tìm ra những phương pháp để thực hiện nguyên tắc đó trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc mình. ` Tóm lại, muốn đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân phải giải quyết đúng đắn các mối quan hệ lợi ích dân tộc. Song, khi giải quyết các mối quan hệ lợi ích này phải đặt quyền lợi dân tộc, quyền lợi Tổ quốc, quyền lợi toàn dân lên trên hết, lên trước hết. 1.3.2.Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân Tin vào dân, dựa vào dân là một nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Bởi vì, theo Hồ Chí Minh dân là gốc rễ, là nền tảng của đại đoàn kết, dân là chủ thể của đại đoàn kết, dân là nguồn sức mạnh vô tận, và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng. Nguyên tắc tin vào dân, dựa vào dân trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh dựa trên cơ sở: Một là, theo nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin thì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: Đảng cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo cách mạng Việt Nam, song nếu chỉ có một mình Đảng thôi, không có người ngoài Đảng tin theo, ủng hộ thì cách mạng Việt Nam không thể thắng lợi được. Hai là, truyền thống tư duy chính trị của dân tộc Việt Nam. Tư duy chính trị này thể hiện rõ trong các câu ca dao, tục ngữ được Hồ Chí Minh sử dụng rất nhiều lần, chẳng hạn “Nước lấy dân làm gốc”, “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”. Hồ Chí Minh cũng từng nói: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong” [10; 293]. Với Hồ Chí Minh, “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [13; 276]. Tin vào dân, dựa vào dân trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là tin vào, là dựa vào tinh thần yêu nước, ý chí giành độc lập tự do, xây dựng một đất nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh; là tin vào, là dựa vào lực lượng to lớn của nhân dân; là tin vào, là dựa vào sáng kiến của nhân dân. Trong đó Hồ Chí Minh đặc biệt tin vào lòng yêu nước của nhân dân, với niềm tin đó Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân đoàn kết, Lương - Giáo đoàn kết, các dân tộc, các thành phần dân tộc đoàn kết… Thực tiễn cách mạng Việt Nam đến nay đã khẳng định tư tưởng của Người là hoàn toàn đúng, chẳng những phù hợp với đặc điểm người Việt Nam mà còn đúng với đặc điểm của giai cấp công nhân. 1.3.3. Đoàn kết tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn kết rộng rãi, lâu dài, đoàn kết chặt chẽ theo lập trường giai cấp công nhân Trong quá trình thực hiện đại đoàn kết, xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nhất quán một nhận thức khoa học đó là: đoàn kết không phải là một tập hợp ngẫu nhiên, tự phát, nhất thời mà là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội có định hướng, có tổ chức, có lãnh đạo. Đầu 1955, nói chuyện tại hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt toàn quốc, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập cho Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà” [12; 438]. Như vậy theo Hồ Chí Minh, đoàn kết toàn dân trong các tổ chức của Mặt trận dân tộc thống nhất phải rộng rãi và lâu dài, đoàn kết không phải là một thủ đoạn chính trị, mà là một chính sách dân tộc, một chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Qua câu nói trên của Hồ Chí Minh, ta thấy rõ tư tưởng của Người: toàn dân ta phải đoàn kết cả trong cách mạng giải phóng dân tộc, cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa hay đoàn kết trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Theo Người, Đảng cộng sản Việt Nam phải đoàn kết lâu dài với các đảng phái và các đoàn thể yêu nước khác trong Mặt trận dân tộc thống nhất, không phải đoàn kết nhất thời. Điều này được Hồ Chí Minh chỉ rõ khi Người nói chuyện tại buổi lễ kết thúc ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam ngày 03/03/1951 như sau: “…đối với các đảng phái, các đoàn thể trong Mặt trận dân tộc, thì Đảng Lao động Việt Nam chủ trương: Đoàn kết chặt chẽ, đoàn kết lâu dài, cùng nhau tiến bộ” [11; 184]. Về đoàn kết rộng rãi hay đại đoàn kết, theo tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh là đoàn kết cho hết các lực lượng, các cá nhân yêu nước trong dân tộc, không để sót một lực lượng, một cá nhân nào đứng ngoài các tổ chức của Mặt trận dân tộc thống nhất, nhưng đoàn kết phải được tổ chức theo lập trường giai cấp công nhân và hoàn cảnh của dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ rõ: đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Rồi Người nhấn mạnh: đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây, nhưng: “Đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác” [12; 438]. Tóm lại theo Hồ Chí Minh, đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất phải thật rộng rãi. Cụ thể là đoàn kết tất cả những người yêu nước, những người thật thà tán thành một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, dù họ ở phe phái nào, dù trước đây đi ngược lại lợi ích dân tộc, quyền lợi toàn dân. Song “nền gốc” hay “cơ sở chủ yếu” hoặc “nền tảng” của đại đoàn kết phải là khối liên minh công nông và các tầng lớp nhân dân lao động khác, trong đó trước hết là tri thức. Hồ Chí Minh cho rằng: đoàn kết rộng rãi, đoàn kết lâu dài, nhưng đoàn kết phải có tổ chức, có kỷ luật, có lãnh đạo hay đoàn kết phải chặt chẽ. Cụ thể: Về tổ chức: Đoàn kết phải được tổ chức trong các đoàn thể quần chúng cách mạng hay trong các đoàn thể chính trị - xã hội của Mặt trận dân tộc thống nhất. Về kỷ luật: Tổ chức của Mặt trận và các đoàn thể phải có kỷ luật mà mỗi thành viên phải tự giác tuân theo. Về lãnh đạo: Lãnh đạo khối đại đoàn kết dân tộc là Đảng cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định Đảng cộng sản là người lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân, nhưng Người chỉ rõ Đảng cộng sản cũng là một bộ phận hữu cơ của Mặt trận, song “Phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất” của Mặt trận [8; 139]. Để khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh, Hồ Chí Minh chỉ rõ, trước hết Đảng phải đoàn kết nhất trí, nhất là cán bộ lãnh đạo Đảng, đây là yếu tố quyết định sự tồn tại và sức mạnh của khối đại đoàn kết. Hồ Chủ Tịch đã đặt lên hàng đầu: “Tư cách người kách mệnh” và chỉ rõ muốn đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, Đảng luôn phải tự phê bình và phê bình, phải phê phán nghiêm khắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lãng phí, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Người nhấn mạnh: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình [15; 497]. Muốn đoàn kết rộng rãi, đoàn kết lâu dài, đoàn kết chặt chẽ, theo Hồ Chí Minh, khối đoàn kết phải luôn được củng cố, trong đó củng cố liên minh công - nông - tri thức phải được quan tâm hàng đầu. Có như thế mới củng cố và tăng cường được lực lượng cách mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Nguyên tắc đoàn kết rộng rãi, lâu dài theo lập trường của giai cấp công nhân là kết quả của nhà tổ chức vĩ đại Hồ Chí Minh, biến khẩu hiệu nổi tiếng: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” thành hiện thực, thành sức mạnh tinh thần, trí tuệ, thành sức mạnh vật chất cực kỳ to lớn đánh thắng những thế lực thù địch, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng vững mạnh. Trên đây là ba nguyên tắc khi thực hiện đại đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh với nội dung bao trùm là: Đoàn kết rộng rãi, lâu dài nhưng phải được Đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo, phải đặt quyền lợi của Tổ quốc, của dân tộc, của toàn dân lên trên hết. 1.4. Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh Trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh cùng với việc xác định mục tiêu đoàn kết đúng, thực hiện đúng và đầy đủ các nguyên tắc đoàn kết, còn phải có phương pháp tiến hành đoàn kết. Hồ Chí Minh đã đưa ra một số phương pháp đoàn kết: 1.4.1. Phương pháp tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng Tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng đoàn kết phải thật sự khoa học. Do vậy, vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là việc tìm tòi lựa chọn các nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động phù hợp với nguyện vọng, quyền lợi của quần chúng. Phương pháp này nhằm làm cho mọi người nhận thức được sự cần thiết phải tập hợp nhau lại, từ đó tự giác tham gia tổ chức đoàn kết quần chúng cách mạng trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Nội dung tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng được Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng và xác định đúng ngay từ đầu. Đó là những nguyện vọng chung, sâu xa nhất của cả dân tộc, của toàn dân (như hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, dân chủ, nước mạnh). Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn chú ý tới cả nguyện vọng riêng của mỗi giai cấp, của mỗi tầng lớp nhân dân (chẳng hạn như ruộng đất cho nông dân nghèo). Nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng đoàn kết phải đáp ứng được hai yêu cầu chung và riêng. Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc vấn đề này và thực hiện rất thành công trong cách mạng Việt Nam ngay từ năm 1941 trở đi. Tùy theo hoàn cảnh và yêu cầu cụ thể của từng giai đoạn cách mạng, để đoàn kết toàn dân, Hồ Chí Minh đã đưa vào cương lĩnh cách mạng của Đảng những mục tiêu chiến lược phản ánh đúng những đòi hỏi cấp bách của lịch sử, những khát vọng cháy bỏng của toàn dân. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, Người nêu cao mục tiêu chiến lược: “Độc lập dân tộc, người cày có ruộng”. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Người chỉ rõ mục tiêu chiến lược của thời kỳ này là: độc lập hoàn toàn cho dân tộc, thống nhất trọn vẹn cho đất nước. Người khẳng định: Không có gì quý hơn độc lập tự do. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nội dung tuyên truyền, vận động sát hợp với từng giai cấp, từng cộng đồng xã hội như đối với giai cấp công nhân, nông dân, tri thức, văn nghệ sĩ, cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân, với thanh niên, phụ nữ, đồng bào dân tộc ít người, với cộng đồng tôn giáo, với quan lại, với nhân sĩ yêu nước, với người lầm đường lạc lối... Hồ Chí Minh đã thấu hiểu tất cả, phấn đấu hi sinh vì tất cả những khát vọng, những ước mơ sâu lắng của dân tộc và của mỗi con người. Do vậy tư tưởng đại đoàn kết của Người có sức mạnh to lớn tập hợp đoàn kết toàn dân. Có thể nói, Hồ Chí Minh là bậc thầy trong công tác vận động, giáo dục toàn dân thực hiện đại đoàn kết. Bản thân Người cũng tỏa sáng một mãnh lực tập hợp, đoàn kết toàn dân, tập hợp đoàn kết các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới. 1.4.2. Phương pháp xây dựng, kiện toàn không ngừng phát triển hệ thống chính trị cách mạng Hệ thống chính trị cách mạng nước ta từ 1945 đến nay bao gồm: + Đảng cộng sản, cụ thể là Đảng cộng sản Việt Nam. + Nhà nước cách mạng Việt Nam. + Các đoàn thể chính trị - xã hội trong Mặt trận Tổ quốc thống nhất do Đảng lãnh đạo. Theo Hồ Chí Minh, sự thống nhất bền vững của hệ thống chính trị là nhân tố quyết định sự tồn tại và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Về Đảng cộng sản, theo người Đảng cộng sản Việt Nam có vai trò quyết định nhất đối với sự hình thành, phát triển và sức mạnh của đại đoàn kết trong hệ thống chính trị cách mạng. Vì vậy, Người hết sức quan tâm tới công tác xây dựng Đảng, sao cho Đảng thật sự là một tổ chức chính trị vững mạnh, trong sạch, đoàn kết, nhất trí... đủ sức lãnh đạo khối đoàn kết toàn dân. Về Nhà nước cách mạng, theo Hồ Chí Minh hoạt động của nó ảnh hưởng rất lớn đến đoàn kết toàn dân và đến cả đoàn kết quốc tế. Bởi vì đối với mỗi chính sách, mỗi quyết định, mỗi việc làm đúng của các cấp chính quyền, Nhà nước có sức mạnh rất to lớn nó gắn nhân dân với Đảng, gắn nhân dân với nhau thành một khối, đồng thời tăng thêm đoàn kết giữa nhân dân ta, giữa dân tộc ta và bạn bè thế giới; ngược lại, có thể làm dạn nứt khối đoàn kết toàn dân, ảnh hưởng xấu tới đoàn kết quốc tế. Vì vậy để khối đoàn kết toàn dân tồn tại, sức mạnh đoàn kết được tăng cường, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, củng cố Nhà nước, cách mạng. Nhất là Ủy ban nhân dân các cấp, nơi trực tiếp tổ chức, quản lý điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội. Về các đoàn thể chính trị - xã hội, theo Hồ Chí Minh đây là sợi dây gắn kết Đảng với nhân dân, gắn kết nhân dân với nhau, thực hiện đoàn kết và cũng là nơi thể hiện sức mạnh đoàn kết. Vì vậy, theo Người xây dựng củng cố, phát triển, đoàn kết các tổ chức quần chúng hay các đoàn thể chính trị - xã hội trong Mặt trận dân tộc thống nhất thực sự là vấn đề chiến lược, không thể xem đây là vấn đề sách lược của cách mạng. Hồ Chí Minh là Người sáng tạo vun đắp Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời là người thầy về phương pháp và tổ chức các đoàn thể chính trị - xã hội nói chung, Mặt trận dân tộc thống nhất nói riêng. Về tổ chức các đoàn thể quần chúng cách mạng, Người đưa ra: Thứ nhất, các tổ chức, đoàn thể quần chúng phải được xây dựng từ thấp đến cao phù hợp với yêu cầu và nhận thức của quần chúng. Lúc đầu có thể là các tổ chức sơ khai, truyền thống (như hội hiếu hỷ, đồng hương...) trên cơ sở đó xây dựng các đoàn thể cách mạng đơn giản, rồi tiến tới xây dựng các đoàn thể cách mạng chặt chẽ rộng khắp, đấu tranh chính trị là chủ yếu. Thứ hai, hình thức các tổ chức, các đoàn thể quần chúng phải hết sức đa dạng, phù hợp với từng lứa tuổi, ngành nghề, giới tính, tên gọi các đoàn thể phản ánh đúng mục đích chính trị cốt yếu nhất của mỗi thời kì cách mạng. Thư ba, cương lĩnh, chươnh trình hoạt động của các tổ chức, các đoàn thể quần chúng phải hết sức rõ ràng, thiết thực, nội dung phải phong phú phù hợp với nguyện vọng và yêu cầu của mỗi đối tượng quần chúng. Thứ tư, cán bộ các tổ chức, đoàn thể quần chúng phải đặt công tác dân vận lên hàng đầu. 1.4.3. Phương pháp xử lý các mối quan hệ nhằm mở rộng tới mức cao nhất trận tuyến cách mạng và thu hẹp tới mức tối đa trận tuyến thù địch Trong cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp trong phạm vi một nước cũng như trên thế giới bao giờ cũng phân định thành ba tuyến lực lượng: cách mạng - trung gian - phản cách mạng. Cuộc đấu tranh một mất một còn giữa cách mạng và phản cách mạng, thành bại của cách mạng không chỉ phụ thuộc vào sức mạnh của hai lực lượng đối địch mà nó còn tùy thuộc một phần rất lớn vào việc bên nào lôi kéo được lực lượng trung gian. Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh là phương pháp xử lý mối tương quan ba chiều đó. Phương pháp xử lý các mối quan hệ của Hồ Chí Minh theo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Theo Hồ Chí Minh, sự đoàn kết thống nhất của các lực lượng cách mạng là điều kiện tiên quyết để thu hút, tập hợp các lực lượng trung gian vào trận tuyến cách mạng, lợi dụng mâu thuẫn và cô lập lực lượng thù địch. Với các lực lượng trung gian, thì phương pháp đoàn kết Hồ Chí Minh là xóa bỏ mọi thành kiến, mặc cảm. Khơi gợi, cổ vũ ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước, chân thành hợp tác và trọng dụng. Nhiều lần, Hồ Chí Minh tha thiết kêu gọi tất cả những người thật thà yêu nước không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào, chính kiến nào và trước đây đứng về phe nào. Chúng ta hãy thật thà cộng tác vì dân vì nước. Người cho rằng điều cần thiết nhất là phải đoàn kết, cần xóa bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, để phục vụ nhân dân. Đối với các thế lực thù địch của cách mạng, phương pháp của Hồ Chí Minh là chủ động, kiên quyết tiêu diệt trên cơ sở đã triệt để phân hóa, cô lập chúng đến cao độ. Trong phương pháp của Người chứa đựng nhiều cấp độ: Một là, theo dõi chặt chẽ, khai thác triệt để mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù. Hai là, lôi kéo và tranh thủ những lực lượng có thể tranh thủ được. Ba là, hòa hoãn tạm thời với những lực lượng, bộ phận nào còn có thể hòa hoãn được. Bốn là, thu hẹp và cô lập cao độ lực lượng thù địch nguy hiểm, trực tiếp nhất. Đối với các thế lực phản động nhất, ngoan cố nhất, phương pháp của Hồ Chí Minh là kiên quyết không ngừng thế tiến công và hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi. Như vậy, trong phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh có phương pháp xử lý mối quan hệ ba chiều là cách mạng - trung gian - phản cách mạng. Hồ Chí Minh đã xử lý hài hòa giữa chiến lược và sách lược, giữa cứng rắn về nguyên tắc và mềm dẻo linh hoạt trong giải pháp, từ đó làm cho mọi tầng lớp nhân dân, mọi phần tử quốc dân tin vào chính sách đại đoàn kết của Đảng cộng sản Việt Nam, tạo ra Lực - Thế - Thời cho cách mạng để giành chiến thắng một cách hiệu quả nhất. Tiểu kết chương 1 Qua tìm hiểu những vấn đề cơ bản trên ta có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có một vai trò cực kỳ quan trọng. Nó không chỉ là lời giải đáp đúng đắn cho những bài toán của cách mạng vào thời điểm chiến tranh mà ngay cả thời bình, trong suốt chiều dài lịch sử nó vẫn giữ nguyên giá trị. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trên 80 năm qua đã chứng minh hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc, từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng đó đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tất cả những người Việt Nam yêu nước và biến nó thành hành động cách mạng của hàng triệu, hàng triệu con người, tạo thành sức mạnh vô địch trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua cho thấy, lúc nào, nơi nào tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được quán triệt và thực hiện đúng thì khi đó, nơi đó cách mạng phát triển mạnh mẽ và giành được thắng lợi, nơi nào, lúc nào rời xa tư tưởng đó thì khi đó, nơi đó cách mạng bị trở ngại và tổn thất. CHƯƠNG 2 VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN VĂN YÊN TỈNH YÊN BÁI 2.1. Đặc điểm tình hình tự nhiên, kinh tế - xã hội và nhân dân huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái 2.1.1. Đặc điểm vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên Văn Yên là một huyện miền núi phía Bắc của tỉnh Yên Bái, được thành lập từ tháng 3 năm 1965. Có tọa độ địa lý 21035' - 22010' vĩ Bắc, 104023' - 104060' kinh Đông. Phía Bắc giáp huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai, phía Đông Bắc giáp huyện Lục Yên, Yên Bình, phía Đông Nam giáp huyện Trấn Yên, phía Nam giáp Văn chấn, phía Tây giáp huyện Mù Cang Trải tỉnh Yên Bái và huyện Văn Bàn tỉnh Lào Cai. Văn Yên có thị trấn Mậu A là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của huyện. Với vị trí nằm trên tuyến đường sắt Yên Bái - Lào Cai nối với Côn Minh (Trung Quốc), tuyến đường tỉnh lộ 151 Yên Bái - Khe Sang, đường thủy sông Hồng và đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai. Với lợi thế này, thị trấn Mậu A sẽ là động lực phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh trên địa bàn huyện. Huyện Văn Yên cách trung tâm tỉnh lỵ Yên Bái 40 km về phía Bắc. Toàn huyện có 26 xã và 1 thị trấn, với 312 thôn bản, 60 tổ dân phố. Tổng diện tích đất tự nhiên là 139.154,11 ha. Văn Yên là đơn vị hành chính có diện tích lớn nhất tỉnh. Địa hình của huyện khá đa dạng và phức tạp, đồi núi liên tiếp và cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc thuộc thung lũng sông Hồng kẹp giữa dãy núi cao là Con Voi và Púng Luông. Hệ thống sông ngòi dày đặc với các kiểu địa hình khác nhau vùng núi cao hiểm trở, vùng đồi bát úp lượn sóng nhấp nhô xen kẽ với các thung lũng và các cánh đồng phù sa nhỏ hẹp ven sông. Toàn huyện có khoảng 70% diện tích có địa hình dốc từ 250 trở lên. Với những đặc điểm về địa hình nêu trên nên diện tích rừng ở Văn Yên thuộc rừng nhiệt đới thường xanh với nhiều loại cây lá rộng, nhiều tầng. Có nhiều loại gỗ quý hiếm như pơmu, nghiến, táu, lát hoa, chò chỉ... Bên cạnh đó có các loại động vật quý hiếm như cầy hương, lợn rừng, hươu, gấu, vượn... còn có nhiều lâm đặc sản như cọ, song, quế, chè.... Khí hậu thuộc loại vùng nhiệt đới ẩm gió mùa, nắng lắm, mưa nhiều, nền nhiệt cao, chia làm 2 tiểu vùng khí hậu là Bắc Trái Hút và Nam Trái Hút. Nhiệt độ trung bình trong năm là 220C, mùa đông nhiệt độ thấp nhất 30C, mùa hè cao nhất 400C. Khí hậu mát ở vùng cao cho phép trồng nhiều cây dược liệu quý và chăn nuôi gia súc có sừng như: trâu, bò, hươu, dê... 2.1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội * Tình hình kinh tế Huyện Văn Yên có 3 vùng kinh tế trọng điểm: + Vùng thâm canh lúa gồm 13 xã: Yên Hưng, Yên Thái, Ngòi A, Mậu A, Mậu Đông, Đông Cuông, Hoàng Thắng, Xuân Ái, Yên Hợp, An Thịnh, Yên Phú, Đại Phác và Tân Đồng (trong đó thị trấn Mậu A là trung tâm huyện lỵ). + Vùng trồng mầu và cây ăn quả gồm 6 xã: Lăng Thíp, Lâm Giang, Châu Quế Thượng, Châu Quế Hạ, An Bình, Đông An. + Vùng trồng quế gồm 8 xã: Phong Dụ Thượng, Phong Dụ Hạ, Xuân Tầm, Mỏ Vàng, Nà Hẩu, Quang Minh, Viễn Sơn và Đại Sơn. Nền kinh tế của huyện tăng trưởng bền vững, có sự chuyển biến rõ ràng, đạt được những thành tựu nổi bật. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của địa phương, bước đầu tạo ra vùng sản xuất hàng hóa tập trung phục vụ cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, đúng hướng, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Trong tổng 139.154,11 ha diện tích đất tự nhiên thì đất sản xuất nông nghiệp là 17.383,14 ha, lâm nghiệp là 104.421,53 ha. Sản xuất nông - lâm nghiệp được xác định là nghành kinh tế mũi nhọn của huyện. Mặc dù có điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế, nhưng nền kinh tề huyện Văn Yên vẫn còn khó khăn như xuất phát điểm nền kinh tế thấp, nhận thức về kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều hạn chế, cơ sở kĩ thuật còn thiếu và lạc hậu, sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường kém, đời sống nhân dân trong huyện vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số… thu nhập bình quân trên đầu người thấp đạt 1,996 triệu/năm. Tình trạng lao động chưa có việc làm hoặc có việc làm nhưng chưa ổn định còn lớn. Mặc dù năm 2009 đã có hàng ngàn hộ nông dân được vay vốn nhưng vẫn còn tới 50% số hộ thiếu vốn đầu tư sản xuất. * Tình hình văn hóa - xã hội - Về giáo dục: Hệ thống giáo dục của huyện khá hoàn chỉnh gồm các ngành học, bậc học. Có đội ngũ cán bộ giáo viên giỏi, có trình độ chuyên môn cao. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho lĩnh vực giáo dục được đầu tư nhưng so với yêu cầu vẫn còn khó khăn, bất cập. Toàn huyện có 70 trường phổ thông trong đó có 41 trường tiểu học, 26 trường trung học cơ sở và 4 trường trung học phổ thông. Huyện có 27/27 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ. Tuy nhiên, công tác giáo dục vẫn còn yếu kém, phát triển chậm và không đều, mới khoảng 50% số người trong độ tuổi từ 6 - 9 đi học. Trong đó ở dân tộc Dao, Mông, Xa Phó tỷ lệ đi học thấp hơn nhiều. Đội ngũ giáo viên vùng cao vừa thiếu vừa yếu cả về năng lực sư phạm và tinh thần trách nhiệm. - Về y tế: Cơ sở y tế của huyện phát triển, trang thiết bị hiện đại, đội ngũ bác sĩ, y tá đông đảo và có chuyên môn tay nghề giỏi. Tất cả các xã trong huyện đều có các trạm y tế, phòng y tế, trung tâm y học dự phòng... Có 22 xã, thị trấn đã được công nhận chuẩn quốc gia về y tế, đang thực hiện mới 3 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế trong năm 2010. Ngành y tế của huyện đã làm tốt công tác y tế dự phòng, phòng chống dịch bệnh, khống chế được dịch bệnh, không có dịch lớn xảy ra trên địa bàn. Làm tốt công tác khám chữa bệnh cho nhân dân, đã chú trọng, quan tâm khám, chữa bệnh cho đồng bào dân tộc ít người, các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, các đối tượng chính sách, người nghèo, người có công với cách mạng... Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, dân số được duy trì và thực hiện một cách có hiệu quả. Tuy nhiên chất lượng khám chữa bệnh chưa cao, tinh thần thái độ phục vụ của cán bộ y tế với nhân dân còn nhiều thiếu sót. Vẫn còn một số xã có cơ sở y tế hoặc có nhưng đã bị xuống cấp, một số nơi còn thiếu cán bộ y tế theo quy định. Tình trạng thiếu thuốc còn khá phổ biến. - Công tác văn hóa - thông tin và thể thao: đã có bước đẩy mạnh phát triển hơn trước, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đã tổ chức được nhiều phong trào, cuộc vận động lớn như: cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, cuộc vận động vì người nghèo “Ngày vì người nghèo”, cuộc vận động “Người Việt nam ưu tiên dùng hàng Việt nam”, tổ chức thành công các chương trình phục vụ lễ hội (đền Đông Cuông, đền Nhược Sơn…), lễ kỷ niệm 45 năm ngày thành lập huyện, tuyên truyền cho đại hội Đảng các cấp và tổ chức các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm, quản lý tốt các dịch vụ văn hóa trên địa bàn đảm bảo kinh doanh lành mạnh. Phong trào thể dục thể thao của huyện được thúc đẩy. Việc xây dựng nếp sống văn hóa đi vào nề nếp. Thường xuyên kiểm tra thực hiện đề án xây dựng xã văn hóa đối với các xã Yên Thái, Đại Phác, Yên Hưng và Xuân Ái, kiểm tra các hoạt động của làng văn hóa trên địa bàn huyện, củng cố và tăng cường các thiết chế văn hoá tại các cấp cơ sở. Công tác phát thanh truyền hình được đảm bảo, góp phần nâng cao nhu cầu nghe nhìn của nhân dân. Tổ chức hội nghị tập huấn điều tra thống kê hiện trạng phổ cập dịch vụ Internet, điện thoại và nghe nhìn năm 2010 cho 27 xã, thị trấn. Công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ được tăng cường, quản lý chặt chẽ các hoạt động văn hóa trên địa bàn huyện. Tuy nhiên, chất lượng các mặt văn hóa, giáo dục còn thấp, đạo đức xã hội ở một bộ phận dân cư còn có biểu hiện xuống cấp, các tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan chưa được đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả. * An ninh - quốc phòng Do địa bàn của huyện nằm trên nhiều tuyến đường quan trọng, cho nên việc giữ vững an ninh là rất cần thiết, vì nó tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, thúc đẩy văn hóa - giáo dục ngày càng đi lên… Cho nên vấn đề cấp bách là phải giữ vững an ninh - quốc phòng. Huyện đã xây dựng được khu vực phòng thủ quân sự - quốc phòng, trong đó trọng tâm là xây dựng các xã, thị trấn vững mạnh toàn diện, an toàn là chính, cho nên an ninh - quốc phòng của huyện được củng cố vững chắc. Coi trọng nâng cao nhận thức cho lực lượng vũ trang nhân dân về chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên thường xuyên được huấn luyện, xây dựng vững mạnh về mọi mặt: 100% các đối tượng theo quy định được bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, trên 80% nhân dân được giáo dục kiến thức quốc phòng - an ninh, 100% các xã có đất thao trường cho công tác huấn luyện. Công tác tuyển quân hàng năm bảo đảm chi tiêu và chất lượng. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được tăng cường, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. * Công tác tôn giáo Với đặc thù là địa phương có tỷ lệ giáo dân chiếm 17,5% dân số toàn huyện và chiếm gần 40% tổng số giáo dân toàn tỉnh, trên địa bàn huyện có 11 dân tộc anh em cùng sinh sống. Đảng bộ đã chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các cấp làm tốt công tác đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Tạo điều kiện cho dân tộc thiểu số phát triển bình đẳng về kinh tế, văn hóa xã hội, quan tâm xây dựng cơ sở hạ tầng, điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế, cho vay vốn phát triển sản xuất với lãi xuất ưu đãi, hướng dẫn làm ăn, chuyển giao khoa học kỹ thuật… góp phần từng bước ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng theo quy định của luật pháp đối với đồng bào có đạo. Tình hình hoạt động trong các tôn giáo tương đối ổn định, các hoạt động cơ bản thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Tăng cường vận động giáo dân sống tốt đời, đẹp đạo. Đồng bào giáo dân sống tốt đời đẹp đạo luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, pháp luật Nhà nước và quy định của địa phương, ngăn chặn kịp thời các hoạt động tôn giáo trái phép. Như vậy trong tổng 27 xã, thị trấn của huyện có 13 xã thuộc vùng cao, 5 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn của cả nước (Nà Hẩu, Mỏ Vàng, Xuân Tầm, Quang Minh, Lang Thíp). Điều kiện cơ sở vật chất còn khó khăn so với nhiều địa phương khác, song nhờ truyền thống đoàn kết mà toàn Đảng và toàn dân trong huyện đã không ngừng vươn lên đạt được nhiều thành tựu trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội đi tới ấm no, hạnh phúc và chủ nghĩa xã hội. 2.1.3. Đặc điểm tình hình nhân dân của huyện Dân số huyện Văn Yên đến năm 2010 là 114.235 người, mật độ là 82 người/km2 gồm 11 cộng đồng dân tộc đang chung sống như: người Kinh, người Dao, người Tày, người Mông, người Phù Lá, người Giáy, người Hoa, người Mường, người Nùng, người Thái và các dân tộc khác. Trong đó: + Dân tộc Kinh có 65.117 người chiếm 56,38% + Dân tộc Tày có 17.573 người chiếm 15,2% + Dân tộc Dao có 26.487 người chiếm 22,91% + Dân tộc H’mông có 4.480 người chiếm 3,87% + Dân tộc khác có 1.957 người chiếm 1,69% Do mật độ phân bố dân cư không đồng đều, nên phong tục tập quán sản xuất và sinh hoạt của các dân tộc khác nhau. Các dân tộc Kinh, Tày, Mường, Nùng chiếm 71,53% dân số. Dân tộc Dao chiếm 22,91% dân số, họ sống thành cộng đồng làng bản ở vùng thấp, có kinh nghiệm thâm canh lúa nước, cây lương thực, cây công nghiệp, kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, trồng cây nguyên liệu và sản xuất thủ công nghiệp cho nên đời sống kinh tế văn hóa khá. Còn dân tộc H’mông và các dân tộc ít người khác chiếm tỷ lệ 3,87% dân số. Họ cư trú và sinh sống trên các sườn núi và thung lũng, chủ yếu trồng lúa nương, ngô, sắn, quế, chăn nuôi trâu bò, lợn, gia cầm… cho nên trình độ canh tác thấp, kinh tế phát triển chậm. Trước đây, dân cư Văn Yên thưa thớt. Đợt chuyển cư đông đảo nhất diễn ra trên địa bàn huyện vào những năm 1960 - 1970 khi chuyển dân vùng lòng hồ Thác Bà thì hàng vạn người dân các huyện Yên Bình, Lục Yên đến đây xây dựng quê hương mới. Cũng vào khoảng thời gian đó, theo tiếng gọi của Đảng, hàng ngàn người từ các tỉnh Hưng Yên, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình… đã lên Văn Yên xây dựng kinh tế - văn hóa miền núi. Dù là người bản địa hay người nơi khác đến, các dân tộc cư trú trên vùng đất Văn Yên không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng đều có truyền thống đoàn kết, yêu thương đùm bọc nhau trong sản xuất và chiến đấu. Họ cùng nhau sát cánh xây dựng nên quê hương giàu đẹp của mình. Mặc dù đông dân tộc với các phong tục tập quán khác nhau nhưng nhìn chung nhân dân các dân tộc trong toàn huyện đã yên tâm, phấn khởi tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, tích cực lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau đẩy mạnh phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Đời sống nhân dân ổn định, kinh tế phát triển, trật tự an toàn được giữ vững. Các dân tộc tôn giáo đoàn kết, gắn bó và chấp hành tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước. Nhân dân phát huy dân chủ, thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của công dân ở địa phương. Đây chính là điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tập hợp, củng cố xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững mạnh, từng bước đưa nội dung các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. 2.2. Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên 2.2.1. Thực trạng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Trong lịch sử xây dựng và bảo vệ quê hương, nhân dân các dân tộc trong địa bàn huyện Văn Yên đã nêu cao tinh thần yêu nước, đoàn kết, cần cù lao động tạo lập nên nhiều thành tích vẻ vang. Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Mặt trận Tổ quốc huyện Văn Yên luôn quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất. Huyện đã không ngừng phát huy vai trò và đề cao trách nhiệm của mình, đoàn kết toàn dân hàn gắn vết thương chiến tranh, tiến hành công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ hậu phương, góp phần vào thành tựu chung của cả nước nhất là những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của 25 năm đổi mới đất nước. Kế tục và phát huy truyền thống vẻ vang của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc huyện Văn Yên luôn lấy mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào ở trong và ngoài huyện không phân biệt thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, quá khứ, ý thức hệ và chính kiến miễn là tán thành công cuộc đổi mới. Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội. Mặt trận Tổ quốc các cấp đã không ngừng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp, góp phần tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới. Mặt trận Tổ quốc, các cấp chính quyền huyện đã không ngừng tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất là về đại đoàn kết toàn dân tộc, về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Mặt trận Tổ quốc và các cấp tăng cường vận động nhân dân đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Chăm lo sự nghiệp giáo dục - đào tạo, sự nghiệp y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân và góp phần đảm bảo an ninh - quốc phòng, nhất là nâng cao chất lượng cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", cuộc vận động "Ngày vì người nghèo" và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, góp phần thiết thực chăm lo đời sống cho các tầng lớp nhân dân nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và người có công với nước. Thông qua phong trào thi đua để đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân tăng cường đồng thuận xã hội chung sức chung lòng cùng Đảng, Nhà nước vượt qua khó khăn thách thức nhất là kiềm chế lạm phát, ngăn chặn suy giảm kinh tế và duy trì tăng trưởng hợp lý. Mặt trận Tổ quốc các cấp ngày càng mở rộng, các tổ chức thành viên của Mặt trận ngày càng tăng cường tập hợp, thu hút thêm nhiều đoàn viên, hội viên mới góp phần tập hợp ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân vào trong các tổ chức thích hợp. Mặt trận Tổ quốc các cấp luôn chú ý tới công tác vận động, phát huy vai trò các nhân sĩ, trí thức, người tiêu biểu trong các dân tộc thiểu số, chức sắc tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài trong công tác vận động, đoàn kết, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhiều năm qua, Mặt trận Tổ quốc huyện Văn Yên đã tổ chức tốt “Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc” với nhiều nội dung, hình thức phong phú ở hầu khắp các khu dân cư trong huyện nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam. Ngày hội đã khơi dậy và phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước, tăng cường sự đồng thuận ở cộng đồng dân cư, là biểu hiện sinh động tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới. Qua 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng bộ huyện, toàn dân và toàn quân huyện Văn Yên đã tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, kiên trì phấn đấu, bằng trí tuệ, tài năng và nghị lực phi thường của mình đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử tạo nên thế và lực mới cho huyện có bước phát triển trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, bên cạnh đó huyện vẫn còn phải đương đầu với không ít khó khăn, vẫn còn những hạn chế, yếu kém tác động đến khối đại đoàn kết như: Một là, lòng tin vào Đảng bộ, Mặt trận Tổ quốc, các cấp chính quyền của huyện của một bộ phận nhân dân còn chưa vững chắc, phần vì giá cả vật tư chưa ổn định đặc biệt là các loại vật tư nông nghiệp, vật liệu xây dựng và một số mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân vẫn tăng cao, trong khi đó các mặt hàng nông sản không những không tăng mà còn hạ giá, khó tiêu thụ. Mặt khác trên thị trường vẫn còn xuất hiện một số hàng hóa, vật tư kém chất lượng như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, thức ăn gia súc, thuốc chữa bệnh, thực phẩm… đã tác động, ảnh hưởng đến tâm lý của người sản xuất và người tiêu dùng. Cơ sở hạ tầng thiết yếu tuy đã được cải thiện song chưa đáp ứng với yêu cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa, đặc biệt là giao thông nông thôn và thủy lợi, phần vì bất bình trước tình trạng tham ô, tham nhũng, quan liêu, lãng phí còn nghiêm trọng. Đạo đức xã hội có mặt xuống cấp, trật tự an ninh toàn xã hội còn phức tạp. Hai là, vẫn còn một bộ phận nhân dân còn trông chờ, ỉ lại vào chế độ chính sách chỉ mong sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước đối với mình, bản thân không tự cố gắng vươn lên. Ba là, các vụ khiếu kiện đông người vẫn còn nhiều, có lúc rất gay gắt và số lượt ngày càng tăng. Đặc biệt là khiếu kiện của một số công dân đã được các cơ quan có thẩm quyền giải quyết nhiều lần nhưng vẫn không nghe, cố tình gửi đơn lên huyện hoặc tỉnh. Cải cách hành chính theo cơ chế một cửa có cố gắng song vẫn còn bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, nổi cộm nhất là nhu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc triển khai thực hiện một số chính sách đối với người nghèo, người cao tuổi và đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã đặc biệt khó khăn, có nơi thực hiện chậm và chưa đầy đủ. Một số ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân chưa được giải quyết kịp thời. Một vài nơi xuất hiện tình trạng thiếu đồng tình đông người với một số việc, một số dự án đầu tư của Nhà nước cần sớm được chấn chỉnh. Bốn là, việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, tổ chức xã hội còn nhiều hạn chế. Vì huyện có đông dân tộc anh em sinh sống với tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, và do địa bàn cư trú cũng khác nhau giữa thị trấn và các xã . Năm là, có nhiều thế lực phản động đã lợi dụng lòng tin của nhân dân đã tuyên truyền đạo trái luật, tìm mọi cách thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng do nhân dân trong huyện Văn Yên xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mặt khác các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết bằng cách lợi dụng để kích động cái gọi là “dân chủ, nhân quyền”, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng li gián, chia rẽ nội bộ Đảng và nhân dân trong huyện. Do vậy sự nghiệp xây dựng và phát triển huyện vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đang đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc ở chiều sâu. Đặc biệt, khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức được mở rộng hơn, đây chính là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của huyện. 2.2.2. Nhiệm vụ và yêu cầu của công tác đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, với nhiều chủ trương lớn của Đảng, chính sách của Nhà nước hợp lòng dân. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Văn Yên đã phát huy truyền thống đoàn kết, khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức được mở rộng hơn, hình thức tập hợp nhân dân đa dạng hơn và có bước phát triển mới, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị của huyện, khắc phục mọi khó khăn nỗ lực phấn đấu và đạt được những thành tựu quan trọng. Đây chính là những tiền đề quan trọng để Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện cùng cả nước tiếp tục sự nghiệp cách mạng thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nguyện vọng chung của nhân dân trong huyện là: đề nghị Đảng, Nhà nước các cấp cần tiếp tục có những biện pháp hữu hiệu để ổn định tình hình thị trường, bình ổn giá cả, chống gian thương lợi dụng tăng giá, ép giá và đưa hàng giả, hàng kém chất lượng và hết hạn sử dụng đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa để tiêu thụ. Tăng cường các biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong tiêu dùng cũng như trong lưu thông, đẩy mạnh hơn nữa chương trình xóa đói giảm nghèo, thực hiện các chính sách an ninh xã hội, tiếp tục hỗ trợ phát triển giao thông, thủy lợi, điện, nước sinh hoạt ở nông thôn. Sớm xây dựng mới và nâng cấp trụ sở làm việc cho các xã đã có kế hoạch, tăng cường cơ sở vật chất cho các trạm y tế xã và các trường tiểu học, trường mẫu giáo. Các cấp chính quyền cần chú trọng hơn nữa biện pháp đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, có các biện pháp mạnh mẽ hơn nữa để bảo vệ, giữ gìn tài nguyên đất, rừng, khoáng sản và chống ô nhiễm môi trường. Nhà nước và các cấp cần có chính sách hỗ trợ kịp thời và thiết thực hơn nữa cho nông dân khi sản xuất bị thiệt hại do thiên tai gây ra, chăm lo hơn nữa đến đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng cao và chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân. Cán bộ cơ sở cần gần dân và sát dân hơn, thực hiện dân chủ ở các cơ quan, đơn vị, trường học và ở các xã, thị trấn cần được thực hiện một cách thiết thực hơn. Trong Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Văn Yên khóa XIII trình Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIV tháng 8 năm 2010 “Phát huy truyền thống đoàn kết, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, huy động mọi nguồn lực xây dựng Văn Yên trở thành huyện phát triển nhanh, bền vững” [21; 8]. Báo cáo đã chỉ ra nguyên nhân của những yếu kém, hạn chế của khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện là: Thứ nhất, Đảng bộ và cấp chính quyền của huyện chưa thấy rõ được sự biến đổi trong cơ cấu giai cấp - xã hội và những mâu thuẫn mới nảy sinh trong nhân dân, đồng thời cũng chưa có chủ trương, giải pháp cụ thể khắc phục những mâu thuẫn ấy một cách đúng đắn kịp thời. Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, thậm chí thoái hóa, hư hỏng; một số cấp ủy, đảng viên còn hẹp hòi, định kiến với những người ngoài Đảng, là người dân tộc thiểu số. Thứ hai, một số chủ trương, chính sách của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các cấp ngành của huyện còn chưa thể hiện đầy đủ quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc theo chủ trương, chính sách của tỉnh đề ra, hay việc thực hiện đôi khi còn thiếu sót chưa đi sâu, đi sát vào nhân dân. Thứ ba, hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở một số xã còn hình thức và nặng về hành chính, chậm đổi mới. Thứ tư, sự suy thoái về lối sống và tha hóa về phẩm chất đạo đức xã hội, sống thực dụng, chạy theo đồng tiền làm xói mòn tình làng, nghĩa xóm, ý thức công dân, ý thức chấp hành kỷ cương, chính sách pháp luật nên đã gây ra tình trạng mất đoàn kết trong một bộ phận dân cư. Thứ năm, một số thế lực chống đối phản cách mạng muốn chống phá khối đại đoàn kết của nhân dân huyện Văn Yên, chúng đã lợi dụng và dùng nhiều thủ đoạn như tuyên truyền đạo trái luật, kích động vấn đề dân chủ, nhân quyền… để gây ly gián, chia rẽ nhân dân, nội bộ Đảng, chính quyền của huyện làm cho nhân dân mất lòng tin vào Đảng và Nhà nước. Do vậy, yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay trên địa bàn huyện là phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Cụ thể là phải tăng cường xây dựng và mở rộng Mặt trận Tổ quốc huyện Văn Yên để tập hợp đông đảo quần chúng tham gia, xây dựng vững chắc khối liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân với đội ngũ tri thức, giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc, tự chủ tự cường, chủ trương phát huy sức mạnh dân tộc… trên cơ sở đó tranh thủ sự đồng tình ủng hộ từ lực lượng bên ngoài nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của mỗi thời kỳ. 2.2.3. Công tác tập hợp, tổ chức lực lượng toàn dân Đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta, là bài học lớn của cách mạng Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Sau khi nước ta tiến hành đổi mới đến nay, tình hình đoàn kết của các dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên đã có bước phát triển mới. Thực tế đó tiếp tục làm sâu sắc thêm và khẳng định mạnh mẽ giá trị và ý nghĩa của việc vận dụng tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh. Ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai tầng, từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo, hơn nữa còn phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng. Tổ chức bao trùm nhất, thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Người cho rằng muốn giành được thắng lợi của cách mạng nói chung và xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì phải đại đoàn kết dân tộc, nhưng muốn đại đoàn kết dân tộc thì phải tổ chức quần chúng thành Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Sự hình thành khối đại đoàn kết là một tất yếu và sự ra đời tổ chức Mặt trận cũng là một tất yếu khách quan. Theo Người Mặt trận dân tộc thống nhất là hình thức tập hợp quần chúng rộng rãi, đại diện cho đại đa số quần chúng, đại diện cho quyền lợi dân tộc, không có sự phân biệt đối xử “Từ Nam chí Bắc, ai là người tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ thì chúng ta sẵn sàng đoàn kết với họ, thật thà hợp tác với họ, thật sự hợp tác với họ, dù từ trước đến nay họ đã theo phe phái nào” [13; 49]. Vận dụng quan điểm đó, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể từ thị trấn đến cơ sở đã tích cực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động hướng về cơ sở, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương. Từng bước đưa nội dung phong trào và các cuộc vận động của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể đến các tầng lớp nhân dân, động viên nhân dân thi đua thực hiện có hiệu quả các phong trào và nội dung các cuộc vận động. Tích cực vận động, tập hợp, động viên nhân dân tham gia sinh hoạt, gắn bó với tổ chức đoàn thể cụ thể như sau: Giai cấp công nhân: Chăm lo xây dựng thành giai cấp lớn mạnh về mọi mặt, phát triển về số lượng, ngày càng cao về chất lượng, có bản lĩnh, trình độ chính trị, học vấn, tay nghề, năng lực lao động sáng tạo và tác phong làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật, tiêu biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, đi đầu trong công cuộc đổi mới, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình. Để làm được điều đó thì Đảng bộ và các cấp của huyện đã đưa ra những chủ trương, chính sách để giải quyết những vấn đề do thực tế cuộc sống của công nhân trong hoàn cảnh mới đặt ra như việc làm, điều kiện lao động, đào tạo nghề nghiệp, tiền công lao động và các bảo đảm về mặt xã hội. Bên cạnh đó còn tạo điều kiện để cho giai cấp công nhân có cổ phần để nâng cao địa vị làm chủ trong doanh nghiệp như nhà máy chế biến tinh bột sắn, nhà máy sản xuất tinh dầu quế, nhà máy sản xuất chè... Huyện đã đẩy mạnh phát triển các đảng viên và chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xuất thân từ công nhân. Xây dựng khối liên minh công - nông - tri thức và tăng cường khối đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện. Hội nông dân: Ở địa bàn huyện thì đây là một lực lượng đông đảo và có vai trò to lớn, đã kết nạp được nhiều hội viên mới, trong năm 2010 đã kết nạp được 695 hội viên đạt tỷ lệ 113% nông dân tham gia sinh hoạt tổ chức Hội (so với hộ làm nông nghiệp). Huyện đã giải quyết tốt về các điều kiện để phát triển sản xuất cho nông dân như ruộng đất, vốn, kỹ thuật, các dịch vụ cung ứng vật tư, tiêu thụ sảm phẩm, phát triển công nghiệp chế biến và các nghề tiểu thủ công... Có chính sách bảo hộ sản xuất cho nông dân để bà con yên tâm, phấn khởi, tin tưởng, ra sức làm giàu cho bản thân và cho đất nước. Vừa tạo điều kiện để các hộ nông dân sản xuất, kinh doanh ngày càng phát đạt, vừa giúp đỡ nông dân xây dựng và phát triển các hình thức kinh tế hợp tác thích hợp. Hoàn thiện chính sách giao đất, khoán rừng ngăn chặn được tình trạng nông dân không có ruộng đất. Như Nghị quyết hội nghị lần 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (6/1993) đã nêu: Khẩn trương thực hiện giao hoặc khoán đất, rừng đến hộ nông dân, kết hợp giải quyết có lý, có tình những tranh chấp về đất đai. Đặc biệt huyện còn phát triển được hợp tác xã nông nghiệp và xác định hộ nông dân xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ. Đoàn thanh niên: Tỷ lệ tập hợp đoàn viên thanh niên vào tổ chức đoàn là 74,8%. Huyện tăng cường giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ về mọi mặt tư tưởng, chính trị, văn hóa, nghề nghiệp, đạo đức, lối sống theo phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Để giúp thanh niên lập thân, lập nghiệp đi đầu trong cuộc đấu tranh chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, cần quan tâm đào tạo nghề, giải quyết việc làm đáp ứng các nhu cầu về học tập, lao động sáng tạo, hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể thao và giải trí lành mạnh cho thanh niên. Không để lớp trẻ rơi vào tệ nạn xã hội và bị tiêm nhiễm các văn hóa phẩm độc hại. Phát huy triệt để vai trò xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của thanh niên, tạo động lực cho lực lượng thanh niên ngày càng xứng đáng là cánh tay phải của Đảng. Hội phụ nữ: Tổng số hội viên là 9.867 hội viên, đạt tỷ lệ 67%. Tạo điều kiện để chị em có cơ hội phát triển và tiến bộ để góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng và phát triển của huyện. Nhiều chính sách của huyện đưa ra đáp ứng tích cực những nhu cầu bức xúc và cơ bản của phụ nữ trên địa bàn huyện về công ăn việc làm, cải thiện đời sống, bảo đảm sức khỏe của bản thân và con cái. Đồng thời cần quan tâm giúp đỡ để ngày càng có nhiều chị em ra nhập Đảng và trở thành cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành. Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Hội cựu chiến binh: Tổng số hội viên là 4.300 hội viên đạt tỷ lệ 96,5% số quân nhân phục viên, xuất ngũ tham gia sinh hoạt tổ chức Hội. Giúp đỡ và khuyến khích tìm việc làm, cải thiện đời sống và phát huy bản chất quân đội nhân dân Việt Nam. Tích cực tham gia xây dựng Đảng và chính quyền cấp xã, huyện, góp phần giáo dục truyền thống cách mạng đối với thanh niên. Hội người cao tuổi: Tổng số là 3.266 hội viên, sồ hội viên tham gia sinh hoạt đạt tỷ lệ 96%. Huyện đã có chính sách phụ cấp cho người già theo Nghị quyết của tỉnh đưa ra. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân nhằm xây dựng huyện ngày càng vững mạnh, thực hiện chủ trương đến năm 2015 thị trấn Mậu A sẽ được lên Thị xã Mậu A. Đồng thời phát huy dân chủ cơ sở, trật tự kỷ cương, nâng cao trách nhiệm công dân, là cầu nối vững chắc giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Huyện có nhiều dân tộc sinh sống và chế độ tôn giáo khác nhau. Cho nên để mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, huyện phải giải quyết tốt vấn đề dân tộc và vấn đề tôn giáo dựa trên quan điểm của Hồ Chí Minh, không phân biệt tầng lớp, đảng phái, tôn giáo, dân tộc, không phân biệt trước đây họ đã theo phe phái nào. Để thực hiện được điều đó, Đảng bộ huyện Văn Yên cần phải thực hiện tốt hơn nữa nguyên tắc: “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ” giữa các dân tộc. Cần thực hiện được ba mục tiêu chủ yếu: Một là, xóa được đói, giảm được nghèo, ổn định và cải thiện đời sống, sức khỏe đồng bào các dân tộc, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng 135 như Nà Hẩu, Mỏ Vàng, Xuân Tầm, Quang Minh, Lang Thíp. Hai là, xóa được mù chữ nâng cao dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc, hoàn thiện phổ cập trung học cơ sở, đầu tư cơ sơ vật chất cho các trường tiểu học ở vùng khó khăn. Ba là, xây dựng được cở sở chính trị, đội ngũ cán bộ và đảng viên các dân tộc ở các xã, các cấp trong sạch, vững mạnh. Do sự hiểu biết sâu rộng về vấn đề nguồn gốc, bản chất, giáo lý của các tôn giáo, tín ngưỡng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy và chỉ ra mối quan hệ, sự gần gũi giữa cái chân - thiện - mỹ của tôn giáo với chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa, đạo đức của dân tộc, tạo ra sự đoàn kết của đồng bào Lương - Giáo, một lòng đi theo ngọn cờ của Đảng. Trong bức thư gửi các vị tăng ni và đồng bào tín đồ Phật giáo (8-1-1957) nhân ngày lễ Phật Đản, Người viết: Tôi có lời khen ngợi các vị tăng ni và tín đồ đã sẵn lòng nồng nàn yêu nước, hăng hái làm tròn nghĩa vụ của người công dân và xứng đáng là Phật tử... Tôi mong các vị tăng ni và đồng bào tín đồ đã đoàn kết thì càng đoàn kết hơn để góp phần xây dựng hòa bình. Hãy ra sức giúp đỡ cán bộ, hăng hái thực hiện mọi công tác của Chính phủ, chấp hành đúng chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, ngăn chặn âm mưu của bọn Mỹ Diệm và tay sai lợi dụng tôn giáo hòng chia rẽ khối đoàn kết toàn dân, hãy ra sức đấu tranh giành thống nhất đất nước. Xuất phát từ quan điểm đó, về tôn giáo, huyện thi hành nhất quán chính sách tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng theo hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, nghiêm cấm và xử lý nghiêm các hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước. Chăm lo phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giúp đồng bào có đạo nâng cao đời sống, tham gia các công việc xã hội, từ thiện trên địa bàn xã An Thịnh, Đại An, Đại Phác, Yên Hợp. Đối với bà con sinh sống và công tác ở nước ngoài, Ủy ban và Đảng bộ của huyện chủ trương: một mặt, bảo hộ quyền lợi chính đáng, giúp đỡ nâng cao ý thức cộng đồng, tăng cường đoàn kết, tương trợ, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc; mặt khác tạo điều kiện thuận lợi cho kiều bào về thăm quê hương, giúp đỡ gia đình, đóng góp ngày càng nhiều vào sự nghiệp xây dựng và phát triển của huyện, chủ động đấu tranh với các biểu hiện cố tình đi ngược lại với lợi ích chung của dân tộc. 2.2.3. Công tác củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân trong nhiệm vụ xây dựng và phát triển của địa phương * Công tác tuyên truyền, vận động Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề sống còn của cách mạng. Tuy nhiên trong từng thời kỳ, từng giai đoạn phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp với những đối tượng khác nhau. Cùng với sự tôn trọng, thương yêu nhân dân, Hồ Chí Minh rất chú trọng đến công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng. Trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, nét đặc sắc, nổi bật là cách thức, phương pháp mà Người thực hiện để vận động, tập hợp, quy tụ, đoàn kết mọi người. Bằng các hình thức tuyên truyền, tổ chức lồng gắn, kết hợp Mặt trận Tổ quốc từ thị trấn đến cơ sở đã phối hợp chặt chẽ với các ngành, các đoàn thể nhân dân. Quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước như: Luật thuế, Pháp lệnh hòa giải ở cơ sở, Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật bình đẳng giới… và tiếp tục triển khai cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, chuyên đề xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, Đảng là đạo đức, là văn minh. Quán triệt sâu rộng nội dung Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương 7 khóa IX về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh” Triển khai thực hiện chương trình phối hợp công tác giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc với Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân và các ban ngành, đoàn thể thành viên. Triển khai nội dung các văn bản hướng dẫn của hệ thống Mặt trận và các đoàn thể, các Nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy Đảng - Hội đồng nhân dân, Quyết định của Ủy ban nhân dân về các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội - an ninh quốc phòng năm 2010. Đồng thời năm 2010 là năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thị trấn lần thứ XXIII. Từ việc tổ chức quán triệt, học tập sâu rộng các Chỉ thị, Nghị quyết cuả Đảng, pháp luật, pháp lệnh đã nâng cao được nhận thức và ý thức chấp hành chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho mỗi người dân. Niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, chính quyền Nhà nước các cấp được tăng cường và giữ vững. * Vận động nhân dân đoàn kết phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo Đại đoàn kết dân tộc - cội nguồn sức mạnh của đất nước, là yếu tố quyết định cho phát triển ngày nay. Nước ta không còn kẻ xâm lược nhưng kẻ thù vẫn còn. Một trong những kẻ thù đó là sự nghèo nàn, lạc hậu. Lạc hậu thì sẽ tụt hậu. Tụt hậu thì khó thoát khỏi vòng lệ thuộc. Do vậy để đưa đất nước đi lên thoát khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu thì đòi hỏi tất cả người dân phải đoàn kết với nhau để xây dựng một nền kinh tế vững mạnh. Thực hiện Nghị quyết Đảng bộ lần thứ XIII và Nghị quyết Hội đồng nhân dân huyện Văn Yên khóa XV. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ban ngành, các cơ quan Khoa học kỹ thuật, dịch vụ kỹ thuật vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế. Đẩy mạnh chương trình xóa đói, giảm nghèo và đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội lập thân, lập nghiệp theo lời dạy Chủ tịch Hồ Chí Minh: Người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá và giàu, người khá và giàu thì giàu thêm, động viên các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng tâm hiệp lực đóng góp trí tuệ, tài năng công sức góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Mặt trận Tổ quốc từ thị trấn đến cơ sở đã phối hợp với các cấp, các ngành động viên nhân dân tham gia lao động sản xuất khắc phục mọi khó khăn, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng nhau đẩy mạnh sản xuất phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng, từng bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng vụ theo đúng hướng lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, chính quyền đảm bảo các chỉ tiêu gieo trồng lúa, ngô, sắn và trồng rừng cả về diện tích, năng suất, sản lượng. Vận động nhân dân đẩy mạnh chăn nuôi đàn gia súc, gia cầm. Tăng cường công tác phòng chống các dịch bệnh ở đàn gia súc, gia cầm đạt kết quả cao. Động viên nhân dân đẩy mạnh sản xuất vật liệu xây dựng, kinh doanh, dịch vụ, thương mại, các hợp tác xã, các doanh nghiệp tư nhân phát triển tạo nhiều công ăn việc làm ổn định cho người lao động. * Vận động nhân dân tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục, chăm sóc sức khỏe nhân dân và thực hiện chương trình Dân số Kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc trẻ em - Về công tác y tế: Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp chặt chẽ với Trạm y tế vận động nhân dân duy trì thực hiện 10 chuẩn quốc gia về y tế xây dựng 3 công trình đảm bảo hợp vệ sinh đạt 65,9%, số hộ sử dụng nước sạch hợp vệ sinh là 95%, số hộ xử lý rác thải đạt 73,7%, tổ chức khám bệnh tại Trạm cho 3.041 lượt người, phối hợp với Hội Người cao tuổi tổ chức khám mắt cho hội viên Người cao tuổi. Phối hợp các thôn, khu phố và y tế thôn bản tuyên truyền về công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường được bố trí lồng ghép vào các buổi họp thôn, khu phố, sinh hoạt các tổ chức đoàn thể và trên hệ thống loa truyền thanh của các nhà văn hóa thôn, khu phố. Tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm đủ các loại vác xin đạt tỷ lệ 100%, công tác chăm sóc, giáo dục trẻ em nhất là trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em ở vùng sâu, vùng xa được quan tâm giúp đỡ. - Về giáo dục: Sự nghiệp giáo dục - đào tạo không ngừng được củng cố và phát triển về quy mô, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở các cấp học, bậc học. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy và học được quan tâm đầu tư, đội ngũ giáo viên từng bước được chuẩn hóa. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên tích cực vận động nhân dân tham gia đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện nhân dân đã tích cực thực hiện chương trình xóa phòng học tạm bằng các nguồn lực trong đó nhân dân đóng góp đáng kể, đến nay tỷ lệ lớp học kiên cố đạt 96,7%. Huyện hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Có 26/27 xã đạt phổ cập trung học cơ sở. Ngành giáo dục thi đua thực hiện tốt cuộc vân động do Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tào phát động “Hai không” với bốn nội dung: nói không tiêu cực trong thi cử, nói không với bệnh thành tích trong giáo dục, không vi pham đạo đức nhà giáo và không ngồi nhầm lớp. * Vận động nhân dân đoàn kết phát huy truyền thống tương thân, tương ái, đẩy mạnh các hoạt động từ thiện nhân đạo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền kêu gọi cán bộ, nhân dân tích cực tham gia xây dựng quỹ “Đền ơn, đáp nghĩa”, quỹ “Ngày vì người nghèo” và các hoạt động từ thiện nhân đạo. Trong vòng 5 năm (2005 - 2009) quỹ “Đền ơn, đáp nghĩa” đã xây dựng được 416.920.000 đồng. Từ nguồn quỹ này đã xây dựng nhà Tình nghĩa cho các hộ chính sách, gia đình có công với nước. Tổ chức các đợt thăm hỏi, động viên tặng qùa các gia đình thương binh, liệt sỹ, gia đình có công với cách mạng, Mẹ Việt Nam anh hùng nhân các ngày 27/7 và các ngày kỷ niệm, ngày lễ, tết của đất nước và dân tộc. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp chặt chẽ với Phòng dân tộc, tôn giáo và các cơ quan ban ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở tuyên truyền, vận động nhân dân bằng tình làng, nghĩa xóm hỗ trợ, giúp đỡ để cùng với chương trình 134, quyết định 167 của Chính phủ làm mới 1.321 nhà cho đồng bào dân tộc thiểu số, các hộ nghèo có hoàn cảnh khó khăn xóa nhà dột nát. Ngoài ra Ủy ban Mặt trận Tổ quốc còn vận động nhân dân ủng hộ các nước Đông Nam Á bị thảm họa sóng thần, ủng hộ đồng bào huyện Văn Chấn khắc phục lũ quét, ủng hộ đồng bào Miền Trung khắc phục hậu quả cơn bão số 1 và cơn bão số 5. Tổ chức phát động cán bộ công nhân viên chức ủng hộ nhân dân trong huyện khắc phục hậu quả cơn bão số 4 năm 2008… * Vận động nhân dân phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương, mọi người sống, làm việc theo Hiến pháp, Pháp luật và thực hiện dân chủ cơ sở Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền và các ban ngành, đoàn thể từ huyện đến cơ sở tổ chức triển khai, thực hiện dân chủ ở thị xã, thị trấn. Phổ biến pháp lệnh thực hiện dân chủ đến 100% xã, thị trấn và các khu thực hiện tốt các nội dung dân được biết, nhân dân được bàn, được làm và được kiểm tra từ đó đã không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đến nay 312/312 khu dân cư đều có Quy ước, Hương ước thôn bản. Từ việc tổ chức thực hiện dân chủ và Quy ước, Hương ước thôn bản đã góp phần ổn định tình hình ở cơ sở, tình làng nghĩa xóm được đoàn kết, phát huy tình cảm gia đình hòa thuận đầm ấm, yên vui. Trong những năm qua Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện tập trung chỉ đạo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các xã, thị trấn tiến hành củng cố, kiện toàn lại 27/27 Ban thanh tra nhân dân với 187 thành viên, hướng dẫn, giúp đỡ cho 27 Ban thanh tra nhân dân đi vào hoạt động có chất lượng, hiệu quả. Làm tốt trách nhiệm trước nhân dân trong việc giám sát huy động các khoản đóng góp, giám sát thi công các công trình xây dựng ở khu dân cư, xây dựng cơ sở hạ tầng ở địa phương như trường học, trạm xá, đường giao thông, đường điện, các công trình mương khai thủy lợi. Thông qua công tác Thanh tra của Mặt trận Tổ quốc đã góp phần nâng cao niềm tin của nhân dân với Đảng, chính quyền địa phương. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp chặt chẽ với Đảng ủy, chính quyền các xã, thị trấn xây dựng các tổ hòa giải, tổ tự quản, tự phòng, tự bảo vệ ở khu dân cư để chọn được các vị già làng, trưởng bản, các vị trong các tổ chức đoàn thể nhân dân có tinh thần trách nhiệm cao, có uy tín và nhiều kinh nghiệm để tham gia vào các tổ tự quản, hòa giải. Vì vậy đã góp phần quan trọng thực hiện tốt công tác tự giải quyết, hòa giải kịp thời các vụ tranh chấp, xích mích ở các khu dân cư… - Công tác An ninh - Quốc phòng: Nắm bắt kịp thời tâm tư nguyện vọng chính đáng của nhân dân để phản ánh với Đảng, Nhà nước. Vận động nhân dân phát huy tinh thần đoàn kết, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đối phó, đập tan âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong “Chiến lược diễn biến hòa bình”. Tăng cường tinh thần đoàn kết dân tộc, củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc từ huyện đến cơ sở đã phối hợp chặt chẽ với ngành công an, quân sự tổ chức thực hiện tốt nội dung Nghị quyết liên tịch số 01/2001. Hàng năm Mặt trận Tổ quốc phối hợp cùng công an huyện tổ chức thực hiện tốt việc phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đến 100% xã, thị trấn và các khu dân cư. Hàng năm tổ chức phát động tập trung ở 4 - 5 xã, triển khai cho nhân dân học tập các chủ trương chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước, kế hoạch của ngành công an, quân sự và của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp về công tác quốc phòng - an ninh. Tham gia phối hợp tổ chức thành công kế hoạch diễn tập khu vực phòng thủ cấp huyện năm 2005 và diễn tập chiến đấu trị an, phòng chống lũ bão, tìm kiếm cứu nạn, phòng chống chữa cháy rừng tại các xã, thị trấn đạt kết quả cao. Phối hợp tuyên truyền Nghị quyết số 32 của Chính phủ về các giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông. Tham gia Hội đồng nghĩa vụ quân sự huyện, hàng năm thực hiện tốt sự phân công của Hội đồng, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động thanh niên lên đường nhập ngũ đảm bảo số lượng, chất lượng các kì tuyển quân. Phối hợp thực hiện tốt các chính sách hậu phương quân đội. Tham gia các hoạt động quy tập hài cốt các liệt sỹ về nghĩa trang quê nhà. * Vận động nhân dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phối hợp chặt chẽ với ngành văn hóa và các tổ chức đoàn thể tuyên truyền, vận động nhân dân đẩy mạnh phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Phối hợp tổ chức tập huấn nội dung nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở các xã, thị trấn. Hàng năm Mặt trận Tổ quốc huyện đã chỉ đạo các ban công tác Mặt trận tổ chức tốt “Ngày hội đoàn kết toàn dân tộc ở khu dân cư” để đánh giá kết quả một năm thực hiện các nội dung cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Từ đó có tác dụng rất lớn động viên nhân dân ra sức thi đua xây dựng đời sống văn hóa, giữ gìn và phát huy những tinh hóa văn hóa dân tộc. Những phong tục tập quán lạc hậu trong ma chay, cưới xin, mê tín dị đoan ở các xã vùng cao, vùng dân tộc thiểu số được loại bỏ thay bằng nếp sống văn minh lành mạnh, tiết kiệm. Nhiều xã đã phát động phong trào đám cưới không hút thuốc lá. Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao được đẩy mạnh. Hàng năm Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phối hợp với các ban ngành, đoàn thể tổ chức thành công các cuộc thi đấu thể thao, hội diễn văn nghệ quần chúng góp phần tạo ra nề nếp trong phong trào văn hóa. Kết quả xây dựng gia đình văn hóa, đơn vị văn hóa, làng bản, địa phương văn hóa... đã tạo thành phong trào thi đua sôi nổi rộng khắp các địa phương trên địa bàn huyện. * Về công tác xây dựng Đảng, chính quyền - Thứ nhất, là công tác xây dựng Đảng: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp nhân dân tích cực học tập và thực hiện nội dung các Chỉ thị, Nghị quyết của các cấp ủy Đảng, thi đua học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đóng góp ý kiến xây dựng với đảng viên là cán bộ chủ chốt, cán bộ đảng viên sinh hoạt tại các khu dân cư, góp phần không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Đặc biệt là Ủy ban Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp tuyên truyền, phổ biến các Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, đưa nội dung các Nghị quyết vào cuộc sống, góp phần tích cực làm cho Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng trở thành hiện thực trong đời sống xã hội. Các tổ chức đoàn thể trong hệ thống chính trị đã giới thiệu được nhiều quần chúng ưu tú cho Đảng xem xét bồi dưỡng kết nạp. Do đó đã góp phần quan trọng tăng cường lực lượng, sức mạnh cho Đảng, xây dựng Đảng trong sạch và vững mạnh. Đảng bộ huyện Văn Yên đã quán triệt quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân, biến chủ trương, Nghị quyết đưa ra thành hiện thực và cùng với việc đề ra chủ trương phải vạch ra những giải pháp mang tính khả thi. Để tạo lập được khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, đòi hỏi những người đảng viên và các tổ chức, Mặt trận phải thực hành dân chủ rộng rãi, phải thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình. Đây chính là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng, phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. - Thứ hai, là xây dựng chính quyền: Mặt trận Tổ quốc đã phát huy vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, thường xuyên phối hợp vận động nhân dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính quyền, phổ biến kịp thời các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến các tầng lớp nhân dân. Phối hợp tổ chức cho nhân dân tham gia học Luật bầu cử Quốc hội, Luật bầu cử Hội đồng nhân dân. Tổ chức cho nhân dân các dân tộc trong huyện nghiên cứu kỹ số lượng, thành phần cơ cấu, tiến hành hiệp thương lựa chọn, giới thiệu những người có đủ tài, đức, uy tín để bầu vào đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân ba cấp. Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp tổ chức cho nhân dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng các văn bản pháp quy, các dự thảo Luật và đề xuất ý kiến, bày tỏ tâm tư, nguyện vọng của mình với các kỳ họp của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thường xuyên bám sát Chỉ thị số 30 của Bộ chính trị, Nghị định 79 của Chính phủ, Pháp lệnh 34 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ cơ sở, động viên nhân dân thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện đã chỉ đạo củng cố, kiện toàn các Ban thanh tra nhân dân. Đồng thời mở các lớp tập huấn để bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Thanh tra nhân dân ở cơ sở. Từ công tác bố trí sắp xếp cán bộ, nâng cao trình độ cho cán bộ Thanh tra nhân dân đã góp phần đưa hoạt động Thanh tra đi vào nề nếp thực hiện tốt chức năng giám sát của Mặt trận đối với mọi hoạt động ở địa phương, thực sự là tai mắt của nhân dân. Kết quả hoạt động Thanh tra, giám sát của Mặt trận đã góp phần củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân với Đảng, chính quyền. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện phối hợp chặt chẽ với cơ quan Tư pháp, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân tuyên truyền pháp luật đến nhân dân. Phối hợp tuyển chọn những công dân am hiểu pháp luật, có trình độ, có uy tín, có điều kiện tham gia Hội thẩm nhân dân. Phân công tổ chức thành viên tham gia giám hộ và bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo tại phiên tòa, phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân thường xuyên giám sát hoạt động của Tư pháp, kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động tố tụng, trong tuân thủ pháp luật tại nhà tạm giam, cơ sở tạm giam của cơ quan công an… Công tác giải quyết đơn thư, tố cáo, khiếu nại của công dân được quan tâm, các đơn thư của công dân gửi trực tiếp cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện, được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện xem xét và đề nghị các cơ quan chức năng giải quyết kịp thời thấu tình, đạt lý. Đồng thời Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện phối hợp với chính quyền giải quyết một số việc nhân dân hỏi và yêu cầu. ` * Thực hiện đoàn kết các dân tộc - tôn giáo, thi đua phấn đấu thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc - tôn giáo Không chỉ với các đồng bào có đạo và không có đạo, với các đoàn thể, các Đảng dân chủ và xã hội, cũng được Người quan tâm để phát huy tốt vai trò của các tổ chức này trong việc động viên mọi tầng lớp nhân dân hăng hái thực hiện đại đoàn kết toàn dân. Có thể nói rằng, Hồ Chí Minh đã nhận rõ cơ sở khách quan của khối đại đoàn kết dân tộc và tin tưởng vào đồng bào dù có tôn giáo hay không có tôn giáo. Người kêu gọi phải đoàn kết, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, già ,trẻ, gái trai... đoàn kết là chiến lược lâu dài chứ không phải là sách lược tạm thời. Người là hiện thân, là ngọn cờ của khối đại đoàn kết dân tộc. Người đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp củng cố khối đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công - nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo, nhằm tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp, mọi đảng phái, mọi tôn giáo, dân tộc để bao vây, cô lập kẻ thù, phá tan chính sách của chúng, để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Người luôn nhắc nhở đối với các đoàn thể khác cùng dân chúng, chỉ có một chính sách là đại đoàn kết. Công tác tôn giáo được Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc thường xuyên quan tâm. Trên địa bàn huyện có 18 họ Đạo. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện đã phối hợp tuyên truyền phổ biến nội dung Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo đến với đồng bào các dân tộc tôn giáo, động viên đồng bào thực hiện nghiêm chỉnh Pháp lệnh tín ngưỡng, ra sức thi đua thực hiện tốt các phong trào: “Họ đạo tiên tiến - Gia đình Giáo dân tiêu biểu”, phong trào “Người Công giáo kính Chúa - Yêu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Hàng năm Ủy ban Mặt trận Tổ quốc quan tâm, động viên các ban hành giáo tổ chức tốt các ngày lễ trọng cho bà con Giáo dân tham dự với tinh thần “Lành mạnh, an toàn, tiết kiệm và thật sự vui vẻ”. Nhìn chung tình hình Tôn giáo, Dân tộc trong thời gian qua ổn định. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách quan tâm đầu tư, giúp đỡ như: các chương trình 134, 135, 167 giúp đỡ đồng bào dân tộc các điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống sinh hoạt. Nhiều tuyến đường được mở mang nâng cấp đến các thôn bản vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Nhiều công trình nước sinh hoạt được đầu tư, nhiều trường học, trạm y tế được xây dựng khang trang phục vụ thiết thực đời sống, sinh hoạt cho nhân dân và con em nhân dân các xã vùng cao. Công tác tôn giáo được quan tâm đáp ứng tâm tư nguyện vọng và tự do tín ngưỡng của nhân dân. Nhiều công trình nhà thờ, nhà nguyện, đình, đền được quy hoạch cấp phép xây dựng khang trang. Linh mục được tăng cường, phục vụ tốt công tác hành lễ cho bà con giáo dân. Từ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đến các lĩnh vực đời sống xã hội, tinh thần của đồng bào dân tộc, tôn giáo đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tập hợp, động viên và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh. 2.3. Thuận lợi và hạn chế của việc vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên 2.3.1. Thuận lợi Đảng bộ và Nhà nước đưa ra chủ trương, đường lối đổi mới đúng đắn, đặc biệt là nội dung Nghị quyết lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX). Các Nghị quyết của Đảng khóa X và sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của các cấp ủy Đảng, sự phối hợp giúp đỡ của các cấp chính quyền và các ban ngành đoàn thể. Sự hướng dẫn, giúp đỡ thường xuyên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp. Đội ngũ cán bộ đã có nhiều cố gắng, nên hoạt động của Mặt trận Tổ quốc từ huyện đến cơ sở đã có chất lượng, hiệu quả cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đã tập hợp được đông đảo nhân dân vào các tổ chức, hội như: Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội người cao tuổi… Ủy ban Mặt trận Tổ quốc từ huyện đến cơ sở đã có nhiều đổi mới, tập trung hướng về cơ sở, đến từng khu dân cư. Nên đã khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong hệ thống chính trị, đời sống xã hội, thực sự là cơ sở chính trị của chính quyền và đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân, được nhân dân đồng tình hưởng ứng. Điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa giáo dục, an ninh quốc phòng, tôn giáo... thuận lợi, đây chính là tiền đề cho việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện. Nhân dân các dân tộc trong huyện đoàn kết, yêu thương giúp đỡ nhau, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Đây chính là điều kiện thuận lợi để vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. 2.3.2. Hạn chế Do địa bàn huyện có đông dân tộc anh em sinh sống với phong tục tập quán, trình độ học vấn, điều kiện kinh tế, chế độ tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau… nên dễ bị các thế lực chống phá lôi kéo, dụ dỗ làm ảnh hưởng tới quá trình vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh để củng cố khối đại đoàn kết trên địa bàn huyện. Lòng tin của một bộ phận nhân dân vào Đảng và các cấp chính quyền còn chưa vững. Một số cấp ủy Đảng chưa quan tâm đến công tác vận động, tập hợp lực lượng quần chúng, còn coi công tác vận động tập hợp lực lượng quần chúng là của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nên chưa tập hợp được đông đảo nhân dân vào khối đại đoàn kết toàn dân. Công tác tuyên truyền vận động nhân dân, công tác phổ biến chủ trương, đường lối chính sách đại đoàn kết đến với nhân dân ở một số cơ sở từ cấp ủy Đảng đến các đoàn thể chưa kịp thời, quán triệt tới nhân dân chưa thật sự thấu đáo. 2.4. Một số lưu ý và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của khi vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh 2.4.1. Một số lưu ý khi vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh Để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên nói riêng và cả nước nói chung có hiệu quả cao, thì cần chú ý một số vấn đề sau đây: Một là, phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hai là, lấy mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau cùng hướng tới tương lai. Ba là, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân - tập thể - toàn xã hội, thực hiện dân chủ gắn với giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Không ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tinh thần tự lực tự cường xây dựng đất nước xem đó là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân tộc. Bốn là, đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. 2.4.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh Một là, tăng cường lãnh đạo, giáo dục và vận động làm cho toàn Đảng, toàn dân trong huyện nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất, nâng cao trách nhiệm và năng lực công tác tuyên truyền, vận động, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc phải được thể hiện trong mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Các chủ trương, chính sách, pháp luật đó phải tạo điều kiện và môi trường thuận lợi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dochao 1.doc
Tài liệu liên quan