Đề tài Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông

Tài liệu Đề tài Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông: ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BÙI HUY DU TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRẦN NHÂN TÔNG Chuyên ngành: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC Mã số: 6222.80.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.TRỊNH DOÃN CHÍNH Phản biện: 1. PGS.TS.TRẦN NGUYÊN VIỆT 2. PGS.TS.TRƯƠNG VĂN CHUNG 3. PGS.TS.NGUYỄN XUÂN TẾ Phản biện độc lập: 1. GS.TS.NGUYỄN HÙNG HẬU 2. PGS.TS.TRẦN NGUYÊN VIỆT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2011 MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU ...........................................................................................1 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG .............................. 10 1.1. Đặc điểm điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị – xã hội Việt Nam thời kỳ nhà Trần – cơ sở xã hội hình thành tư tưởng triết học Tra...

pdf232 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1461 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BÙI HUY DU TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRẦN NHÂN TÔNG Chuyên ngành: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC Mã số: 6222.80.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.TRỊNH DOÃN CHÍNH Phản biện: 1. PGS.TS.TRẦN NGUYÊN VIỆT 2. PGS.TS.TRƯƠNG VĂN CHUNG 3. PGS.TS.NGUYỄN XUÂN TẾ Phản biện độc lập: 1. GS.TS.NGUYỄN HÙNG HẬU 2. PGS.TS.TRẦN NGUYÊN VIỆT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2011 MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU ...........................................................................................1 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG .............................. 10 1.1. Đặc điểm điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị – xã hội Việt Nam thời kỳ nhà Trần – cơ sở xã hội hình thành tư tưởng triết học Trần Nhân Tông .......................................................................................... 10 1.1.1. Khái quát đặc điểm điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị – xã hội thời kỳ nhà Trần .......................................................................................10 1.1.2. Sự phát triển văn hóa, giáo dục thời kỳ nhà Trần.............................26 1.2. Những tiền đề lý luận và tôn giáo hình thành tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ............................................................................... 33 1.2.1. Giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và tư tưởng của “Tam giáo” với việc hình thành tư tưởng triết học Trần Nhân Tông .................. 33 1.2.2. Tư tưởng triết học Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ – tiền đề lý luận trực tiếp của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông...................56 Kết luận chương 1 .......................................................................................83 Chương 2:NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRẦN NHÂN TÔNG….86 2.1. Thế giới quan trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ................86 2.1.1. Quan niệm về bản thể trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông .....89 2.1.2. Mối quan hệ giữa bản thể và thế giới hiện tượng trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ......................................................................105 2.2. Nhân sinh quan và triết lý đạo đức trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông........................................................................................114 2.2.1. Quan niệm của Trần Nhân Tông về cuộc đời con người và về vai trò của con người trong cuộc sống .......................................................114 2.2.2. Quan niệm của Trần Nhân Tông về vấn đề rèn luyện tinh thần đạo đức, trí tuệ, giải thoát .....................................................................122 Kết luận chương 2 .....................................................................................129 Chương 3: ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG ........................................................................132 3.1. Những đặc điểm chủ yếu của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ..132 3.1.1.Tính kế thừa, dung hợp trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ....... 132 3.1.2.Tinh thần thiền hành động, nhập thế tích cực trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông .............................................................................147 3.1.3. Tính nhân văn trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ...............155 3.2. Giá trị lịch sử của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ............... 164 3.2.1. Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông đã góp phần tạo nên hệ thống triết lý thiền đặc sắc của Phật giáo Việt Nam ................................169 3.2.2. Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông là nền tảng tinh thần để xây dựng một quốc gia độc lập, thống nhất và một nền chính trị thân dân ........ 174 Kết luận chương 3 ....................................................................................195 KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................197 PHỤ LỤC ......................................................................................................... 203 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 213 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ .............................................222 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình do tôi nghiên cứu, dưới sự hướng dẫn của PGS, TS. Doãn Chính. Kết quả nghiên cứu được công bố trong luận án là trung thực. Các tài liệu sử dụng trong luận án có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Người thực hiện BÙI HUY DU 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng và nhân dân ta khởi xướng và tiến hành, cùng với nhiệm vụ phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, chính trị – xã hội, khoa học và công nghệ, giáo dục và văn hóa, đặc biệt là đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm “xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc” [21, tr. 18], chúng ta còn có một nhiệm vụ hết sức quan trọng đó là “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế – xã hội. Đó cũng chính là triết lý của sự phát triển xã hội hài hòa và bền vững. Bởi vì, văn hóa nói chung và những giá trị tinh thần, tư tưởng của dân tộc Việt Nam nói riêng không chỉ là nền tảng tinh thần và là một trong những động lực phát triển xã hội mà còn là một trong những nguồn lực nội sinh bền bỉ và mạnh mẽ nhất “hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam” [23, tr. 54], giúp chúng ta có thể tiếp nối và phát huy sức mạnh truyền thống dân tộc trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, phong phú nhưng không kém phần phức tạp hiện nay. Trong tiến trình của công cuộc đổi mới, hơn 20 năm qua đất nước ta đã đạt được những thành tựu thực sự to lớn và toàn diện trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đạt được kết quả đó, văn hóa đóng 2 vai trò rất quan trọng bởi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là yếu tố nội sinh, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế – xã hội. Do đó, có thể nói xây dựng, phát triển văn hóa chính là củng cố xây dựng và phát triển nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ, lành mạnh, không thể có sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Văn kiện Đại hội X, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội.” [24, tr. 213] Cùng với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, việc mở cửa hội nhập giao lưu văn hóa với tất cả các nước trên thế giới là một xu thế và quy luật tất yếu. Chúng ta không thể bảo tồn những giá trị văn hóa của dân tộc bằng cách khép kín, thu mình, đóng cửa; nhưng ngược lại, chúng ta cũng không thể thực sự phát triển nếu như mở cửa không kiểm soát, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Do đó, để bảo tồn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một mặt chúng ta phải giữ gìn những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc; mặt khác, phải mở rộng giao lưu và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Đúng như Văn kiện của Đảng đã khẳng định: “Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa giao lưu quốc tế phải đặc biệt giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và tiếp thu truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Tiếp thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam.” [21, tr. 111] Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc ta trong tiến trình lịch sử tư tưởng Việt Nam, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh của những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp và lâu 3 đời của dân tộc trong cuộc sống hôm nay là việc làm vừa có ý nghĩa lý luận lâu dài vừa có tính thời sự cấp bách. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Thiền phái Trúc Lâm đời Trần, trong đó tiêu biểu là tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông – “đệ nhất tổ thiền Trúc Lâm Yên Tử” nổi lên như một dấu son, góp phần khắc họa khá đậm nét bản sắc, cốt cách tâm hồn Việt Nam nói chung và đặc trưng của triết học Phật giáo Việt Nam nĩi riêng trong quá trình phát triển. Trần Nhân Tông không chỉ là nhà chính trị – một vị vua anh minh, “nhân từ, hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước” [85, tr. 44] mà còn là nhà quân sự tài năng; không chỉ là nhà văn, nhà thơ mà còn là nhà tư tưởng lớn, một bậc thiền sư lỗi lạc – người sáng lập ra một dòng thiền mang bản sắc Việt Nam. Ông đã biết dung hợp các nguồn tư tưởng từ quá khứ của dân tộc với triết lý phong phú, sâu sắc, thâm trầm của Nho, Lão, đặc biệt là triết lý Phật giáo, bằng sự kế thừa, chọn lọc các dòng thiền trước đây như Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci), Vô Ngôn Thông, Thảo Đường và tư tưởng triết lý thiền của Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ để sáng tạo nên hệ thống tư tưởng triết học của mình với những nét độc đáo và đặc sắc riêng, ghi dấu ấn sâu đậm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Chính vì thế, tôi đã chọn vấn đề “Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông” làm đề tài luận án Tiến sĩ của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Sự nghiệp, cuộc đời của Trần Nhân Tông nói chung, tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông nói riêng từ trước tới nay đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở nhiều mặt, qua các chủ đề phong phú 4 và sâu sắc khác nhau. Có thể khái quát kết quả các công trình nghiên cứu đó trong ba chủ đề chính sau: Thứ nhất, đó là các công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông trên phương diện lịch sử. Tiêu biểu cho chủ đề này phải kể đến các tác phẩm lớn như: Tác phẩm Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998; Đại cương lịch sử Việt Nam, do Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn chủ biên, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, xuất bản năm 2005; tác phẩm Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần, của Viện Sử học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1980 và tác phẩm Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám (3 tập), của Trần Văn Giàu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên – Mông thế kỷ XIII của Hà Văn Tấn – Phạm Thị Tâm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975... Các công trình khoa học trên đã trình bày và phân tích khá khái quát và sâu sắc điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cũng như tiền đề lý luận hình thành tư tưởng triết học Trần Nhân Tông như: Hình thái kinh tế thời Lý – Trần, thể chế chính trị và kết cấu đẳng cấp thời Lý – Trần, văn hóa và tư tưởng thời Lý – Trần với các vấn đề nghiên cứu khá sâu sắc như: Tư tưởng chính trị và xã hội thời Lý – Trần, Nho giáo ở Việt Nam, các yếu tố Phật, Nho, Đạo được tiếp thu và chuyển hóa như thế nào trong thời đại Lý – Trần, ý nghĩa xã hội của phái Trúc Lâm thời Trần… Các công trình trên cũng đã nghiên cứu khá kỹ về cuộc đời, thân thế và sự nghiệp của Trần Nhân Tông gắn liền với các biến cố lịch sử Việt Nam giai đoạn thế kỷ XIII – XIV, giúp người đọc có cái nhìn tổng quát hơn về Trần Nhân Tông. 5 Thứ hai, đó là các công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông dưới góc độ lịch sử tư tưởng văn hóa, tôn giáo. Liên quan đến chủ đề này phải kể tới các công trình như: Thơ văn Lý – Trần, do Viện Văn học biên soạn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1989; Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang, Nxb. Văn học, Hà Nội, xuất bản năm 2000; Lịch sử Phật giáo Việt Nam, do Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1993; Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIII của Trần Văn Giáp, Ban Tu thư, Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, xuất bản năm 1968; Lịch sử Phật giáo Việt Nam, của Thích Minh Tuệ, Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1993; Tam tổ thực lục, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, xuất bản năm 1995 (Thích Phước Sơn dịch và chú giải); Thiền uyển tập anh, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1993; Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam (3 tập) của Lê Mạnh Thát, Nxb, Tp. Hồ Chí Minh, xuất bản năm 2002; Thiền học Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục, Nxb. Lá Bối, Sài Gòn, 1966; Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1999; Thiền luận (quyển thượng, quyển trung, quyển hạ) của Daisetzteitaro Suzuki, Nxb. Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh, xuất bản 2005. Trong các công trình trên phải kể đến tác phẩm lớn như Thơ văn Lý – Trần, do Viện Văn học biên soạn. Đây là công trình khoa học công phu, đồ sộ, cung cấp cho người đọc một cách khá đầy đủ và đáng tin cậy các bản văn về thơ, văn của Trần Nhân Tông, cùng với sự giới thiệu đánh giá khái quát về sự nghiệp thơ văn, tư tưởng của Trần Nhân Tông; hay như các tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang, Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật 6 giáo Việt Nam, do Nguyễn Tài Thư chủ biên, đã trình bày và phân tích khá sâu sắc tư tưởng cũng như vai trò, vị trí của Trần Nhân Tông trong lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền tông Việt Nam nói riêng… Tất cả các công trình thuộc chủ đề thứ hai này giúp ta thấy rõ giá trị về văn hóa, tư tưởng, tôn giáo mà Phật hoàng Trần Nhân Tông đã đóng góp cho lịch sử tư tưởng Việt Nam. Thứ ba, đó là các công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông dưới góc độ tư tưởng triết học, như các tác phẩm: Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, do Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, xuất bản năm 1993; Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 2002; Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996; Tư tưởng triết học của Thiền Phái Trúc Lâm đời Trần của Trương Văn Chung, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 1998; Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tập 1, do Nguyễn Hùng Hậu chủ biên, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2002; Tư tưởng Việt Nam thời Lý – Trần, do Doãn Chính – Trương Văn Chung chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2008; Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tập 1, do Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006; và các tác phẩm khác như Tam tổ Trúc Lâm giảng giải của Thích Thanh Từ, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1997; Thiền sư Việt Nam của Thích Thanh Từ, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1995; Thiền học đời Trần của Thích Thanh Từ chủ biên, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1995; Trần Nhân Tông 7 toàn tập của Lê Mạnh Thát, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000… Liên quan đến đề tài luận án còn có các bài báo, công trình khoa học được các nhà nghiên cứu công bố trên các tạp chí khoa học chuyên ngành và các kỷ yếu hội thảo khoa học, như bài Triết học Phật giáo Trần Thái Tông, của Nguyễn Hùng Hậu, Nội san nghiên cứu Phật học số 4/1994 và số 1/1995, bài Tìm hiểu tư tưởng triết học Thiền của Trần Nhân Tông của Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số 3, năm 1995 hay bài Tư tưởng triết học Trần Thái Tông, của Doãn Chính và Nguyễn Ngọc Phượng, Tạp chí Triết học số 1 (212) tháng 1 năm 2009; Vài nhận xét về Thiền tông và phái Trúc Lâm Yên Tử đời Trần của Tạ Ngọc Liễn, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 1976; và Kỷ yếu 700 năm ngày viên tịch Sư tổ Trúc Lâm, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, xuất bản năm 2008, v.v… Các công trình kể trên đã tập trung nghiên cứu tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông qua các vấn đề lớn về bản thể luận, nhận thức luận và triết lý đạo đức nhân sinh của ông gắn liền với quá trình phát triển của lịch sử tư tưởng Việt Nam, tuy vậy tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông mới được các công trình kể trên nghiên cứu ở mức độ khái quát nhất. Tuy nhiên các công trình khoa học trên vẫn thực sự là những tài liệu bổ ích để chúng tôi học tập, kế thừa, phát triển trong đề tài luận án của mình. Tiếp tục thành quả của các công trình nghiên cứu trên, chúng tôi cố gắng đi sâu nghiên cứu và trình bày tư tưởng triết học Trần Nhân Tông qua đề tài luận án Tiến sĩ triết học, có tính chất chuyên sâu và hệ thống hơn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án Mục đích của luận án 8 Từ sự trình bày, phân tích làm rõ những nội dung tư tưởng triết học cơ bản của Trần Nhân Tông, luận án nhằm chỉ ra những đặc điểm và những giá trị có ý nghĩa lịch sử to lớn trong tư tưởng triết học của ông. Nhiệm vụ của luận án Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau: - Trình bày, phân tích cơ sở xã hội và những tiền đề tư tưởng hình thành tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông. - Trình bày và phân tích nội dung tư tưởng triết học cơ bản của Trần Nhân Tông qua các vấn đề triết học về bản thể luận, đạo đức nhân sinh; từ đó rút ra những đặc điểm và giá trị lịch sử trong tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ trên, luận án dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời tác giả luận án còn sử dụng tổng hợp các phương pháp sử học, hệ thống cấu trúc, lôgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, so sánh và đối chiếu… để nghiên cứu và trình bày luận án. Luận án được tiếp cận dưới góc độ triết học lịch sử và triết học tôn giáo. 5. Cái mới của luận án Một là, luận án đã trình bày một cách cơ bản và hệ thống tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông qua phân tích những phạm trù triết học, thiền học của ông ở những vấn đề về thế giới quan, nhân sinh quan và triết lý đạo đức. Hai là, luận án đã trình bày, phân tích, đánh giá rút ra những đặc điểm chủ yếu của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông, đó là tính chất kế 9 thừa, dung hợp, tinh thần thiền hành động nhập thế tích cực và tinh thần nhân văn sâu sắc; đồng thời luận án cũng nêu lên những giá trị lịch sử của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông; đó là triết học Trần Nhân Tông góp phần tạo nên hệ thống triết lý thiền đặc sắc Việt Nam, là nền tảng tinh thần để xây dựng một quốc gia Đại Việt độc lập, thống nhất, một nền chính trị thân dân. 6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án Về ý nghĩa khoa học, luận án góp phần làm rõ nội dung và đặc điểm cơ bản trong tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông qua các vấn đề bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức nhân sinh, từ đó giúp người đọc tìm hiểu một cách sâu sắc và hệ thống tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông. Về ý nghĩa thực tiễn, thông qua những đặc điểm của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông được trình bày trong luận án, có thể rút ra những bài học lịch sử bổ ích góp phần vào việc gìn giữ và phát huy bản sắc và truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử tư tưởng Việt Nam cho sinh viên và học viên cao học các ngành Triết học, Tôn giáo học, Văn hóa học, Sử học trong các trường Cao đẳng và Đại học. 7. Kết cấu cơ bản của luận án Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết và 13 mục. 10 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG 1.1. ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ, KINH TẾ, CHÍNH TRỊ – XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ NHÀ TRẦN – CƠ SỞ XÃ HỘI HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG 1.1.1. Khái quát đặc điểm điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị – xã hội Việt Nam thời kỳ nhà Trần Là hình thái ý thức xã hội, tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông một mặt phản ánh và bị chi phối bởi đặc điểm, nhu cầu của xã hội Việt Nam thời kỳ nhà Trần; mặt khác, là sự kế thừa những tiền đề tư tưởng, tôn giáo trước đó. Đúng như C. Mác đã nói: “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong những tư tưởng triết học” [41, tr. 156]. Do đó, nghiên cứu tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông không thể không tìm hiểu điều kiện lịch sử xã hội và những tiền đề lý luận hình thành tưởng triết học của ông. Sau thời kỳ hưng thịnh, từ khoảng giữa thế kỷ XII trở đi, triều đình nhà Lý bước vào giai đoạn suy tàn. Đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng. Thiên tai, mất mùa, đói kém, dịch bệnh hoành hành khắp nơi làm cho nền kinh tế ngày càng sa sút. Bên cạnh đó, do bộ máy chính quyền nhà Lý từ trung ương đến địa phương tỏ ra quan liêu, lỏng lẻo trong việc quản lý xã hội dẫn đến tình trạng 11 ở nhiều địa phương, các thế lực địa chủ phong kiến đã tập hợp lực lượng nổi dậy chống phá triều đình, gây nên tình trạng cát cứ phân quyền. Nổi bật trong số các thế lực cát cứ thời bấy giờ là tập đoàn quân sự của anh em họ Trần ở vùng Hải Ấp (Thái Bình). Do có công giúp nhà Lý dẹp loạn, lập lại trật tự, gia tộc họ Trần được triều đình trọng dụng đã thao túng quyền bính và dần thâu tóm mọi quyền lực trong tay. Tập đoàn quý tộc họ Trần rất khôn khéo, dần dần từng bước vững chắc và cuối cùng chuyển chính quyền từ dòng họ Lý sang dòng họ Trần một cách êm thấm trong hoàng cung và triều đình mà hầu như không có tác động gì làm xáo trộn xã hội. Năm 1225 Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Chiêu Thánh vừa mới bảy tuổi, rồi lên làm Thái Thượng hoàng và sau đó xuất gia đi tu ở chùa Chân Giáo, lấy hiệu là Huệ Quang đại sư. Theo sự dàn xếp của Trần Thủ Độ, Chiêu Hoàng đã kết hôn với Trần Cảnh. “Mùa đông, tháng 12, ngày 12 năm Ất Dậu (1225) nhận thiền vị của Chiêu Hoàng, lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung” [85, tr.7] dưới sự giúp đỡ, ủng hộ của Trần Thủ Độ và họ hàng. Nhà Trần trải qua các triều vua đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm phát triển các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thúc đẩy xã hội tiến lên một bước đáng kể. Dưới triều Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông, đất nước ta trải qua ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược (cuộc kháng chiến lần thứ nhất năm 1258, cuộc kháng chiến lần thứ hai năm 1285, cuộc kháng chiến lần thứ ba năm 1288) nâng cao vị trí nhà Trần trong lịch sử. Về tổ chức hành chính và bộ máy quan lại, năm 1240 nhà Trần đổi 24 lộ thời Lý thành 12 lộ. Dưới lộ, phủ có châu, huyện, xã. Đại 12 Việt sử ký toàn thư viết: “Nhâm Dần/ Thiên Ứng/ năm thứ 11/ 1242 (Tống Thuần Hựu năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, chia nước làm 12 lộ. Đặt chức an phủ, trấn phủ, có 2 viên chánh, phó để cai trị. Các xã, sách thì đặt chức đại, tiểu tư xã. Từ ngũ phẩm trở lên là đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống là tiểu tư xã. Có người làm kiêm cả 2, 3, 4 xã cùng xã chính, xã sử, xã giám gọi là xã quan” [85, tr. 19]. Nhà vua nắm quyền lực tối cao quyết định tất cả, nhưng để tránh tình trạng vua còn nhỏ tuổi, nhà Trần đặt ra chế độ Thái Thượng hoàng. Các vua thường truyền ngôi sớm cho con nhưng vẫn trông coi chính sự. Chế độ quan lại nhà Trần nói chung cũng giống như của nhà Lý nhưng có quy củ và đầy đủ hơn. Các chức quan trọng yếu trong triều đều giao cho vương hầu quý tộc nắm giữ, nhằm tập trung mọi quyền lực về dòng họ mình. Ở địa phương buổi đầu nhà Trần cũng phong cho một số vương hầu đi trấn trị các vùng quan trọng (ví như Trần Quốc Khang coi Diễn Châu, Trần Nhuật Duật coi Thanh Hóa, Trần Khánh Dư coi Vân Đồn…). Để tạo điều kiện cho vương hầu, tôn thất làm việc, nhà nước cấp cho mỗi người một vùng đất lớn nhỏ tùy theo thứ bậc gọi là thái ấp. Nhà nước cũng cho phép các quan lại tôn thất cao cấp được xây dựng dinh thự, phủ đệ riêng, khi có việc mới phải vào chầu và làm việc ở kinh sư. Năm 1266, do yêu cầu mới về kinh tế và chính trị, vua Trần lại ra lệnh cho các vương hầu, công chúa, phò mã chiêu mộ dân lưu vong đi khai hoang lập trang trại riêng, tạo thành một mạng lưới tôn thất nhà Trần trấn trị khắp nơi trong nước. Trong buổi đầu, chủ trương này có lợi cho việc củng cố chính quyền trung ương của nhà Trần, nhưng về sau lại dẫn đến xu hướng cát cứ. Kinh nghiệm của nhà 13 Lý buộc nhà Trần đặt ra lệnh riêng: người trong họ không được lấy vợ khác họ. Tuy nhiên, nhà Trần vẫn không thể phá vỡ được quy luật phát triển của nhà nước quân chủ tập quyền. Ngay khi tập trung những quyền lực trong triều vào tay các vương hầu, quý tộc họ Trần, các vua Trần phải sử dụng một số quan chức không phải họ Trần, giữ chức vụ quan trọng trong triều Trần như trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Lê Quát sau này… Tiếp tục những chính sách của thời Lý, nhà Trần mở khoa thi để chọn quan lại. Ngoài ra, những người không đỗ đạt nhưng có tài vẫn sử dụng. Phan Huy Chú (sử gia thế kỷ XIX) có nhận xét: “Triều Trần dùng người thật là công bằng, tuy đã đặt khoa mục mà trong việc kén dùng chỉ cốt tài là được, cho nên những nho sĩ có chí hướng thường được trổ tài của mình, không đến nỗi bó buộc hạn chế về tư cách…, chỉ cần người dùng được chứ không câu nệ ở đường xuất thân. Nhân tài văn học được thịnh cũng nhờ thế chăng?” [9, tr. 22]. Có lẽ trong buổi đầu, quan lại không được cấp ruộng đất, sau kháng chiến chống giặc Nguyên mới phát triển chế độ này. Quan lại được phép nuôi người hầu với mức nuôi nhiều nhất là 1.000 người. Vương hầu được phép nuôi gia nô, gia đồng, khi cần được tổ chức quân đội riêng. Thời chiến, vương hầu được lệnh thống suất quân lính ở thái ấp của mình. Năm 1283, chuẩn bị chống ngoại xâm, nhà vua giao cho Trần Quốc Tuấn đốc suất vương hầu chiêu mộ binh lính, sắm sửa vũ khí tham gia kháng chiến. Nói chung bộ máy quan lại thời Trần được tổ chức quy mô hơn thời Lý, bộ máy nhà nước đó đã góp phần củng cố sức mạnh của nhà nước trung ương. 14 Về tổ chức quân đội, nhà Trần thay nhà Lý, cùng với việc hoàn thiện bộ máy nhà nước để ổn định xã hội, củng cố chính quyền phong kiến trung ương tập quyền, nhà Trần đã ra sức xây dựng một tổ chức quân đội hùng mạnh đủ sức bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Quân chủ lực nhà Trần cũng chia thành hai bộ phận như thời nhà Lý là cấm quân và quân các lộ (ở đồng bằng gọi là chính binh, ở miền núi gọi là thiên binh). Quân đội nhà Trần là một đội quân thiện chiến, được trang bị, tổ chức và huấn luyện tốt, có nhiều kinh nghiệm bởi đã trải qua các cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên – Mông. Lực lượng quân sự thời Trần bao gồm các thành phần chủ yếu: 1). Quân chủ lực của triều đình; 2). Quân của lộ phủ, châu; 3). Quân của quý tộc tôn thất; 4). Lực lượng dân binh (hương binh) trong làng xã, động, bản. Trong chiến tranh, nhà Trần có thể tập hợp được lực lượng quân đội lớn mạnh, đông đảo chủ yếu còn do thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự theo chính sách “ngụ binh ư nông”. Quân số thời bình theo Phan Huy Chú thì cả “cấm vệ và các lộ khoảng mười vạn người”. Có thể xem đây là chủ trương kết hợp giữa sản xuất nông nghiệp và tổ chức vũ trang khá sáng tạo và độc đáo của thời đại đó. Nhìn chung, do đặc điểm và yêu cầu của điều kiện lịch sử nên nhà Trần là triều đại rất coi trọng binh pháp và kỹ thuật quân sự. Luôn chú ý nâng cao chất lượng binh lính bằng các biện pháp tuyển quân, tuyển tướng, huấn luyện binh pháp, rèn luyện tư tưởng và việc coi trọng võ thuật đã trở thành lối sống của trai tráng trong các tầng lớp xã hội từ quý tộc đến nô tỳ thời kỳ nhà Trần. Thực tiễn cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông đã thể hiện tổ chức quân đội và chính sách xây dựng lực lượng vũ trang của nhà Trần trong thế kỷ 15 XIII là đúng đắn, sáng tạo. Đó là quân đội có số lượng đông khi cần thiết, có chất lượng tinh thần vào loại mạnh trên thế giới đương thời. Hàng loạt các chiến thắng Đông Bộ Đầu (1258), Hàm Tử, Tây Kết (1285) và đặc biệt là Bạch Đằng (1288) là hình ảnh tiêu biểu của quân đội Đại Việt thời Trần trong thời kỳ hưng thịnh. Về luật pháp, năm 1230, Trần Thái Tông ban hành Quốc triều thông chế (20 quyển) quy định về tổ chức chính quyền. Sau đó qua vài lần sửa chữa và bổ sung nhà Trần lại ban hành bộ Quốc triều hình luật. Cơ quan luật pháp thời Trần cũng được tăng cường và hoàn thiện hơn. Pháp luật và tổ chức tư pháp thời Trần có mấy đặc điểm sau: Trước hết pháp luật đời Trần khẳng định và củng cố sự phân chia đẳng cấp. Đại quý tộc trước hết là hoàng gia và vua được pháp luật bảo vệ các đặc quyền đặc lợi. Riêng với họ hàng nhà Trần nếu phạm tội thì bị xử nhẹ hơn. Luật bắt buộc các nô tỳ phải thích chữ vào trán, mang hàm hiệu của chủ, nếu không bị coi là giặc cướp, nhẹ thì sung làm quan nô, nặng thì tù. Nô tỳ không có quyền kết hôn với quý tộc. Đáng lưu ý là trong xã hội sự ảnh hưởng của Phật giáo rất sâu đậm, còn lễ giáo Nho giáo sự ảnh hưởng trong nông thôn chưa sâu sắc lắm, ý thức về tông tộc tông pháp trong dân gian hãy còn mờ nhạt, phong tục tập quán vẫn giữ tính bản địa. Pháp luật đời Trần xác nhận và bảo vệ quyền tư hữu tài sản, đặc biệt là ruộng đất. Quan hệ tiền tệ đã công khai thâm nhập pháp luật, lệ chuộc tội bằng tiền được quy định cụ thể. Việc mua bán, chuyển nhượng và gán vợ con làm nô tỳ là công khai và hợp pháp. Tầng lớp nô, nô tỳ đông đảo là tầng lớp thấp hèn trong xã hội, bị coi như một “vật” sở hữu của quý tộc. 16 Tiếp tục xu hướng pháp luật thời Lý, pháp luật thời Trần cũng đã chú trọng đến việc bảo vệ sản xuất nông nghiệp trong đó đã có những điều luật bảo vệ trâu bò và các công trình thủy lợi. Luật nhà nước coi việc xây dựng và sửa chữa đê điều là công việc của toàn dân kể cả triều đình [55, tr. 186]. Về ngoại giao, một vấn đề lớn đặt ra cho nhà Trần là việc đối phó với mưu đồ bành trướng của đế quốc Nguyên – Mông ở phương Bắc. Từ sớm nhà Trần đã giữ quan hệ hòa hảo với nhà Tống và theo lệ cũ sang triều cống cho đến khi nhà Tống mất. Năm 1285, nhà Trần bắt đầu cử sứ giả sang sứ Mông Cổ và đinh lệ ba năm cống một lần. Nhưng do mưu đồ bành trướng của nhà nước Nguyên – Mông, mối quan hệ giữa hai nước ngày càng căng thẳng cho đến khi bùng nổ cuộc chiến tranh xâm lược vào nửa cuối thế kỷ XII. Sau kháng chiến chống Nguyên – Mông thắng lợi quan hệ Trần – Nguyên trở lại hòa hảo. Nhà Trần tìm mọi cách giữ vững địa vị độc lập tự chủ của mình, khi nhà Trần suy thì nhà Nguyên cũng đang suy thoái, tiếp đó lại bị nhân dân Trung Hoa lật đổ nên không còn điều kiện dòm ngó nước ta nữa. Cũng như thời Lý, các vua Trần chú ý thúc đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, đặc biệt là chế độ sở hữu ruộng đất. Các hình thức sở hữu ruộng đất cơ bản thời kỳ nhà Trần là ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước thông qua công xã nông thôn và ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân. Sự thống trị của chính quyền nhà Trần trong phạm vi cả nước và uy quyền chuyên chế của hoàng đế đã tạo thành một quan niệm “đất của vua, chùa của bụt”, một quan niệm đã xác nhận sự tồn tại tự nhiên: chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất rất phổ biến. Có hai bộ phận 17 cấu thành ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước: Một là, ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý, nó tồn tại như tài sản của bản thân nhà vua và hoàng cung, một loại “tư hữu” đặc biệt mà những hoa lợi bóc lột là của riêng hoàng đế. Bộ phận ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý có sơn lăng, tịch điền và quốc khố. Hai là, ruộng đất công của thôn làng: ruộng công các làng xã thời bấy giờ được gọi là quan điền hay “quan điền bản xã”. Năm 1254, triều đình “bán ruộng công, mỗi một diện là 5 quan” [85, tr. 25] đã xác nhận quyền sở hữu ruộng đất công làng thời bấy giờ là thuộc về nhà nước theo quan niệm dân gian: “đất của vua”. Tô thuế ruộng đất vào thời kỳ này chủ yếu là đánh vào ruộng công, nhân đinh cày ruộng công làng xã phải nộp bằng thóc theo diện tích và phải thêm một số tiền nhất định. Như vậy số tiền và số thóc mà nông dân làng xã đóng cho nhà nước đã mang một ý nghĩa tổng hợp: vừa là thuế vừa là địa tô. Năm Nhâm Dần, [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 11/1242 nhà Trần cũng đã ban bố luật tô thuế cho loại ruộng công của làng xã rằng: “Nhân đinh có ruộng đất thì nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn cả. Có 1, 2 mẫu thì nộp 1 quan tiền; có 3, 4 mẫu thì nộp 2 quan tiền, từ 5 mẫu trở lên thì nộp 3 quan tiền. Tô ruộng mỗi mẫu nộp 100 thăng thóc.” [85, tr. 19] Về hình thức sở hữu ruộng đất tư nhân, gồm có: thái ấp, điền trang của quý tộc nhà Trần, ruộng tư hữu của địa chủ và ruộng đất sở hữu của tiểu nông. Thời Lý các quan trong, quan ngoài đều không được cấp bổng. Đến thời Trần mới định lệ cấp bổng cho các quan văn võ trong ngoài, đây là nét khác biệt rất cơ bản về tổ chức nhà nước của hai triều đại. Có thể thấy thêm chính sách ban cấp ruộng đất và bổng lộc của nhà 18 Trần dưới một hình thức tiêu biểu nhất là thái ấp. Ban cấp thái ấp là chính sách kinh tế quan trọng nhằm tạo ra cơ sở xã hội cho chính quyền nhà Trần. Nguồn đất ban đầu của thái ấp thuộc quyền sở hữu nhà nước, nhưng khi ban cấp thành thái ấp thì thái ấp thuộc chiếm hữu tư nhân các quý tộc. Thái ấp thời Trần cũng là nơi ở bền vững của quý tộc và mãi mãi được lưu truyền, như lời Trần Hưng Đạo đã nói trong Hịch tướng sĩ rằng: “thái ấp của ta mãi mãi bền vững mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng.” [95, tr. 392] Ngoài thái ấp thì năm 1266, do nhu cầu khẩn trương mở rộng diện tích canh tác và thực hiện chủ trương xây dựng, củng cố thêm thế lực của quý tộc Trần, nhà Trần đã cho các vương hầu công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập những người xiêu tán không có sản nghiệp làm nô tỳ để khai khẩn đất hoang lập điền trang. Vương hầu có điền trang thực sự từ đấy. Từ năm 1266 trở đi, bản thân tầng lớp quý tộc đã dựa vào hai tổ chức kinh tế cơ bản: thái ấp và điền trang là hai bộ phận quan trọng có ý nghĩa quyết định tính chất loại hình sở hữu ruộng đất của quý tộc. Ngoài ra còn có ruộng đất sở hữu tư nhân của địa chủ và tiểu nông. Về công cuộc trị thủy nhà Trần đã cho xây dựng hệ thống đê đỉnh nhĩ và các dòng kênh tiêu úng. Ở thời Lý, công việc trị thủy vẫn do các địa phương tự lo liệu, tự góp tiền của, nhà nước đóng vai trò chỉ đạo và quản lý một số đê, chủ yếu là xung quanh Thăng Long. Mấy chục năm đầu thế kỷ XIII thì hầu như việc trị thủy bị bỏ bê, không được lưu tâm thích đáng. Nhà Trần vừa nắm chính quyền đã có biện pháp nhanh chóng phục hồi sản xuất nông nghiệp, mở rộng thêm diện tích canh tác. 19 Triều đình đã áp dụng nhiều biện pháp khuyến khích nông nghiệp, trong đó có tổ chức làm thủy lợi trong phạm vi cả nước. Năm 1248, Trần Thái Tông đặt cơ quan hà đê, có chánh sứ, phó sứ phụ trách việc đê điều ở các lộ phủ. Đây là công việc quan trọng, một bước ngoặt to lớn trong lịch sử thủy lợi nước ta. Đắp đê ngăn mặn cũng là công cuộc mới mẻ ở thời Trần, các nhà quý tộc thường cho nô tỳ đắp đê ở bãi biển lập điền trang. Công cuộc xây dựng thủy nông cũng được nhà Trần chú ý, ở những vùng Thanh Hóa và Nghệ An là nơi có nhiều công trình thủy nông. Năm 1248, Trần Nhân Tông lại cho đào sông Mã, sông Lễ và đục núi Chiếu Bạch ở Thanh Hóa, đây cũng là công việc tốn sức, tốn của. Năm 1256, triều đình cho khơi lại sông Tô Lịch nhằm bảo đảm giao thông đồng thời để tưới tiêu cho các vùng xung quanh kinh thành. Sang thế kỷ XIV nhiều công trình thủy nông vẫn tiếp tục được xây dựng. Về nền kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp, triều đại nhà Trần vẫn tiếp tục xây dựng quan xưởng thủ công nghiệp nhà nước. Thủ công nghiệp nhà nước gồm có nhiều ngành nghề sau: nghề sản xuất đồ gốm là bộ phận quan trọng trong xưởng; nghề dệt cũng được nhà nước chú ý, đặt ngay trong cung đình; và đặc biệt trong thủ công nghiệp nhà nước là xưởng chế tạo vũ khí. Thủ công nghiệp nhân dân cũng là bộ phận quan trọng và phổ biến của tiểu thủ công, của tiểu nông chợ, phố, lị, sở, phủ lộ và kinh thành Thăng Long là địa điểm trao đổi sản phẩm. Các nghề thiết yếu của thủ công nghiệp nhân dân thời Trần là nghề gốm, nghề rèn, nghề đúc đồng, nghề làm giấy và khắc bản in, nghề mộc, nghề xây dựng và nghề khai khoáng. 20 Mạng lưới thương nghiệp và thành thị ngay từ đầu đã được nhà Trần quan tâm, qua việc xây dựng nên một hệ thống giao thông thủy bộ trong cả nước. Hệ thống giao thông, biển và trên bộ thời Trần phục vụ cho yêu cầu quân sự nhưng cũng có nhiều tác dụng tốt cho thương nghiệp. Đường bộ, đường thủy cho yêu cầu quân sự không còn do các địa phương và nhân dân tự phát xây dựng mà là công tác của chính quyền địa phương, của triều đình trực tiếp tổ chức, xây dựng; đây là bước tiến lớn so với thời Lý. Để phát triển lưu thông hàng hóa các vua Đại Việt thời Lý – Trần đều có đúc tiền. Ngoài ra trên thị trường còn sử dụng nhiều tiền Trung Quốc. Nhà Trần đã mở rộng việc mua bán đất bằng tiền, nộp tiền để lấy quan chức, việc đúc tiền do quan xưởng đảm nhiệm. Quan hệ tiền tệ đã thâm nhập vào đời sống chính trị và tín ngưỡng. Nhà nước thu tô thuế bằng tiền, cũng đã thể hiện chức năng thanh toán của tiền tệ thời Trần đã phát triển rộng lớn. Tiêu biểu nhất cho mạng lưới nội thương là hệ thống chợ ở đồng bằng sông Hồng, ngoài chợ ra còn có phố. Các trung tâm phủ lị bên sông lớn, đầu mối giao thông thủy bộ đều có phố; phố Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) bên bờ sông Dâu là nơi buôn bán cố định; phố Lố bên bờ sông Nghĩa Trụ (Xuân Cầu, Văn Giang, Hưng Yên) cũng được hình thành vào thời này. Chợ và phố kết hợp là thị trường địa phương của hương, phú nhằm giải quyết nhu cầu của các tầng lớp nhân dân trong vùng, của tiểu nông và các tầng lớp khác. Cảng Vân Đồn, nay là các vùng đảo Vân Hải, Ngọc Vừng, Cống Đông thuộc Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) là quân cảng và thương cảng có dáng vẻ của quốc tế của nước Đại Việt thời Lý – Trần. Biển cả vốn là con 21 đường giao thông quốc tế quan trọng nhất của nước ta, là mạch nối giữa Đại Việt và các nước xung quanh. Các cửa biển Hội Thống, Cần Hải (đều thuộc Nghệ – Tĩnh), Hội Triều (Thanh Hóa) và đặc biệt là Vân Đồn là những trung tâm buôn bán lớn với nước ngoài, là những điểm quy tụ đường biển thời Lý – Trần. Đô thành Thăng Long là trung tâm chính trị, văn hóa đồng thời cũng là một trung tâm kinh tế lớn nhất của Đại Việt thời bấy giờ. Thăng Long đến thời Trần căn bản vẫn giữ cấu trúc như đời Lý, cả La thành, Hoàng thành, Cấm thành và nhiều cung điện vẫn giữ nguyên. Sự chuyển triều đại từ Lý sang Trần một cách hòa bình không làm cho Thăng Long thay đổi nhiều; nhà Trần tận dụng những cơ sở đã được xây dựng từ trước có tu bổ và mở rộng thêm. Về kinh tế xã hội, đô thành Thăng Long có nhiều bước phát triển cao, sự phát triển kinh tế của Thăng Long cũng gây ảnh hưởng đến vùng ven. Người buôn bán và sản xuất chủ yếu cùng là người trong các phường ở Thăng Long, họ là thợ thủ công kiêm buôn bán, là thương nhân chuyên nghiệp và không ít là nông dân mua và bán những sản phẩm; ngoài ra còn có thương nhân nước ngoài, chủ yếu là người Tống. Số người tiêu thụ hàng hóa đáng kể là thuộc tầng lớp thủ công, thương nhân, nông dân, sĩ phu, tăng lữ và quan lại. Sản phẩm của các quan xưởng đã cung cấp một số đồ dùng thiết yếu như: vải, lụa, giấy, gạo, vũ khí. Kết cấu cư dân và nghề nghiệp của Thăng Long là công, nông, thương, sĩ và quan chức. Các phường Thăng Long không hoàn toàn đơn thuần là của thợ thủ công và thương nhân mà có nhiều nông dân. Kết cấu này là sự phát triển của Thăng Long từ một trung tâm chính trị mở rộng thành một trung tâm kinh tế – văn hóa. 22 Khu Tức Mặc – Thiên Trường, được khởi đầu xây dựng từ năm 1239, đã nâng vị trí quê hương họ Trần thành một trung tâm chính trị – kinh tế lớn của cả nước. Tức Mặc căn bản là một khu tiêu thụ, không phải là một khu vực sản xuất hàng hóa. Đây là nơi tập trung tô thuế, cống phẩm của các địa phương, là khu vực kinh tế, xã hội đặc biệt. Tầng lớp thống trị ở đây phải sống dựa vào nông dân cả nước. Các thành phần với nhiều nghề nghiệp khác nhau: sư tăng, học trò, thợ thủ công, thương nhân đều sống dựa vào sản xuất nông nghiệp và nông dân. Thể chế chính trị phường, hương ở đây là những đơn vị hành chính của chính quyền phong kiến. Những hoạt động quân sự, chính trị, văn hóa giáo dục, kinh tế của Thăng Long và cả Tức Mặc đã góp phần thúc đẩy xã hội Đại Việt phát triển là tiêu biểu cho cả nền văn hóa chung ở thời kỳ này. Thương nghiệp ở đời Trần tuy có bước phát triển mới, nhưng chủ yếu vẫn là nền kinh tế tự cung tự cấp. Tổ chức các phường thủ công ở Thăng Long còn rất đơn giản, còn gắn chặt với sản xuất nông nghiệp. Ngoại thương do nhà nước độc quyền, hàng hĩa trao đổi chủ yếu vẫn là sản phẩm của nền kinh tế tự nhiên, ít có sản phẩm thủ công. Đến cuối thế kỷ XIV, khi nông nghiệp sa sút và nhà nước kiểm soát khắt khe việc buôn bán và sản xuất thủ công thì nền kinh tế hàng hóa rơi vào chỗ bế tắc. Về sự phân chia đẳng cấp xã hội, đất nước ta bước vào thời đại nhà Trần trên nền tảng xã hội được xây dựng ổn định và vững chắc từ thời Lý. Trong quá trình xây dựng chính quyền quý tộc quân chủ vững mạnh, đồng thời củng cố, phát triển kinh tế, văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, xã hội thời nhà Trần đã diễn ra sự phân hóa mạnh mẽ. 23 Một xã hội mới với những đẳng cấp mới dần được hình thành. Nhìn chung trong gần hai thế kỷ, xã hội Trần đã hình thành và tồn tại ba đẳng cấp chính: - Đẳng cấp quý tộc, tôn thất – quan lại trong chính quyền quân chủ. - Đẳng cấp những người bình dân, chủ yếu là nông dân các làng xã, thợ thủ công và thương nhân, địa chủ. - Đẳng cấp nô tỳ. Đẳng cấp thứ nhất chính là giai cấp quý tộc vương hầu, tơn thất nhà Trần. Các vua Trần giữ một vai trò đặc biệt, vua là người có quyền tối thượng trong mọi lĩnh vực của nhà nước và xã hội, là người chủ tể trong các nghi lễ tôn giáo, có quyền sở hữu tối cao về danh nghĩa đối với toàn bộ ruộng đất tài sản của đất nước. Về quân sự, nhà vua đồng thời là tổng tư lệnh quân đội, trực tiếp chỉ đạo trong việc chọn tướng tài, luyện tập quân sĩ, đóng thuyền chiến, chế tạo khí giới. Về chính trị, các vua Trần tập trung trong tay các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với một sự chỉ đạo thống nhất, trong đó quyền lực hành pháp lớn nhất là quyền bổ nhiệm phong cấp, bãi miễn quý tộc và quan lại trong hệ thống quan chức triều đình. Ngoài ra nhà vua còn có quyền tối hậu trên các phương diện giáo dục – văn hĩa. Nhà vua là người đề xướng ra đầu bài thi, cũng như tuyển duyệt người trúng đỗ trong các kỳ thi Đình. Những chính sách của nhà nước như mở rộng khoa cử, tuyển chọn quan lại, người tài bổ sung cho bộ máy nhà nước, khuyến khích khai hoang lập điền trang đó đã tạo cho nhiều người thuộc tầng lớp bình dân có điều kiện tham gia quan trường, tham gia đội ngũ cầm quyền. Họ được ưu đãi những đặc quyền, đặc lợi, được pháp luật nhà 24 nước thừa nhận và bảo vệ. Chính tầng lớp này đã góp phần pha loãng tính chất quý tộc của nhà nước Trần, tạo nên những biến động trong đẳng cấp cầm quyền vào buổi cuối Trần. Đẳng cấp thứ hai gồm chủ yếu là nông dân làng xã, thợ thủ công, thương nhân và địa chủ bình dân (địa chủ không tham gia quan chức). Đây là đẳng cấp đông đảo nhất trong xã hội, là lực lượng chủ yếu để sản xuất và cũng là đẳng cấp gánh vác nhiều nghĩa vụ nhất trong xã hội. Trong luật pháp của nhà nước và trong các chiếu chỉ của nhà vua, đẳng cấp này được gọi chung một chữ "dân" hoặc "bách tính". Giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số cư dân trong xã hội và là lực lượng sản xuất lớn nhất, đồng thời cũng là giai cấp gánh chịu mọi trọng trách trong xã hội: sản xuất ra của cải xã hội, đóng thuế, đi lính, lao dịch, chiến đấu, bảo vệ đất nước… Về cơ bản, người nông dân làng xã thời Trần sống một cuộc đời tự trị, bình yên, ít bị can thiệp. Từ thế kỷ XIV trở đi, do sự phân hóa giàu nghèo tăng lên, nền tài chính nhà nước kiệt quệ nên các thuế má và phí dịch ngày một tăng. Năm 1378, đầu tiên nhà nước đánh thuế thân mỗi suất đinh 3 quan tiền, trong khi dân làng trước kia chỉ đóng thuế ruộng, đã dẫn tới đời sống của người nông dân ngày một cực khổ. Trong làng xã, việc kiện tụng tranh chấp ruộng đất và nạn kiêm tính ruộng đất ngày một nhiều. Sử cũ chép rằng trong những năm đói kém, nhiều dân nghèo gia nô nổi dậy, nạn trộm cướp hoành hành, bắt đầu xuất hiện tình trạng nông dân lưu tán. Cái cộng đồng làng xã tạo dựng nên nền móng cho bộ máy nhà nước trung ương không còn thật vững vàng nữa. Tóm lại, xét về cơ chế đẳng cấp xã hội thời Trần, người nông dân làng xã là một đẳng cấp bên dưới bị đẳng cấp quý tộc quan liêu 25 thống trị, và xét về mặt quan hệ giai cấp họ là một giai cấp bị bóc lột bởi một nhà nước phong kiến tập quyền với chế độ tô thuế khá chặt chẽ. Bên cạnh những người lao động nông dân làng xã chiếm đa số cư dân trong xã hội, ở thời Trần số thợ thủ công và thương nhân cũng là một thành phần đáng kể. Những người thợ thủ công sống chủ yếu tập trung ở các phường chợ của Thăng Long và rải rác ở các làng xã. Họ làm nghề thủ công là chính nhưng vẫn gắn bó với đồng ruộng nông thôn. Tầng lớp thương nhân mới hình thành nhưng đã nhanh chóng phát triển, tuy nhiên rất ít người sống chuyên buôn bán, họ vẫn gắn bó với nghề nông và các nghề thủ công khác. Một số trong họ nhờ buôn bán với thương nhân nước ngoài đã trở nên giàu có, nhưng thân phận địa vị của họ không có gì thay đổi. Đẳng cấp cuối cùng bị coi là thấp hèn nhất trong xã hội là nô tỳ. Nô tỳ xuất thân từ nhiều nguồn gốc: dân nghèo bán mình làm nô lệ. Tội nhân bị sung làm nô và tù binh. Nô tỳ có nhiều loại: nô tỳ làm việc trong nhà quý tộc quan lại gọi là "gia nô", hoặc còn gọi là "tư nô" và nô tỳ của nhà nước làm đồn điền, làm ruộng và các công việc khác có tính chất công cộng của nhà nước. Xét về kinh tế, chính trị, xã hội, địa vị của nô tỳ rất thấp hèn. Nô tỳ không được phép có tư liệu sản xuất trong tay, không có quyền sử dụng chính bản thân sức lao động của họ mà hoàn toàn phụ thuộc vào chủ. Nô tỳ bị thích chữ vào mặt mang hàm hiệu của chủ, không được kết hôn với con cái nhà bách tính. Nô tỳ không thuộc dạng tuyển quân của triều đình, nhưng họ là gia binh của chủ vương hầu, họ tham gia chiến đấu dũng cảm và lập nhiều thành tích, tiêu biểu là Yết Kiêu, Dã Tượng là gia nô của Trần Hưng Đạo. Khi lập công họ không 26 được dự ban thưởng chức tước nhưng được ban thưởng ruộng đất như trường hợp Phạm Ngãi gia đồng của Hưng Hiếu Vương. 1.1.2. Sự phát triển văn hóa, giáo dục thời kỳ nhà Trần Trên cơ sở sự phát triển về kinh tế, chính trị – xã hội, nền văn hóa giáo dục của nước Đại Việt thời kỳ nhà Trần cũng phát triển mạnh và đạt được những thành tựu rực rỡ, góp phần hình thành phát triển tư tưởng triết học Trần Nhân Tông. Trước hết, về giáo dục tiếp tục kế thừa phát triển khoa cử thời kỳ nhà Lý sang thời kỳ nhà Trần, được sự quan tâm của nhà nước, việc học và thi cử đã đi vào nền nếp, quy củ. Năm 1253 nhà nước cho lập Quốc học viện để đào tạo nhân tài. Tiếp sau đó, ở Thăng Long và các địa phương trong nước trường lớp được dựng lên khá nhiều. Tuy nhiên, số trường do nhà nước quản lý lại rất ít. Năm 1281, Trần Nhân Tông lập thêm nhà học ở phủ Thiên Trường. Những trường lớp do nhà nước trực tiếp đứng ra tổ chức là những trường lớp thuộc cấp nhà nước. Ngoài ra ngay tại Thăng Long và các vùng lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình cho tới tận Thanh Hóa, Nghệ An đều có thêm nhiều trường lớp, nhiều học trò và tham gia thi cử ở các trường này. Năm 1256, nhà nước mới phân chia làm "kinh trạng nguyên" và "trại trạng nguyên", nhưng học ở Thanh Hóa trở vào gọi là "trại"; học trò ở Trường Yên (Ninh Bình) trở ra gọi là "kinh". Nhưng sự phân chia này chỉ tồn tại trong vòng 20 năm, đến năm 1275 lại hợp nhất. Ngoài các trường, lớp do nhà nước tổ chức còn có một số trường tư, đó là các trường lớp của Chiêu Quốc vương Ích Tắc và của Chu Văn An, những trường này đều ở Thăng Long. Các loại trường này đều song song tồn tại và đều có vị trí trong đời sống xã hội của đất 27 nước. Tuy vậy, trừ những trường hợp do nhà nước quản lý là có quy chế rõ ràng, còn các loại trường lớp khác việc học hết sức tùy tiện, ai đến học nghe thầy giảng là tự do không bắt buộc. Mãi đến cuối thời Trần vào năm 1397, nhà nước mới ban ra một quy chế về việc giáo dục, thi cử như sau: "Nay quy chế ở kinh đã đủ mà ở châu huyện thì thiếu, làm thế nào để mở rộng đường giáo hóa cho dân ? Nên lệnh cho các lộ phủ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông, đều đặt một học quan, ban cho quan điền theo thứ bậc khác nhau phủ châu lớn thì 15 mẫu, phủ châu vừa 12 mẫu, phủ châu nhỏ 10 mẫu để chỉ dùng cho việc học trong phủ châu mình. Lộ quan và quan đốc hãy dạy bảo học trò cho thành tài nghề, cứ đến cuối năm chọn người ưu tú tiến cử lên triều đình, trẫm sẽ thân hành thi chọn và cất nhắc." [85, tr. 192] Về khoa cử, năm 1232 nhà Trần đã đặt ra học vị đầu tiên cho việc thi cử ở nước ta gọi là Thái học sinh, được tổ chức thường xuyên 7 năm một kỳ. Bên cạnh khoa thi trên nhà Trần còn mở các kỳ thi tuyển chọn các nho sinh hay chữ vào các quán, các sảnh, viện [85, tr. 36] và mở các khoa thi tam giáo (Nho, Phật, Đạo). Năm 1247 nhà Trần đặt lệ lấy tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa). Về phép thi, nhà Trần quy định nội dung thi tứ kỳ: “Trước hết thi ám tả thiên Y quốc và truyện Mục thiên tử để loại bớt. Thứ đến thi Kinh nghi, Kinh nghĩa, đề thơ (tức thể cổ thi ngũ ngôn trường thiên) hỏi về “vương độ khoan mãnh”, theo luật “tài nan xạ trĩ”, về phú thì dùng thể tám vần “đế đức hiếu sinh, hiệp vụ dân tâm”. Kỳ thứ ba thi chế, chiếu biểu. Kỳ thứ tư thi đối sách [85, tr. 88]. Đến năm 1396 nhà Trần xuống chiếu quy định lại cách thi cử. Dùng thể văn tứ kỳ bãi bỏ cách viết ám tả. Kỳ thứ nhất thi kinh nghĩa. Kỳ thứ hai thi thơ phú. Kỳ thứ 28 ba thi chiếu, chế, biểu. Kỳ thứ tư làm một bài văn sách. Cứ năm trước thi hương thì năm sau thi hội, người đỗ thì vua thi một bài văn sách để xếp bậc [85, tr. 189]. Nội dung học và thi cử thời kỳ nhà Trần bao gồm một số nội dung chính trị, đạo đức của Nho giáo và Phật giáo. Tuy nhiên, do thời kỳ nhà Trần, nhất là thời Trần Nhân Tông, Phật giáo phát triển cực thịnh nên trong nội dung giáo dục thời kỳ này triết lý đạo đức nhân sinh của Phật giáo không chỉ trở thành nền tảng đạo đức xã hội, mà còn có mặt trong nội dung giáo dục khoa cử. Trong thời gian tồn tại, trước sau nhà Trần đã tổ chức được 14 khoa thi gồm các kỳ thi tuyển Thái học sinh, chế khóa, thi lại viện để tuyển lựa trong đám nho sĩ người tài bổ vào làm trong các quán, các, sảnh, viện và một số khác thi tam giáo, với 273 người đỗ Thái học sinh. Hàng loạt các nho sĩ đỗ đạt từ các khóa thi trên đã được tuyển dụng bổ sung vào các chức vụ khác nhau trong bộ máy chính quyền nhà nước, từ trung ương đến địa phương, đã đóng góp đáng kể vào công cuộc xây dựng và củng cố chính quyền quân chủ quý tộc Trần. Ở thời nhà Trần cũng có nhiều trường hợp các nho sinh không qua thi cử mà vẫn được tuyển dụng vào làm quan. Sử cũ chép, vào năm 1267, “chọn những nho sinh hay chữ bổ vào Quán, các, sảnh, viện”. “Theo chế độ cũ không phải là nội nhân (hoạn quan), thì không được làm hành khiển, chưa bao giờ dùng nho sĩ văn học. Bắt đầu từ đây, nho sĩ văn học mới được giữ quyền bính” [85, tr. 36]. Qua đó chúng ta thấy việc tuyển dụng, đề bạt nhân tài đã thể hiện chính sách dùng người, tuyển dụng quan lại của nhà Trần là rất năng động, sáng tạo. 29 Sự phát triển của Nho học và nền giáo dục khoa cử thời Trần đã góp phần phổ cập Nho giáo trong nhân dân với các quan niệm phổ biến về tam cương, ngũ thường, trung quân. Về sau nhiều nhà nho, nhiều tiến sĩ không ra làm quan, ở nhà dạy học đã sản sinh ra nhiều thầy giáo xuất sắc mà tiêu biểu nhất thời bấy giờ là Chu Văn An. Một truyền thống tôn sư trọng đạo đã hình thành và bắt đầu tỏa sáng. Thời Trần, Phật giáo thịnh hành trên cơ sở phát triển từ thời Lý. Trong buổi đầu, vua Trần không chỉ sùng Phật mà còn có ý thức sử dụng Phật giáo như một công cụ tư tưởng vì mục đích tu dưỡng đạo đức, củng cố khối đại đoàn kết nội bộ vương hầu quý tộc, cố kết xã hội xung quanh nhà nước quân chủ quý tộc Trần. Với ý thức tự lập, tự cường của một dân tộc đã từng hiên ngang lật đổ ách đô hộ hơn một ngàn năm, xây dựng cơ đồ vững mạnh từ Đại Cồ Việt đến Đại Việt, từng nhiều lần đánh bại quân xâm lược, các vua Trần từ đầu đã xây dựng nên thiền phái Trúc Lâm mang đậm màu sắc dân tộc. Phật giáo thời Trần không chủ trương xuất thế mà chấp nhận và gắn bó với cuộc sống đời thường không tìm nơi ẩn tránh ở thiên nhiên mà hòa vào thiên nhiên, thuận theo thiên nhiên để tu dưỡng diệt dục, loại trừ những ham muốn trần tục. Khác với nhà Lý, nhà Trần cũng sùng Phật, theo Phật nhưng không đầu tư quá nhiều vào dựng chùa, đúc chuông, đúc tượng, mặc dù chùa chiền mọc lên khắp nơi, hẳn là do tín đồ Phật có mặt đông đảo trong làng xã tự nguyện đầu tư xây dựng. Duy nhất có một lần vào năm 1256, Trần Thái Tông có đúc 330 quả chuông bằng đồng. Có lẽ nổi bật nhất trong chùa chiền thời Trần là khu vực Yên Tử gồm các chùa Giải Oan, Vân Yên, Vân Tiêu rải trên triền núi cao, trở thành trung tâm Phật giáo đương thời đồng thời 30 là di tích thắng cảnh của đất nước. Ngoài ra còn có chùa Phổ Minh được nhà nước xây dựng vào năm 1262, cùng với hành cung Thiên Trường, còn lại các chùa lớn nhỏ khác phần nhiều đều do đệ tử, tín đồ xây dựng. Phật giáo phát triển mạnh trong xã hội thời Trần, tuy nhiên niềm tin Phật, sùng Phật của các vua Trần sau khi Trần Nhân Tông qua đời có giảm dần. Có thể thấy rõ rằng chủ trương phát triển Nho giáo, mở mang giáo dục khoa cử cùng với sự có mặt của đội ngũ nho sĩ trong bộ máy nhà nước Trần, đặc biệt là từ 1267, chủ trương kén chọn học trò lấy người nào có tài năng văn học bổ sung vào giữ việc ở quán, các, sảnh, viện đã dần trở thành mối quan tâm lớn của vua Trần vì lợi ích thiết thực trong bộ máy nhà nước quân chủ quý tộc, hơn là niệm Phật thuyết pháp. Nhà Trần có tổ chức thi tam giáo (Nho – Phật – Đạo) vào các năm 1227, 1247, nhưng khác với thời Lý về trước, Phật giáo không còn vị trí trên chính trường mà hòa trộn vào xã hội, ăn sâu bám rễ vào làng xã. Vào cuối đời nhà Trần, khi tình hình chính trị – xã hội mất ổn định, loạn lạc nổi lên nhiều, cửa Phật đã không còn giữ được vẻ trang nghiêm thanh tịch của nó nữa. Nhiều kẻ xấu, du thủ, du thực lợi dụng núp bóng Phật để làm bậy, trốn tránh nghĩa vụ với nhà nước. Năm 1231, nhà nước phải tổ chức thi các thầy chùa. Năm 1396, tiến hành kiểm soát, sa thải tăng đạo. Người nào thông hiểu đạo Phật sẽ được trao chức tăng đường, đầu mục và tri cung, tri quán, tri tự, ngoài ra gọi là tu nhân hoặc thị giả. Về văn học, vào thời Trần văn học đã có sự phát triển hơn thời Lý. Lúc này lực lượng sáng tác ngoài các nhà sư còn có quý tộc và nho sĩ. Do đó, chủ đề của thơ văn thời Trần không những xoay quanh 31 những vấn đề của đạo Phật, mà còn đề cập đến những vấn đề của đạo Nho, đạo Lão. Đó là những sáng tác văn học phong phú về thể loại, sâu sắc về nội dung cùng với những công trình nghiên cứu về tự nhiên và xã hội. Nhưng nổi bật hơn cả là những áng thơ văn thể hiện chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông. Điều đáng chú ý là, đến thời Trần, chữ Nôm được sử dụng rộng rãi trong văn học, chứng tỏ nền văn hóa, tư tưởng có tính độc lập của dân tộc ta đã phát triển một cách mạnh mẽ. Chúng ta có thể kể đến bài thơ của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ, Binh thư yếu lược của Trần Quốc Tuấn; Thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão; Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu… Đặc biệt sáng tác bằng quốc âm thời Trần có các bài nổi tiếng như bài phú Cư trần lạc đạo, bài ca Đắc thú lâm truyền thành đạo của Trần Nhân Tông; bài phú Vịnh Hoa yên tự của Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang. Về sử học, đến thời Trần việc biên soạn những bộ sử của đất nước đã được đẩy mạnh. Nhiều bộ sử đã xuất hiện vào thời Trần như Việt sử lược, An nam chí lược, Việt sử cương mục… Đáng chú ý nhất trong đó là bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu. Đặc biệt, lúc bấy giờ ở nước ta còn xuất hiện những bộ sử chuyên ngành, dã sử và truyền thuyết của dân tộc, như tác phẩm Thiền uyển tập anh, Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái… Trong thời Trần các ngành nghệ thuật sân khấu, ca vũ nhạc cũng có những tiến bộ đáng kể. Nhạc cụ ở nước ta thời đó đã khá phong phú, tuồng, chèo trở thành một hình thức nghệ thuật được cả cung đình và dân gian ưa thích. Đặc biệt, ngành kiến trúc và điêu 32 khắc đã đạt được những thành tựu quan trọng. Những công trình kiến trúc nổi bật trong thời Trần có tháp Bình Sơn, chùa Phổ Minh… Chứng tỏ khả năng kỹ thuật thiết kế và xây dựng của người Việt thời đó khá cao. Một số ngành khoa học tự nhiên như thiên văn, lịch pháp, y học của dân tộc ta thời nhà Trần đã đạt được những thành tựu đáng kể. Cuối thời Trần có Đặng Lộ và Trần Nguyên Đán là những nhà thiên văn và lịch pháp nổi tiếng. Riêng về y học, thời Trần cũng đạt được kết quả đáng chú ý. Đó là việc Thái y viện nhà Trần đã quan tâm đến việc dùng thuốc Nam để chữa bệnh cho dân. Trong thời Trần đã xuất hiện nhà y học và dược học lỗi lạc là Tuệ Tĩnh tức Nguyễn Bá Tĩnh [10, tr. 175 – 176]. Tóm lại, toàn bộ điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị – xã hội Việt Nam thế kỷ XIII – XIV đã đặt ra cho vua tôi nhà Trần nói chung và Trần Nhân Tông nói riêng nhiệm vụ lịch sử lớn lao; đó là phải “cố kết lòng dân”, nêu cao tinh thần độc lập dân tộc, bảo vệ lợi ích của quý tộc nhà Trần với tinh thần điều hòa mâu thuẫn trong lòng xã hội thời bấy giờ – mâu thuẫn giữa giai cấp quý tộc thống trị với tầng lớp nông nô, nô tỳ; mâu thuẫn giữa quý tộc tôn thất nhà Trần với tầng lớp địa chủ quan liêu; xây dựng một thể chế chính trị và nhà nước phong kiến trung ương tập quyền vững mạnh, một nước Đại Việt quy mô, bề thế, có nền văn hóa độc lập nhằm trị nước, an dân và chống lại cuộc xâm lăng tàn bạo của giặc Nguyên – Mông cũng như chống lại sự ảnh hưởng của nền văn hóa ngoại lai. Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ra đời chính là xuất phát từ đòi hỏi cấp thiết đó của lịch sử. Nó không chỉ đáp ứng nhu cầu về tư tưởng là đưa triết lý đạo đức của nhà Phật 33 trở thành một trong những nền tảng đạo đức cho toàn xã hội trên cơ sở xây dựng một tổ chức Phật giáo Việt Nam thống nhất mà còn đáp ứng nhu cầu về chính trị là nhằm thiết lập hệ tư tưởng độc lập, làm chỗ dựa về mặt tinh thần vững chắc cho xã hội Đại Việt. 1.2. NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ TÔN GIÁO HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông không chỉ được hình thành và phát triển trên cơ sở đặc điểm và nhu cầu của điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị – xã hội thời kỳ nhà Trần, mà còn là sự kế thừa những tư tưởng trước đó. Đó chính là tính độc lập tương đối của ý thức xã hội nói chung, của triết học nói riêng trong quá trình phát triển. Xét về mặt văn hóa và về mặt triết lý tôn giáo, tư tưởng triết học Trần Nhân Tông là kết quả của sự kế thừa, dung hợp các tiền đề tư tưởng như tư tưởng văn hóa Việt Nam truyền thống, tư tưởng của Tam giáo: Nho, Đạo và Phật với ba thiền phái nổi tiếng dưới triều đại nhà Lý là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, và đặc biệt là triết học Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ – tiền đề trực tiếp của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông. 1.2.1. Giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và tư tưởng của “Tam giáo” với việc hình thành triết học Trần Nhân Tông Với tư cách là nhà văn hóa, nhà tư tưởng, cuộc đời của Trần Nhân Tông nói chung, tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông nói riêng là sự kế thừa truyền thống văn hóa dân tộc, thể hiện ở ý chí độc lập, tự chủ, tự cường và tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc. 34 Trước khi các triều đại phong kiến phương Bắc xâm lược nước ta cũng như trước khi Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo du nhập Việt Nam, dân tộc Việt đã có một lịch sử dựng nước sớm, một nền văn minh lâu đời, đó là nền văn minh Sông Hồng và việc hình thành nhà nước sơ khai – nhà nước Văn Lang (khoảng năm 700 – 258 trước Công nguyên) và nhà nước Âu Lạc ( khoảng năm 257 – 208 trước Công nguyên); với “trình độ văn hóa khá cao, có xã hội tổ chức thành quy củ, tồn tại lâu dài hình thành hàng ngàn năm’’ [28, tr. 106], có phong tục tập quán, có ngôn ngữ, chữ viết, tín ngưỡng, tôn giáo, có công cụ kỹ thuật sản xuất cùng với các phương thức sinh hoạt văn hóa tinh thần phong phú hình thành từ rất sớm, qua các nền văn hóa Phùng Nguyên (2000 – 1500 tr. CN), Đồng Đậu (1500 – 1100 tr. CN), Gò Mun, Sơn Vi, Hòa Bình, Đông Sơn (khoảng thế kỷ VII trước CN đến thế kỷ II sau CN) “biểu hiện bằng các món dụng cụ, trang sức, trống đồng, thạp đồng, mũi tên đồng, thành quách, v.v… mà người Việt Nam hiện đại rất tự hào” [27, tr. 57]. Về kinh tế, người Việt cổ đã biết chế tạo và sử dụng vật dụng sản xuất bằng đồng sau đó là bằng sắt, biết chăn nuôi gia súc và trồng lúa nước. Trên lĩnh vực tư tưởng người Việt cổ đã biết ý niệm về sự đối xứng, biết tư duy phân loại và tổng hợp, đặc biệt đã hình thành tư duy phân đôi lưỡng hợp với những quan niệm về thế giới và nhân sinh, về cội nguồn của dân tộc rất phong phú và không kém phần sâu sắc; như quan niệm về tứ phủ, quan niệm về “cha rồng – mẹ tiên”, “Sơn Tinh – Thủy Tinh”, về Thần trụ trời và các cặp khái niệm phân đôi lưỡng hợp như “cao – thấp”, “khô – ướt”, “chim – rắn”… Họ cũng 35 đã tin vào sự luân hồi, tuần hoàn của vạn vật và sự tồn tại linh hồn của con người sau khi chết. Về mặt tôn giáo, chúng ta biết trước khi tiếp nhận những tôn giáo ngoại lai, người Việt cổ cũng đã có tín ngưỡng, tôn giáo riêng của mình, bắt nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Đó là tục thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng đa thần giáo. Họ tin và thờ cúng các vị thần linh như Trời, Sấm sét, Sơn Tinh, Thủy Tinh, Ông Địa, Ông Táo, thần bảo trợ mùa màng như Thần Lúa, Mẹ Lúa và các vị thần theo những hiện tượng tự nhiên như Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện… Theo họ, các vị thần này rất linh thiêng, đầy quyền năng và có nhiều phép lạ xuất hiện ở mọi nơi để trừng phạt những kẻ gieo điều ác, giúp đỡ khen thưởng những người hiền lành, nghèo khổ. Việc hình thành một nền văn hóa và hình thức nhà nước phôi thai sớm cùng với việc dân tộc ta liên tiếp phải chống lại các cuộc xâm lăng của các thế lực phong kiến phương Bắc, đã giúp cho dân tộc ta hình thành ý thức về quốc gia dân tộc, về tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường dân tộc và tinh thần yêu nước rất sớm thể hiện trong bài thơ thần của Lý Thường Kiệt như một bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của dân tộc: Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm ? Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư ! [94, tr. 321] Tinh thần quốc gia dân tộc, độc lập tự chủ và tinh thần yêu nước ấy đã được kế thừa và phát huy rực rỡ dưới triều đại nhà Trần nói chung, dưới thời Trần Nhân Tông nói riêng, qua công cuộc xây 36 dựng, kiến thiết một nước Đại Việt thống nhất, có nền văn hóa độc lập và qua ba lần chống lại cuộc xâm lược tàn bạo của giặc Nguyên – Mông với tinh thần “Sát Thát”, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền đất nước. Có thể nói, dưới triều đại nhà Trần tinh thần yêu nước, ý chí độc lập tự chủ, thống nhất quốc gia dân tộc phát triển đến đỉnh cao. Với tầm nhìn xa trông rộng của một nhà văn hóa, nhà chính trị, Trần Nhân Tông đã biết kế thừa truyền thống văn hóa và tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam trong lịch sử, hòa quyện chính trị với tư tưởng văn hóa, để phục vụ cho mục đích dựng nước và giữ nước. Với tinh thần ấy, dưới triều đại của Trần Nhân Tông đã có hai Hội nghị lịch sử: Hội nghị tướng lĩnh ở Bình Than năm 1282 và Hội nghị Diên Hồng năm 1284 ? được mở ra, thể hiện ý chí và tinh thần quyết chiến của dân tộc Việt Nam. Dưới triều đại của Trần Nhân Tông tinh thần yêu nước và ý thức độc lập dân tộc còn được kế thừa và thể hiện qua tình cảm mãnh liệt và hào hùng của Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm .” [95, tr. 387] và ý chí khảng khái trước quân thù của Trần Bình Trọng: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” [84, tr. 507]. Tinh thần yêu nước ở thời đại nhà Trần còn thể hiện trong những vần thơ đầy khí phách và niềm tự hào của Trần Quang Khải: “Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù. Thái bình nên gắng sức, 37 Non nước ấy ngàn thu.” [95, tr. 424] Tinh thần yêu nước và ý chí độc lập dân tộc được Trần Nhân Tông kế thừa và phát triển đến đỉnh cao, còn được thể hiện ở chỗ, ông đã biết chắt lọc, dung hợp các nguồn tư tưởng trong quá khứ của dân tộc với Triết lý nhân sinh của Nho, Lão, Phật và đặc biệt là tư tưởng triết học Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ để sáng tạo nên dòng thiền mang bản sắc Việt Nam độc đáo, một ý thức hệ Đại Việt độc lập. Cùng với việc kế thừa và phát triển các giá trị của tư tưởng và văn hóa truyền thống Việt Nam được hun đúc nên trong tiến trình lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, tư tưởng triết học Trần Nhân Tông được hình thành, phát triển còn do ông đã tiếp thu, chắt lọc các quan điểm khác nhau của Nho, Lão, Phật. Những tư tưởng tôn giáo này là những luồng tư tưởng bên ngoài, trải qua không ít thăng trầm trong tiến trình du nhập lâu dài, để tìm chỗ đứng trong đời sống tinh thần của người Việt. Mỗi tôn giáo có lối đi riêng với những cách thức khác nhau, cạnh tranh với nhau, khi ôn hòa, khi gay gắt, đã được dân tộc Việt Nam tiếp nhận, biến đổi, hòa quyện với văn hóa truyền thống bản địa để trở thành một trong những yếu tố của văn hóa Việt Nam giàu bản sắc và trở thành tiền đề lý luận cho tư tưởng triết học Trần Nhân Tông. Về Nho giáo, theo Đại Việt sử ký toàn thư, thời Tây Hán, tức khoảng năm 110 trước Công nguyên đến năm 39 sau Công nguyên, hai viên Thái thú Tích Quang và Nhâm Diên đã “dựng học hiệu, dạy lễ nghĩa” tại quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Nho giáo bắt đầu truyền vào Việt Nam từ đó. Sau Tích Quang, Nhâm Diên có nhiều nho sĩ 38 người Hán tài năng được chính quyền phong kiến phương Bắc cử sang Giao Chỉ để truyền bá Nho giáo, hoặc vì lý do nào đó mà sang lánh nạn tại Giao Chỉ cũng tham gia vào quá trình truyền bá Nho giáo, được chính quyền đô hộ trọng dụng. Nho giáo du nhập Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc không còn là Nho giáo Khổng – Mạnh nguyên thủy, mà đã được Hán Nho cải tạo cho thích hợp với chế độ phong kiến trung ương tập quyền nhà Hán. Trên cơ sở tư tưởng về “Đạo”, “Thiên lý”, “Thiên mệnh”, “trung dung”, “trung thứ”, “nhân”, “nghĩa”, “trí”, “dũng”, “hiếu”, “kính đễ”, “chính danh”, “quân tử”, “tiểu nhân” của Khổng Mạnh, Đổng Trọng Thư (179 – 104 trước Công nguyên) đã cải tạo kết hợp với thần học, “sấm vĩ”, thần bí hóa các tư tưởng Nho học thành một trào lưu tư tưởng duy tâm thần bí thống trị trong đời sống tinh thần xã hội phong kiến thời Hán, với tư tưởng “Thiên bất biến, đạo diệc bất biến’’, “Thiên nhân cảm ứng”, “Vương quyền thần thụ”, “tính tam phẩm”, “tam thống, tam chính”, “dương tôn, âm ty”, trong quan điểm về vũ trụ và nhân sinh cũng như trong tư tưởng về chính trị và đạo đức xã hội. Nội dung Nho giáo du nhập, truyền bá vào Việt Nam thời kỳ này đó là tư tưởng Thiên mệnh, tư tưởng tôn quân đại thống nhất, đề cao quyền uy của Thiên tử, truyền bá thuyết “tam cương ngũ thường”, “tam tòng tứ đức”… vừa là công cụ tinh thần phục vụ cho trật tự của bộ máy nhà nước quan liêu, vừa được thần bí hóa lợi dụng yếu tố mê tín của nhân dân. Trong việc truyền bá Nho giáo, Sĩ Nhiếp (137 – 266) là người có công lao lớn nhất. Theo Đại Việt sử ký toàn thư Sĩ Nhiếp “người huyện Quảng Tín, quận Thượng Ngô. Tổ tiên ông là người Vấn 39 Dương nước Lỗ, hồi loạn Vương Mãng ở Bắc triều, tránh sang ở đất Việt ta, đến Vương là sáu đời. Khi còn ít tuổi, Vương du học ở kinh đô nhà Hán, theo học Lưu Tử Kỳ người Dĩnh Xuyên, chuyên trị sách Tả thị xuân thu, có làm chú giải” [84, tr. 161]. Chính vì thế, sử thần Ngô Sĩ Liên đã nói: “Nước ta thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy không chỉ ở đương thời mà còn truyền mãi đời sau, há chả lớn sao?” [84, tr.164]. Do vậy Sĩ Nhiếp đã được tôn là “Nam Giao học tổ”, các nhà nho Việt Nam sau này kính trọng Sĩ Nhiếp, tôn ông là Sĩ Vương. Nhưng thực ra Sĩ Nhiếp không phải là nhà nho chính thống, mà là một nhà Đạo học. Vào thời Sĩ Nhiếp trong số những người tài và danh sỹ nhà Hán do hoạn nạn chạy sang lánh tại Giao Châu có tới hàng trăm, được Sĩ Nhiếp tạo điều kiện cùng với ông đẩy mạnh việc truyền bá Nho giáo và Hán học ở Giao Châu. Họ mở trường dạy học ở Luy Lâu, Long Biên, Tư Phố, Cư Phong… Những người theo học ở các trường này không chỉ là con em của những người Hán cai trị và những người chạy sang Giao Châu lánh nạn, mà còn có cả con em của những người bản địa giàu có hay con em của những người hợp tác với chính quyền đô hộ. Trong số đó, theo Bắc sử có một số người Giao Chỉ, Cửu Chân học hành đỗ đạt được bổ làm quan ở Trung Quốc như Trương Trọng, Lý Cần, Lý Tiến, Bốc Long... Từ thời nhà Tấn đến nhà Lương do loạn lạc ở Trung Quốc nên Nho học ở nước ta thời kỳ này không có tiến bộ nào. Đến thời kỳ Tùy Đường, khi Trung Quốc thống nhất trở lại chính sách đồng hóa của nhà nước phong kiến phương Bắc lại được tiếp tục đẩy mạnh, việc truyền bá Nho giáo và Hán học vào Việt Nam phát triển mạnh mẽ. 40 Nhiều người Giao Châu đã tới tận kinh đô Trường An nhà Đường du học. Thời Đường ở Cửu Chân, hai anh em Khương Công Phụ và Khương Công Phục đã đỗ tiến sĩ ở kinh đô, đều được làm quan ở triều đình. Tại Giao Châu, thời Đường cũng đã xuất hiện Lưu Hữu Phương là người nổi tiếng thơ văn. Nhìn một cách tổng quát thời Bắc thuộc Nho giáo ít đi vào các tầng lớp xã hội và chưa có vai trò gì đáng kể trong xã hội Việt Nam. Trừ cuộc khởi nghĩa của Lí Bí, có một nhà nho là Tinh Thiều, người bản xứ Giao Châu, không thuộc “danh gia vọng tộc” đi theo, còn nhìn chung một loạt các cuộc khởi nghĩa vũ trang của nhân dân ta liên tiếp nổ ra thời kỳ Bắc thuộc chống quân xâm lược phương Bắc đều do các hào trưởng lãnh đạo. Sở dĩ có điều đó là vì, một mặt, muốn học Nho thì phải biết chữ Hán, một thứ chữ rất khó học và những người có điều kiện học tập chỉ tập trung ở một số ít con em quan lại thống trị và con em của những người bản địa giàu có, có thế lực; mặt khác, sự du nhập của Nho giáo lại đi theo sau vó ngựa của quân xâm lược và sự truyền bá văn hóa, truyền bá Nho giáo vào Việt Nam lại nằm trong chính sách đồng hóa của các thế lực phong kiến phương Bắc, nhằm nô dịch đô hộ dân tộc ta. Để khẳng định tinh thần độc lập dân tộc chống âm mưu đồng hóa bảo tồn nòi giống, bảo tồn di sản văn hóa cổ truyền dân tộc, bảo tồn tiếng nói, chữ viết, tín ngưỡng, phong tục tập quán, nhân dân ta không thể không phản ứng lại hệ tư tưởng thống trị của kẻ xâm lược đưa vào. Nhưng dân tộc ta cũng biết tiếp thu tinh hoa văn hóa ngoại lai để làm phong phú và sâu sắc nền văn hóa vốn có của dân tộc. Người Việt, theo một số học giả, đã dùng Phật giáo làm tấm lá chắn 41 của chính quyền đô hộ. Bởi vì Phật giáo với tư tưởng “từ, bi, hỉ, xả” đứng về người đau khổ, đứng về phía dân tộc, rất gần gũi với quan niệm phúc đức, nhân ái, vị tha, hòa hiếu của người Việt. Từ sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền xưng Vương hiệu (939) nền độc lập và chủ quyền quốc gia thật sự được khôi phục. Sau đó, nhà Đinh – Tiền Lê (968 – 1009) tiếp tục trị vì đất nước. Lúc này, các nhà nước phong kiến dân tộc quá bận rộn với việc chống giặc ngoại xâm, ổn định trật tự xã hội và thực hiện thống nhất nước nhà nên chưa có điều kiện chăm lo văn hóa giáo dục. Việc học hầu hết “do nhà chùa đảm nhận. Tam giáo tự do lưu hành. Nhà nước sử dụng nhân tài từ cả ba nguồn – Phật, Đạo, Nho – mà trước hết là từ Phật giáo, rồi kế đó là Đạo giáo; còn Nho giáo thì chưa được trọng thị lắm, nhân tài Nho giáo hãy còn hiếm hoi, mờ nhạt như sao buổi sáng.” [27, tr. 64] Đến triều Lý (1010 – 1225), vương triều được xem là đã mở ra kỷ nguyên văn minh Đại Việt với những thành tựu phát triển về mọi mặt, nhất là về văn hóa tinh thần và tư tưởng, xã hội phong kiến bắt đầu phát triển mạnh mẽ. Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo đều được nhà nước tạo điều kiện phát triển, bổ sung cho nhau, đáp ứng nhu cầu tổ chức quản lý xã hội, củng cố vương triều, củng cố đất nước của giai cấp thống trị, đồng thời đáp ứng cả nhu cầu tư tưởng, đời sống tâm linh, đạo đức của các tầng lớp xã hội. Trong đó, Phật giáo – học thuyết được coi là quốc giáo từ ba triều đại trước và đóng vai trò chủ chốt trong việc kiến lập nên vương triều Lý – được nhà Lý hết sức coi trọng, chiếm địa vị chủ đạo trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, “muốn trị nước, củng cố chế độ phong kiến, thì ở vào thế một nước láng 42 giềng có mối quan hệ văn hóa và chủng tộc với Trung Quốc, nhà Lý không thể không cậy vào Nho giáo mỗi lúc một thêm nhiều” [27, tr. 66]. Năm 1070, vua Lý Thánh Tông (1054 – 1072) đã chấp thuận việc xây Văn Miếu ngay tại kinh thành Thăng Long, cho đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối (gồm Nhan Uyên, Tăng Sâm, Tử Tư, Mạnh Tử) thờ phụng ở Văn Miếu, cho vẽ tượng Thất thập nhị hiền (72 học trò giỏi của Khổng Tử) để bốn mùa cúng tế. Năm 1075, nhà Lý mở khoa thi Nho giáo đầu tiên, chính thức khai sinh chế độ thi cử Nho giáo ở nước ta. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lại: “Mùa xuân tháng 2, xuống chiếu tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển, cho vào hầu vua học” [84, tr. 280]. Năm 1076 nhà Lý đã cho lập Quốc tử giám ở ngay giữa kinh thành và “chọn quan viên văn chức, người nào biết chữ cho vào Quốc tử giám” [84, tr. 280]. Từ đây, con em quý tộc họ Lý chính thức bắt đầu được đào tạo theo Nho giáo, nền đại học nước ta được khai sinh. Năm 1156, nhà Lý cho lập miếu riêng để thờ Khổng Tử, thể hiện khuynh hướng muốn dựng Nho giáo thành một giáo lý độc tôn. Đến triều Trần (1226 – 1400), Nho giáo và Nho học có sự khởi sắc hơn thời Lý. Về cơ bản, nhà Trần vẫn tôn chuộng đạo Phật trong bối cảnh khoan dung “Tam giáo đồng nguyên” mà chủ yếu là sự kết hợp giữa Phật và Nho. Nhưng với bài học từ các cuộc nổi dậy của nông dân vào cuối đời Lý, đồng thời để thể hiện duy trì quyền lực và bảo đảm trật tự xã hội, giai cấp thống trị nhà Trần không những tiếp tục thực hiện việc giảng dạy Nho học, phát triển và hoàn thiện chế độ khoa cử, mà còn tôn tạo Văn Miếu, tế tự Khổng Tử, du nhập kinh 43 điển làm cho Nho giáo phát triển lên một bước mới. Trên cơ sở Quốc tử giám được lập từ đời Lý, nhà Trần lập ra các trường Quốc tử viện, Quốc học viện, Thái học, Nhất toát trai, Tư thiện đường, Thiên trường phủ học, Lạn Kha thư viện v.v... đã củng cố việc học và mở rộng đối tượng học tập. Năm 1236, nhà Trần đặt chức Thượng thư tri Quốc tử viện, đưa con em văn thần, tụng thần (chức quan tư pháp) vào học. Năm 1253, nhà nước cho lập Quốc học viện, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Á Thánh (Mạnh Tử), vẽ tranh 72 người hiền để thờ [85, tr. 25], và năm Nhâm Thân, /Thiệu Long/ năm thứ 15 còn “xuống chiếu vời nho sĩ trong nước đến Quốc tử viện giảng tứ thư lục kinh” [85, tr. 25]. Năm 1272, vua Trần Thánh Tông “xuống chiếu tìm người tài giỏi, đạo đức thông hiểu kinh sách làm Tư nghiệp Quốc tử giám, tìm người có thể giảng bàn ý nghĩa của Tứ thư ngũ kinh sung vào hầu nơi vua đọc sách” [85, tr. 39]. Về khoa cử, năm 1232 nhà Trần đặt ra học vị đầu tiên cho thi cử Nho giáo ở nước ta, là học vị Thái học sinh, học vị thuộc hàng cao nhất (sau đổi thành Tiến sĩ). Các kỳ thi Thái học sinh được tổ chức quy củ và thường xuyên, bảy năm một kỳ. Nội dung và quy chế thi được quy định chặt chẽ. Năm 1304, thi kẻ sĩ trong nước, có tất cả 44 người đỗ Thái học sinh. Có thể thấy chế độ giáo dục, khoa cử đời Trần đã nâng cao địa vị Nho giáo thêm một bậc so với thời Lý, đồng thời đã tạo một tầng lớp nho sĩ ngày càng đông, có ảnh hưởng ngày càng lớn trong triều đình và giới quý tộc, trong đó có những gương mặt nổi bật như Lê Văn Hưu, Chu Văn An, Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi… Nhiều nho sĩ được bổ vào các chức ở Viện Hàn lâm, các cơ quan hành khiển, sung vào các phái bộ sứ thần hoặc 44 tiếp sứ ở Trung Quốc, đóng góp quan trọng vào công cuộc ngoại giao cũng như chính trị… Thế lực họ ngày càng mạnh, nắm vững nhiều chức vụ trọng yếu trong bộ máy nhà nước phong kiến và “họ lần lần có đủ uy lực chẳng những để dám công khai phản đối một số đặc quyền đặc lợi của quý tộc, mà còn công khai tiến công vào Phật giáo lúc Phật giáo còn là tôn giáo của nhà vua” [27, tr. 69]. Trương Hán Siêu, khi được soạn văn bia chùa Khai Nghiêm ở Bắc Giang đã viết: “Chùa bỏ rồi lại dựng, đã chẳng phải ý của ta. Dựng bia rồi khắc chữ, ta biết nói chuyện gì. Ngày nay thánh triều muốn truyền bá phong hóa nhà vua, để chấn hưng phong tục đang bị suy đồi. Dị đoan đáng phải truất bỏ, thánh đạo nên được phục hưng. Làm sĩ đại phu, không phải đạo Nghiêu Thuấn thì không trình bày, không phải đạo Khổng Mạnh thì không trước thuật. Thế mà cứ bo bo lải nhải chuyện Phật, ta định lừa dối ai đây ?” [85, tr. 134 – 135] Sự phê phán, bài bác Phật giáo của các nho thần thực chất là cuộc đấu tranh tư tưởng giữa một bên là tiếng nói đại diện cho tầng lớp địa chủ quan liêu và một bên là tiếng nói đại diện cho tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần. Nó cũng không chỉ đơn thuần biểu hiện trên phương diện tư tưởng và tôn giáo mà sâu xa hơn chính là “muốn làm sáng đạo thánh hiền”, chấn hưng “thánh đạo”, bác bỏ cả thể chế xã hội của tầng lớp quý tộc nhà Trần. Cho nên họ đã bị những người bảo vệ cho tư tưởng, chế độ, nhà nước vương triều Trần lên tiếng kết tội khá gay gắt. “Phan Phu Tiên đã nói: “Triều thần như bọn Lê Bá Quát, Phạm Sư Mạnh muốn thay đổi chế độ.” Vua nói: “Nhà nước đã có phép tắc riêng, Nam Bắc khác nhau, nếu nghe kế của bọn học trò mặt trắng tìm đường tiến thân thì sinh loạn ngay.” [85, tr.138] 45 Cũng như các vị vua trước kia của triều đại nhà Trần, Nho giáo không chỉ ảnh hưởng đến Trần Nhân Tông trong việc trị nước, an dân, mà còn ảnh hưởng đến nội dung tư tưởng triết học của ông. Điều này được phản ánh rõ nét qua các bài thơ thể hiện tư tưởng của mình, Trần Nhân Tông từng nhiều lần đề cập đến các điển tích Nho giáo, nhắc đến Nghiêu, Thuấn; đến Kinh đến Dịch và sử dụng nhiều quan điểm, khái niệm quan trọng của Nho giáo khi bàn về vấn đề đạo đức nhân sinh, như “Trong đạo nghĩa, khoảng cơ quan, đã lọt lẫn trường Kinh cửa Tổ’’[95, tr. 507], “ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu’’ [95, tr. 507], “Sống mà không giúp gì cho đời là điều đáng hổ thẹn của kẻ trượng phu” [95, tr. 477] qua một loạt các phạm trù đạo đức nhân sinh của Nho giáo như: “đạo nghĩa”, “trung”, “hiếu”, “thờ chúa”, “thờ cha”, “thờ thầy”, “trượng phu”, “xem kinh”, “đọc lục”, “học đạo”… Không ảnh hưởng lớn như Nho giáo và Phật giáo, nhưng Đạo giáo cũng giữ một vai trò nhất định và là một trong những tiền đề lý luận của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông. Theo các tài liệu nghiên cứu, người ta đều cho rằng, Đạo giáo du nhập Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc có lẽ cùng thời với Nho giáo. Về mặt học thuật, cơ sở lý luận của Đạo giáo là bắt nguồn từ học thuyết triết học Lão – Trang. Tuy nhiên sau thời kỳ Xuân thu – Chiến quốc, Đạo giáo bắt đầu rời bỏ siêu hình học trong lý luận về phạm trù “đạo” có tính chất trừu tượng, tự nhiên, vô vi và đi vào con đường tu tiên, tìm kiếm sự trường sinh bất tử, kết hợp với các hiện tượng mê tín dị đoan để trở thành phái Hoàng Lão. Với tư cách là một trường phái tư tưởng, ở Việt Nam Đạo giáo không ảnh hưởng lớn bằng Phật giáo và Nho giáo. Nếu Đạo gia 46 ảnh hưởng nhiều đến tầng lớp trí thức thì Đạo giáo lại ảnh hưởng trong dân chúng. Trong Đạo giáo lại chia thành hai khuynh hướng, là Đạo thần tiên và Đạo phù thủy. Đạo giáo thần tiên ảnh hưởng đến vua quan quý tộc ở tư tưởng tiêu dao, khoáng đạt, sống ung dung tự tại, còn Đạo phù thủy lại hòa nhập với tín ngưỡng ma thuật cổ truyền của nhân dân. Nhưng Đạo giáo Việt Nam không giống với Đạo giáo ở Trung Quốc, bởi vì, Đạo giáo Việt Nam có tiền đề tư tưởng, nguồn gốc lý luận không chỉ từ phía Trung Quốc, mà đã được Việt hóa trên cơ sở tín ngưỡng, ma thuật và tư tưởng phiếm thần bản địa. Điều đó được biểu hiện qua việc Đạo giáo Việt Nam ngoài việc vay mượn, tiếp nhận nhiều vị thần vốn có trong Đạo giáo Trung Quốc như Lão Tử (Thái Thượng Lão Quân), Quan Công, Lão Đồng Tân, Văn Sương Đế Quân, Hiên Thiên Chấn Vũ… tín đồ Đạo giáo Việt Nam sau này đã dung hợp Đạo giáo với tín ngưỡng bản địa để tạo ra các vị thần riêng của mình như, tục thờ Tứ bất tử gồm Bà Chúa Liễu Hạnh, Thần núi Tản Viên, Chử Đồng Tử, Thánh Gióng, như tín ngưỡng thờ mẫu (Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Địa), tục thờ Tam phủ, Tứ phủ… mà mỗi vị thần này đều có sự tích công trạng riêng và đi kèm là các hình thức lễ nghi thờ cúng riêng. Đến thời kỳ nhà Lý, Đạo giáo đã có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống tinh thần xã hội, biểu hiện ở việc các thiền sư trong một số trường hợp đã sử dụng đến quan điểm của Đạo gia về thuyết vô vi để bàn cách trị nước, như thiền sư Pháp Thuận và ở việc xây dựng nhiều miếu thờ cũng như sự trọng vọng tin dùng các đạo sĩ, nổi bật là đạo sĩ Thông Hiền. Đến thời nhà Trần, Đạo giáo hòa nhập rộng rãi vào tín ngưỡng dân gian của cư dân đất Việt, tạo nên sự dung hợp trong tinh 47 thần Tam giáo đồng nguyên. Các thiền sư nổi tiếng để thu phục lòng người, xiển dương Phật pháp cho quần chúng, đã sử dụng những bùa phép ma thuật khá phù hợp với tín ngưỡng dân gian của nhân dân ta, kết hợp với yếu tố Mật tông để cầu đảo, cầu phúc, bốc thuốc chữa bệnh, trừ diệt tà ma. Nhiều bậc danh tăng được người đời hết mực tôn kính với tài năng đức độ và năng lực thần thông của họ trong việc phù trợ chính quyền như thiền sư Khuông Việt, thiền sư Vạn Hạnh, thiền sư Không Lộ, thiền sư Giác Hải… Tôn thất nhà Trần cũng rất tin theo các đạo sĩ như khi đạo sĩ Thái Thanh cầu tự cho vua Thái Tông “đọc sớ xong [đạo sĩ] tâu vua: “Thượng đế đã y lời sớ tâu, sắp sai Chiêu Văn đồng tử giáng sinh ở trần bốn thế kỷ”. Thế rồi hậu cung có mang. Sau quả nhiên sinh con trai, hai cánh tay có chữ “Chiêu Văn đồng tử”, nét chữ rất rõ.” [85, tr. 26]. Đạo giáo trong tổ hợp tam giáo đời Trần là sự kết hợp giữa triết lý vô ngã của Phật giáo, tính chất duy lý của Nho giáo và các hình thức tín ngưỡng dân gian của người Việt, nên không hoàn toàn mang tính chất ma thuật thần bí, mà hết sức thuần phác. Trong tư tưởng triết học của mình Trần Nhân Tông cũng ảnh hưởng quan điểm của Đạo giáo, nhưng sự ảnh hưởng đó chủ yếu trên cơ sở triết lý của Đạo gia, chứ không phải là sự ảnh hưởng trên lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, ma thuật. Trong triết lý nhân sinh của mình, Trần Nhân Tông đề cao quan điểm “tiêu dao”, hòa với tự nhiên vô vi, sống ung dung tự tại nơi “non xanh”, “nước biếc”, hoặc nơi thôn dã thanh bình, “ăn rau trái”, “vận giấy vận sồi”, “lánh thị phi, ghê danh sắc” [95, tr. 505 – 507], “Công danh chẳng trọng. Phú quý chẳng 48 màng”, “Kiếm chốn dưỡng thân; khuất tịch non cao, náu mình sơn dã.” [95, tr. 533] Một trong những tiền đề lý luận quan trọng nhất góp phần hình thành nên tư tưởng triết học Trần Nhân Tông đó là Phật giáo. Vấn đề sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Theo Truyện nhất dạ trạch trong Lĩnh Nam trích quái của Vũ Quỳnh và Kiều Phú, vào đời Hùng Vương thứ 3 tức khoảng năm 512 trước Công nguyên ở núi Quỳnh Viên ngoài biển, có một tiểu tăng tên là Ngưỡng Quảng (có sách gọi là Phật Quang) đã truyền phép cho Chử Đồng Tử. Chử Đồng Tử trở về giảng lại đạo Phật cho Tiên Dung, Tiên Dung bèn giác ngộ và cả hai bỏ phố phường cơ nghiệp để tìm thầy học đạo. Như vậy, theo truyền thuyết Phật giáo truyền vào nước ta khoảng cuối thế kỷ thứ VI đầu thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Nhưng đó chỉ là truyền thuyết. Một số quan điểm khác lại cho rằng Phật giáo vào nước ta khoảng thế kỷ thứ nhất, khi nước ta phụ thuộc nhà Hán. Khi đó ở Việt Nam đã có một trung tâm Phật giáo nổi tiếng Luy Lâu, được thành lập là do sự viếng thăm của các thương gia và các tăng sĩ Ấn Độ, trực tiếp bằng đường biển chứ không phải từ Trung Hoa truyền xuống. Trong Thiền uyển tập anh, phần tiểu sử thiền sư Thông Biện có đoạn nói rằng Tùy Văn Đế muốn hỗ trợ tam bảo đã xây xá lợi để thờ 49 nơi, làm hơn 150 ngôi chùa tháp. Ông muốn làm chùa tháp ở Giao Châu bèn sai pháp sư Đàm Thiên chọn một số danh tăng sang đó để giao hóa, khiến mọi người đều biết đến Đạo Bồ đề. Pháp sư Đàm Thiên tâu: “xứ Giao Châu có đường thông trực tiếp với Thiên Trúc. Khi Phật pháp mới đến Giang Đông chưa khắp thì ở Luy Lâu đã có tới 49 20 ngôi bảo tháp, độ được hơn 500 vị tăng và dịch được 15 quyển kinh rồi” [49, tr. 91 – 92]. Điều đó chứng tỏ Phật giáo đến Giang Đông chưa đầy đủ thì Luy Lâu đã trở thành trung tâm Phật giáo ở nước ta. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng vào thời Sỹ Nhiếp (187 –226) Phật giáo không chỉ có mặt mà còn phát triển khá hưng thịnh ở Việt Nam. Trong Đại Việt sử ký toàn thư c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfthvnu0069.pdf
Tài liệu liên quan