Đề tài Triển vọng và giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn đến năm 2010

Tài liệu Đề tài Triển vọng và giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn đến năm 2010: Trường đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương Khoá luận tốt nghiệp Đề tài Triển vọng và giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 Sinh viên thực hiện : nguyễn thái hà Lớp : Nhật 2 -K37 Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS. Vũ chí lộc Hà nội - 2002 Hà nội - 2000 Mục lục Lời nói đầu 6 Chương I: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước 9 I. Những khái niệm cơ bản về FDI 9 1. Khái niệm 9 2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp 10 3. Các hình thức chủ yếu của đầu tư trực tiếp 10 4. Vai trò của nguồn vốn FDI đối với các nước đang phát triển 11 II. Xu hướng vận động của vốn FDI trên thế giới sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 1997-1998 12 1. Dòng vốn FDI đang phục hồi từ sau khủng hoảng Châu á và vẫn chịu sự chi phối chủ yếu của các nước công nghiệp phát triển 12 2. ĐTNN dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh công ty ở nước ngoài vẫn là chiến lược...

doc98 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 928 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Triển vọng và giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn đến năm 2010, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương Khoá luận tốt nghiệp Đề tài Triển vọng và giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 Sinh viên thực hiện : nguyễn thái hà Lớp : Nhật 2 -K37 Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS. Vũ chí lộc Hà nội - 2002 Hà nội - 2000 Mục lục Lời nói đầu 6 Chương I: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước 9 I. Những khái niệm cơ bản về FDI 9 1. Khái niệm 9 2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp 10 3. Các hình thức chủ yếu của đầu tư trực tiếp 10 4. Vai trò của nguồn vốn FDI đối với các nước đang phát triển 11 II. Xu hướng vận động của vốn FDI trên thế giới sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 1997-1998 12 1. Dòng vốn FDI đang phục hồi từ sau khủng hoảng Châu á và vẫn chịu sự chi phối chủ yếu của các nước công nghiệp phát triển 12 2. ĐTNN dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh công ty ở nước ngoài vẫn là chiến lược hợp tác phát triển chính của các công ty xuyên quốc gia (TNCs). 15 3. Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới. 17 4. Các tập đoàn xuyên quốc gia đóng vai trò quan trọng trong luồng vốn FDI của thế giới. 18 5. Các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước ở Châu á sau khủng hoảng đang là trung tâm thu hút mạnh mẽ vốn FDI. 19 III. Một số kinh nghiệm thu hút vốn FDI từ các nước trong khu vực sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu á. 20 1. Kinh nghiệm từ Thái Lan 21 2. Kinh nghiệm từ Hàn Quốc 22 3. Kinh nghiệm từ Trung Quốc 24 4. Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 26 Chương II : Thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam trong giai đoạn 1996-10/2002 28 I. Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam. 28 II. Thực trạng việc thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam giai đoạn 1996-10/2002. 33 1. Thực trạng thu hút và sử dụng FDI giai đoạn 1996-10/2002 33 1.1 Lượng vốn, lượng dự án, quy mô dự án qua các năm 33 1.2 Cơ cấu đầu tư 35 2. Tình hình thực hiện dự án FDI trong giai đoạn này 42 3. Đánh giá vai trò của FDI trong phát triển kinh tế xã hội 46 III. Những tồn tại trong việc thu hút và sử dụng vốn FDI vào Việt Nam. 51 1. Nhận thức quan điểm về ĐTNN chưa quán triệt, nhất quán 51 2. Sự chưa hoàn chỉnh trong hệ thống luật pháp và chính sách ĐTNN: 52 2.1. Những hạn chế về luật pháp 52 2.2 Những hạn chế trong chính sách 54 3. Công tác quy hoạch còn chậm, chất lượng chưa cao, thiếu cụ thể dẫn đến cơ cấu vốn đầu tư chưa hợp lý 59 4. Môi trường đầu tư của Việt Nam chưa được chuẩn bị tốt để thu hút và sử dụng vốn FDI hiệu quả 61 Chương III: Triển vọng và giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư vào Việt Nam giai đoạn 2003-2010. 68 I. Triển vọng thu hút vốn FDI của nước ta giai đoạn 2003-2010 68 1. Mục tiêu, nhiệm vụ thu hút FDI tại Việt Nam trong thời tới 68 2. Những thuận lợi và khó khăn trong thu hút FDI 69 2.1 Những thuận lợi 69 2.2 Những khó khăn 71 II. Giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư vào Việt Nam trong giai đoạn 2003-2010 72 1. Thống nhất nhận thức, xây dựng chiến lược và nâng cao chất lượng quy hoạch vốn FDI 73 2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động ĐTNN 74 3. Đổi mới và triển khai hiệu quả các chính sách về vốn FDI 79 4. Nâng cao hiệu quả quản lý và hiệu lực điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực ĐTNN 87 5. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động và xúc tiến đầu tư 90 6. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và các tổ chức đoàn thể trong các doanh nghiệp ĐTNN 91 Kết luận chung 93 Tài liệu tham khảo 95 Phụ lục 98 Một số thuật ngữ viết tắt trong đề tài FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài ĐTNN : Đầu tư nước ngoài CNH-HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá GDP : Thu nhập quốc nội Phần mở đầu Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định đường lối phát triển kinh tế đất nước là “tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và chủ động hội nhập quốc tế" [2], trong đó, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được xem là một giải pháp quan trọng hàng đầu về nguồn lực để thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Nhìn lại 15 năm đổi mới (1986-2001), nguồn vốn FDI đã đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội trung bình khoảng 24-25%/năm. Thành phần kinh tế có vốn FDI phát triển khá thành công. Riêng năm 2001, các doanh nghiệp có vốn FDI đã tạo được 34% giá trị toàn ngành công nghiệp, hơn 22% kim ngạch xuất khẩu và đóng góp trên 10% GDP của cả nước. Bên cạnh việc tạo vốn, nguồn vốn FDI còn mang lại sức sống mới cho nền kinh tế quốc dân thông qua cung cấp khoa học kỹ thuật và quy trình công nghệ hiện đại, kỹ năng quản lý tiên tiến, chuyển giao các bí quyết kỹ thuật, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế... Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua đã giải quyết 35 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp đang dư thừa trong nước ta... Những đóng góp trên cho thấy vốn ĐTNN là một nguồn lực hỗ trợ quan trọng không thể thiếu trong quá trình thực hiện CNH, HĐH ở nước ta. Tuy nhiên, trong những năm 1997-1999, vốn FDI vào Việt Nam có xu hướng chậm lại. Hiện tượng này được lý giải bởi nhiều nguyên nhân, trong đó một nguyên nhân khách quan là tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1997. Tuy nhiên, có thể nói, nguyên nhân cơ bản là môi trường đầu tư tại Việt Nam trở nên kém hấp dẫn hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Bộ Luật ĐTNN, tuy được đánh giá là khá cởi mở và thông thoáng, song vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế; thêm vào đó, tình trạng cơ sở hạ tầng yếu kém, cơ chế hành chính nặng nề, thủ tục hành chính rườm rà, chưa đảm bảo tính bình đẳng trong môi trường kinh doanh... đã làm nản lòng không ít nhà đầu tư, từ đó làm giảm khả năng cạnh tranh thu hút vốn đầu tư so với các nước trong khu vực. Mặt khác, đất nước ta đang tiến hành công cuộc CNH, HĐH trong bối cảnh nguồn lực trong nước còn rất hạn chế: mức GDP tính bình quân đầu người chưa quá 400 USD, và mức tích luỹ chỉ đạt 26% GDP (7 tỷ USD), thì nhu cầu thu hút vốn FDI đối với nước ta càng trở nên cấp bách. Trước thực trạng trên, tiến hành nghiên cứu việc thu hút vốn FDI một cách toàn diện, có hệ thống; trên quan điểm nhìn thẳng vào những hạn chế đang còn tồn tại, đề xuất những giải pháp khoa học, hữu hiệu và khả thi, nhằm tăng cường việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam là rất cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Từ những lý do trên, em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Triển vọng và giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn đến năm 2010" làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của mình trên danh nghĩa là một công trình tập sự nghiên cứu với mục đích nâng cao sự hiểu biết, tạo điều kiện đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu một vấn đề mà mình tâm đắc, đồng thời cũng là một chút đóng góp nho nhỏ những kiến nghị mà qua quá trình sưu tầm, nghiên cứu đã đúc rút được. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, khoá luận này được trình bày trong 3 chương: Chương 1 : Cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm chung về đầu tư nước ngoài Chương 2 : Thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam trong giai đoạn 1996-10/2002 Chương 3 : Một số giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư vào Việt Nam giai đoạn 2003-2010. Đề tài là một vấn đề hết sức phức tạp, đặc biệt với sinh viên như em vì lẽ trình độ hiểu biết còn hạn chế, kinh nghiệm của bản thân chưa tích luỹ được nhiều, việc thu thập và xử lý thông tin gấp, gặp nhiều khó khăn. Chính vì vậy, nội dung bài viết còn rất nhiều vấn đề chưa được đề cập và còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến và sự chỉ bảo của thầy cô và bạn bè về nội dung cũng như cách trình bày. Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Vũ Chí Lộc – trưởng khoa sau Đại học, Trường Đại học ngoại thương đã dành nhiều thời gian và tâm đắc, đóng góp nhiều ý kiến quý báu, bổ sung cũng như chỉnh lý nội dung và hình thức nhằm giúp em hoàn thành khoá luận này. . Chương I Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước I. Những khái niệm cơ bản về FDI: 1. Khái niệm: Theo khoản 1 điều 2 Luật ĐTNN ban hành năm 2000:”Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”. Hiểu rộng ra, có thể thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư do các tổ chức kinh tế và các cá nhân nước ngoài tự mình hoặc cùng các tổ chức kinh tế nước sở tại bỏ vốn vào một đối tượng nhất định, trực tiếp quản lý hoặc điều hành để thu lợi nhuận trong kinh doanh. Quan điểm nghiên cứu của Cac-Mac cũng chỉ ra: đầu tư trực tiếp là người sở hữu tư bản tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Cho nên nếu khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho thực thể kinh tế này của nước ngoài có “ảnh hưởng quyết định” đối với thực thể ấy hoặc tăng thêm “quyền cầm cái” trong thực thể kinh tế mà nó ảnh hưởng ấy, thì đó là đầu tư trực tiếp. Như vậy, dưới góc độ kinh tế, đầu tư trực tiếp được hiểu là một hoạt động kinh doanh mà ở đó có sự tách biệt ở tầm vĩ mô về chủ thể (bên đầu tư và bên nhận đầu tư), nhưng lại có sư kết hợp vi mô trong việc sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư. Ngoài ra, đầu tư trực tiếp không chỉ là một quan hệ buôn bán đơn thuần mà còn là sự di chuyển những điều kiện sản xuất giữa các quốc gia nhằm thu lợi nhuận. Như vậy, hàng hoá đầu tư chỉ bao gồm C+V là tư bản bất biến và tư bản khả biến sẽ kết hợp với sức lao động của nước sở tại trong quá trình sản xuất để tạo ra m và hàng hoá được tạo ra trong đầu tư được thực hiện trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh để sinh ra lợi nhuận. Các nhà kinh tế học Phương Tây khi nghiên cứu về đầu tư trực tiếp không chỉ dừng ở khái niệm mà còn đưa ra các quan điểm lý thuyết để lý giải, như: thuyết cấu thành hữu cơ của đầu tư (Kindlebeger), lý luận về đầu tư ra nước ngoài để phân tán rủi ro (M.Markawitey), lý luận về chu kỳ sản phẩm (R.Vermon), lý luận gắn đầu tư nước ngoài với chính sách khuyến khích của Chính phủ, lý thuyết về lợi thế so sánh (S.Hirock)... 2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài: Từ những quan điểm lý thuyết ở trên, có thể rút ra những đặc điểm về đầu tư trự tiếp nước ngoài như sau: - Đây là hình thức đầu tư mà các chủ đầu tư có quốc tịch khác nhau tự quyết định đầu tư bằng nguồn vốn của mình, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. - Đầu tư trực tiếp chịu sự chi phối mãnh liệt của quy luật thị trường, vì vậy lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của các nhà đầu tư. - Nguồn vốn FDI không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định, trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được. - Hình thức đầu tư này giúp nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hcọ hỏi kinh nghiệm quản lý... Đây là ưu điểm mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. 3. Các hình thức chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài: Đầu tư trực tiếp nước ngoài có ba hình thức chủ yếu sau: (Theo Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 tại Việt Nam) - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, được thành lập ở nước nhận đầu tư do chủ vốn đầu tư tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp này được thành lập dưới hình thức công ty TNHH có tư cách pháp nhân. - Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư nước ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp của nước nhận đầu tư trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Các bên tham gia góp vốn cùng điều hành hoạt động kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Hình thức này cũng có tư cách pháp nhân. - Hợp đồng hợp tác kinh doanh: là hình thức mà ở đó chủ đầu tư nước ngoài có thể hợp tác kinh doanh với nước sở tại trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh mà không thành lập pháp nhận mới. 4. Vai trò của nguồn vốn FDI đối với các nước đang phát triển: Đối với các nước đang phát triển, nguồn vốn FDI có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế. Sau đây là một số đánh giá về vai trò của FDI được xem xét dưới góc độ là các nước nhận đầu tư. Một là, nguồn thu FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển khác. Hơn nữa, ở các nước đang phát triển, do tích luỹ nội địa còn thấp, tổng đầu tư toàn xã hội không đáng kể. Do đó để tạo đà phát triển nhanh, nguồn vốn từ nước ngoài trở thành nhân tố có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các nước này. Hai là, ĐTNN góp phần phát triển nguồn nhân lực, giúp giải quyết lao động dư thừa hiện tại. Đồng thời, giúp tiếp thu được những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại, từ đó phát triển chất lượng nguồn nhân lực theo hướng tiếp cận kinh tế tri thức. Ba là, việc thu hút và sử dụng vốn FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển phù hợp với xu hướng chung của phân công lao động quốc tế. Qua nguồn vốn này, cơ cấu xuất nhập khẩu cũng biến đổi theo hướng phù hợp hơn. Bốn là, nguồn thu FDI góp phần bổ sung quan trọng cho ngân sách của các nước này thông qua các khoản lệ phí như: tiền thuê đất, phí cho các loại hình dịch vụ khác, thuế doanh thu... II. Xu hướng vận động của vốn FDI trên thế giới sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á năm 97-98: Trong xu thế bùng nổ đầu tư và thương mại, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày càng gia tăng đã góp phần không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế toàn cầu: mang lại “phép lạ” cho nền kinh tế Châu á và thúc đẩy toàn cầu hoá kinh tế ngày một phát triển và lan rộng. Cuối năm 1997, cuộc “khủng hoảng kép” tài chính - tiền tệ Châu á lớn nhất trong lịch sử đã bùng nổ với quy mô và mức độ tàn phá chưa từng thấy. Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ sự phát triển quá nóng của nền kinh tế, từ những bất cập về chính sách tỷ giá, từ sự yếu kém của hệ thống tài chính ngân hàng [9]. Chỉ trong 2 năm 1997-1998, nó đã làm thay đổi cơ bản bàn cờ đầu tư thế giới, tác động làm chuyển hướng luồng vốn FDI, đưa nền kinh tế thế giới vào thời kỳ tăng trưởng thấp. Theo đánh giá của IMF và WB, tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2001 đạt 1,3-1,5% so với 3,9% năm 2000, đây là mức thấp nhất trong vòng một thập kỷ qua. Tăng trưởng thương mại toàn cầu năm 2001 cũng chỉ bằng 1/6 năm 2000, giảm từ 12% xuống còn 2%. Như vậy, cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ 1997-1998 đã có tác động không nhỏ đối với vận động của dòng FDI trên thế giới? Dòng FDI đang chảy về đâu, xu hướng của nó hiện tại và trong tương lai như thế nào? 1. Dòng vốn FDI trên thế giới đang phục hồi từ sau khủng hoảng Châu á và vẫn chịu sự chi phối chủ yếu của các nước phát triển: Mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á đã tác động tiêu cực đến mọi mặt của nền kinh tế toàn cầu, song dòng vốn FDI vẫn tự điều chỉnh và gia tăng. Theo báo cáo của tổ chức Hội nghị về buôn bán và phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD) thì FDI của thế giới năm 1998 tăng 40% so với năm 1997, năm 1999 tăng 25% đạt 1075 tỷ USD, năm 2000, tăng với tốc độ tương tự đạt mức kỷ lục 1271 tỷ USD. Sang năm 2001, suy giảm kinh tế Mỹ-Nhật ngày một trầm trọng đã khiến nguồn vốn FDI của thế giới có dấu hiệu sụt giảm, từ 1271 tỷ USD năm 2000 xuống còn 760 tỷ USD [27]. Dù mức suy giảm như vậy, song FDI năm vừa qua vẫn cao hơn so với năm 1998 và cao hơn mức tăng trung bình của thế giới thời kỳ 1996-2000. Bảng 1: Sự phân bổ vốn FDI theo khu vực (1998-2001) 1998 1999 2000 2001 Toàn thế giới 693 1075 1271 760 Các nước phát triển 483 830 1005 510 Các nước đang phát triển 188 222 240 225 Châu Phi 8 9 8 10 Mỹ La Tinh 83 110 86 80 Châu á - Thái Bình Dương 96 100 144 125 Nam , Đông và Nam á 86 96 137 120 Nguồn: UNCTAD, World Investment Report - 2001. Cũng như những năm trước đây, đại bộ phận dòng vốn FDI được thu hút vào các nước công nghiệp phát triển - nơi vốn được coi là “quê hương” của dòng vốn này. Năm 1995, các nước công nghiệp phát triển chiếm 85% tổng vốn FDI toàn thế giới thì giai đoạn 1999-2001 con số này vẫn duy trì ở mức cao là 76,5% trong tổng 1075 tỷ USD vốn FDI trong năm. Trong các nước phát triển, Mỹ và Anh là hai nước đứng đầu thế giới về tiếp nhận FDI và đầu tư ra nước ngoài. Năm 1999, Anh vượt Mỹ và trở thành nước có lượng đầu tư ra nước ngoài lớn nhất thế giới, đạt 199 tỷ USD; đồng thời cũng là nước tiếp nhận FDI lớn nhất với 276 tỷ USD gần bằng 1/3 tổng lượng FDI toàn cầu. Trong khối EU, Anh, Pháp, Đức là ba nước đầu tư ra nước ngoài lớn nhất. Ngoài ra, Thụy điển do hoạt động sáp nhập của các tập đoàn trong nước diễn ra mạnh mẽ, nên đã trở thành nước nhận FDI lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ. Năm 1999, luồng FDI vào Nhật Bản tăng kỷ lục gấp 4 lần so với năm 1998, đạt 13 tỷ USD. Như vậy ngay cả Nhật Bản - một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu á - cũng đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi, sản xuất bắt đầu tăng trở lại, đầu tư ra nước ngoài tuy có giảm nhẹ song vẫn đạt mức ổn định cao 23-24 tỷ USD [35]. Luồng vốn FDI vào các nước đang phát triển cũng đang khẳng định những dấu hiệu phục hồi vững chắc. Sau thời gian giảm sút năm 1998, luồng vốn FDI tăng 16% vào năm 1999 và là mức tăng cao nhất từ trước đến nay. Như chúng ta thấy, dòng FDI quốc tế sau khủng hoảng có mức độ tăng khá cao. Lý giải cho hiện tượng này, có thể xuất phát từ quá trình hồi phục nền kinh tế thế giới và xu hướng vận động của dòng vốn quốc tế. Thứ nhất, FDI của thế giới bị chi phối bởi hơn 100 công ty xuyên quốc gia (TNCs) khổng lồ của Hoa Kỳ, Nhật Bản. Các công ty này để củng cố sự tồn tại của mình sau khủng hoảng, đều có chiến lược vươn dài ra các khu vực trên thế giới. Thứ hai, năm 1998 là năm đánh dấu thời kỳ bùng nổ các vụ sáp nhập, thôn tính của các TNCs. Thông qua các vụ sáp nhập này, FDI được rót trực tiếp vào thị trường địa phương và khu vực, để tận dụng ưu thế về chi phí vận chuyển và chi phí sản xuất thấp của thị trường nội địa. Thứ ba, các nước tiếp nhận vốn đầu tư đều đang tích cực cải thiện môi trường đầu tư nước mình để tăng khả năng cạnh tranh thu hút vốn; ngược lại, việc nới lỏng các hàng rào buôn bán và đầu tư giữa các nước trên thế giới đã làm tăng dòng FDI trong hệ thống sản xuất toàn cầu [13]. Thứ tư, xu hướng gia nhập Liên minh Châu Âu của các nước Đông Âu tăng lên cũng làm vốn FDI vào khu vực Châu á tăng. Tóm lại, luồng vốn FDI trên thế giới trong năm qua đã có những bước gia tăng đáng kể. Năm 2000-2001, với việc thương mại toàn cầu đang bắt đầu lấy lại nhịp độ tăng trưởng hơn 6%, tương đương với tốc độ tăng trưởng GDP toàn cầu, và việc hầu hết các nền kinh tế các nước đang trên đà phục hồi, sẽ là những động lực chính thúc đẩy dòng FDI hướng vào xuất khẩu tăng. Vì vậy, ta hoàn toàn có thể dự đoán về viễn cảnh gia tăng trở lại của dòng FDI trong những năm tới. Bảng 2: Dự đoán 10 địa chỉ thu hút vốn FDI hàng đầu thế giới STT Nước tiếp nhận FDI tiếp nhận trung bình các năm (tỷ USD) Tỷ trọng trong tổng FDI toàn thế giới 1 Mỹ 236,2 26,6 2 Anh 82,5 9,3 3 Đức 68,9 7,8 4 Trung Quốc 57,6 6,5 5 Pháp 41,8 4,7 6 Hà Lan 36,1 4,1 7 Bỉ 30,2 3,4 8 Canada 29,6 3,3 9 Hồng Kông 20,5 2,3 10 Braxin 18,8 2,1 2. ĐTNN dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh công ty ở nước ngoài vẫn là chiến lược hợp tác phát triển chính của các công ty xuyên quốc gia (TNCs): Trong thập kỷ qua, hoạt động sáp nhập và thôn tính của các TNCs ngày càng mạnh mẽ và trở thành động lực chính của làn sóng toàn cầu hoá vốn FDI trên thế giới. Năm 1999, tổng giá trị các vụ sáp nhập và thôn tính lên tới hơn 3000 tỷ USD và đạt kỷ lục vào năm 2000 là 3500 tỷ USD (so với mức chưa đến 100 tỷ USD năm 1987 và 229 tỷ USD vào năm 1995). Tổng giá trị các vụ sáp nhập-thôn tính gia tăng với tốc độ kinh ngạc là 42%/năm, chiếm 75-80% tổng giá trị FDI toàn thế giới. Các cuộc sáp nhập - thôn tính những năm 1997-1999 gia tăng không chỉ về số lượng mà cả quy mô và chất lượng, chủ yếu là các giao dịch mua bán cổ phần hợp vốn trị giá hàng chục tỷ USD, điển hình có những vụ đạt trị giá hàng trăm tỷ USD, như vụ “hỗn hợp” giữa Vodaphone của Anh và Mannesman của Đức thực hiện trong Quý I/2000 với trị giá 2000 tỷ USD, hay vụ thôn tính Times Warner của American On Line đạt tới trị giá 160 tỷ USD. Đáng chú ý là đa phần các vụ sáp nhập - thôn tính đã thay đổi hẳn về mục đích, không phải là hướng tới lợi ích về kinh tế tài chính ngắn hạn như trước mà mang tính chiến lược và kinh tế. Rõ ràng trong bối cảnh nền kinh tế như hiện nay thì đây là một biện pháp để các tập đoàn công ty lớn bắt tay nhau cùng tồn tại. Qua phân tích tính hình sáp nhập và thôn tính của các TNCs năm 1999-2000, ta thấy thực sự đây là giai đoạn bùng nổ của hoạt động mang tính quốc tế này. Đó là kết quả của sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, những thay đổi trong cơ cấu, và đặc biệt là do sự hoàn thiện vượt bậc của cơ chế tín dụng mới như: trao đổi chứng khoán trên thị trường chứng khoán, vay vốn ngân hàng để tạo kênh cung cấp vốn tham gia vào hoạt động sáp nhập và thôn tính... Năm 2001, xu thế sáp nhập và thôn tính cho thấy dấu hiệu chững lại, trái ngược hẳn với dự đoán của nhiều nhà kinh tế. Số lượng các hợp đồng sáp nhập trên trị giá 1 tỷ USD đã không còn duy trì tốc độ phát triển mạnh mẽ như hai năm trước. Theo đánh giá của UNCTAD, tổng trị giá các vụ sáp nhập - thôn tính năm 2001 chỉ đạt 1300 tỷ USD, giảm 1/3 so với năm trước. Còn theo thống kê của Trung Quốc thì con số này đã giảm những 40% trong năm 2001 so với năm 2000. Một trong số cuộc sáp nhập được cho là lớn trong năm 2001 cũng chỉ đạt 24,6 tỷ USD - giữa Voice Stream Wireless Corp với Deutche Telecom; tiếp đến là cuộc sáp nhập trị giá 13,8 tỷ USD giữa British telecommunication Plc với Viag Intercom GmbH&Co. Có thể nhận thấy sự suy giảm này bắt nguồn từ sự suy giảm chung của nền kinh tế thế giới. Đặc biệt, sự suy giảm mạnh mẽ của kinh tế Mỹ - Nhật làm thị trường vốn bị chi phối nặng nề, thêm vào đó là tác động của cuộc khủng bố ngày 11/9 tại Mỹ mà người ta gọi là “hiệu ứng Bilađen về kinh tế” đã càng làm trầm trọng thêm tình hình kinh tế Mỹ, đẩy Nhật trượt dần vào suy thoái nặng nề và kinh tế EU cũng không sáng sủa hơn. Hiện tượng “lắng dịu” của làn sóng sáp nhập thôn tính của các TNCs cũng có thể được lý giải dưới góc độ tiêu dùng và sản xuất [27]. Do hàng điện và điện tử vốn được coi là mũi nhọn phát triển của các tập đoàn xuyên quốc gia đang nắm giữ công nghệ nguồn nay đã trở nên bão hoà, cung vượt quá cầu; vì thế tất yếu các tập đoàn không còn quan tâm đến đầu tư ra nước ngoài để mở rộng sản xuất như trước đây. Hơn nữa, tính hiệu quả của các vụ sáp nhập, thôn tính còn là điều cần cân nhắc. Có phải khả năng tối đa hoá lợi nhuận bao giờ cũng gắn liền với việc mở rộng quy mô và tăng khả năng huy động vốn không? Như vậy, tác động gián tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vẫn còn những dư âm đối với nền kinh tế toàn cầu, và luồng vốn FDI vẫn bị chi phối bởi xu thế sáp nhập - thôn tính của các công ty lớn đang gia tăng trong những năm gần đây. 3. Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới. Trước đây, nhà đầu tư thường chạy theo lao động rẻ để thu lợi nhuận trong những ngành sản xuất truyền thống thu hút nhiều lao động và khai khoáng, chế biến nông sản của công nghiệp chế tạo. Đối với những nước đang phát triển, đầu tư vào lĩnh vực sản xuất vật chất là chủ yếu chiếm 70%. Ngày nay, nhà ĐTNN lại có xu hướng tìm đến những ngành công nghiệp chất xám mũi nhọn với tỷ lệ lợi nhuận cao hơn, chiếm hơn 50% (đặc biệt là công nghiệp điện tử). Đầu tư vào các ngành: điện, giao thông vận tải, thuỷ lợi... cũng gia tăng, do các nước đang phát triển cam kết mạnh mẽ không quốc hữu hoá, đồng thời dành các chính sách ưu đãi để thu hút vốn FDI vào kết cấu hạ tầng nhằm khắc phục sự hạn hẹ về ngân sách. Đầu tư vào các ngành công nghệ thông tin và kinh tế mạng đang chững lại, song chỉ là hiện tượng nhất thời. Trong những năm tới, dự đoán về nhu cầu mặt hàng điện- điện tử sẽ vẫn tăng cao, đặc biệt là những máy móc hiện đại [27]. Mặt khác, cầu về hàng hoá này sẽ kích thích cầu về mặt hàng khác. 4. Các tập đoàn xuyên quốc gia đóng vai trò quan trọng trong luồng vốn FDI của thế giới. Ngày nay, các TNCs - với khoảng 63000 công ty mẹ và 69000 chi nhánh ở nước ngoài có mặt hâù hết các quốc gia và lĩnh vực kinh tế - đã trở thành lực lượng chủ chốt của nền kinh tế thế giới, chi phối hoạt động sản xuất quốc tế. Năm 1999, giá trị của các TNCs chi nhánh nước ngoài lên tới 2000 tỷ USD, chiếm 1/8 tổng giá trị tài sản của các chi nhánh nước ngoài trên thế giới. Các chi nhánh nước ngoài của hơn 100 TNCs đã tuyển dụng 6 triệu nhân viên [35] . Về phương diện ngành, chiến lược của khu vực của các TNCs chủ yếu tập trung vào các ngành mũi nhọn, như điện tử, chế tạo ôtô, công nghệ thông tin... Hoạt động chính của các TNCs là tăng cường đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, một hình thức cắm rễ sâu và chi phối các nền công nghiệp địa phương. Thời kỳ 1996-2000, tỷ trọng vốn đầu tư ra nước ngoài trong tổng vốn đầu tư của các TNCs EU đã tăng cao chiếm 510 tỷ USD, gần 2/3 tổng luồng FDI của toàn thế giới. Các NICs Mỹ tỷ trọng vốn đầu tư ra nước ngoài trong tổng vốn đầu tư tăng mức 50%, TNCs Nhật đạt hơn 60%. Trong thời kỳ sau khủng hoảng, các TNCs Châu á tiếp tục bị thu hẹp hoạt động kinh doanh do ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng Châu á, nên phải bán các cơ sở kinh doanh, và tiến hành hoạt động sáp nhập và thôn tính lẫn nhau. Đầu tư của các TNCs giai đoạn này vẫn hướng mạnh vào các nước phát triển ở Châu Âu, tuy nhiên đầu tư vào khu vực Châu Phi cũng tăng nhanh. Trái lại, do khủng hoảng Châu á, các TNCs nhanh chóng rút vốn khỏi khu vực này và chờ đợi để bảo toàn vốn. Xu thế thôn tính, sáp nhập trong thời gian qua của các TNCs càng làm tăng sức mạnh về kinh tế. Các TNCs ở các nước càng phát triển mạnh càng gia tăng về số lượng. Chỉ tính riêng 100 TNCs này đã chiếm gần 70% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài trên thế giới. 5. Các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước ở Châu á đang phục hồi trong thu hút vốn FDI sau một giai đoạn suy giảm trầm trọng từ 1997-1999. Hội nhập kinh tế đang trở thành vấn đề toàn cầu. Các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước nghèo, các nước đang phát triển đã tự thay đổi và cải tiến các chính sách kinh tế của mình cho phù hợp với quan hệ kinh tế quốc tế. Đầu tư FDI không chỉ tập trung ở các nước phát triển mà đã có sự dịch chuyển dần sang các nền kinh tế mới. Luồng FDI chảy vào các nước đang phát triển phân bố không đều. Khoảng 2/3 tổng số vốn FDI tập trung vào 10 nước chủ chốt, trong đó có Trung Quốc và Brazin là hai nước tiếp nhận số vốn này lớn nhất. Riêng Trung Quốc tiếp nhận 1/2 tổng số vốn đầu tư vào các nước đang phát triển và chỉ đứng thứ hai thế giới sau Mỹ và Anh về thứ hạng tiếp nhận [29]. Mặc dù ít nhiều chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng khu vực, song đồng nhân dân tệ vẫn được giữ giá, thể chế và môi trường đầu tư được cải thiện theo hướng thích nghi, do đó giới kinh doanh quốc tế vẫn coi trọng Trung Quốc như một miều đất đầy hứa hẹn để đầu tư lâu dài. Đến năm 2001, đã có khoảng 400 trong số 500 công ty xuyên quốc gia lớn trên thế giới chuyển nguồn vốn đầu tư vào các khu vực khác vào Trung Quốc. Có thể nói, Trung Quốc đang là điểm sáng trong bức tranh thương mại và đầu tư đang còn tối màu của Châu á. FDI năm 1999 ở các Đông Nam á giảm với mức độ khác nhau, tùy thuộc vào khả năng ứng phó với cuộc khủng hoảng. Inđonêxia và Philippin đứng đầu danh sách các nhóm nước suy giảm nguồn vốn FDI; tiếp đến Malayxia giảm 27%, Singapo giảm 25%, Việt Nam giảm 23%. Trong khi đó, Hàn Quốc và Thái Lan vẫn duy trì được nguồn vốn đầu tư lớn. Tại Thái Lan, năm 1998 đã thu hút được 7,8 tỷ USD, cao gấp đôi mức của năm 1997. Hàn Quốc thành công hơn với 8,8 tỷ USD năm 1998, tăng 30% so với năm 1997, năm 2000, số vốn FDI thu hút được đạt 10 tỷ USD, tăng gấp 4 lần so với mức trung bình hàng năm. Trên thực tế, hai quốc gia này đã tiến hành những cải cách sâu rộng trên cả bình diện kinh tế vĩ mô và môi trường đầu tư nói chung. Bước sang năm 2001, FDI tại Đông và Đông Nam á đã có những dấu hiệu phục hồi nhưng chưa vững chắc, tăng 11%, đạt 93 tỷ USD, chủ yếu vào các nước Trung Quốc, Đài Loan... tăng 70%. Tại Hàn Quốc, luồng FDI đạt kỷ lục 10 tỷ USD. Luồng FDI vào Singapo và Đài Loan đã tăng nhanh trở lại sau khi giảm mạnh vào năm 1998. III. kinh nghiệm thu hút vốn FDI từ một số nước trong khu vực sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á. Thế giới vừa chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á với những hậu quả có sức tàn phá lớn nền kinh tế toàn cầu. Và thế giới cũng đang chứng kiến các nền kinh tế bị ảnh hưởng đã phục hồi nhờ những đối sách đúng đắn phù hợp với xu thế phát triển chung. Cuộc khủng hoảng đã qua đi, nhưng có lẽ không ai dám chắc những tác động của nó không còn nữa. Với thái độ khoa học, khi nghiên cứu xu hướng vận động của dòng FDI trên thế giới, để tìm ra các giải pháp hữu hiệu và phù hợp cho nền kinh tế Việt Nam, cần thiết phải xem xét các kinh nghiệm của các nước trong khu vực trong việc đưa ra những giải pháp để nhanh chóng vượt qua khủng hoảng. Kinh nghiệm từ Thái Lan: Thái Lan là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực Đông Nam á, song đã có những cải tổ kịp thời thoát khỏi khủng hoảng nhanh chóng. Theo số liệu điều tra của tổ chức Ngoại thương Nhật Bản thì Thái Lan được xếp thứ 3 sau Trung Quốc và Mỹ về địa điểm đầu tư được ưa thích. Những cải tổ kinh tế của Thái Lan mang tính chất cơ cấu, nhằm cải cách cơ bản môi trường đầu tư gắn với tái cấu trúc cơ cấu kinh tế. - Một trong những biện pháp quan trọng là Chính phủ Thái Lan đã ban hành Luật kinh doanh mới (10-1998) theo hướng cởi mở và tự do hơn cho các nhà ĐTNN [19]. Danh mục hạn chế đầu tư đã giảm từ 68 ngành xuống còn 38 ngành, đồng thời tăng tỷ lệ sở hữu của bên nước ngoài lên tới 75%. Đối với các sản phẩm xuất khẩu 50% thì nhà ĐTNN có thể chiếm đa số cổ phần, còn các sản phẩm xuất khẩu 100% thì có quyền bỏ 100% vốn để mua cổ phần của công ty đó. Danh mục các ngành ưu đãi hướng về xuất khẩu cũng được mở rộng trên nhiều lĩnh vực... - Tiến hành sửa đổi Luật đất đai và Nhà ở, trong đó quy định các trường hợp ưu đãi người nước ngoài được mua bán sở hữu đất đai và được quyền chuyển nhượng. - Thái Lan tiến hành cắt giảm thuế mạnh trong nhiều lĩnh vực, trong đó nhằm vào vật tư và trang thiết bị nhập khẩu: miễn thuế thu nhập và thuế nhập khẩu thiết bị máy móc 8 năm cho một số ngành thuộc da, mạ kim loại, phương tiện truyền thông..., thuế nhập khẩu nguyên liệu thô có thể giảm đến 90%... - Ngoài ưu đãi về thuế, Nhà nước Thái Lan còn bảo đảm: không quốc hữu hoá, không lập xí nghiệp quốc doanh cạnh tranh, chống độc quyền, không kiểm soát giá cả hay hạn chế xuất khẩu...; cho phép kiều dân Thái Lan và các nhà kỹ thuật ngoại quốc trong các dự án nằm trong danh mục khuyến khích đầu tư được phép sở hữu đất đai để tiến hành các hoạt động kinh doanh, cho phép tự do nhận hoặc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. - Cải cách cơ bản lĩnh vực tài chính ngân hàng, thực hiện tự do hoá tài chính, tức là trong vòng 10 năm, các nhà ĐTNN có quyền mua lại 100% ngân hàng Thái Lan, như vậy có thể mượn vốn nước ngoài để khắc phục tình trạng thiếu vốn của hệ thống ngân hàng. Sau thời hạn 10 năm này, các nhà đầu tư được phép sở hữu 49% cổ phần của các thể chế tài chính. Biện pháp này đã lấy lại lòng tin của các nhà đầu tư, mang lại cảm giác an toàn và chủ động trong việc đầu tư vốn vào đất nước này. - Bên cạnh các biện pháp trên, Chính phủ Thái Lan còn mở rộng hoạt động xúc tiến đầu tư ở nhiều nước chủ đầu tư lớn như Nhật Bản, Pháp, Đức, Thuỵ Sỹ, Anh... Thông qua các cuộc tiếp xúc này, Thái Lan có thể tiếp cận những mong muốn của nhiều nhà đầu tư, từ đó cải thiện môi trường đầu tư theo hướng thích hợp. Thái Lan cũng khuyến khích các công ty nước ngoài mở văn phòng đại diện và các trung tâm thương mại tại Thái Lan và miễn các loại thuế kèm theo. Trên đây là một số giải pháp cải tổ toàn diện mà Chính phủ Thái Lan đang thực thi sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á. Nhờ đó nền kinh tế Thái Lan sau những năm khủng hoảng đã có những bước tiến vững chắc hồi phục nền kinh tế. Đây là những bài học kinh nghiệm hết sức thiết thực đối với chính sách của Việt Nam trong những năm tới. Kinh nghiệm từ Hàn Quốc: Phải trực tiếp gánh chịu những ảnh hưởng kinh tế nặng nề, song Hàn Quốc cũng là một trong những tấm gương sáng trong việc đưa đất nước nhanh chóng thoát khỏi vòng ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng khu vực 1997... Đến năm 2000, tổng số vốn Hàn Quốc thu hút được đã đạt mức 10 tỷ USD, gấp 4 lần so với mức trung bình trong các năm trong khủng hoảng, lấy lại được niềm tin từ phía các nhà đầu tư. Chính phủ Hàn Quốc đã nghiêm túc xem xét lại những khe hở lớn trong cơ cấu kinh tế - tài chính dẫn đến khủng hoảng và xác định cải cách toàn diện và đồng bộ môi trường đầu tư là biện pháp then chốt để phục hồi nền kinh tế. Thực tế trước khủng hoảng, Hàn Quốc không phải là địa chỉ hấp dẫn đầu tư so với các nước Đông Nam á. Giai đoạn 1986-1996, lượng FDI thu hút vào chỉ chiếm phần nhỏ trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tỷ lệ FDI trên tổng đầu tư vào tài sản cố định trung bình chiếm 1% so với tỷ lệ 7,5% ở các nước Đông Nam á. Phần lớn các công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính, bảo hiểm do một thời gian dài bị hạn chế đầu tư đã chuyển đổi hàng loạt sang hình thức đầu tư bằng vay nợ nước ngoài. Chính vì lý do này, Hàn Quốc đã phải chịu những cú sốc nặng nề trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua. - Để khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng, Hàn Quốc đã sớm ban hành Luật xúc tiến ĐTNN (tháng 11-1998) theo hướng khuyến khích và hỗ trợ đầu tư. Trong đó, chỉ hạn chế đầu tư vào 13 ngành đặc biệt của nhóm A, và danh mục hạn chế đầu tư chỉ có 18 ngành nghề trên tổng số 1150 lĩnh vực. Như vậy, cơ hội đầu tư của nhà ĐTNN được mở rộng. - Bên cạnh đó, Nhà nước cho các nhà đầu tư được hưởng quy chế đãi ngộ quốc gia khi thành lập và hoạt động doanh nghiệp. Cơ chế đăng ký thành lập doanh nghiệp có vốn ĐTNN được đơn giản hoá theo hướng cởi mở. - Năm 1999, Chính phủ Hàn Quốc cho thành lập Trung tâm dịch vụ ĐTNN theo cơ chế “một cửa, một dấu”, thay thế cho chế độ cấp giấy phép như trước đây, dễ gây phiền hà cho nhà ĐTNN. - ở các địa phương, thành lập các khu ĐTNN theo yêu cầu của người nước ngoài, qua đó các địa phương có thể tận dụng những lợi thế riêng của mình trong cạnh tranh thu hút vốn đầu tư. Sửa đổi Luật đất đai và Nhà ở, mở cửa thị trường bất động sản, cho phép nhà ĐTNN được mua bán và sử dụng đất, thời hạn thuê đất được mở rộng thành 100 năm. - Hàn quốc cũng tiến hành tự do hoá thị trường tài chính, mở cửa thị trường chứng khoán và thị trường vốn. Từ ngày 1/4/1999, thực hiện tự do hoá tài khoản vốn, tức là áp dụng chế độ giao dịch ngoại hối tự do.[19] Ngoài ra, Hàn Quốc còn cho phép nhà đầu tư trong một số trường hợp nhất định có thể mua lại công ty và ngân hàng của Hàn Quốc như là một trong các điều kiện để đổi lấy nguồn tài trợ theo chương trình của IMF. Do tính chất khan hiếm lợi nhuận và thị trường, rất nhiều ngân hàng nước ngoài đã không bỏ qua cơ hội dù mạo hiểm nhưng có mức lợi nhuận tiềm năng rất cao này. Với hàng loạt những chính sách này, Hàn Quốc đã nhanh chóng thoát khỏi khủng hoảng và có mức độ hấp dẫn vốn đầu tư với tốc độ kinh ngạc. Mặc dù nền kinh tế Hàn Quốc và Việt Nam có những nét khác biệt lớn về chính trị và trình độ kinh tế, song đây cũng là những bài học kinh nghiệm cho nước ta trong giai đoạn tới. Kinh nghiệm từ Trung Quốc. Trong bối cảnh suy giảm chung của nền kinh tế toàn cầu, Trung Quốc là nền kinh tế duy nhất trên thế giới duy trì được tốc độ tăng trưởng trên 7%. ĐTNN vào quốc gia này trong những năm qua vẫn tăng vững chắc. Tính đến tháng 10/2001, lượng FDI vào Trung Quốc đã tăng 18,6% đạt 37,3 tỷ USD. Chỉ riêng năm 2001, Trung Quốc đã phê chuẩn 26.139 dự án, tăng 17% so với năm 2000, với tổng số vốn đăng ký 69,191 tỷ USD (tăng 10,3%), vốn thực hiện đạt 46,846 tỷ USD (tăng 14,9%). Bình quân mỗi ngày Trung Quốc thu hút được 192 triệu USD vốn ĐTNN. Theo điều tra tháng 10/2001 của tổ chức Ngoại thương Nhật Bản cho thấy có 20% số công ty đa quốc gia của Nhật Bản dự định chuyển nhà máy sản xuất vào Trung Quốc, gần 70% trong số đó sẽ trực tiếp chuyển từ Nhật sang Trung Quốc, số còn lại 4% được chuyển từ Mỹ về. - Thực tế trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, Trung Quốc cũng đã không ít lần đứng trước nguy cơ phá giá đồng nhân dân tệ, nhất là sức ép khi đồng Yên Nhật liên tục giảm giá. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng thực hiện hàng loạt các biện pháp để ổn định môi trường đầu tư, coi thu hút vốn ĐTNN là quốc sách để phát triển, kiên định trong chính sách mở cửa, chủ trương phát triển kinh tế thị trường. - Để đạt được mục tiêu này, Trung Quốc đã huy động hầu như tất cả các ngành, các cấp tham gia thu hút vốn. ở cấp Nhà nước, thực hiện sửa đổi Hiến pháp và hệ thống luật phục vụ ĐTNN: xoá bỏ độc quyền trong một số lĩnh vực kinh tế quan trọng, điều chỉnh các chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, thủ tục giấy tờ... cho các nhà ĐTNN. ở cấp địa phương, phát huy thế mạnh và thế chủ động của từng vùng trong cạnh tranh thu hút vốn bằng cách đơn giản hoá các thủ tục phê chuẩn dự án, đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của nhà đầu tư cũng như hoạt động của các xí nghiệp có vốn ĐTNN. - Về đối tác đầu tư, Trung Quốc rất chú trọng thu hút vốn của các công ty xuyên quốc gia và Hoa Kiều. Đến nay, có khoảng 400 trong số 500 công ty xuyên quốc gia lớn đầu tư vào Trung Quốc trong các lĩnh vực mũi nhọn của nền kinh tế. Đối với Hoa Kiều, Trung Quốc đã có những chính sách ưu tiên đặc biệt tương đương với nhà đầu tư trong nước. Mặt khác, để thực sự thu hút các nhà đầu tư là Hoa kiều, Trung Quốc cho thành lập các đặc khu kinh tế lớn nằm ở các tam giác kinh tế trọng điểm. Khuyến khích các ngành sản xuất hướng về xuất khẩu trong những đặc khu kinh tế này. Ước tính, tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc tăng từ hơn 300 tỷ USD trước khủng hoảng, lên hơn 500 tỷ USD năm 2001 (đứng thứ 8 thế giới)... - Về khu vực đầu tư, Trung Quốc khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa thông qua việc thực hiện các chính sách “thưởng bằng kinh tế” cho những ai mời được các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào những vùng này; cho phép các tỉnh vùng sâu, vùng xa, các khu tự trị được phép phê chuẩn các dự án dùng vốn ĐTNN với tổng số vốn lên tới 30 triệu USD. - Xoá bỏ các hạn chế về lĩnh vực được nhận FDI. Một số hạn chế về thị trường cũng được xoá bỏ thông qua từng bước để loại dần các quy định về tỷ lệ hàng hoá giành cho xuất khẩu... Những cải cách của Trung Quốc trong các chính sách thu hút ĐTNN đã làm cho môi trường đầu tư của Trung Quốc được cải thiện vượt bậc, nâng cao sức hấp dẫn “mời chào” các nhà ĐTNN. Những bài học từ kinh nghiệm thu hút FDI thành công sau khủng hoảng đối với Việt Nam: Thực tiễn những nước thu hút FDI thành công sau khủng hoảng trong khu vực đã phân tích ở trên, cũng như việc xem xét rộng hơn thực tiễn FDI trong các nước khu vực khác trên thế giới cho phép chúng ta rút ra bài học kinh nghiệm về thu hút và sử dụng FDI trong quá trình phát triển kinh tế đất nước: Thứ nhất, đánh giá lại vai trò của quan trọng của FDI trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước và đảm bảo kết hợp tối ưu giữa FDI và các nguồn vốn đầu tư khác theo tỷ lệ thích hợp với chiến lược đầu tư. Thứ hai, không ngừng cải thiện môi trường đầu tư thu hút FDI thông qua đảm bảo sự ổn định vĩ mô về kinh tế và chính trị; cải tổ sâu rộng, triệt để hệ thống ngân hàng tài chính; tăng cường các chính sách đảm bảo vốn cho nhà ĐTNN; chú trọng phát triển đồng bộ và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng;... Những cải thiện mạnh mẽ về các vấn đề này đã làm cho các nước NICs, Trung Quốc lấy lại được sức hấp dẫn vốn cao ở Châu á. Thứ ba, nhìn nhận lại tầm quan trọng đầu tư trong nước, vốn trong nước không chỉ là nguồn vốn đối ứng cần thiết cho các dự án FDI, mà xét về dài hạn còn là nguồn lực chính để phát triển nền kinh tế bền vững, giảm thiểu tác động tiêu cực của dòng vốn nước ngoài, chủ động hội nhập quốc tế. Thứ tư, giảm thiểu sự phân biệt đối xử giữa ĐTNN và đầu tư trong nước. Điều này tạo thế cân bằng về lợi thế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có vốn ĐTNN và doanh nghiệp nội địa, nhằm mục tiêu thiết lập môi trường đầu tư an toàn bình đẳng và thuận lợi cho tất cả doanh nghiệp. Kinh nghiệm này đã được thực hiện thành công ở các nước trong khu vực: Singapo, Malaysia, Inđônesia... Thứ năm, cần xây dựng thêm chiến lược cụ thể, đúng đắn và thích hợp để giảm thiểu rủi ro do mặt trái của FDI mang lại, nâng cao tính hiệu quả kinh tế-xã hội của khu vực ĐTNN. * * * Kết luận chương I Qua kết quả nghiên cứu ở chương I, đề tài đã phân tích được các khái niệm và một số quan điểm lý thuyết về vốn FDI, cũng như các đặc điểm và các hình thức chủ yếu của nó. Đặc biệt đề tai cũng phân tích được các kinh nghiệm thu hút vốn FDI của một số nước trong khu vực, từ đó đưa ra các kinh nghiệm mà Việt Nam có thể áp dụng trong thời gian tới. Chương II Thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam trong giai đoạn 1996-10/2002 . Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam Vốn là nguồn lực quan trọng hàng đầu cho sự tăng trưởng ở mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, cần phải có một khối lượng vốn rất lớn. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế còn kém phát triển với GDP đầu người chỉ đạt 400 USD/năm, và tích luỹ xã hội đạt 20% tổng GDP, thì việc tăng cường huy động các nguồn vốn ĐTNN bổ sung cho tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa quyết định. Trong các nguồn vốn ĐTNN, nguồn vốn FDI có vai trò quan trọng nhất, bởi nó không chỉ thuần tuý là vốn đầu tư, mà nó còn kèm theo chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm sản xuất, quản lý, và mạng lưới makketing phân phối toàn cầu; đồng thời không kéo theo gánh nặng nợ nần của nước tiếp nhận... Chính vì thế, thu hút vốn FDI là chủ chương quan trọng, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH phát triển đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng không thể thiếu của nguồn vốn này, Nhà nước ta vẫn kiên trì thực hiện chính sách đổi mới về kinh tế- xã hội nhằm cải thiện môi trường đầu tư, liên tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện khung pháp lý liên quan nhằm tăng cường thu hút và tận dụng hiệu quả mọi nguồn lực nước ngoài. Ngay từ năm 1977, hệ thống pháp luật về ĐTNN ở Việt Nam bắt đầu được hình thành với sự ra đời của Điều lệ ĐTNN ban hành kèm theo Nghị định 115/CP ngày 19/4/1977. Đây là bước đột phá đầu tiên quan trọng, mở đường cho hoạt động ĐTNN vào Việt Nam. Theo Điều lệ này, ĐTNN được hiểu đơn thuần là việc đưa vào Việt Nam những tài sản có giá trị ngoại tệ để mở rộng hoặc nâng cấp cơ sở vật chất hiện có [28]. Hình thức đầu tư cũng được giới hạn ở hình thức các xí nghiệp sản xuất hỗn hợp và hợp tác xã chia sản phẩm. Tuy nhiên, Điều lệ này trong giai đoạn bấy giờ hầu như không có tác dụng. Các quy định trong Điều lệ quản lý các hoạt động ĐTNN bị ràng buộc bởi sự tác động của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, do đó quyền lợi của các nhà ĐTNN cũng bị xem nhẹ, như quy định về khoản thuế ở mức cao, tài sản của nhà đầu tư dễ bị tịch thu hoặc quốc hữu hoá...Do đó, trên thực tế, Điều lệ này chưa đủ tầm pháp lý để có hiệu lực. Quyết định tiếp nhận vốn FDI chỉ thực sự có ý nghĩa kể từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam, trên cơ sở thay đổi cơ bản đường lối chính trị và chính sách kinh tế. Trong văn kiện Đại hội đã khẳng định rõ: “Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế cũng như sự nghiệp phát triển khoa học kỹ thuật và CNH XHCN ở nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó một phần quan trọng phụ thuộc vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại...” [1]. Dựa trên tinh thần này, FDI được coi là có vị trí quan trọng trong sự tăng trưởng và phát triển của đất nước. FDI vừa là điều kiện, vừa là hiệu quả tất yếu của quá trình hội nhập của Việt Nam trong quan hệ kinh tế-chính trị quốc tế. Từ quan điểm coi hợp tác đầu tư FDI là bộ phận không thể tách rời với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, hệ thống pháp luật về ĐTNN kể từ đây không ngừng được hoàn thiện. Năm 1987, Bộ luật ĐTNN đầu tiên tại Việt Nam đã được ban hành. Có thể nói, Luật ĐTNN năm 1987 là một bước tiến dài so với Điều lệ năm 1977, tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng cho nhà ĐTNN vào Việt Nam. Nó phản ánh nhận thức của ta đã rõ ràng hơn về vai trò, vị trí, tác dụng của dòng vốn FDI đối với nền kinh tế quốc dân; thông qua hàng loạt những quy định mang tính chất nới lỏng: các quy định về mức góp vốn và mức thuế, các biện pháp đảm bảo cho vốn của nhà ĐTNN, và đặc biệt là việc đa dạng hoá hình thức đầu tư [28]...Với hàng loạt các quy định này, Luật ĐTNN của nước ta đã được đánh giá là bộ luật hấp dẫn và thông thoáng nhất trong khu vực giai đoạn bấy giờ. Tuy nhiên, Luật ĐTNN ra đời trong bối cảnh đất nước mới bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế về cơ bản vẫn quản lý theo nguyên tắc kế hoạch hoá tập trung, đồng thời chưa hề có một đạo luật nào về phát triển nền kinh tế thị trường, do đó một văn bản pháp luật sẽ bộc lộ nhiều hạn chế, thể hiện sự thiếu đồng bộ và rủi ro cao. Trước đòi hỏi của thực tế luôn thay đổi, Bộ luật ĐTNN ở nước ta liên tục được sửa đổi bổ sung vào những năm 1990, 1992, 1996. Sau mỗi lần sửa đổi bổ sung, Luật ĐTNN lại được hoàn thiện thêm một bước, đáp ứng hơn với yêu cầu thực tế, đồng thời mở ra những khả năng thu hút vốn mới. Nếu như Luật ĐTNN năm 1987 chỉ tập trung vào 3 hình thức đầu tư là liên doanh, đầu tư 100% vốn nước ngoài, và hợp đồng hợp tác kinh doanh, thì các luật sửa đổi sau này đã bổ sung thêm hình thức đầu tư mới như BTO, BOT, BT, tăng quyền chủ động cho các doanh nghiệp, mở rộng khuyến khích lĩnh vực đầu tư, rút ngắn thời gian thẩm định giấy phép đầu tư xuống còn 60 ngày và giảm nhẹ các thủ tục hành chính khác... Cùng với sự thay đổi Luật ĐTNN, Quốc hội Việt Nam đã lần lượt sửa đổi và thông qua nhiều Luật quan trọng như Luật Thương mại, Luật Công ty... tạo khung pháp lý đồng bộ thu hút vốn đầu tư. Gần đây, FDI vào Việt Nam có xu hướng giảm sút mạnh do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á, đồng thời cạnh tranh thu hút vốn FDI trên thế giới và trong khu vực diễn ra ngày càng gay gắt, Luật ĐTNN tại Việt Nam lại tiếp tục được sửa đổi vào tháng 6/2000. Những sửa đổi tập trung vào các quy định nhằm tháo gỡ kịp thời khó khăn, giảm thiểu rủi ro và các quy định nhằm mở rộng quyền tự chủ trong quản lý, kinh doanh cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN; đồng thời miễn giảm một số mức thuế nhằm hỗ trợ và khuyến khích thêm cho các doanh nghiệp. Những sửa đổi bổ sung này đã giúp cải thiện cơ bản môi trường đầu tư ở nước ta, củng cố lại niềm tin của các nhà đầu tư, tạo điều kiện hơn cho các thành phần kinh tế có vốn FDI phát triển. Bên cạnh việc sửa đổi bổ sung Luật ĐTNN, Chính phủ Việt Nam cũng ban hành hàng loạt Nghị định, văn bản pháp lý dưới luật nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn thực hiện Luật. Hiện nay, mảng pháp luật về ĐTNN đã có tới 14 Nghị định, 32 thông tư, 24 Quyết định và 7 Công văn, đây được coi là hệ thống luật đầy đủ và hoàn chỉnh nhất tại nước ta. Cụ thể, trong thời gian qua, nhằm hỗ trợ cho các nhà ĐTNN vượt qua giai đoạn khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng về ĐTNN. - Nghị định số 36/CP ngày 24/4/97 của Chính phủ về ban hành quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Các doanh nghiệp KCN, KCX được hưởng mức ưu đãi cao về nộp thuế lợi tức và thuế chuyển lợi nhuận; ngoài ra thủ tục hành chính đối với các dự án đầu tư vào KCN, KCX được cải tiến gọn nhẹ theo quy chế một cửa, các nhà đầu tư chỉ cần đăng ký theo mẫu quy định và được cấp giấy phép sau 15 ngày kể từ khi nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ. - Theo Nghị định số 08/1998/NĐ-CP ngày 22/1/1998, Chính phủ Việt Nam cho phép thành lập Hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, tạo thuận lợi cho cộng đồng các doanh nghiệp nước ngoài hỗ trợ nhau trong sản xuất kinh doanh ở Việt Nam, cũng như tập hợp những khó khăn chung đề nghị Chính phủ giải quyết. Đến nay đã có 10 Hiệp hội doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép thành lập như: Nhật Bản, Anh, Đức, Canada, Thái Lan...[33] - Quyết định 53/QĐ-TTg ngày 26/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ: Về một số biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài và Quyết định 189/2000/QĐ-BTC ngày 24/11/2000 của Bộ Tài chính về việc ban hành Bản quy định về tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức ĐTNN tại Việt Nam. Theo quyết định này, giá một số hàng hoá dịch vụ được điều chỉnh hợp lý, các loại phí và lệ phí cũng được giảm và bãi bỏ. Ngoài ra, quyết định còn quy định về lương, tuyển dụng và đào tạo lao động... theo hướng thuận lợi cho nhà đầu tư. - Thông tư 37/2000/TT-BTC ngày 05/5/2000 của Bộ Tài chính: Sửa đổi, bổ sung Thông tư số 95/1997/TT-BTC ngày 29/12/1997 của Bộ Tài chính hướng dẫn và giải thích nội dung các điều khoản của Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và các nước đã ký kết và có hiệu lực thi hành tại Việt Nam. - Nghị định 24/ND-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ: quy định chi tiết thi hành Luật ĐTNN tại Việt Nam. - Thông tư 13/TT-BTC ngày 8/3/2001 của Bộ tài chính: Hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các hình thức đầu tư theo Luật ĐTNN tại Việt Nam. - Ban hành Nghị quyết số 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài và chỉ thị 19 cùng ngày nhằm hướng dẫn thi hành nghị quyết số 09/2001/NQ-CP. ... ... ... Nhìn chung, các nhà ĐTNN tại Việt Nam đều đánh giá cao chính sách cũng như các hoạt động của Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua. Những chính sách này đã kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư, làm tăng niềm tin của họ vào cơ sở hạ tầng “cứng” của nước ta. Như vậy, trong những năm qua, khung pháp lý về huy động và sử dụng nguồn vốn ĐTNN luôn được Chính phủ Việt Nam đặc biệt chú trọng. Điều này không những được nêu rõ trong các văn kiện Đại hội Đảng VII, VIII, IX, mà còn thể hiện trong hành động thực tế khi khung pháp lý về ĐTNN của ta không ngừng được ban hành và hoàn thiện một cách phù hợp và đồng bộ. Tuy nhiên do còn thiếu kinh nghiệm quản lý cũng như sự phát triển chưa đồng bộ của các lĩnh vực kinh tế khác nhau nên các chính sách, chế định đối với việc huy động và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn bộc lộ không ít hạn chế. Mặc dù vậy cũng không thể phủ nhận sự quan tâm lớn đối với nguồn vốn FDI cũng như những cố gắng trong việc thu hút nguồn vốn này của Đảng và Nhà nước ta. Thực trạng việc thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam giai đoạn 1996-10/2002 Thực trạng thu hút và sử dụng FDI giai đoạn 1996-10/2002: Lượng vốn, lượng dự án, quy mô dự án qua các năm: Kể từ khi ban hành Luật ĐTNN đến hết tháng 12 năm 2001, Nhà nước ta đã cấp phép cho 3760 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, với tổng số vốn đăng ký đạt khoảng 38,9 tỷ USD. Tính bình quân mỗi năm chúng ta cấp phép cho hơn 300 dự án với mức hơn 3 tỷ USD vốn đăng ký mỗi năm. Trong đó, thời kỳ 1996-2000 có 1648 dự án với số vốn đăng ký đạt 20,8 tỷ USD, năm 2001 đã có 495 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký đạt 2437 triệu USD, 10 tháng đầu năm 2002 đã có 571 dự án được cấp giấy phép với số đạt 2937 triệu USD. Biểu đồ 5: Đầu tư trực tiếp nước ngoài 1996-10/2002 (Nguồn: Số liệu 28/10/2002 - Thời báo kinh tế - Bộ kế hoạch đầu tư) Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng tăng nhanh từ năm 1988 đến năm 1995, với tốc độ cao trên 30%/năm, năm cao nhất chỉ số này đạt tới 62,5% là năm 1995. Năm 1996, lượng vốn đăng ký tiếp tục tăng vọt, do có 2 dự án quy mô lớn đầu tư vào lĩnh vực phát triển đô thị ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được phê duyệt [31], làm quy mô bình quân của các dự án tiếp tục tăng với tốc độ cao, 42% so với năm trước. Như vậy, giai đoạn trước năm 1996, quy mô dự án FDI gia tăng liên tục. Từ năm 1997, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu suy giảm, nhất là trong năm 1998, 1999, xu hướng giảm càng rõ rệt hơn. Năm 1997, số dự án được phê duyệt mặc dù vẫn tăng song đã giảm 13% so với mức tăng của năm 1996, đạt 2950 triệu USD. Năm 1998, số dự án được duyệt chỉ bằng 79,7% đạt 1900 triệu USD, giảm 36% so với năm 1997; năm 1999, vốn FDI thực hiện là 1758 triệu USD. Thêm vào đó quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân nhỏ đi một cách đột ngột và ở mức thấp nhất từ trước đến nay (5,5 triệu USD/1 dự án). Tình hình suy giảm này một phần do sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực và một nguyên nhân cơ bản khác là do sự giảm sút về khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư của Việt Nam. Năm 2000, tình hình thu hút vốn đầu tư có dấu hiệu phục hồi. So với năm 1999, số dự án tăng 11% và số vốn đăng ký tăng 22%, nhưng còn chưa vững chắc, vì riêng 2 dự án trong chương trình khí Nam Côn Sơn đã đạt gần 1,1 tỷ USD, chiếm 56% vốn đăng ký và vốn cấp mới của năm 2000 chỉ bằng 23% của năm cao nhất là năm 1996. Bước sang năm 2001, tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài thể hiện những dấu hiệu hết sức khả quan, thậm chí có nhiều ý kiến cho rằng đây là sự thành công ngoài mong đợi. Tổng số vốn đăng ký mới là 2436 triệu USD, tăng 22,6% so với năm 2000, trong đó vốn pháp định đạt 1180 triệu USD, chiếm 48,4% tổng vốn đầu tư. Tính chung cả năm đã có 210 dự án được tăng vốn là 580 triệu USD, tăng 22% về số dự án và tăng 17% về số vốn so với năm 2000. Nhìn chung, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được thu hút trong năm 2001 là 3116 triệu USD, tăng 20,4% so với năm 2000. Chỉ trong 10 tháng đầu năm 2002, đã có 209 dự án đầu tư với số vốn đăng ký lên tới 2937 triệu USD. Những dấu hiệu phục hồi của dòng vốn FDI trong năm 2001- 10/2002 đã cho thấy những tác động tích cực của các biện pháp kịp thời và hợp lý của ta trong giai đoạn vừa qua; nhất là khi xem xét những nỗ lực này trong bối cảnh cạnh tranh thu hút đầu tư trên thế giới đang diễn ra hết sức gay gắt và thực tế môi trường đầu tư của nước ta còn nhiều hạn chế nhất định. Có thể nói, năm 2001-2002 đang mở ra một thời kỳ mới đầy triển vọng cho luồng vốn ĐTNN vào nước ta tiếp tục tăng nhanh trong những năm sắp tới. Cơ cấu đầu tư: Theo lĩnh vực đầu tư: Sự thành công trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ là sự gia tăng về số lượng các dự án đầu tư và tổng vốn đầu tư, mà còn ở sự dịch chuyển cơ cấu đầu tư theo lĩnh vực đầu tư. Cơ cấu vốn FDI có sự thay đổi phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Nếu trong những năm đầu, vốn FDI tập trung nhiều vào lĩnh vực xây dựng khách sạn, văn phòng... thì những năm 1996-2002, nguồn vốn này tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất vật chất với cơ cấu ngành nghề điều chỉnh hợp lý hơn, hướng mạnh vào sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng, chế biến, sử dụng hiệu quả tài nguyên và sử dụng nhiều lao động.[32] Chính sự điều chỉnh này đã góp phần tăng nhanh năng lực sản xuất, đánh dấu sự chuyển dịch quan trọng của cơ cấu ngành. Nông, lâm, ngư nghiệp 14% Biểu đồ 6: Cơ cấu vốn FDI vào các ngành Dịchvụ 1,6% Công nghiệp và xây dựng 84,4% - Các ngành công nghiệp và xây dựng đã thực sự trở thành khu vực thu hút vốn chủ yếu với số vốn đăng ký lên tới 20,8 tỷ USD tính đến cuối năm 2000; năm 2001 vẫn tiếp tục là điểm thu hút vốn đầu tư với 373 dự án và 1822 triệu USD vốn đăng ký, chiếm 81,2% về số dự án và 84,4% về tổng số vốn. Riêng trong lĩnh vực công nghiệp, số các dự án lớn tăng đáng kể. Có thể kể ra hàng loạt các dự án có quy mô hàng trăm triệu USD như dự án BOT Nhà máy nhiệt điện khí Phú Mỹ 3 với 412,8 triệu USD, dự án phát triển viễn thông với 230 triệu USD, dự án Metro & Carry với 120 triệu USD, cùng hàng loạt các dự án có quy mô xấp xỉ 100 triệu USD. Các dự án lớn tăng là nguyên nhân làm lượng vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp tăng tới 30%, đấy là chưa kể đến các dự án tăng vốn cũng tập trung vào mở rộng các cơ sở sản xuất công nghiệp hiện có. - Tiếp sau công nghiệp - xây dựng, lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp cũng chiếm ưu thế với tổng số dự án được cấp là 392 dự án, trong đó số còn hiệu lực là 278 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký 2,1 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 860 triệu USD, chiếm 14% tổng số vốn. Các dự án trong lĩnh vực này đã góp phần cải thiện đời sống kinh tế-xã hội của nhiều vùng nông nghiệp, thu hút hơn 3 vạn lao động trực tiếp và tạo thu nhập cho hàng vạn hộ nông dân cung cấp nguyên liệu thường xuyên cho dự án; đồng thời cũng mở ra khả năng tiếp thu công nghệ sinh học, góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu của các địa phương. - Khu vực dịch vụ thu hút được 66 dự án với tổng vốn đăng ký đạt 345 triệu USD, chiếm 1,6% tổng số vốn. + Tiếp theo là vận tải bưu điện cũng đã có 20 dự án với vốn đầu tư trên 2 tỷ USD. Các dự án trong lĩnh vực này cũng dược triển khai tốt, đối tác nước ngoài là những tập đoàn, những công ty có năng lực về tài chính và chuyên môn, phát huy được hiệu quả trong việc góp phần hiện đại hoá, nâng cấp, mở rộng, phát triển năng lực của mạng lưới viễn thông Việt Nam đạt trình độ quốc tế... + Các ngành khác cũng tỷ lệ khiêm tốn về vốn đầu tư, như tài chính ngân hàng là 0,2%, văn hoá-y tế-giáo dục chiếm hơn 1%, các ngành dịch vụ khác chiếm 0,5%... Theo chủ đầu tư: Quán triệt tinh thần của các kỳ Đại hội Đảng là thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá các đối tác đầu tư, đến hết năm 2001 đã có 70 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Trong tổng số vốn đăng ký cấp mới USD thì các nước Châu á chiếm 63,2% (nếu kể cả Ôxtrâylia và Newzealand là 66,%); Châu Âu chiếm 20,4%; Châu Mỹ chiếm 13,4%; trong đó 5 nước và vùng lãnh thổ đứng đầu đã có tổng FDI vào Việt Nam trên 1,7 tỷ (trong đó Hà Lan đứng đầu với 573 triệu USD, Pháp với 443 triệu USD, tiếp theo là Đài Loan với 407 triệu USD, Singapo chiếm 271 triệu USD và Nhật chiếm 161 triệu USD).[32] Biểu đồ 7: Các đối tác đầu tư lớn vào Việt Nam năm 2000-2001 Riêng trong năm 2001 đã có thêm 4 nước và vùng lãnh thổ đầu tư lần đầu tiên vào nước ta. Đó là Thổ Nhĩ Kỳ (4 dự án với 50,7 triệu USD), Bungari (1 dự án với 4,93 triệu USD), Turk (1 dự án 1 triệu USD) và Tây Ba Nha (1 dự án với 200nghìn USD). Điều này cho thấy môi trường đầu tư Việt Nam đã lấy lại được sức hấp dẫn trong cạnh tranh thu hút vốn và mở ra nhiều triển vọng cho các nhà ĐTNN. Các nước Châu á luôn dẫn đầu trong FDI tại Việt Nam, đặc biệt là ASEAN. Hiện nay đã có 7 nước ASEAN với 440 dự án đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đạt 8,46 tỷ USD (nếu tính cả tăng vốn đạt 9,4 tỷ USD, chiếm tới 22% tổng vốn đăng ký. Trong đó Singapo là nước đứng đầu các nước ASEAN với số vốn đăng ký đạt 5,78 tỷ USD, chiếm 68% vốn đăng ký của ASEAN và 15% tổng vốn đăng ký của tất cả các đối tác đầu tư. Nhật Bản: là nước đầu tư vào Việt Nam có tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện cao (62% so với vốn đăng ký) so với các nước. Dự án đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam nhìn chung hoạt động tốt, quy mô bình quân vốn lớn và tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất vật chất. Các dự án của Nhật Bản tập trung vào những địa bàn có cơ sở hạ tầng tương đối tốt. Tỷ lệ các dự án bị giải thể thấp (9%); nguyên nhân là các nhà đầu tư Nhật Bản rất thận trọng trong việc khảo sát nghiên cứu trước khi quyết định nên đã giảm thiểu được rủi ro khi đi vào hoạt động. Châu Âu: cũng có 472 dự án đã được cấp giấy phép tại Việt Nam, với tổng số vốn đăng ký gần 7,9 tỷ USD, chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, trong đó vốn đăng ký còn hiệu lực đạt 6,3 tỷ USD. Các dự án của Châu Âu thường có quy mô vốn đầu tư lớn, vốn bình quân 1 dự án khoảng 18 triệu USD, cao hơn 50% so với các đối tác Châu á [32]. Về mặt công nghệ, các đối tác Châu ÂU thường đưa vào Việt Nam công nghệ tiên tiến, đảm bảo sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế, nhưng cũng vì vậy mà số lượng lao động được sử dụng không nhiều. Thời kỳ 1996-2001, đầu tư trực tiếp từ các đối tác Châu Âu tăng cả về số dự án và quy mô, số dự án tăng 52% và số vốn đăng ký tăng 65%, chủ yếu tập trung vào các ngành khai thác, chế biến dầu khí, viễn thông, công nghệ dược, trong đó riêng hai lĩnh vực dầu khí và viễn thông đã chiếm tới 42% tổng số vốn đầu tư của các công ty Châu Âu. Khu vực Châu Mỹ cũng chiếm khoảng 8,2% trong tổng đầu tư trực tiếp vào Việt Nam trong thời gian qua, với 3000 dự án đã được cấp phép với tổng vốn đầu tư hơn 5 tỷ USD. Các nhà đầu tư Châu Mỹ chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực sản xuất vật chất với 47% trong công nghiệp, 15% trong nông nghiệp và 38% trong lĩnh vực dịch vụ. Riêng Mỹ, mặc dù là người đến sau, song do tác động của nhiều nhân tố đặc biệt là sự thành công việc xoá bỏ cấm vận năm 1995 và Hiệp định Việt Mỹ ký kết năm 2000, nên cũng góp vai trò rất lớn với 150 dự án (tính đến tháng 10/2002) với tổng vốn đầu tư đăng ký lên 1 tỷ USD, quy mô vốn đầu tư bình quân đạt gần 19 triệu USD; trong số đó có 62 dự án với tổng vốn đầu tư 582 triệu đã đi vào sản xuất kinh doanh và 25 dự án với tổng vốn đăng ký 15 triệu USD đang xây dựng dự án. Đến nay có khoảng 30 công ty xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam, một con số khá khiêm tốn so với nhiều nước trong khu vực. Mặc dù Chính phủ đã dành cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài một số ưu đãi cao hơn người nước ngoài, nhưng tính đến nay mới chỉ có 63 dự án đạt 208,67 triệu USD của Việt Kiều từ 13 nước đầu tư vào Việt Nam. Vốn đầu tư của Việt kiều chủ yếu từ 3 nước: Cộng hoà Liên Bang Đức (chiếm 21%), Liên Bang Nga (chiếm 19%) và Pháp (chiếm 13,6%). Theo địa bàn đầu tư: Trong giai đoạn này, có tới 59/61 tỉnh/thành phố của Việt Nam đã thu hút được vốn FDI. Phân bố FDI không đều giữa các vùng các vùng, chủ yếu tập trung vào các tỉnh thành phố lớn, có điều kiện thuận lợi về kinh tế-xã hội và cơ sở hạ tầng.(Xem phụ lục) Đứng đầu trong các tỉnh thành thu hút vốn FDI là thành phố Hồ Chí Minh (9675 triệu USD); Hà Nội (7684 triệu USD); Đồng Nai (4549 triệu USD), Bà Rịa Vũng Tàu (3073 triệu USD) và Bình Dương (1357,9 triệu USD). Sáu tỉnh này chiếm tới gần 80% tổng FDI đăng ký tại Việt Nam.[32] Riêng trong năm 2001, hoạt động FDI khởi sắc tại nhiều địa phương. Bà Rịa Vũng Tàu vươn lên vị trí hàng đầu cả nước trong việc thu hút vốn với 834,84 triệu USD, cao gấp 10 lần số vốn thu hút được trong năm 2000; tỉnh Hoà Bình tăng gấp 9 lần; Hà Nội, Long An gấp 3 lần... Bên cạnh đó, có rất nhiều tỉnh khác trước đây chưa từng thu hút được vốn đầu tư như Bắc Giang, Hà Tây, Yên Bái..., thì đến nay cũng đã ít nhiều tham gia vào chu chuyển của dòng vốn này. Sở dĩ như vậy là do các tỉnh/thành đã độc lập đưa ra những biện pháp, ưu đãi phù hợp để thu hút các nhà đầu tư, tạo sức cạnh tranh thu hút vốn chính trong các tỉnh trong cả nước. Điều này cũng chứng tỏ, mặt bằng thu hút vốn trong cả nước đã được nâng lên một cách tương đối trong những năm gần đây. Tuy nhiên ở một số tỉnh/thành xuất hiện tình trạng suy giảm vốn đầu tư, như thành phố Hồ Chí Minh, ước tính năm 2002 thu hút được 500 triệu USD, chỉ bằng1/2 số vốn đầu tư so với dự kiến. Theo hình thức đầu tư: Trong giai đoạn này, hình thức đầu tư chủ yếu vẫn là liên doanh với khoảng 1035 dự án còn hiệu lực, với số vốn đăng ký khoảng 21,5 tỷ USD, chiếm 40% số dự án và 60% vốn đầu tư. Quy mô bình quân của mỗi dự án khoảng 20,7 triệu USD, trong đó có những dự án vốn đầu tư tới hàng tỷ USD như Liên doanh Nhà máy lọc dầu Viettross (1,3 tỷ USD). Đến hết năm 2001, số vốn đã thực hiện của các doanh nghiệp liên doanh đạt hơn 10 tỷ, tạo ra hơn 140000 việc làm, góp phần vực dậy nhiều ngành công nghiệp Việt Nam, cung cấp nhiều sản phẩm quan trọng và đặc biệt là đã nâng kinh nghiệm quản lý và sản xuất của đội ngũ cán bộ Việt Nam trong liên doanh lên mức cao hơn... Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có xu hướng tăng rõ rệt. Với 1459 dự án còn hiệu lực và tổng vốn đăng ký 10,7 tỷ USD, hình thức đầu tư này đã chiếm tới 55% số dự án và 29,5% số vốn đăng ký. Quy mô bình quân mỗi dự án khoảng 7-8 triệu USD. Có thể lý giải xu hướng tăng này là do những năm gần đây, Nhà nước ta chủ trương đối xử công bằng các doanh nghiệp hình thức này với các doanh nghiệp liên doanh; phần nào cho phép nhà đầu tư chủ động lựa chọn hình thức, địa điểm, đối tác đầu tư; mặt khác còn do thời gian qua, ta phát triển mạnh các khu công nghiệp, mà ở đó hình thức chủ yếu là các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trong cơ cấu hình thức đầu tư, số các dự án dưới hình thức liên doanh xin chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài ngày một tăng cao. Thực tế trong thời gian đã có hơn 100 dự án FDI chuyển đổi hình thức đầu tư, trong đó 70% là các liên doanh chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Hiện tượng chuyển đổi này cần được hiểu dưới nhiều góc độ. Thông thường, hiện tượng này chứng tỏ môi trường kinh doanh đang tốt lên và các nhà ĐTNN đã hoàn toàn tin tưởng vào môi trường kinh doanh ổn định và đầy triển vọng của nước ta. Tuy nhiên, nếu nhìn ở phía ngược, thì nó cũng đồng nghĩa với việc bên Việt Nam đã bộc lộ những yếu kém lớn về kinh nghiệm, trình độ không theo kịp các tập đoàn, công ty mạnh với chiến lược kinh doanh toàn cầu. Mặt khác, trong liên doanh đối tác Việt Nam chủ yếu góp vốn bằng quyền sử dụng đất, nên chưa trở thành đối tác bình đẳng với nước ngoài, dẫn đến thua thiệt cho phía Việt Nam; theo đó sẽ làm xấu đi môi trường đầu tư ở Việt Nam nếu như không có sự chấn chỉnh kịp thời. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ chiếm phần nhỏ trong tổng vốn đầu tư là 3,8 tỷ USD, chiếm 5% số dự án đang hoạt động và 10,5% vốn đầu tư [32] . Hình thức này áp dụng chủ yếu trong các lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí, góp phần tích cực tạo điều kiện cho Việt Nam tiến hành phát triển ngành công nghiệp này trên diện rộng. BBC:10,5% 100% vốn nước ngoài 29,5 Liên doanh 60% Biểu đồ 8: Tỷ lệ các hình thức đầu tư vào Việt Nam Tình hình thực hiện dự án FDI trong giai đoạn này: Tình hình thực hiện vốn đầu tư: Tổng số vốn đầu tư trực tiếp thực hiện trong giai đoạn 1996-10/2002 đạt khoảng 14,1 tỷ USD (gồm cả vốn thực hiện của các dự án hết hạn hoặc giải thể trước thời hạn, tăng 80% so với chỉ tiêu này giai đoạn 1988-1995, đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, mặc dù phải chịu ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng Châu á, thời kỳ 1996-2000, vốn thực hiện vẫn đạt được con số là 12,8 tỷ USD, gần bằng dự kiến kế hoạch đặt ra (13 tỷ USD). Tuy nhiên, so với năm trước, vốn thực hiện năm 1998 đạt 2,214 tỷ USD, giảm 30%, năm 1999 đạt 1,971 giảm 19%; năm 2000 chỉ tăng có 2% và sang năm 2001 cũng tăng nhẹ ở mức 3%. Điều đó ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu tư toàn xã hội và tốc độ tăng trưởng kinh tế hiện tại và những năm sau. Tình hình triển khai dự án: Tính đến năm 10/2002, có 3594 dự án đầu tư còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng ký gần 41,5 tỷ USD. Trong đó, giai đoạn 1996-2000 có 819 dự án với số vốn đăng ký là 14,09 tỷ USD, tăng 73% so với giai đoạn 1991-1995. Riêng năm 2000 đã có 126 dự án với số vốn đăng ký khoảng 1,7 tỷ USD hoàn thành xây dựng cơ bản và đi vào sản xuất kinh doanh. Năm 2001, số dự án đăng ký tăng vọt lên 459 dự án với số vốn đăng ký là 2,4 tỷ USD, tăng 22,6% về vốn đăng ký so với năm 2000. Riêng 10 tháng đầu năm 2002 cũng đã thu hút được 571 dự án với số vốn 3,1 tỷ USD. Kể từ khi thi hành Luật đầu tư tới nay, các dự án trên đã đạt tổng doanh thu gần 32,7 tỷ USD (không kể dầu khí), trong đó năm 2001 đạt hơn 7 tỷ USD; xuất khẩu 15,088 tỷ USD, chiếm 25% GDP của cả nước. Nhờ có những biện pháp ưu đãi, hỗ trợ kịp thời của Chính phủ và các Bộ ngành, nhiều doanh nghiệp đã vượt qua được khủng hoảng, với các chỉ tiêu tăng đều qua các năm (xuất khẩu tăng bình quân 20%/năm), tạo được nhiều việc làm mới. Trong số các dự án còn hiệu lực có hơn 900 dự án đang trong quá trình xây dựng cơ bản với số vốn khoảng 12 tỷ USD và dự kiến sẽ đi vào hoạt động trong những năm tới. Ngoài ra còn có 623 dự án đang làm thủ tục hành chính hoặc chưa triển khai, trong đó có khoảng 65 dự án đã đề nghị tạm ngừng hoạt động và khoảng hơn 200 dự án xin rút giấy phép hoạt động. Điều chỉnh Giấy phép đầu tư: Trong quá trình triển khai dự án, rất nhiều các dự án xin điều chỉnh giấy phép đầu tư như điều chỉnh tăng vốn, thay đổi đối tác, thay đổi chế độ ưu đãi... trong đó các điều chỉnh về tăng vốn là phổ biến hơn cả. Tính đến năm 2001, đã có trên 700 dự án được điều chỉnh tăng vốn với tổng số vốn đầu tư tăng thêm là 6,5 tỷ USD, chiếm 17% tổng vốn đăng ký của các dự án còn hiệu lực. Riêng trong năm 2001, đã có 210 dự án được tăng vốn, với số vốn tăng thêm là 580 triệu USD, tăng 22% số dự án và tăng 17% về số vốn so với năm 2000. [37] Đây là xu hướng tích cực vì hầu hết các dự án xin tăng vốn đều đã triển khai, đi vào sản xuất rất có hiệu quả và các doanh nghiệp có sẵn lòng tin để tiếp tục tái đầu tư. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý đầu tư của các nhà ĐTNN ở Việt Nam. Rút giấy phép, giải thể trước thời hạn: Tính đến năm 2001 đã có 33 dự án kết thúc đúng thời hạn với tổng số vốn đăng ký là 296 triệu USD. Trong năm 2001 chỉ có 1 dự án kết thúc đúng thời hạn với số vốn là 3 triệu USD. Các dự án này chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực đặc thù như vớt tàu đắm, thăm dò và khai thác dầu khí, nuôi trồng thuỷ sản... Số các dự án giải thể trước thời hạn cũng giảm đi theo hướng tích cực. Giai đoạn 1996-2001 có 466 dự án giải thể trước thời hạn với số vốn đăng ký là 7,81 tỷ USD. So với giai đoạn 1991-1995, số dự án này tăng 69% về số dự án và bằng 4,3 lần vốn giải thể. Trong các dự án giải thể, tỷ lệ lớn nhất là các liên doanh, chiếm 70% dự án và 68% số vốn giải thể. Nguyên nhân do các đối tác đầu tư ở Châu á - vốn là những đối tác chủ yếu đầu tư vào nước ta - phải chịu những ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á, thêm nữa trong giai đoạn 1996-2000, môi trường kinh doanh của Việt Nam bộc lộ nhiều mặt hạn chế, kém thuận lợi... làm cho các dự án khó triển khai dự án hơn, thậm chí ngay cả các dự án đang trong quá trình thẩm định cũng có những hoài nghi về tính khả thi của nó. Mặt khác, các nhà đầu tư khi lập dự án đã tính toán chưa thật sát với thực tế nên khi triển khai dự án họ gặp phải một số vấn đề phát sinh vượt khả năng tài chính cũng như những yếu tố điều kiện cho doanh nghiệp vận hành, nên dự án mất khả năng thực hiện... Tuy nhiên bước sang năm 2001, thông qua các nghị định thông tư, nhà ĐTNN đã được hưởng thêm nhiều ưu đãi mới. Vì thế, năm 2001, chỉ có khoảng 60 dự án bị giải thể trước hạn với số vốn đăng ký là 1,45 tỷ USD, bằng 79% so với năm 2000. e. Tình hình triển khai các hoạt động vận động, xúc tiến đầu tư: Để tăng khả năng cạnh tranh thu hút vốn FDI trong những năm qua, Việt Nam đã rất quan tâm đến việc tăng cường các hoạt động xúc tiến, vận động đầu tư. Tháng 7 năm 2000, sau gần 5 năm đàm phán, Nhà nước Việt Nam đã ký kết thành công Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ. Đến tháng 11 năm 2001, Quốc hội nước ta đã chính thức phê chuẩn Hiệp định này, dẫn đến việc Hiệp định chính thức có hiệu lực vào ngày 10/12/2001. Đây là bước đánh dấu quan trọng trong tiến trình mở cửa hội nhập kinh tế của Việt Nam, đồng thời cũng mở một chương mới trong quan hệ kinh tế thương mại với Hoa Kỳ - vốn là một đất nước nắm trong tay công nghệ nguồn và đứng đầu trong danh sách các nước đầu tư vốn ra nước ngoài. Trong năm 2001, hoạt động xúc tiến đầu tư càng được đẩy mạnh: - Tháng 2/2001, tổ chức Hội thảo xúc tiến và triển khai dự án ĐTNN tại Việt Nam. - Tháng 3/2001, tiếp tục tổ chức Hội nghị hướng tới thành công tại Singapo có sự tham gia của tổ chức tài chính quốc tế (WB-IFC) nhằm học hỏi kinh nghiệm và tìm các giải pháp thiết thực thúc đẩy việc thu hút và thực hiện thành công ĐTNN tại Việt Nam. - Tháng 10/2001, Bộ kế hoạch đầu tư phối hợp với các bộ ngành tổ chức Hội thảo vấn đề hướng tới thành công trong ngành công nghiệp, nhằm phác thảo phương hướng cho ngành công nghiệp nước ta trong thời gian tới, đã thu hút được đông đảo các doanh nghiệp ĐTNN tham dự. - Tháng 12/2001, trong chuyến thăm chính thức của Đoàn địa biểu Chính phủ Việt Nam tại Hoa Kỳ, Bộ kế hoạch đầu tư đã phối hợp với Phòng Thương Mại Công Nghiệp và các Hiệp Hội kinh doanh của Hoa Kỳ tổ chức thành công diễn đàn kinh tế Việt Nam với sự tham gia đông đảo của các Công ty đầu tư, thương mại và tài chính lớn của Hoa Kỳ. - Những tháng đầu năm 2002, UBND tỉnh Lào Cai phối hợp cùng với Bộ Kế hoạch và đầu tư, Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức hội nghị: “Lào Cai - cầu nối với thị trường Tây Nam Trung Quốc, cơ hội đầu tư và phát triển” - Tháng 10/2002, tại Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra hội thảo “Làm thế nào để Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một địa điểm đầu tư hấp dẫn”. ... ... * * * Tóm lại, giai đoạn 1996-2001 là những năm đầy sóng gió trong quá trình thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp của Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam chịu tác động của cuộc khủng hoảng theo “hiệu ứng trễ” làm tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm nghiêm trọng những năm 1998-1999, và tất yếu kéo theo thời kỳ khó khăn trong việc thu hút ĐTNN. Song, đến nay, sóng gió đã qua, bằng mọi biện pháp khắc phục và cải tổ, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đang có những dấu hiệu hồi phục. Năm 2001-2002, nguồn vốn FDI đã lấy lại đà phát triển không đơn thuần tăng lên về số lượng, mà thực sự đang chuyển sang một thời kỳ đổi mới về chất. Có thể nói FDI là một yếu tố quan trọng góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Đánh giá vai trò của FDI trong phát triển kinh tế xã hội: Hoạt động thu hút FDI tại Việt Nam trong thời gian qua đã đóng góp tích cực ngày càng rõ rệt vào việc thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, góp phần quan trọng vào thành công của quá trình đổi mới. a. Tạo vốn để phát triển. Trong 15 năm thu hút vốn ĐTNN, FDI bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Vốn FDI thực hiện qua các năm tăng nhanh: thời kỳ 1991-1995 đạt trên 7 tỷ USD chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, thời kỳ1996-2000 vốn thực hiện đã tăng gấp 1,8 lần giai đoạn trước, chiếm 24% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, góp phần cải thiện về tình trạng thiếu vốn kéo dài. Tỷ trọng đóng góp của GDP của khu vực có vốn FDI tăng đều qua các năm: năm 1996 chiếm 7,39%, năm 1997, 1998, 1999 mặc dù chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng làm suy giảm luồng vốn này song vẫn chiếm tương ứng là 9,07%, 10,03%, 12,24%; và vẫn tăng đều năm 2000 là 13,25% và năm 2001 chiếm 13,5%. Có thể minh hoạ qua biểu đồ sau: Biểu đồ 9 : Tỷ trọng đóng góp GDP của khu vực có vốn FDI Vốn ĐTNN còn góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước (lao động, đất đai, tài nguyên...); đồng thời Nhà nước cũng chủ động hơn trong việc bố trí cơ cấu vốn đầu tư, trong đó giành nhiều vốn ngân sách cho lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, khuyến khích đầu tư trong nước vào vùng kinh tế-xã hội còn gặp khó khăn, nhằm tăng tốc độ tăng trưởng tương đối đồng đều và hợp lý giữa các ngành và các địa phương. Cùng với quá trình phát triển, mức đóng góp của vốn FDI vào thu ngân sách ngày càng gia tăng, tạo khả năng chủ động trong cân đối ngân sách, giảm bội chi. Giai đoạn 1996-2001, bình quân chiếm 6-7% tổng thu ngân sách, nếu kể cả dầu khí, tỷ lệ này đạt 20%. Ngoài ra thông qua FDI bằng ngoại tệ vào Việt Nam cũng góp phần cải thiện rõ rệt cán cân vãng lai, cán cân thanh toán của ta giai đoan vừa qua tạo thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế. [32] b. Tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Quán triệt chủ trương của Đảng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng vào CNH, HĐH, việc thu hút FDI được phân theo cơ cấu ngành. Đến năm 2001, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng đã thực sự trở thành khu vực chủ yếu thu hút vốn đầu tư với 84,4% tổng vốn đăng ký; kế tiếp là lĩnh vực nông lâm thuỷ sản chiếm 14% và ngành sản xuất phi vật chất chỉ chiếm 1,6% tổng vốn. Tháng 5/2002, Nhà nước vừa ban hành danh mục dự án quốc gia gọi vốn đầu tư FDI giai đoạn 2001-2005, trong đó tập trung vào 3 ngành công nghiệp: công nghiệp chế biến dầu khí, công nghiệp khai khoáng và công nghiệp hoá chất- phân bón. Về cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ cũng hình thành rõ rệt, tạo nên vùng kinh tế trọng điểm phát triển kinh tế các vùng khác. Trên cả nước, ba vùng kinh tế trọng điểm gồm vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung và phía Nam, có tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt trội so với mức tăng trưởng trong cả nước (9,4%). c. Góp phần mở rộng và tăng nhanh hiệu quả kinh tế đối ngoại: Qua các lần Đại hội, Đảng và Nhà nước ta giữ vững chủ trương gia tăng xuất khẩu để kích thích tăng trưởng sản xuất trong nước, chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, cải thiện môi trường ĐTNN, kinh doanh hàng xuất khẩu để chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế. Kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí) của khu vực ĐTNN tăng nhanh trong những năm qua. Giai đoạn 1996-2001 đạt trên 15 tỷ USD, tăng 13 lần so với giai đoạn 1991-1995 là 1,12 tỷ USD, chiếm 30% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong đó, các mặt hàng chủ lực của Việt Nam được sản xuất trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng tăng nhanh không ngừng: chiếm 42% đối với hàng giầy dép, 25% hàng may mặc và 84% hàng điện tử, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với các thị trường quốc tế.[32] Mặt khác, ĐTNN cũng tạo nhiều hàng hoá cung ứng cho thị trường trong nước, là phong phú thêm hàng hoá, dịch vụ, trong đó có những hàng hoá thay thế hàng nhập khẩu làm tiết kiệm ngoại tệ, góp phần thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng. Như vậy, trong những năm qua, việc tăng cường thu hút ĐTNN hướng về xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam, đồng thời thúc đẩy thị trường hàng hoá trong nước phát triển sôi động. d. Tạo năng lực sản xuất mới, ngành sản xuất mới, phương thức kinh doanh mới có tác động dây chuyền đến thị trường và khách hàng ở nước ta: Trong điều kiên phát triển kinh tế mang tính chất toàn cầu hoá như hiện nay, công nghệ có tính chất quyết định đến sự phát triển của mỗi nước, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của công cuộc CNH, HĐH như nước ta. Trong những năm vừa qua, thông qua ĐTNN, công nghệ được cải thiện trong các lĩnh vực viễn thông, khai thác dầu khí, hoá chất... hầu hết là các công nghệ hiện đại, đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Phần lớn các dự án công nghiệp điện tử, vật liệu xây dựng, ôtô, xe máy được trang bị dây chuyền công nghệ tương đối hiện đại. Đây là khâu quyết định để sản phẩm nước ta có sức cạnh tranh và tồn tại lâu dài, có khả năng tìm kiếm lợi nhuận cao trên thị trường thế giới. Trong nhiều trường hợp, do trình độ kiểm tra, kiểm dịch, nhiều ngành sản xuất đã phải nhập về các thiết bị, dây chuyền công nghệ đã lạc hậu so với trình độ của thế giới. Đây là vấn đề bức xúc cần sớm giải quyết, vì tỷ lệ các máy móc này chiếm một phần không nhỏ trong tổng số thiết bị nhập về (55%). Bên cạnh việc cung cấp nguồn công nghệ mới cho sản xuất trong nước, ĐTNN cũng góp phần thúc đẩy các ngành sản xuất mới của nước ta. Hiện ĐTNN chiếm 100% công suất khai thác dầu thô, 90% lắp ráp ôtô, xe máy, điện tử, 70% chế biến kết cấu thép, đèn hình, 59% kéo sợi, 24% sản xuất xi măng... ĐTNN cũng giúp mang vào Việt Nam những phương thức kinh doanh mới như các phương thức bán hàng, kinh doanh, tiếp thị... tạo một môi trường kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. e. Khai thác tiềm năng lao động, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao trình độ quản lý trong doanh nghiệp: Tính đến nay, doanh nghiệp FDI đã tạo công ăn việc làm cho hàng chục vạn lao động trực tiếp và gián tiếp trong các ngành xây dựng, dịch vụ, thương mại. Phần lớn các lao động được tuyển chọn thông qua các kỳ thi, sau đó được bồi dưỡng tay nghề, sử dụng thiết bị hiện đại, làm việc tác phong công nghiệp và kỷ luật nghiêm túc. Trong số lao động trong các dự án FDI, có khoảng 6000 cán bộ quản lý, 25000 cán bộ kỹ thuật và số lượng đáng kể công nhân lành nghề, phần lớn đã trưởng thành và nắm được công nghệ. Qua hợp tác đầu tư, quan hệ lao động trong doanh nghiệp từng bước cải thiện. Như vậy thực tế, trình độ lao động của người Việt Nam đã được nâng cao đáng kể, ngày một trưởng thành và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quản lý. ĐTNN cũng đem lại một bộ phận thu nhập đáng kể cho người lao động, cải thiện đời sống của dân cư và tăng sức mua cho thị trường. Mức thu nhập bình quân của người lao động trong các doanh nghiệp này bình quân đạt 70 USD/tháng, cao hơn các ngành nghề ở các khu vực khác từ 30-50%. Trong đó công nghiệp nhẹ khoảng 60% USD/tháng, công nghiệp nặng khoảng 80USD/tháng, dịch vụ 120USD/tháng. Tổng thu nhập của người lao động trong khu vực ĐTNN ước tính hàng năm lên tới khoảng 500 triệu USD. Như vậy, FDI đã góp phần tích cực không chỉ khai thác một số tiềm năng lao động, mà còn góp phần nâng cao chất lượng nguồn lao động vốn vẫn ở trình độ thấp của nước ta theo xu thế hiện đại. f. Góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới: Trong 15 năm mở cửa kinh tế đất nước, ĐTNN đã góp phần rất lớn đưa nền kinh tế thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội những năm 86, phá thế bao vây cấm vận quốc tế đối với đất nước ta do Mỹ khởi xướng, tạo thế và lực mới cho đất nước, là thất bại hoàn toàn âm mưu của kẻ thù nhằm phá hoại chế độ XHCN trên đất nước ta. Sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam trong thời gian này đã thu hút gần 70 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau trên thế giới đầu tư tại Việt Nam. Trong tổng số vốn đăng ký đã cấp giấy phép, nguồn vốn đăng ký đã cấp giấy phép, nguồn vốn từ Châu Âu, Mỹ, Canada, úc chiếm gần 40%, vốn từ các nước châu á, đặc biệt là các nước Đông Bắc á chiếm 39%, từ các nước ASEAN chiếm 25%. Ước tính gần 100 công ty xuyên quốc gia có tiềm lực hàng đầu thế giới cũng đang ra sức tìm kiếm cơ hội làm ăn lâu dài ở Việt Nam. Ngay cả chính phủ Mỹ cũng đã thay đổi chính sách kinh tế đối ngoại với nước ta, thể hiện trong việc xoá bỏ cấm vận và việc ký kết Hiệp định Việt Mỹ. Chính các doanh nghiệp Mỹ cũng đang nhận thấy sự trở lại khá chậm chễ của mình trên thị trường Việt Nam. Những tồn tại trong việc thu hút và sử dụng vốn FDI vào Việt Nam. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua đã thực sự có tác động tích cực, có vị trí quan trọng, góp phần làm chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng một nền kinh tế công nghiệp hoá. Tuy vậy, không phải bất cứ lúc nào ĐTNN cũng mang lại những kết quả như mong muốn. Thực tế thu hút FDI vừa qua đã cho thấy cái được và cái chưa được luôn đan xen và chế định lẫn nhau. Cái chưa được trong việc thu hút vốn đã tạo sức cản lớn, làm giảm sút dòng FDI vào nước ta giai đoạn vừa qua. 1. Nhận thức quan điểm về ĐTNN chưa quán triệt, nhất quán: Các kỳ Đại hội Đảng đã khẳng định rõ sự cần thiết và vai trò quan trọng của nguồn vốn FDI, song trên thực tế nhận thức về nguồn vốn này chưa quán triệt, thông suốt, chưa có sự nhận thức thống nhất ở các cấp, các ngành. Việc hoạch định các chủ trương và chính sách liên quan đến ĐTNN không đứng độc lập, mà nằm trong mối liên hệ tổng thể với nhiều lĩnh vực khác, như kinh tế chính trị, an ninh quốc phòng, mở rộng hợp tác kinh tế... Do đó, cần thiết phải quán triệt các quan điểm về phạm vi, bản chất, phương thức sử dụng vốn, từ đó xử lý những vấn đề cụ thể về vai trò và hiệu quả của vốn đầu tư, hình thức đầu tư, đối tác đầu tư, quy mô phát triển của một doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài... Sự thiếu nhất quán về quan điểm sẽ dẫn đến việc chậm chễ trong hoạch định chính sách, làm chậm tiến độ xem xét dự án, bỏ lỡ cơ hội thu hút vốn đầu tư, làm xấu đi môi trường đầu tư..., từ đó ảnh hưởng xấu đến những đánh giá thiếu khách quan về tác động của vốn đầu tư đối với sự phát triển của nền kinh tế. Đây là hạn chế rất lớn, không phải dễ khắc phục, nhưng nếu không có những biện pháp chấn chỉnh kịp thời sẽ trở thành lực cản đối với tiến trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. 2. Sự chưa hoàn chỉnh trong hệ thống luật pháp và chính sách ĐTNN: 2.1 Những hạn chế của luật pháp: Thứ nhất, một bất cập lớn nhất trong hệ thống luật pháp liên quan đến ĐTNN, là vẫn tồn tại song song 2 luật đầu tư. Đó là luật đầu tư trong nước và luật ĐTNN. Điều này tất yếu dẫn đến một môi trường đầu tư không bình đẳng cho nhà ĐTNN về thủ tục đầu tư, điều kiện đầu tư, phạm vi hoạt động, cũng như những ưu đãi khác. Mặt khác, đối với nền kinh tế trong nước, khi chưa thể tạo ra thế cân bằng về lợi thế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có vốn ĐTNN và các doanh nghiệp nội địa thì khó có thể tạo ra một động lực thực sự cho sự phát triển sống còn của chính các ngành sản xuất trong nước. Hơn nữa, điều này cũng hoàn toàn đi ngược lại với thông lệ quốc tế về bình đẳng cạnh tranh, gây tâm lý bất ổn cho nhà đầu tư khi tiến hành hoạt động đầu tư, kinh doanh của mình. Thứ hai, hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến ĐTNN còn thiếu tính hệ thống, tính ổn định, tính minh bạch và tính khả thi. Nhiều văn bản dưới luật ban hành chậm so với quy định, chậm đi vào cuộc sống. Lại có tình trạng thay đổi quá nhanh, đôi khi quá tuỳ tiện, nên đã làm đảo lộn nhiều dự án kinh doanh, và gây không ít thiệt hại cho nhà đầu tư. Một số văn bản khác của các cơ quan Bộ ngành lại có xu hướng mâu thuẫn, tăng thêm thủ tục, quy trình, dẫn đến tình trạng “trên thoáng, dưới chặt”. Tình hình đó tạo ra nhiều lỗ hổng về pháp lý, gây khó khăn cho các nhà đầu tư chân chính, tạo cơ hội cho các hoạt động phi pháp, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Không ít nhà đầu tư đã cho kêu ca về tính không rõ ràng trong Luật. Ví dụ, trong Nghị định số 10/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 đưa ra danh mục các dự án được khuyến khích và các dự án có điều kiện, những lại có sự chồng chéo trong danh mục các hàng hoá, như sản phẩm thép chất lượng cao... Tương tự, các quy định về tỷ lệ đối với hàng xuất khẩu cũng không nhất quán và rõ ràng trong các luật. Một đại diện của ngân hàng Nhật Bản cũng tỏ rõ quan điểm: sự thay đổi trong luật pháp của Việt Nam đang làm người nước ngoài chưa muốn đầu tư và có khuynh hướng chờ đợi đến khi môi trường pháp lý được cải thiện hẳn. Như vậy, trong quá trình đầu tư tại Việt Nam, mọi nhà ĐTNN đều mong muốn được đảm bảo về tính ổn định và dự báo được của luật pháp để ít nhất có thể tính toán được phần nào lợi ích và rủi ro của việc đầu tư. Do vậy, Nhà nước ta cần có những điều chỉnh hợp lý trong khâu nghiên cứu và ban hành luật, tạo tâm lý thoải mái cho nhà đầu tư khi tham gia kinh doanh ở Việt Nam. Thứ ba, Hệ thống luật đang trong quá trình hoàn thiện, do đó còn thiếu nhiều đạo luật cần thiết cho sự phát triển của một nền kinh tế bậc cao, như luật cạnh tranh, luật chống độc quyền; nhiều điều luật cũng được thi hành chưa nghiêm, như luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp... Theo Luật sư John Hickin (Công ty Luật JohnsonStoke &Master) thì một lĩnh vực khác cũng còn nhiều bức xúc, đó là hệ thống luật của ta còn thiếu một hệ thống văn bản pháp quy về Phá sản đủ mạnh để điều chỉnh các hoạt động phá sản của doanh nghiệp. Điều này là thực sự cần thiết trong giai đoạn hiện nay, do thực tế khi nhiều công ty xuất hiện thì không thể tránh khỏi hiện tượng một số công ty khác sẽ lâm vào tình trạng khó khăn và buộc phải phá sản và cải tổ lại. Luật của chúng ta cũng chưa có những chế tài cụ thể nhằm giải quyết các tranh chấp giữa các bên Việt Nam và các đối tác bên ngoài. Vấn đề nóng nhất là hiện nay với một trường hợp tranh chấp, các bên liên quan có thể đưa ra nhiều kiểu phán quyết khác nhau. Có thể thấy rõ rằng hệ thống luật nước ta cần được quan tâm củng cố nhiều, kể cả các văn bản pháp quy, quy trình xét xử, các cách thức giải quyết tranh chấp cũng như nâng cao năng lực của một bộ phận không nhỏ công chức hành pháp. Thứ tư, hình thức đầu tư còn hạn chế. Luật ĐTNN của Việt Nam chưa cho phép áp dụng một số hình thức đầu tư như doanh nghiệp FDI đa mục tiêu, doanh nghiệp có vốn FDI được cổ phần hoá ... Do đó, công ty thành lập theo Luật ĐTNN vào Việt Nam không thể phát hành cổ phiếu, phá sản hay chia quyền sở hữu công ty và quản lý công ty. Điều này khiến chi phí đầu tư cao và làm mất hiệu lực quản lý. Mặt khác, cũng làm mất đi cơ hội tăng được số vốn tự có của công ty bằng cách khơi thông dòng vốn từ nhân dân. Những hạn chế của chính sách ĐTNN: Về chính sách thuế: Hệ thống thuế thu vào các doanh nghiệp có vốn ĐTNN là một bộ phận cấu thành trong hệ thống thuế hiện hành, được ban hành nhằm khuyến khích thu hút ĐTNN, song trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều nhược điểm. - Hệ thống thuế hiện hành được hình thành dưới hình thức một hệ thống thuế đa thuế suất cho từng sắc thuế, mỗi loại thuế đánh vào một đối tượng theo đuổi các mục tiêu khác nhau. Kết quả là hệ thống thuế ngày càng trở nên phức tạp, gây khó khăn cho việc hành thu và quản trị của ngành thuế, vừa tạo kẽ hở cho việc trốn và tránh thuế. - Mặt khác, hệ thống thuế với nhiều khoản thuế khác nhau này được hoạch định tách rời và chưa kết hợp thành một cấu trúc hoàn chỉnh, cũng chưa có khả năng bao quát được các nguồn thu và các hoạt động kinh tế [7]. Do đó, công tác thu thuế càng trở nên khó khăn, không có sự phân định rõ về quyền hạn, trách nhiệm giữa các cấp quản lý, gây nên tình trạng trốn thuế và tránh thuế xảy ra khá phổ biến. - Một số chính sách thuế gần đây, chưa đi xuất phát từ thực tế, gây khó khăn cho nhà đầu tư thông qua việc tăng chi phí sản xuất của một số ngành hàng, mặt hàng, tăng giá bán trên thị trường, làm co hẹp tiêu thụ. (ví dụ như sắc thuế tiêu thụ đặc biệt). Chính sách thuế theo tỷ lệ nội địa hoá cao mang lại những tiêu cực ngược chiều, gây cản trở cho nhiều ngành vốn là trọng tâm hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN (như lĩnh vực cơ khí, điện tử, máy móc...) - Khi áp dụng các văn bản thuế, Nhà nước thường có xu hướng bổ sung sửa đổi, làm cho hệ thống các chính sách thuế không ổn định. - Nhiều quy định thuế hiện hành không phù hợp với thông lệ hiện hành trong khu vực và trên thế giới. Sở dĩ như vậy là do trong sắc thuế hiện hành còn quá nhiều khoản mục ưu đãi, yếu tố này làm giảm tính cạnh tranh bình đẳng của môi trường kinh doanh, trực tiếp làm giảm khả năng và tốc độ hoà nhập với các nước trong khu vực. Mặt khác, không phải bất cứ ưu đãi nào cũng đem lại hiệu quả như mong. Thực tế cho thấy, nhiều biện pháp ưu đãi tỏ ra không hiệu quả và không cần thiết. Về chế độ bảo lãnh, thế chấp: Cho đến nay, ở nước ta chưa có một các văn bản pháp quy về hệ thống thế chấp tự do đối với các khoản cho vay nước ngoài. Đối với những dự án có quy mô lớn, để có đủ 30% vốn góp vào liên doanh, các doanh nghiệp Việt Nam đối khi phải thế chấp bằng tài sản của họ tại địa phương hoặc bằng các khoản cầm cố và thế chấp của các đối tác phía Việt Nam (như các trái phiếu kho bạc Nhà nước hoặc các khoản tiền gửi có kỳ hạn ở ngân hàng). Điều này mới nghe tưởng có lý, song thực chất, chính tài sản của phía Việt Nam vốn được dùng để góp vốn pháp định, lại tiếp tục được đem đi thế chấp để vay tiền, theo nguyên tắc tín dụng của ngân hàng là hoàn toàn mâu thuẫn. Hơn nữa, do trình độ phát triển về kinh tế còn hạn chế, ở nước ta vẫn chưa có các cơ quan phân tích tài chính lớn, do đó nhà ĐTNN khó có thể kiểm tra được việc tái đăng ký của các công ty quốc doanh hữu quan. Về chính sách tỷ giá: Hiện nay, Nhà nước ta vẫn đang theo đuổi chính sách tỷ giá hối đoái cố định gắn vào đồng đôla, do đó vẫn còn không ít lo ngại từ phía các nhà ĐTNN. Bài học về chính sách tỷ giá cố định của các nước trong khu vực trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua vẫn còn được nhắc đến nhiều. Chính sách tỷ giá này nếu diễn ra trong một thời gian dài sẽ dẫn đến những hậu quả nặng nề như: giảm sức cạnh tranh xuất khẩu, làm méo mó môi trường kinh doanh, dẫn đên sự lệch hướng trong đầu tư (do giá cả bị bóp méo, những chỉ báôch biết việc lựa chọn hướng đầu tư bị sai lệch), cơ cấu kinh tế của đất nước mất cân đối và kém hiệu quả...[9] Chính sách đất đai: Được đánh giá là yếu tố quan trọng để thu hút nguồn vốn từ nước ngoài, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến đất đai gắn với ĐTNN. Song thực tế, các chính sách ưu đãi về đất đai vẫn còn những hạn chế nhất định: - Giá thuê đất của Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực. Đấy là chưa kể các chi phí phụ cần thiết phát sinh. Theo thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư, giá thuê đất chưa có hạ tầng của Việt Nam trung bình là 1-12$/m2/năm, trong khi đất trong khu công nghiệp thuê ở Malaysia là 0,044$/m2/năm, Philipin là 0,17-2$/m2/năm. Với sự so sánh chênh lệch như thế này, chắc chắn làm giảm sức cạnh tranh thu hút vốn FDI. Theo ông Nguyễn Mạnh Thản, chủ tịch hội đồng quản trị Công ty Du lịch Ao vua cũng cho biết, mức giá 3000 đồng/m2 ở khu vực này là khá cao. Thử làm một phép tính đơn giản, mỗi khu du lịch có diện tích khoảng 10ha, nếu giá thuê đất giảm 1000đồng/m2 thì nhà đầu tư sẽ tiết kiệm được khoảng trên dưới 100 triệu đồng/năm. Bên cạnh đó, giá thuê đất ở vùng sâu vùng xa cũng vẫn còn cao, lại thêm cơ sở hạ tầng còn kém. Vì thế các nhà đầu tư vẫn chưa thấy mặn mà trong việc rót vốn vào khu vực này. - Thủ tục thuê đất: còn phức tạp gây mất cơ hội và thời gian của các nhà đầu tư. Công tác giao đất còn gây nhiều khó khăn. Theo đánh giá của Bộ kế hoạch đầu tư tháng 3/2002, có 4 dự án trồng rừng và chế biến gỗ đi vào hoạt động đầu năm 2002, song đều gặp phải khó khăn để giao đất đầy đủ cho nhà đầu tư theo như đã cam kết khi cấp giấy phép đầu tư [12]. Mặt khác, diện tích rừng trồng còn manh mún, không liền khoảng, liền ô. Một số dự án hầu như không trồng rừng mà chuyển sang thu mua gỗ và băm dăm xuất khẩu. Cả một số dự án về mía đường, chè... đường cũng gặp khó khăn không chỉ trong việc giao đất mà trong cả tranh chấp về vùng nguyên liệu. - Do thiếu quy hoạch chi tiết về thu hút vốn đầu tư FDI nên một số địa phương tuỳ tiện xử lý các vấn đề đất đai áp dụng đối với các nhà ĐTNN, tạo nên môi trường cạnh tranh không lành mạnh trong thu hút vốn giữa các địa phương; mặt khác giảm hiệu quả thực tế của nhiều dự án. Đây cũng là khó khăn rất lớn đòi hỏi Nhà nước cần có biện pháp giải quyết. Chính sách công nghệ: Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định vai trò động lực của khoa học-công nghệ đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, trong đó chuyển giao công nghệ là vũ khí hàng đầu. Đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về những yêu cầu kỹ thuật đối với máy móc thiết bị đã qua sử dụng như: Thụng tư 02/TT-BKHCNMTngày 15/2/2001, Quyết định 491/QĐ/BKH/CNMT ngày 29/4/1998, quyết định 2019/1997/QĐ-BKHCN&MT của Bộ trưởng Bộ Khoa học, Cụng nghệ và Mụi trường… song công nghệ tiên tiến được nhập vào chưa nhiều, mức độ hiện đại tinh vi của chính bản thân công nghệ còn thấp. Trừ một số công nghệ nhập vào tương đối hiện đại như lĩnh vực dầu khí, viễn thông..., còn lại 55% là công nghệ là ở trình độ thấp so với các nước trong khu vực, gây ô nhiễm môi trường. Theo báo cáo của Bộ Khoa học công nghệ và môi trường hiện có hơn 500 máy móc thiết bị của 42 Công ty liên doanh với nước ngoài được sản xuất từ những năm 60. Trong số này có đến 2/3 thiết bị đã hết thời hạn khấu hao được tân trang và tính giá cao để góp vốn. Ví dụ như Liên doanh quốc tế Hoàng Gia (Quảng Ninh) nhập 6 triệu USD thiết bị điện tử nâng giá 50-100%; hợp đồng quốc tế khai thác than Uông Thượng (Quảng Ninh) – hãng Việt – Miđrô Indônesia khai tăng 3,5 USD... Mặt khác công nghệ được chuyển giao vào nước ta còn nhiều điểm chưa hợp lý. Nhiều công nghệ đã qua sử dụng những vẫn được tính giá cao so với mặt bằng giá cả thế giới khi tham gia góp vốn liên doanh, trong khi các cơ quan quản lý Nhà nước không đủ khả năng thẩm định chính xác. Hoặc hiện nay cũng xuất hiện tình trạng “đầu tư ẩn”, tức là phần lớn các dây chuyền công nghệ được nhập vào dưới dạng đầu tư gián tiếp để tránh né kiểm định. Do đó, nếu Nhà nước không có những biện pháp kịp thời và chiến lược công nghệ hợp lý để nâng cao chất lượng của máy móc thiết bị nhập khẩu thì sẽ sớm dẫn đến nguy cơ trở thành bãi rác công nghiệp của các nước phát triển. Chính sách lao động: Về vấn đề lao động, ta cũng chưa xây dựng được một hệ thống các văn bản pháp quy hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi về vật chất và tinh thần (như vấn đề tiền lương, thưởng, điều kiện làm việc...) cho người lao động làm việc trong các công ty có vốn ĐTNN. Chính vì vậy, các vụ tranh chấp, thậm chí hành hung lao động đang có xu hướng ngày càng gia tăng trong các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Ví dụ như doanh nghiệp Rapexco (Khánh Hoà) tuyển 2000 công nhân nhưng không làm hợp đồng lao động; nhà máy đóng tàu Huyndai Vinashin sử dụng 750 công nhân đã quá thời hạn thử việc nhưng không chuyển vào hợp đồng chính thức... Ngoài ra, việc tuyển dụng lao động còn gặp nhiều khó khăn, thủ tục phiền hà, phức tạp. Theo Nghị định 85/1988/NĐ-CP ban hành ngày 20/10/1988 quy định khi muốn tuyển dụng lao động doanh nghiệp có vốn ĐTNN phải ký một hợp đồng cung ứng lao động với một tổ chức cung ứng lao động, rồi sau đó mới được ký hợp đồng với lao động Việt Nam [15]... Thực chất những quy định này là nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động nhưng thực tế đã hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, tốn thời gian và chi phí cho nhà đầu tư, gây nên tâm lý chán nản khi đầu tư vào Việt Nam. Theo đa số đánh giá của các nhà ĐTNN, so với các nước khác trong khu vực, lực lượng lao động còn bộc lộ nhiều điểm yếu kém: trình độ ngoại ngữ kém, chưa quen với tác phong công nghiệp và các quy tắc an toàn, vệ sinh trong lao động, hiểu biết về pháp luật kém [36]... Hầu hết lao động trực tiếp của các doanh nghiệp FDI được tuyển dụng từ nông thôn, do vậy chi phí đào tạo khá tốn kém, không đáp ứng được nhu cầu. Vì vậy, Nhà nước cũng cần đưa ra chính sách đào tạo, bồi dưỡng lao động triệt để. Việt Nam chưa có chính sách nuôi dưỡng những ngành công nghiệp được coi là có triển vọng. Ngay trong các văn bản pháp luật cũng mâu thuẫn trong các chính sách bảo hộ sản xuất trong nước, cam kết tự do thương mại, bảo hộ quyền lợi người tiêu dùng... 3. Công tác quy hoạch còn chậm, chất lượng chưa cao, thiếu cụ thể dẫn đến cơ cấu vốn đầu tư chưa hợp lý: Công tác quy hoạch theo lãnh thổ, theo ngành và theo sản phẩm có tính chiến lược chưa được xác định cụ thể, còn thiếu chính xác, chưa triệt để, các cấp độ ưu đãi chưa tương ứng với mức độ chênh lệch về điều kiện giữa các ngành. Do đó, việc thu hút vốn thường trái với quy hoạch, chưa chủ động trong các công đoạn thu hút vốn. Điều này dẫn đến tình trạng cấp giấy phép đầu tư sản xuất một số sản phẩm vượt quá nhu cầu hiện tại. Ví dụ như trong một số ngành điện tử, lắp ráp, nước giải khát..., gây ra tình trạng sản phẩm thừa thì vẫn thừa, giá cả cao, sản phẩm thiếu thì vẫn thiếu. Trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, ĐTNN còn quá hạn chế. Hơn nữa, số các dự án thành công không nhiều do gặp thiên tai, nguồn nguyên liệu không ổn định, chưa có sự liên kết chặt chẽ với nông dân. Quy hoạch mạng lưới giáo dục, dạy nghề còn thiếu đồng bộ. Chủ trương đa phương hóa nguồn vốn FDI còn chưa thực hiện được. ĐTNN tập trung chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng và môi trường kinh tế xã hội (10/61 tỉnh/thành), số các dự án ở các vùng nông thôn còn ít và có nguy cơ giảm, do chính sách chưa mấy ưu đãi. Hơn nữa, tỷ lệ rủi ro của các dự án ĐTNN ở các địa bàn kinh tế khó khăn cũng cao. Phần lớn các dự án thiên về sản xuất thay thế nhập khẩu hơn là hướng ra xuất khẩu, gây khó khăn trong xuất khẩu, làm giảm hiệu quả của các sản phẩm xuất khẩu... Xuất khẩu của khu vực ĐTNN chủ yếu vẫn là gia công dệt may, giày dép, lắp ráp điện tử, do đó giá trị thấp, sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế kém. Các cơ quan hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế chưa chủ động phối hợp với UBND các tỉn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV8202.Doc
Tài liệu liên quan