Đề tài Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm máy móc ở Công ty bảo hiểm Hà Nội thời gian qua và phương hướng phát triển cho giai đoạn tới

Tài liệu Đề tài Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm máy móc ở Công ty bảo hiểm Hà Nội thời gian qua và phương hướng phát triển cho giai đoạn tới: Lời nói đầu “Đổi mới trang thiết bị, công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiến vào chế tạo máy” là nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong Nghị quyết TW2 nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. Đây là nhiệm vụ quan trọng của thời kỳ phát triển, đặc biệt đối với các thành phần kinh tế cả trong và ngoài quốc doanh. Cùng với nhiệm vụ này là số vốn đầu tư vào Việt Nam ngày càng nhiều , nhất là sau khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành vào năm 1989 đã làm cho hoạt động sản xuất ở Việt Nam ngày càng tăng, hàng loạt các máy móc nhập khẩu và sản xuất trong nước được đem vào sử dụngthay thế máy móc cũ . Trước tình hình đó ngành Bảo hiểm Việt Nam đã biết nắm lấy thời cơ cho ra đời nghiệp vụ bảo hiểm mớ nhăm đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn tài chín cho các chủ đầu tư nước ngoài cũng như các chủ xí nghiệp trong nước đó là bảo hiểm máy móc. ở Việt Nam bảo hiểm máy móc ra đời xuất phát từ sự đòi hỏi của thị trường và nhu cầu mở rộng phạm vi hoạt động của ngành...

doc86 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1064 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm máy móc ở Công ty bảo hiểm Hà Nội thời gian qua và phương hướng phát triển cho giai đoạn tới, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu “Đổi mới trang thiết bị, công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật tiến vào chế tạo máy” là nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong Nghị quyết TW2 nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. Đây là nhiệm vụ quan trọng của thời kỳ phát triển, đặc biệt đối với các thành phần kinh tế cả trong và ngoài quốc doanh. Cùng với nhiệm vụ này là số vốn đầu tư vào Việt Nam ngày càng nhiều , nhất là sau khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành vào năm 1989 đã làm cho hoạt động sản xuất ở Việt Nam ngày càng tăng, hàng loạt các máy móc nhập khẩu và sản xuất trong nước được đem vào sử dụngthay thế máy móc cũ . Trước tình hình đó ngành Bảo hiểm Việt Nam đã biết nắm lấy thời cơ cho ra đời nghiệp vụ bảo hiểm mớ nhăm đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn tài chín cho các chủ đầu tư nước ngoài cũng như các chủ xí nghiệp trong nước đó là bảo hiểm máy móc. ở Việt Nam bảo hiểm máy móc ra đời xuất phát từ sự đòi hỏi của thị trường và nhu cầu mở rộng phạm vi hoạt động của ngành baỏ hiểm trong cơ chế mới. Tuy nhiên đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và Công ty Bảo hiểm Hà nội nói riêng thì nghiệp vụ bảo hiểm máy móc đang còn là lĩnh vực non trẻ và đầy tiềm năng của ngành bảo hiểm. Vì vậy, làm thế nào để hiểu thấu đáo, tường tận cơ sở lý luận và thực tế triển khai nghiệp vụ này cho phù hợp với điều kiện Việt nam mà vẫn theo sát được sự tiến bộ của khoa học công nghệ đang là câu hỏi lớn đặt ra với mỗi cán bộ làm công tác bảo hiểm. Chính vì vậy, qua thời gian thực tập tại công ty bảo hiểm Hà nội tôi đã chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu với tiêu đề : ”Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm máy móc ở Công ty bảo hiểm Hà Nội thời gian qua và phương hướng phát triển cho giai đoạn tới”. Mục đích của đề tài nhằm nghiên cứu cơ sở lý luận của nghiệp vụ và việc ứng dụng nó như thế nào vào điều kiện của Việt nam. Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề này gồm 3 chương với các nội dung sau: Chương 1: Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm máy móc. Chương 2: Những nội dung cơ bản của bảo hiểm máy móc. Chương 3: Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm máy móc ở Công ty Bảo hiểm Hà nội Với mong muốn đóng góp công sức nhỏ bé của mình vào quá trình phát triển của nghiệp vụ, song do trình độ còn hạn chế, thời gian tiếp xúc thực tế còn ít nên chuyên đề chắc sẽ còn nhiều hạn chế, kính mong được sự chỉ giáo của thầy giáo hướng dẫn cũng như sự chỉ bảo của các cô chú và anh chị Phòng Bảo hiểm Cháy và rủi ro kỹ thật thuộc Công ty Bảo hiểm Hà nội. Tôi xin chân thành cảm ơn. Chương I Sự cần thiết của bảo hiểm máy móc I-Khái quát chung về Bảo hiểm: 1. Sự cần thiết khách quan của Bảo hiểm Cuộc sống của loài người dù diễn ra trong thời kỳ nguyên thuỷ hay trong thế giới hiện đại thì những rủi ro về thiên tai, tai nạn bất ngờ hay ốm đau là điều không thể tránh khỏi. Cho dù khoa học kỹ thuật có phát triển đến đâu thì con người cũng không thể dự đoán được khi nào thì những rủi ro đó xảy ra để phòng tránh. Vậy con người phải làm gì để giảm bớt mất mát khi gặp phải những biến cố đó? Ngay từ thời cổ xưa, dưới chế độ công xã nguyên thuỷ, con người đã biết dự trữ thức ăn cho những ngày mưa rét không thể đi săn. Đó chính là hình thức Tự bảo hiểm mặc dù lúc đó họ không biết tới khái niệm bảo hiểm mà chỉ cho đó là việc làm cần thiết để duy trì cuộc sống. Khi xã hội phát triển thêm một bước, con người đã biết tìm kiếm các hoạt động để giảm mất mát khi gặp rủi ro bằng cách hình thành những mô hình tổ chức để đảm bảo sự an toàn cho mỗi cá nhân tham gia. Đầu tiên là các phường hội, các hội tuơng hỗ giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng gia đình, làng xã. Có thể nói đây là hình thức sơ khai của Bảo hiểm. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và khoa học kỹ thuật đã kéo theo hàng loạt các thay đổi lớn trên mọi lĩnh vực. Vì thế con nguời sống trong một môi trường rộng lớn hơn, một nền klhoa học tiên tiến hơn đồng thời đó cũng là một môi trường kém an toàn hơn, khả năng gặp rủi ro của mỗi cá nhân và tổ chức tăng lên. Trước tình hình đó, khuôn khổ các hội tương hỗ hay phường hội trở nên chật hẹp, không đủ bù đắp những rủi ro có qui mô và tần suất ngày càng lớn. Mặt khác, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã làm tăng thêm khả năng thoả mãn nhu cầu của con người. Những nhu cầu cơ bản như ăn mặc, ở... dường như bị lãng quên mà người ta bỗng thèm muốn được vui chơi hưởng thụ, được đảm bảo an toàn trong cuộc sống. Để thoả mãn cho những nhu cầu an toàn đó, con người đã dần dần nâng hoạt động của các tổ chức phường, hội, các hội tương hỗ lên cả về quy mô và chất lượng, hình thành nên những hoạt động bảo hiểm như ngày nay. Bảo hiển ra đời một cách tự nhiên theo yêu cầu và sự đòi hỏi khách quan của nền sản xuất xã hội, nó tồn tại và phát triển cùng với quá trình sản xuất, sản xuất càng phát triển thì bảo hiểm càng cần thiết. Trong xã hội hiện đại, lực lượng sản xuất phát triển đã tạo đà cho sự phong phú và đa dạng trong các lĩnh vực sản xuất, nhu cầu được bảo đảm an toàn ngày càng cao. Dịch vụ bảo hiểm có cơ hội thể hiện vai trò không thể thiếu trong mọi lĩnh vực hoạt động và đời sống. Đối với cá nhân, bảo hiểm có thể giảm bớt những thiệt hại kinh tế, những mất mát tinh thần do được an ủi phần nào. Đối với các tổ chức kinh tế thì bảo hiển mang tính sống còn vì những rủi ro như hoả hoạn, thiên tai... có thể dẫn họ tới phá sản khó khôi phục được. Có bảo hiểm họ sẽ an tâm sản xuất kinh doanh và chính điều này mang lại lợi ích khá lớn cho các tổ chức kinh tế đó. Như vậy, sự có mặt của bảo hiểm là rất cần thiết cho tất cả hoạt động diễn ra trong xã hội bất kể đó là thời kỳ nguyên thuỷ hay trong thế giới hiện đại. 2. Vài nét về qúa trình phát triển của bảo hiểm. Như đã nói ở trên, các hình thức sơ kh!i của bảo hiểm như hội tương hỗ....xuất hiện từ rất sớm. Người Ân độ, La mã, Hy lạp đã biết đến bảo hiểm từ hàng nghìn năm trước. Song hình thức bảo hiểm như thấy hiện nay cũng chỉ có lịch sử phát triển dăm trăm năm. Đơn bảo hiểm được coi là sớm nhất đề ngày 20-9-1547 tại La mã để bảo hiểm cho một chuyến hàng từ Cadiz đi London. Đạo luật đầu tiên liên quan đến Bảo hiểm hàng hải được ban hành vào năm 1601. Đến năm 1680, đánh dấu bước hình thành đầu tiên của tập đoàn Bảo hiểm Anh quốc Lloyd’s khi Edward Lloyd mở quán Café ở London làm nơi gặp gỡ các nhà Bảo hiểm Hàng Hải với các chủ tàu, nhà buôn và thuyền trưởng. Sau vụ cháy khủng khiếp mang tính lịch sử tại London vào năm 1666 làm hơn 13.000 nóc nhà bị thiêu huỷ và hàng nghìn người bị thiệt mạng, các nhà kinh doanh Bảo hiểm Anh đã nghĩ ngay tới việc chia sẻ các rủi ro hoả hoạn bằng cách lập ra Công ty Bảo hiểm hoả hoạn đầu tiên trên Thế giới fire office vaò năm 1667, sau đó là hand and hand vào năm 1696. Luật về tai nạn lao động ở Pháp năm 1848 là văn bản pháp luật đầu tiên về Bảo hiểm Xã hội, song cho tới năm 1883 mới được coi là năm ra đời của Bảo hiểm Xã hội khi nước Phổ ban hành luật về bảo hiểm Y tế. Sau đó là các luật về Bảo hiểm tai nạn Lao động(1884), Bảo hiểm thương tật và Người già (1889). Cuối những năm 1920, mặc dù xảy ra cuộc khủng hoảng trên phạm vi toàn thế giới nhưng sự sản xuất hàng loạt xe ô tô đã làm cho Bảo hiểm xe ô tô cực kỳ quan trọng. Vào những năm cuối của thập kỷ này, sự phát triển của công nghiệp hàng không, công nghiệp điện, năng lưọng nguyên tử đã làm Bảo hiểm phải mở rộng phạm vi hoạt động và ngày càng khẳng định vai trò của mình. ở Việt Nam, Bảo hiểm xuất hiện từ những năm đầu thế kỷ này bằng hình thức Bảo hiểm Xã hội dưới thời thuộc điạ. Đó là chế độ trợ cấp do chính quyền thuộc địa Pháp thực hiện đối với công chức và quân nhân Viêt nam hưởng lương phục vụ trong bộ máy hành chính , lực lượng quân sự của Pháp khi họ ốm đau, tuổi già hoặc chết. Sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945, Đảng và Nhà nước đã nhận thấy sự quan trọng và cần thiết của việc tiến hành bảo hiểm và Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh Bảo hiểm xã hội vào tháng 12 năm 1945. Nhưng do điều kiện chiến tranh của đất nước, bên cạnh đó là nền kinh tế lạc hậu, đổ nát nên bảo hiểm xã hội chỉ thực sự trở thành chính sách lớn và thực hiện ở nước ta khi Điều lệ tạm thời về Bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức Nhà nước theo nghị định 218/CP ngày 27-12-1961 được ban hành. Cho đến năm 1964, việc ra quyết định số 179/CP ngày 17-12-64 của Thủ tướng Việt nam về việc thành lập Công ty Bảo hiểm Việt nam đã đánh dấu sự ra đời của hình thức Bảo hiểm kinh doanh tại Việt nam. Bắt đầu từ đấy, ngành Bảo hiểm nước ta đã phát triển và lớn mạnh không ngừng, đóng góp ngày càng nhiều vào sự phát triển của đất nước II. Lịch sử phát triển và sự cần thiết của bảo hiểm máy móc. 1. Lịch sử phát triển của Bảo hiểm kỹ thuật So với các loại hình Bảo hiểm khác như Bảo hiểm Hoả hoạn, Bảo hiểm Hàng hải... thì Bảo hiểm Kỹ thuật ( BHKT) ra đời muộn hơn. Đơn BHKT xuất hiện đầu tiên vào năm 1859 là đơn bảo hiểm về máy móc và cùng trong năm đó xuất hiện đơn baỏ hiểm cho nồi hơi. Tuy sinh sau đẻ muộn hơn so với các loại hình Bảo hiểm truyền thống nhưng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, BHKT đã tiến những bước dài vững chắc và chiếm lĩnh vị trí hàng đầu trong các loại hình kinh doanh bảo hiểm hiện nay. BHKT hiện đã xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực của hoạt động kinh tế, khoa học trên toàn thế giới, từ việc bảo hiểm các máy móc trong xí nghiệp sản xuất, các dụng cụ tinh vi trong y tế, trong phòng thí nghiệm tới việc bảo hiểm cho các công trình xây lắp khổng lồ, các công tác lắp ráp máy bay, tàu biển cỡ lớn và cho cả các con tàu vũ trụ. Công ty Munich Re, một công ty tái bảo hiểm hàng đầu thế giới, là một trong những công ty đã sáng lập và phổ biến rộng rãi loại hình bảo hiểm này cùng với các công ty khác trên thị trường bảo hiểm London- trung tâm bảo hiểm của cả thế giới. Hiện nay đã có các loại hình bảo hiểm kỹ thuật sau: Bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ thầu (Contractors all risks: CAR) Bảo hiểm mọi rủi ro trong lắp đặt( Erections All Risks: EAR) Bảo hiểm thiết bị điện tử (Electronic Equipment Insurance) Bảo hiểm thăm dò và khai thác dầu khí (Oil and Gas Exploration and Production) Bảo hiểm hỏng hàng trong kho lạnh (Dterioration of Stock in Cold Storage) Và trong tương lai sẽ có nhiều loại khác nữa nhằm bảo vệ hữu hiệu nhất cho tất cả những hoạt động sản xuất cũng như đời sống hàng ngày. 2. Sự cần thiết của Bảo hiểm máy móc Bảo hiểm máy móc (BHMM), một trong những nội dung của Bảo hiểm được coi là con đẻ của cuộc cách mạng KHKT và cũng chính cuộc cách mạng này đã thúc đẩy BHKT phát triển không ngừng cả về tầm vóc lẫn phạm vi hoạt động. Hơn thế nữa, sự đi lên của thế giới văn minh nhất thiết phải dựa trên sự tiến bộ của các ngành khoa học kỹ thuật. Mọi dự án khoa học và ứng dụng đều đòi hỏi sự đảm bảo về mặt tài chính nhằm tiến triển với mức độ nhanh, liên tục và đạt hiệu quả. Vì vậy trong lĩnh vực hoạt động gắn liền với kỹ thật của nền kinh tế quốc doanh hiện nay, vai trò của BHKT nói chung và BHMM nói riêng là không thể thay thế. BHMM ra đời từ nhu cầu cần thiết đảm bảo sự an toàn cho các nhà máy, xí nghiệp sản xuất: khi khoa học, công nghệ phát triển, nhiều máy móc, thiết bị với các chức năng tự động hoá, chuyên môn hoá cao và những máy móc có giá trị lớn càng phổ biến. Bên cạnh lợi thế rất lớn của chúng thì cũng nảy sinh vấn đề mà những người sử dụng máy móc cần quan tâm, đó là khả năng xảy ra rủi ro cho máy cũng ngày càng tăng lên. Từ những rủi ro do sai sót thiết kế, tính toán, do nổ vật lý, đoản mạch điện... đến những rủi ro bên ngoài như bão, đóng và tan băng.... Trước tình hình này, BHMM ra đời như một cứu cánh cho những người sử dụng, giúp họ an tâm trong qúa trình tiến hành sản xuất của mình. Bên cạnh đó, trong cơ chế thị trường hiện nay, mỗi doanh nghiệp đều phải tự chủ về mặt tài chính và chủ động trong kinh doanh. Họ phải lo liệu sao cho sản xuất đạt hiệu quả cao nhất với cơ sở vật chất hiện có cộng với sự hợp tác làm ăn với các doanh nghiệp khác. Cơ chế này, một mặt thúc đẩy sản xuất phát triển, mặt khác buộc các doanh nghiệp phải quan tâm đến lợi ích của bảo hiểm. Nếu tham gia Bảo hiểm, trong trường hợp gặp rủi ro làm thiệt hại đến tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp thì, công ty Bảo hiểm, nơi mà họ tham gia, sẽ bồi thường kịp thời các tổn thất đó, giúp chủ doanh nghiệp giải quyết ngay khó khăn về tài chính, nhanh chóng phục hồi lại sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, khi tiến hành BHMM, người bảo hiểm cùng các ngành, các cơ quan hữu quan khác tiến hành công tác đề phòng hạn chế tổn thất nhằm ngăn chặn có hiệu quả các rủi ro có thể xảy ra gây thiệt hại với tài sản, con người. Đặc biệt, trong BHMM các công tác kiểm tra độ an toàn, điều kiện hoạt động, công tác bảo trì phòng ngừa... cho máy móc trước khi tiến hành bảo hiểm là rất quan trọng và thiết thực. Nó là cơ sở để góp ý kịp thời cho người được bảo hiểm các biện pháp cần thiết để hạn chế khả năng xảy ra tổn thất cho máy. Tóm lại BHMM có 3 mục tiêu chính sau đây: a. BHMM cho phép hình thành quỹ Bảo hiểm, đáp ứng nhanh chóng nhu cầu về mặt tài chính cho các đơn vị, xí nghiệp không may gặp thiên tai, tai nạn bất ngờ, giúp các đơn vị đó khôi phục sản xuât kinh doanh, đảm bảo tiến trình của chu kỳ sản xuất. b. Giúp các xí nghiệp tự chủ về mặt tài chính. Các xí nghiệp căn cứ vào điều kiện cụ thể của mình, trên cơ sở hạch toán đầy đủ giá thành, (trong đó bao gồm cả chi phí bảo hiểm), các doanh nghiệp cần cân nhắc nên tham gia những loại hình bảo hiểm nào để đạt kết quả kinh doanh tốt và luôn có sự đảm bảo về mặt tài chính. c. Góp phần tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất, nâng cao trách nhiệm của người được bảo hiểm đối với máy móc, thiết bị của mình. 3. Lịch sử phát triển và vai trò của BHMM BHMM đã được hình thành và phát triển cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Ngay từ những năm cuối của thế kỷ XIX, hệ thống máy móc cơ khí và dây chuyền công nghệ đã bắt đầu được sử dụng phổ biến tại các nhà máy của những nước công nghiệp châu Âu như Anh, Pháp, Đức...Trong quả trình sử dụng đó đã phát sinh nhiều rủi ro cho máy móc như sai sót do con người (sai sót trong chế tạo, tính toán thiết kế, do cẩu thả, ác ý...); tai nạn do thiên nhiên ( bão, lụt, tan băng...). Những sai sót này dù rất nhỏ cũng có thể dẫn đến những hậu quả rất lớn không chỉ gây thiệt hại cho xí nghiệp, nhà máy đó mà còn ảnh hưởng tới nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác. Từ đây đã xuất hiện nhu cầu về đảm bảo sự an toàn tài chính cho các chủ xí nghiệp có sử dụng máy móc, thiết bị và nhu cầu này đã được các công ty bảo hiểm của Đức đáp ứng bằng một loại hình bảo hiểm mới: Bảo hiểm máy móc. Như vậy, BHMM ra đời nhằm đảm bảo sự an toàn tài chính cho những người có máy móc đang hoạt động ngay từ những năm đầu của thế kỷ 19, đơn BHMM đầu tiên được cấp vào năm 1859. Sau đó, nhờ sự tác động và hỗ trợ mạnh mẽ của công ty TBH Munich Re, hàng loạt các công ty bảo hiểm của Đức đã triển khai loại hình bảo hiểm này. Mặc dù đã tồn tại hơn 100 năm, BHMM vẫn còn là một lĩnh vực non trẻ và cần sự hiểu biết sâu rộng của ngành bảo hiểm. Trong sự phát triển của mình, nó luôn theo sát sự tiến bộ của khoa học công nghệ và phần nào đáp ứng được nhu cầu của qúa trình công nghiệp hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Cũng giống như các loại hình Bảo hiểm khác, BHKT nói chung và BHMM nói riêng đều nhằm ổn định hoạt động của các tổ chức kinh tế cũng như ổn định đới sống nhân dân trong trường hợp chẳng may họ gặp phải rủi ro. Với việc thu phí Bảo hiểm của nhiều tổ chức kinh tế và cá nhân có liên quan trong xã hội để lập quỹ Bảo hiểm và với quan hệ TBH với các tổ chức Bảo hiểm trên Thế giới, công ty Bảo hiểm có đủ khả năng bồi thường ngay tổn thất cho người được bảo hiểm, cho dù tổn thất đó có lớn tới mức nào đi chăng nữa, giúp họ nhanh chóng khắc phục hậu quả của tổn thất, khôi phục sản xuất kinh doanh và đời sống. Bên cạnh nhiệm vụ chính này, BHMM còn có một vai trò rất quan trọng khác là cho phép chủ xí nghiệp có cơ hội đầu tư nguồn vốn không nhỏ từ quỹ dự trữ tổn thất mà lẽ ra họ phải trích lập nếu không có bảo hiểm. Điều này có nghĩa là BHMM đã tạo ra sự khả dụng của quỹ vào việc mở rộng và phát triển sản xuất, đóng góp phần quan trọng không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Một vai trò đáng lưu ý khác nữa là hiện nay, BHMM đã trở thành điều kiện tiên quyết để các ngân hàng đầu tư cung cấp những khoản vay và tín dụng cho các chủ nhà máy, xí nghiệp. Tóm lại, BHMM không chỉ gánh đỡ cho những người được bảo hiểm về tài chính và tinh thần khi họ không may gặp rủi ro mà ở tầm vĩ mô, nó còn đóng góp vai trò quan trọng trong việc sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả nhất, góp phần vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. 4. Sự cần thiết phải tiến hành Bảo hiểm máy móc ở Việt nam. Qua phân tích vai trò cũng như tác dụng của BHMM ở trên, ta đã thấy được sự cần thiết của BHMM đối với các nước có nền công nghiệp phát triển cũng như các nước sử dụng khoa học, công nghệ làm phương tiện trong quá trình công nghiệp hoá của mình. Đối với Việt nam, khi công cuộc công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước đang ở giai đoạn đầu và là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ photo triển thì việc ứng dụng khoa học, công nghệ vào đời sống được coi là công cụ quan trọng bậc nhất nhằm đua nên sản xuất đi lên. Việc sử dụng khoa học- công nghệ và máy móc hoá tất cả các hoạt động sản xuất đã và đang diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi một số lượng máy móc thiết bị lớn cần thiết phải có ở Việt nam. Hoà mình vào sự phát triển chung của đất nước, ngành Bảo hiểm đã có sự chuyển mình, nắm lấy thời cơ và mở rộng phạm vi hoạt động. Mục đích của Bảo hiểm là đảm bảo sự an toàn cho tất cả những đối tượng có nhu cầu nhằm tạo cho họ an tâm trong hoạt động tổ chức kinh doanh cũng như trong đời sống. Vậy trong giai đoạn đổi mới và phát triển của Việt nam hiện nay, với một số lượng máy móc lớn (nhưng rủi ro xảy ra cũng không phải là ít) và nhu cầu đảm bảo an toàn cho ngưòi sử dụng cao, ngành Bảo hiểm đã làm gì để đáp ứng nhu cầu đó? Quyết định của Tổng Giám đốc Công ty Bảo hiểm Việt nam (Bảo Việt) về việc cho phép Tổng Công ty và các công ty thành viên được phép triển nghiệp vụ Bảo hiểm máy móc đã chứng minh cho việc làm đúng đắn của ngành Bảo hiểm Việt nam và nó cũng chứng tỏ cho sự cần thiết phải tiến hành nghiệp vụ này ở Việt nam vì những lý do sau đây: Thứ nhất, BHMM sẽ làm tốt hơn môi trường kinh doanh ở Việt nam cho các nhà đầu tư nước ngoài. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế Việt nam đã thực sự có những nét khởi sắc, mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển và ổn định kinh tế. Việt nam không chỉ thoát khỏi cuộc khủng hoảng nghiêm trọng vào những năm đầu của thập kỷ 80 do sự sụp đổ của Liên xô và các nước Đông Âu mà còn đạt được những kết quả khả quan trong kinh tế như: đẩy nhanh tốc độ phát triển ở mức 8-10%/ năm, kiềm chế lạm phát, hạ thấp tỷ lệ thât nghiệp và ổn định dần đời sống cho người lao động. Chính sách đổi mới và mở cửa cùng với những kết quả ban đầu của Việt nam đã thu hút được sự quan tâm theo dõi của các nhà đầu tư nước ngoài bởi Việt nam là một thị trường lớn (dân số đông chưa đưọc khai thác, tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi...), lại có một chế độ chính trị ổn định. Đặc biệt sau Luật đầu tư nứoc ngoài vào Việt nam được Quốc hội thông qua ngày /12/1987 thì số lượng vốn đầu tư vào Việt nam ngày càng nhiều, cụ thể theo từng năm như sau: Năm Số vốn nước ngoài đầu tư vào Việt nam (Triệu USD) 1988 366 1989 589 1990 596 1991 1288 1992 1938 1993 2777 1994 4041 1995 5882,24 1996 8538 1997 9633 Biểu số 1: Số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam qua các năm Tuy nhiên, theo thông lệ, khi đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực nào, bất kỳ một nước nào thì vấn đề quan trọng hàng đầu mà các nhà đầu tư quan tâm là việc bảo đảm tài sản hay số vốn của họ. Để làm tốt điều này, các nhà đầu tư phải quan tâm đến chính trị và pháp luật của nước sở tại- vấn đề này chúng ta đã đáp ứng đầy đủ và hợp lý, ngoài ra còn phải xét đến vấn đề Bảo hiểm. Khi vốn đầu tư vào khu vực sản xuất ngày càng tăng cũng có nghĩa là số lượng nhà máy, xí nghiệp tăn lên. Trong khi đó môi trường sản xuất ở Việt nam còn nhiều khó khăn như thiên tai (bão, lụt) còn nhiều, trình độ tay nghề công nhân chưa đồng đều... đã gây không ít lo ngại cho các nhà đầu tư. Do vậy biện pháp duy nhất mà họ có thể an tâm đầu tư vào Việt nam là tiến hành bảo hiểm tài sản của họ ở một công ty Bảo hiểm nào đó. BHMM ra đời đã đáp ứng nhu cầu này. Thứ hai, giúp các doanh nghiệp nhà nước đảm bảo yếu tố an toàn vốn trong kinh doanh. Chỉ thị 138/CT ngày 25-4-91 của HĐBT về việc mở rộng diện được quyền sử dụng và trách nhiệm bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh cho các đơn vị quốc doanh cùng với Quyết định số QĐ232/HĐBT ngày 23-10-91 về việc bảo toàn và phát triển vốn sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp nhà nước ra đời đã quy định rằng, trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp có trách nhiệm thực hiện việc bảo toàn và phát triển vốn có hiệu quả. Đây là một nhu cầu tất yếu, cấp bách khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường. Để tránh tình trạng không bảo toàn được vốn do nguyên nhân khách quan như: thiên tai, địch hoạ, cháy nổ..., tránh các trường hợp phải xử lý giảm vốn hoặc đưa vào lỗ xí nghiệp, các doanh ngiệp cần mua bảo hiểm cho tài sản của mình để tạo nguồn bù đắp cho các thiệt hại đó tại một công ty Bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt nam. Khoản chi phí về bảo hiểm được hạch toán vào giá thành hay chi phí lưu thông doanh nghiệp.Nhà nước sẽ không cho phép ghi giảm vốn trong trường hợp tài sản bị tổn thất do những rủi ro mà các công ty Bảo hiểm trong nước đã triển khai những nghiệp vụ bảo hiểm tương ứng. Đối với các nhà máy, xí nghiệp sản xuất thì khả năng xảy ra tổn thất thường tỷ lệ thuận với công suất, cường độ làm việc của máy. Mà trong nền kinh tế quốc dân, đòi hỏi một khối lượng hàng hoá lớn, kịp thời nên các xí nghiệp thường phải tăng cường độ làm việc của máy móc, nhất là trong lúc giữa vụ hay giai đoạn hưng thịnh của chu lỳ sản phẩm. Điều này dẫn đến khả năng có rủi ro với máy móc càng tăng, đòi hỏi phải có một nghiệp vụ bảo hiểm tương ứng để bảo hiểm cho máy móc, thiết bị đó. Thứ ba, do sự thay đổi cơ cấu kinh tế, hàng loạt công ty cổ phần, công ty tư nhân đã ra đời là những công ty rất quan tâm đến Bảo hiểm vì số vốn có thể dùng đầu tư cho các biện pháp an toàn thường chiếm tỷ lệ cao so với nhu cầu cần thiết trong khi đó các tai nạn, rủi ro lại xảy ra ngày một nhiều và theo chiều hướng tăng dần mức độ nghiêm trọng. Những lý do trên đã giải thích cho sự cần thiêt ta phải tiến hành nghiệp vụ BHMM ở Việt nam. Chương II: những nội dung cơ bản của bảo hiểm máy móc I. Những quy định chung trong quy tắc Bảo hiểm máy móc Bảo hiểm máy móc, loại hình bảo hiểm đầu tiên mang tính kỹ thật, đã ra đời và phát triển cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Trong quá trình phát triển của mình, nó luôn theo sát sự tiến bộ của công nghệ và đem đến một sự bảo vệ hữu hiệu cho các máy móc, thiết bị cũng như hệ thống máy móc có giá trị lớn trong nền kinh tế quốc dân, Bảo hiểm máy móc, cùng với các nghiệp vụ bảo hiểm kỹ thuật khác như: - Bảo hiểm rủi ro cho chủ thầu (CAR) - Bảo hiểm mọi rủi ro trong lắp đặt (EAR) - Bảo hiểm mất thu nhập do máy móc ngừng hoạt động (Loss of profit folowing Machinary break down insurance) - Bảo hiểm thiết bị điện tử (Electronic Equipment Insurance) - Bảo hiểm thăm dò và khai thác dầu khí (Oil & Gas Exploration & Production) - Bảo hiểm hỏng hàng trong kho lạnh ( Detwrioration of stock in Cold Storage). Đã tạo thành một chuỗi bảo hiểm liên hoàn cho các hạng mục công trình liên quan đến kỹ thuật, bắt đầu từ khởi công xây dựng, lắp đặt đến việc sử dụng máy móc thiết bị tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh. Giữa các loại hình bảo hiểm này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và mang đặc trưng của Bảo hiểm kỹ thuật, điều đó có thể thấy được qua ví dụ sau: Ví dụ: Khi tiến hành xây dựng một nhà máy mới, tất cả các giai đoạn từ khi bắt đầu khởi công xây dựng cho tới khi máy móc, thiết bị được đua vào sản xuất đều gắn với các loại hình khác nhau trong BHKT. Sau mỗi giai đoạn đều bắt đầu bằng một loại hình bảo hiểm mới, được thể hiện qua sơ đồ sau: E CAR EAR M Khởi công Lắp đ____________________________________________________________________________XXX____________________________________________________________________________________________________________________XXX______________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________ểm bảo hành M: Bảo hiểm máy móc ( Thực ra trong giai đoạn bảo hành, thông thường trách nhiệm đối với các tổn thất do chế tạo thuộc trách nhiệm của các nhà sản xuất chế tạo thiết bị nhưng có thể bảo hiểm cho cả giai đoạn này bằng điều khoản bổ sung nhưng phí sẽ cao vì giai đoạn đó thường xảy ra tổn thất) Qua sơ đồ trên ta thấy BHMM chỉ là một khâu trong chuỗi các loại hình BHKT, ngoài những đặc trưng chung của BHKT, nó có những quy định chung sau: 1. Người được bảo hiểm: BHMM ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đảm bảo sự an toàn cho những người sử dụng máy móc, vì vậy nó có ý nghĩa với tất cả những ai có liên quan đến việc sử dụng máy móc, ở đây gồm: Chủ xí nghiệp: Đây không chỉ là các xí nghiệp công nghiệp với các máy móc lớn hoặc dây chuyền sản xuất hoàn toàn tự động. Chính đối với các xí nghiệp vừa và nhỏ, nơi mà một tổn thất về máy móc có thể gây nên những hậu quả nghiêm trọng về tài chính và kinh tế thì BHMM lại có một tầm quan trọng to lớn mang tính quyết định. Với các xí nghiệp có máy móc lớn và dây chuyền sản xuất tự động thì giá trị của nó rất lớn, một tổn thất dù nhỏ cũng đem đến hậu quả nghiêm trọng cho chủ xí nghiệp khi phải bỏ chi phí để thay thế hay sửa chữa. Còn với các xí nghiệp vừa và nhỏ, mặc dù giá trị máy móc không phải là lớn lắm nhưng cái chính là khi có rủi ro sẽ gây hậu quả nghiêm trọng về tài chính đó là chi phí sửa chữa, thay thế, chi phí gián đoạn kinh doanh do máy ngừng hoạt động....mà với những xí nghiệp này thì quỹ dự trữ có hạn, do vậy khi không may có tổn thất thì khoản tiền chi cho nó sẽ vượt quá khả năng có thể của xí nghiệp. Chính vì vậy BHMM đã đem lại sự an toàn cho chủ xí nghiệp trong quá trình sản xuất. Chủ đầu tư: Trong BHMM, chủ đầu tư tức những người cho vay tín dụng để mua máy móc cũng rất quan tâm đến việc bảo hiểm cho các khoản đầu tư được tài trợ bằng tiền của họ. Nói cách khác, khi máy móc được mua sắm bằng tiền vay tín dụng mà tham gia BHMM thì nếu không may có rủi ro xảy ra, chủ sở hữu máy móc vẫn có khả năng trả cho chủ tín dụng những khoản tiền lãi hoặc vốn vay. Như vậy vô hình chung người cho vay tín dụng để mua máy móc cũng dược bảo hiểm một cách gián tiếp thông qua người sử dụng máy móc. 2.Đối tượng được bảo hiểm: Có thể nói một cách tổng quát rằng , đối tượng của BHMM là tất cả các loại máy móc ,thiết bị và công cụ cơ khí được sử dụng trong sản xuất và hoạt động phụ trợ sản xuất .Cụ thể các loại máy móc sau đây là đối tượng được bảo hiểm : - Máy móc tạo năng lượng (nồi hơi, tuabin máy phát điện) - Máy móc và thiết bị phân phối năng lượng (máy biến thế, thiết bị cao áp, hạ áp) - Máy móc sản xuất và máy móc phụ trợ (máy công cụ, máy dệt, máy sản xuất giấy, máy nhào trộn, máy bơm, máy nén, bể chứa, đường ống..v....) Để bảo vệ lại những rủi ro có thể gây ra tổn thất toàn bộ, hệ thống máy móc của một nhà máy hoặc của một phân xưởng nên được bảo hiểm trong cùng một đơn baỏ hiểm để đạt được sự cân đối tốt về mặt rủi ro. Nếu như chỉ bảo hiểm những máy móc riêng lẻ, chịu sự đe doạ một cách đặc biệt thì phải tính một mức phí cao và thông thường mức phí này không thấp hơn so với mức phí trong trường hợp bảo hiểm toàn bộ. Với mỗi đơn bảo hiểm cụ thể, từng đối tượng sẽ được liệt kê trong một bản danh sách máy móc với những thông sô kỹ thuật cơ bản. Công ty Bảo hiểm chỉ bảo hiểm cho những máy móc được liệt kê trong danh sách này. Ơ đây không phân biệt tài sản được bảo hiểm là mới hay cũ. Cơ bản chỉ xét đến khả năng hoạt động tốt, tình trạng hoàn hảo về mặt kỹ thuật của máy móc cũng như sự kết thúc đúng quy định của qúa trình chạy thử. Tuy nhiên, việc bảo hiểm máy móc cũ vì những lý do dễ hiểu cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng. Để đảm bảo nguyên tắc hoạt động trong kinh doanh Bảo hiểm, những máy móc đã sử dụng trên 20 năm sẽ không được bảo hiểm. Tuy nhiên, nếu như trước đó máy móc này đã được bảo hiểm trong một thời gian dài với thống kê tổn thất trong quá khứ tốt (không có tổn thất hoặc chỉ xảy ra những tổn thất không đáng kể) thì công ty Bảo hiểm có thể chấp nhận tiếp tục bảo hiểm theo một số điều kiện và với một thời hạn mà người bảo hiểm xem xét là có thể chấp nhận được. Thông thường BHMM không bảo hiểm cho những đồ vật mà tuổi thọ của chúng so với tuổi thọ của toàn bộ công trình là quá nhỏ. Chủ yếu đó là: - Các loại công cụ, đồ nghề thay thế - Mặt sàng, rulô in mẫu, dấu in, khuôn chữ, dây, xích, curoa, đai, - Các bộ phận bằng thuỷ tinh, gốm và gỗ cũng như lốp cao su, - Dầu mỡ các loại như chất đốt, khí đốt, chất làm lạnh, chất xúc tác, chất lỏng, chất bôi trơn, (trái lại, dầu trong máy biến thế và các công tắc lại được bảo hiểm, bởi vì ở đây chúng không chỉ là chất làm mát mà còn là một chất cách điện). Ngoài ra, một số loại máy móc có độ hao mòn và hư hỏng cao như: máy móc hoạt động ngầm dưới mặt đất, băng tải và dây chuyền.... thường không được bảo hiểm trong đơn tiêu chuẩn nhưng có thể được bảo hiểm bằng cách áp dụng các sửa đổi bổ sung. 3. Phạm vi Bảo hiểm: Việc xác định rõ phạm vi bảo hiểm sẽ quyết định rất nhiều đến quyền lợi của các bên tham gia trong Hợp đồng Bảo hiểm, tránh được những tranh chấp không cần thiết về sau. Đối với BHMM, rủi ro trong hợp đồng được hiểu là những khả năng xảy ra tổn thất hoặc những thiệt hại đối với đối tượng bảo hiểm. Đây là căn cứ để xác định phí một cách hợp lý, là cơ sở để xem xét giải quyết bồi thường khi có tổn thất xảy ra. Trong BHMM, phạm vi bảo hiểm gồm: a. Những rủi ro được bảo hiểm: Về bản chất, BHMM là một loại bảo hiểm tai nạn đối với máy móc. Như vậy nó chỉ bảo hiểm những tổn thất xảy ra một cách bất ngờ và không lường được. ở đây chỉ tính đến những tổn thất về tài sản tác động đến phần chất của đối tượng được bảo hiểm và phần đó phải sửa chữa hoặc thay thế được. Cơ bản BHMM phải bồi thường những thiệt hại vật chất do những nguyên nhân sau đây gây nên: - Sai sót về thiết kế, tính toán, chế tạo và lắp đặt, sai sót về đúc và sai sót của nguyên vật liệu: những sai sót này thường khi máy móc đi vào hoạt động mới xuất hiện và khi đó thời hạn nhà chế tạo phải chịu trách nhiệm đã hết từ lâu và không còn khả năng khiếu nại họ nữa. Ngay cả những phương pháp kiểm tra tốt nhất không phải lúc nào cũng ngăn chặn được chúng. - Sai sót trong vận hành, tay nghề kém, cẩu thả, ác ý: những thiệt hại do những nguyên nhân này ngày càng tăng cho dù có đủ những biện pháp đề phòng thì sai sót trong vận hành vẫn luôn xảy ra và dẫn đến những tổn thất to lớn. - Vỡ do lực ly tâm: nguyên nhân này ít gặp song nếu xảy ra sẽ có những tổn thất ghê gớm bởi vì những lực được giải phóng ở đây không chỉ gây nên sự phá huỷ nặng nề đối với bản thân chiếc máy mà còn có thể gây tổn thất cho cả các tài sản xung quanh. - Đoản mạch và những nguyên nhân khác về điện: các thiết bị điện có thể bị tổn thất lớn do đoản mạch, điện thế quá cao, cách điện kém, hồ quang và những tác động về cơ học bởi dòng điện. -Thiếu nước trong nồi hơi: do sai sót trong vận hành, do đồng hồ đo báo sai hoặc do trục trặc ở bộ phận cung cấp và trục trặc ở hệ thống báo động thường dẫn đến thiếu nước. Hiện tượng này làm cho các ống bị nung đỏ, có khi phá huỷ toàn bộ hệ thống ống. - Nổ vật lý: hiện tượng này đặc trưng ở chỗ là do xu hướng giãn nở của khí hoặc hơi nước làm cho thành bể chứa bị xé toạc ra và do khí, hơi nước hoặc chất lỏng thoát ra sẽ xuất hiện một sự cân bằng áp suất đột ngột giữa bên trong bể với xung quanh. Nổ do một phản ứng hoá học gây nên không nằm trong khái niệm này. Thông thường các hiện tượng nổ hoá học được bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn. - Bão, đóng băng, tan băng: những thiên tai này dĩ nhiên tác động trước hết đến các đối tượng đặt ở ngoài trời. Tuy vậy máy móc trong nhà cũng có thể bị thiệt hại do bão và đã phá huỷ mái nhà hoặc do giá lạnh. Đặc biệt cần lưu ý đến nguy cơ của bão, trước hết đối với các loại cẩu bốc xếp, đường dây điện, dây cáp và các loại tương tự. Ngoài phạm vi bảo hiểm đã trên thì đơn BHMM cũng có thể mở rộng phạm vi để bảo hiểm cho các tài sản xung quanh thuộc sở hữu của chủ xí nghiệp, trách nhiệm pháp lý của chủ xí nghiệp với bên thứ ba về thương tật thân thể và thiệt hại tài sản gây ra do đổ vỡ, nổ máy móc, một số chi phí phụ, rủi ro thêm bằng các điều khoản bổ sung ( xem I. 3 .C) Chúng ta cần lưu ý rằng những rủi ro trên chỉ áp dụng cho máy móc mới sau khi kết thúc quá trình chạy thử, chạy có tải tối đa sau khi lắp đặt và máy móc cũ thoả mãn một số điều kiện. Máy móc có thể được bảo hiểm khi đang hoạt động hoặc ngừng hoạt động tại một địa điểm cụ thể được chỉ rõ trong Bản tóm tắt điều kiện bảo hiểm đính kem theo đơn bảo hiểm. b. Những điểm loại trừ. Trong bất kỳ một nghiệp vụ bảo hiểm nào, các rủi ro được bảo hiểm đều có các điểm loại trừ. Mặc dù ngành bảo hiểm cố gắng đáp ứng yêu cầu của khách hàng trong việc mở rộng rủi ro được bảo hiểm nhưng không phải tất cả các rủi ro có thể lựa chọn đều được ngành bảo hiểm chấp nhận. Ngoài một số điểm loại trừ có thể thương lượng được bằng các điều khoản bổ sung (ĐKBS) thì những rủi ro sau đây không được áp dụng cho một loại đơn BHMM nào: - Những rủi ro có thể được bảo hiểm bởi một thể loại bảo hiểm khác như Bảo hiểm hoả hoạn, sét, nổ, trộm cắp... (loại trừ một số rủi ro bên ngoài được áp dụng bằng ĐKBS , xem I.3.c) - Lũ lụt, động đất, đất sụt, đất lở và những đâm va của xe cộ, máy bay và tàu thuyền. - Bào mòn trong quá trình sử dụng hoặc vận hành bình thường cũng như do hiện tượng bị ruỗng bên trong, bào mòn, han gỉ, bám cặn. Loại trừ này tuy vậy chỉ áp dụng đối với những bộ phận chịu tác động trực tiếp. Những thiệt hại đối với các bộ phận khác của máy móc bắt nguồn từ đó vẫn được bảo hiểm. - Chiến tranh và các hành động bạo loạn trong nước cũng như những hành động của người đình công, lãn công. -Hành động cố ý hay cố tình vi phạm của người được bảo hiểm hoặc của ban lãnh đạo xí nghiệp. - Lỗi lầm hoặc thiếu sót mà người cung cấp phải chịu trách nhiệm theo hợp đồng hoặc pháp luật ( thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hành). Ngoài ra, những thiệt hại hậu quả, các chi phí thực hiện công tác bảo dưỡng, chi phí đề phòng và ngăn ngừa tổn thất đều không được bồi thường theo đơn tiêu chuẩn của bảo hiểm máy móc. c. Mở rộng phạm vi bảo hiểm cơ bản: Trong đơn tiêu chuẩn của BHMM không bao gồm tất cả đối tượng và phạm vi bảo hiểm mà có một số đối tượng, phạm vi không được bảo hiểm trong đó. Với những trường hợp này nếu có sự yêu cầu của người yêu cầu bảo hiểm, công ty có thể đồng ý bảo hiểm bằng cách áp dụng các điều khoản bổ sung. Hiện nay, tại công ty Bảo hiểm Hà nội đang áp dụng những điều khoản bổ sung (ĐKBS) sau: ĐKBS 001- Bảo hiểm đình công, bạo loạn, bạo động: điều kiện bổ sung này bảo hiểm cho các rủi ro đình công, bạo loạn và bạo loạn dân sự với giả thiết là mức độ phát sinh không phổ biến. Các điều kiện quy định và phụ phí áp dụng theo ĐKBS 001. Điều khoản này được hiểu rằng số tiền bồi thường cho mỗi sự cố sẽ giới hạn ở giá trị thực tế của các hạn mục được bảo hiểm và lên tới mức tối đa 300 000 US$ cho mỗi sự cố. Người bảo hiểm có thể huỷ bỏ hiệu lực bảo hiểm của điều khoản này vào bất kỳ lúc nào (cho dù phạm vi Bảo hiểm cơ bản vẫn còn hiệu lực) ĐKBS 006- Bảo hiểm cho các chi phí làm thêm giờ, làm đêm và ngày lễ, chủ nhật: ĐKBS này bảo hiểm cho những chi phí photo sinh liên quan trực tiếp tới công tác sửa chữa các máy móc bị thiệt hại do các rủi ro đựơc bảo hiểm theo đơn tiêu chuẩn. Phụ phí cho điều khoản này là 10% của phí bảo hiểm tính theo đơn tiêu chuẩn (gồm cả chi phí vận chuyển nhanh bằng hàng không). ĐKBS 007- Bảo hiểm cho cước phí vận chuyển nhanh bằng hàng không, chỉ bảo hiểm cho những chi phí vận chuyển hàng không phát sinh liên quan trực tiếp tới công tác sửa chữa máy móc được bảo hiểm theo đơn tiêu chuẩn với hạn mức bồi thường cho một đơn không vượt quá 1% STBH và dưới một số tiền tuyệt đối được quy định trong ĐKBS này. Với mỗi khiếu nại, người được bảo hiểm phải tự chịu 20 % chi phí vận chuyển này. Phí bảo hiểm cho ĐKBS này là 10% của hạn mức bồi thường của chi phí này. ĐKBS 302- Bảo hiểm cho các tài sản xung quanh và trách nhiệm đối với người thứ ba: ĐKBS này bảo hiểm cho các tài sản xung quanh của người được bảo hiểm và cho các khiếu nại về trách nhiệm đối với bên thứ ba phát sinh do hậu quả của nổ hoặc đổ sập hoặc xé rách bởi lực ly tâm. Tổng hạn mức bồi thường sẽ không vượt quá: số tiền bảo hiểm của hạng mục liên quan, hạn mức bồi thường quy định với bảo hiểm trách nhiệm đối với bên thứ ba hoặc bất cứ số tiền nào thấp hơn. ĐKBS 331- Bảo hiểm thân vỏ máy- loại trừ quá trình vận chuyển ĐKBS 312- Bảo hiểm thân vỏ máy-bao gồm bảo hiểm cho quá trình vận chuyển ĐKBS này bảo hiểm cho các máy móc và thiết bị có thể chuyển động (di động), bồi thường cho các thiệt hại do hậu quả của lũ ,lụt, sụt lở đất đá, lún đất hoặc hoả hoạn. Phạm vi này bảo hiểm cho các rủi ro bên ngoài và chỉ được cung cấp liên quan với BHMM (bồi thường cho các thiệt hại bên trong) và chỉ khi các máy móc đang trong tình trạng hoạt động hoặc được lưu kho tại địa điểm quy định trong đơn bảo hiểm. Mức miễn thường và phí bảo hiểm được quy định trong mỗi ĐKBS. ĐKBS 313- Bảo hiểm cháy bên trong, nổ hoá học bên trong và sét đánh trực tiếp. ĐKBS bảo hiểm cho rủi ro cháy hoặc nổ bên trong có nghĩa là cháy hoặc nổ bắt buộc phải bắt nguồn từ bên trong các hạng mục được bảo hiểm, bất kỳ các thiệt hại hoậc hư hỏng gây hậu quả bên ngoài hạng mục đó đều không được bồi thường, và bảo hiểm cho rủi ro sét đánh trực tiếp (nghĩa là sét đánh thẳng vào hạng mục). Phí có thể bằng 20% phí bảo hiểm cơ bản. ĐKBS 314- Bảo hiểm cháy nổ trong các động cơ đốt trong và máy phát điện dùng hydro lạnh: bảo hiểm các rủi ro nổ trong các động cơ đốt trong và nổ của chất làm mát dùng trong máy phát điện làm mát bằng hydro. Phí bảo hiểm có thể bằng 5 % phí cơ bản với điều kiện là tổn thất chỉ xảy ra đối với các máy móc tương ứng được bảo hiểm trong đơn tiêu chuẩn. ĐKBS 315- Bảo hiểm rò rỉ từ các bể chứa, thiết bị: điều khoản này bảo hiểm cho các vật liệu chứa bên trong các công-ten-nơ, tàu, bể chứa bị thiệt hại do rò rỉ của các dụng cụ chứa được gây ra bởi một sự cố được bồi thường theo đơn tiêu chuẩn. Phụ phí bảo hiểm được tính bằng cách nhân tỷ lệ phí của hạng mục chứa vật liệu bên trong với số tiền bảo hiểm của các vật liệu đó. Số tiền bảo hiểm phải là giá trị thay thế của các vật liệu bên trong và phải được đề cập trong ĐKBS này. Mức khấu trừ là 20% giá trị của mọi tổn thất nhưng không nhỏ hơn 1000 US$. ĐKBS 316- Bảo hiểm ngập lụt và phù sa: điều khoản bổ sung này bảo hiểm cho các tổn thất do ngập lụt và phù sa (úng bùn) gây ra do hậu quả của sự nứt, vỡ các đường ống áp lực, van ngắt, vỏ bọc tua bin và các ống bơm đẩy được bảo hiểm trong đơn tiêu chuẩn với phụ phí là 20% phí cơ bản. Hạn mưc bồi thường không vượt quá 5 % số tiền bảo hiểm. ĐKBS 317-Bảo hiểm máy móc và thiết bị làm việc dưới lòng đất: ĐKBS 317- Bảo hiểm máy bơm đặt sâu dưới lòng đất ĐKBS 319- Bảo hiểm các vật liệu chịu lửa và/hoặc công trình nề trong các lò và nồi hơi công nghiệp. ĐKBS này bảo hiểm cho thiệt hại hay phá huỷ của gạch chống cháy và công trình nề tạo nên các lò và nồi hơi hơi nước công nghiệp với điều kiện là những tổn thất này phải do một sự cố được bảo hiểm xảy ra đối với hạng mục mà vật liệu chịu lửa hoặc công trình nề được lắp đặt trong đó. ĐKBS 320- Bảo hiểm dầu nhờn và các chất làm mát: điều khoản này bảo hiểm cho thiệt hại của một lượng đáng kể dầu nhờn và chất làm mát trong máy móc và thiết bị được bảo hiểm với điều kiện sự hỏng hóc máy móc có ảnh hưởng tới các bộ phận đó. ĐKBS 321- Bảo hiểm băng tải và dây chuyền, dây tải xích. ĐKBS 322- Bảo hiểm dây điện và các loại dây cáp không dẫn điện ĐKBS 323- Bảo hiểm thiết bị và đèn chiếu: bảo hiểm cho các thiệt hại đối với đèn pha do các tổn thất là hậu quả của một sự cố được bảo hiểm xảy ra với hạng mục mà đèn pha được lắp đặt trong đó. Mức khấu trừ và phí được quy định trong điều khoản phụ thuộc vào việc đánh giá cẩn thận trong từng trường hợp cụ thể. -ĐKBH 351- Bảo hiểm chi phí khử nhiễm bẩn: ĐKBS này bồi thường cho các chi phí khử nhiễm bẩn cho các hạng mục bị nhiễm phóng xạ xảy ra trong quá trình hoạt động thông thường của chúng hoặc do ảnh hưởng của một tổn thất được bồi thường theo đơn tiêu chuẩn. Mọi điều kiện và phí được quy định trong ĐKBS 351. ĐKBS 352- Bảo hiểm áp suất phản ứng và các bộ phận bên trong ĐKBS 353- Bảo hiểm nhiên liệu hạt nhân. Các ĐKBS trên chủ yếu được áp dụng khi có yêu cầu của người được bảo hiểm, người bảo hiểm trên cơ sở yêu cầu đó và xem xét đánh giá rủi ro sẽ cấp các điều khoản thích hợp. Có một số ĐKBS có mức phí và mức khấu trừ quy định như ĐKBS 007, 001.... còn phần lớn mức phí và mức khấu trừ được xác định căn cứ vào thoả thuận của hai bên và điều kiện thực tế. Một số ĐKBS bắt buộc phải kèm theo đơn tiêu chuẩn để đảm bảo độ an toàn cho người được bảo hiểm và cho cả nhà bảo hiểm. Ví dụ như ĐKBS 311 được áp dụng bắt buộc cho máy móc ở các ngành sản xuất vật liệu, đá, gạch. đồ gốm và máy móc thiết bị xây dựng, ĐKBS 332, 334,344, 345 áp dụng bắt buộc cho một số máy móc thiết bị trong nhà máy điện. 4. Thời hạn bảo hiểm. Về bản chất, BHMM là một dạng bảo hiểm tai nạn cho các máy móc vì vậy thời hạn bảo hiểm được xác định như trong bảo hiểm tài sản. Thông thường, đơn BHMM có hiệu lực trong 1 năm kể từ ngày ký hợp động bảo hiểm giữa công ty bảo hiểm và người yêu cầu bảo hiểm. Tuy nhiên, ở đây ta cần chú ý rằng, chỉ ký hợp đồng cho các máy móc sau khi đã kết thúc quá trình chạy thử và chạy có tải tối đa sau khi lắp đặt. Từ thời điểm ký hợp đồng, cho dù máy móc có hoạt động hay không, nếu có tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm xảy ra thì công ty bảo hiểm cũng sẽ cam kết bồi thường cho NĐBH. Để đảm bảo cân đối các khả năng xảy ra tổn thất, các công ty bảo hiểm thường tránh cấp đơn bảo hiểm theo cơ sở ngắn hạn. Tuy nhiên nếu Người được bảo hiểm yêu cầu bảo hiểm theo cơ sở này thì sau khi đã đánh giá rủi ro cẩn thận hợp đồng ngắn hạn cũng có thể được cấp với các điều kiện đặc biệt, phí bảo hiểm sẽ được tính toán theo phạm vi quy định ở mục II.4. Với những đơn bảo hiểm có hiệu lực một năm thì có thể tiếp tục hàng năm. Nếu một đơn bảo hiểm có hiệu lực trên một năm thì phí bảo hiểm cho những tháng thêm mà hợp đồng có hiệu lực sẽ được tính toán trên cơ sở theo tỷ lệ số ngày kéo dài và số ngày trong năm. - Đối với BHMM và thiết bị cho chủ thầu thời hạn bảo hiểm thường cũng được tính theo năm, bất kể máy móc đã được sử dụng cho bao nhiêu công trình. 5. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm. a. Giá trị bảo hiểm. Giá trị bảo hiểm là giá trị tài sản cần bảo hiểm. Trong BHMM giá trị bảo hiểm là giá trị của toàn bộ hạng mục máy móc, thiết bị trong danh mục máy móc được bảo hiểm do Người được bảo hiểm kê khai. Giá trị bảo hiểm có thể được xác định trên cơ sở : Giá mua gốc; giá thị trường hiện hành; giá ghi sổ; giá trị thay thế mới. - Trường hợp chọn giá mua gốc làm giá trị bảo hiểm thì khi có tổn thất xảy ra sẽ rất khó xác định gía trị phải bồi thường vì giá mua gốc không bao gồm yếu tố lạm phát cũng như những thay đổi về chi phí trong thay thế, sữa chữa máy móc sau khi có tổn thất. Giá mua gốc sẽ không phù hợp để lựa chọn căn cứ xác định số tiền bảo hiểm. - Trường hợp chọn giá thị truờng hiện hành làm giá trị bảo hiểm thì khi xác định phải phụ thuộc vào : Giá trị xuất xưởng gốc, độ tuổi của máy móc, tình trạng máy móc, tiêu chuẩn kỹ thuật, tình trạng kinh tế và vị trí của nơi lắp đặt máy móc ... Hơn nữa giá thị trường thường giảm dần theo thời gian trong khi đó chi phí nguyên vật liệu và công lao động thì tuỳ thuộc vào các nhân tố kinh tê nhưng thường có xu hướng tăng. Kết quả là đối với những hợp đồng có thể tái tục thì tỷ lệ phí phải điều chỉnh lại hàng năm để thu được một lượng phí tương xứng với khả năng tổn thất có thể xảy ra. Vì vậy giá này không thuận tiện cho việc xác định số tiền bảo hiểm. NRV*D*A BV = NRV - 100 - Nếu chọn giá ghi sổ làm giá trị bảo hiểm thì giá trị bảo hiểm sẽ được tính theo công thức : BV : Giá trị ghi sổ. NRV : Giá trị thay thế mới. D : tỷ lệ khấu hao hàng năm. A : Thời gian đã sử dụng. Như vậy giá trị ghi sổ sẽ giảm dần do tỷ lệ khấu hao cố định cho đến khi bằng không hoặc một giá trị nhỏ không đáng kể. Giá trị ghi sổ chỉ đáp ứng cho mục đích kế toán mà thôi. Kết luận, giá trị ghi sổ không đặc trưng cho giá trị thực của máy móc thiết bị do đó nó không thích hợp trong việc tính phí và trong việc làm cơ sở để bồi thường tổn thất. - Chọn giá trị thay thế mới làm giá trị bảo hiểm : Giá trị thay thế mới bao gồm : Giá mua mới + thuế + chi phí vận chuyển và lắp đặt. Nếu chọn trường hợp này thì đối với những tổn thất sữa chữa được - và hầu hết các tổn thất đều là tổn thất sữa chữa được - các bộ phận cũ được thay thế bằng các bộ phận mới. Chính các máy móc cũ qua đó thường được tăng giá trị một cách đáng kể. Do nguyên tắc giá trị mới nên khi bồi thường, hiện tượng này không được lưu ý tới, có nghĩa Người bảo hiểm máy móc bồi thường toàn bộ chi phí sữa chữa mà không có sự khấu trừ “mới thay cũ”. Những điều kiện và các khấu trừ đặc biệt khác có trong hợp đồng bảo hiểm gốc sẽ không ảnh hưởng tới việc xác định giá trị thay thế mới. Như vậy giá trị thay thế mới đã giải quyết được vấn đề tính toán phí bảo hiểm hợp lý do vấn đề bồi thường - chủ yếu là chi sữa chữa. Vậy giá trị bảo hiểm trong BHMM được xác định theo giá thay thế mới của máy móc. b. Số tiền bảo hiểm. Loại hình BHMM, cũng giống như các loại hình BHKT khác, đòi hỏi số tiền bảo hiểm không nhỏ hơn giá trị bảo hiểm. Điều này có nghĩa là số tiền bảo hiểm luôn luôn phải bằng giá trị thay thế mới của máy móc được bảo hiểm bao gồm cả cước phí vận chuyển, các loại thuế, lệ phí hải quan và chi phí lắp đặt. Với những máy móc thiết bị có thể được nhập khẩu, nếu như các máy móc đó có thể được miễn thuế XNK và/hoặc lệ phí hải quan, ngược lại việc nhập khẩu các phụ tùng thay thế các lại phải chịu toàn bộ thuế nhập khẩu và/hoặc các loại thuế khác thì giá trị thay thế mới (hay số tiền bảo hiểm) sẽ được tính toán bằng cách thêm vào giá nhập khẩu một số tiền tính toán tương ứng theo tỷ lệ thuế hải quan và các loại thuế khác (theo phần trăm) với số tiền tính thuế. Nếu không tính tới phần tăng này, việc bồi thường sẽ được chi trả trên cơ sở giá nhập khẩu của các linh kiện phụ tùng của máy móc thay thế, còn phần thuế nhập khẩu và các loại thuế khác sẽ do Người được bảo hiểm tự chịu. Nếu như giá trị bảo hiểm thay đổi, chẳng hạn do giá cả tăng, thì Người được bảo hiểm phải thông báo ngay cho Người bảo hiểm biết để điều chỉnh lại giá trị bảo hiểm do đó sẽ tránh được bảo hiểm dưới giá trị. Những máy móc được mua bổ sung thêm cũng cần kịp thời đưa ngay vào danh sách bảo hiểm. Nếu trong trường hợp xảy ra tổn thất hoặc hư hại, số tiền bảo hiểm được phát hiện nhỏ hơn số tiền lẽ ra phải được bảo hiểm (tức là số tiền ghi trong đơn bảo hiểm nhỏ hơn số tiền bảo hiểm thực tế) thì số tiền bồi thường mà Người được bảo hiểm được nhận theo đơn bảo hiểm này sẽ giảm theo tỷ lệ tương ứng bằng số tiền bảo hiểm chia cho số tiền lẽ ra phải được bảo hiểm. Tất cả các hạng mục nếu lớn hơn một đều phải tuân theo điều kiện này một cách riêng biệt. Cần lưu ý rằng dù bảo hiểm dưới hình thức nào thì số tiền không vượt qúa số tiền bảo hiểm. Nếu phải bồi thường làm nhiều lần (do nhiều vụ tổn thất khác nhau) thì tổng số tiền bồi thường trong các vụ tổn thất đó cũng không vượt quá số tiền bảo hiểm. Sau mỗi lần bồi thường, số tiền bảo hiểm lại giảm đi một ít ngang bằng với số tiền bồi thường đã trả. Muốn khôi phục lại số tiền bảo hiểm lên ngang bằng với số tiền bảo hiểm ban đầu thì Người được bảo hiểm phải nộp phí bổ sung tương ứng với số tiền bảo hiểm tăng thêm và tỷ lệ với khoảng cách thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Nếu người tham gia bảo hiểm không khôi phục lại số tiền bảo hiểm thì trong lần tổn thất sau, số tiền bồi thường tối đa sẽ không vượt quá lại số tiền bảo hiểm còn lại sau khi đã trừ đi tất cả các khoản bồi thường đã trả cho đến thời điểm đó. II. Những đặc điểm chủ yếu trong hợp đồng bảo hiểm máy móc Bảo hiểm máy móc được người bảo hiểm nhận trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm với điều kiện người được bảo hiểm tuân thủ các điều kiện , điều khoản , các điểm loại trừ ... do người bảo hiểm quyết định . Các quy định trên được thể hiện trong hợp đồng bảo hiểm máy móc dưới dạng đơn bảo hiểm do người bảo hiểm cấp cho người yêu cầu bảo hiểm . 1. Cấp đơn bảo hiểm : Một trong những công việc quan trọng của người bảo hiểm trước khi tiến hành cấp đơn bảo hiểm cho một hạng mục máy móc, thiết bị nào đó là đánh giá các yếu tố rủi ro có thể ảnh hưởng đến máy móc . Song để có thể tính toán được các yếu tố ảnh hưởng nói trên , người được bảo hiểm cần phải trả lời một cách chính xác và chân thật bản câu hỏi mà ta đề cập dưới đây. a. Bản câu hỏi và giấy yêu cầu bảo hiểm : Bản câu hỏi này do người yêu cầu bảo hiểm điền vào theo mẫu in sẵn của người bảo hiểm (xem mục lục). Đây là cơ sở quan trọng để người bảo hiểm căn cứ vào đó đánh giá rủi ro, tính phí bảo hiểm và sau đó cấp đơn bảo hiểm . Văn bản này là chứng cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp nếu có . Bản câu hỏi này là cơ sở và tiền đề để người bảo hiểm : Phân định rõ loại máy móc . Dự đoán các tai nạn mà máy có thể chịu đựng. Xác định phạm vi bảo hiểm của đơn bảo hiểm , rủi ro nào cần được loại trừ và rủi ro nào có thể chấp nhận theo ĐKBS Tính phí bảo hiểm chính xác Bổ sung các điều kiện cần thiết cho đơn bảo hiểm Đây là cơ sở quan trọng để công ty bảo hiểm xác định tỷ lệ phí vì vậy sau khi nhận được bản câu hỏi này từ người được bảo hiểm, đại diện người bảo hiểm phải tiến hành kiểm tra thực tế điều kiện hoạt động, thông số kỹ thuật của máy móc cũng như phải tiến hành đánh giá các yếu tố rủi ro có thể ảnh hưởng đến máy móc. b. Đánh giá các yếu tố rủi ro: Đánh giá thực tế các yếu tố rủi ro là một việc làm rất cần thiết đối với người bảo hiểm. là căn cứ để xác định phạm vi bảo hiểm và tính phí bảo hiểm , là cơ sở xem tại tính trung thực của người yêu cầu bảo hiểm trong việc khai báo theo bản câu hỏi. Nếu như người yêu cầu bảo hiểm không trả lời đầy đủ bản câu hỏi và giấy yêu cầu bảo hiểm cũng như các thông tin yêu cầu khác phục vụ cho việc đánh giá rủi ro của công ty bảo hiểm. Ví dụ như yêu cầu về kiểm tra công trường, nơi đặt máy, ý thức bảo đảm an toàn của ban quản lý, các kinh nghiệm kỹ thuật , tiêu chuẩn bảo dưỡng và lưu kho, lịch sử khiếu nại, khả năng xảy ra các rủi ro bên ngoài, sự sẵn có của các phụ tùng thay thế, đặc biệt cho các loại máy móc cũ... thì việc cấp tỷ lệ phí sẽ không được thực hiện. Thay vào đó, công ty bảo hiểm đề nghị người yêu cầu bảo hiểm phải thực hiện đầy đủ các qui định sau: Máy móc và thiết bị được bảo hiểm phải được đặt trong điều kiện tốt và an toàn Tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu về an toàn theo luật định Lắp đặt các thiết bị kiểm tra và an toàn theo chỉ định của các nhà sản xuất và giám sát có thẩm quyền. Bảo hành và lưu kho ở mức độ tốt Tiến hành kiểm tra định kỳ và thực hiện tất cả các biện pháp bảo trì phòng ngừa trên cơ sở đề nghị của nhà sản xuất Khi tiến hành đánh giá rủi ro , mỗi đơn vị rủi ro cần được đánh giá một cách riêng biệt theo từng trường hợp cụ thể. Ngoài ra, đại diện công ty bảo hiểm phải yêu cầu người được bảo hiểm thực hiện với sự cẩn trọng đặc biệt đối với những loại máy móc đặt trong điều kiện hoạt động khó khăn, máy móc hạng nặng sau: Máy móc của chủ thầu xây dựng Nghành công nghiệp đá gạch và đồ gốm Công nghiệp khai khoáng Máy móc hoạt động ngầm dưới mặt đất Máy nông nghiệp Cần lưu ý là không được nhận bảo hiểm cho các loại máy móc sau đây: lò, như lò ống hơi , thép, cacbonic hoá, lò luyện, lò nung vôi, nung gạch, các lò nấu chảy và các lò nung. c. Cách thức cấp đơn : Trên cơ sở xem xét đánh giá thực tế và những thông tin mà khách hàng đã khai báo , nếu thấy điều kiện rủi ro có thể chấp nhận bảo hiểm được thì tiến hành cấp đơn. Khi cấp đơn cần lưu ý những chứng từ sau đây phải được cung cấp cho khách hàng và được coi là những bộ phận không thể tách rời và cấu thành nên đơn bảo hiểm hoàn chỉnh, gồm: Bản tóm tắt điều kiện bảo hiểm (ghi đầy đủ thông tin như mẫu đính kèm) Toàn bộ nội dung đầy đủ của đơn bảo hiểm , danh mục máy móc thiết bị được bảo hiểm trong đó phải ghi đầy đủ những thông tin theo bản danh mục đã yêu cầu khách hàng kê khai như đề cập ở trên. Các điều khoản bổ sung nếu có Các hạng mục riêng biệt được bảo hiểm cũng như những thông số kỹ thuật quan trọng phải được nêu rõ trong bản danh mục các máy móc được bảo hiểm ở đây chúng ta cần lưu ý rằng bảo hiểm chỉ có hiệu lực với những máy móc được kê khai trong Bản tóm tắt các điều kiện bảo hiểm. Ngoài ra cũng phải được bảo đảm rằng máy móc dù mới hay cũ phải hoạt động trong điều kiện tốt sau khi đã hoàn tất quá trình chạy thử. 2. Tính phí bảo hiểm a. Nguyên tắc chung: Phí bảo hiểm là khoản tiền mà người tham gia bảo hiểm nộp cho cơ quan bảo hiểm để bảo hiểm cho những rủi ro mà họ tham gia. Phí bảo hiểm chính là giá cả dịch vụ. Do vậy, việc tính toán mức phí vừa phù hợp với yêu cầu khách hàng, vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh có lãi không phải là đơn giản. Trước khi đưa ra mức phí công ty bảo hiểm cần phải cân nhắc kỹ lưỡng vì đây là một trong những yếu tố cơ bản của cạnh tranh. Tuỳ theo yêu cầu của người được bảo hiểm, ngưòi bảo hiểm nhận bảo hiểm cho thời hạn một năm hoặc ngắn hạn. Sau khi kết thúc thời hạn bảo hiểm, người được bảo hiểm có thể đóng phí tiếp hoặc yêu cầu tái tục hợp đồng. Thời hạn nộp phí do người bảo hiểm và người được bảo hiểm thoả thuận, có thể nộp một lần hoặc nhiều lần. b. Phương pháp tính phí : Về nguyên tắc, phí bảo hiểm máy móc được tính toán dựa trên cơ sở kinh nghiệm và số liệu thống kê trong quá khứ cho riêng từng loại máy. Biểu phí tiêu chuẩn mà chúng ta đang áp dụng hiện nay cho Việt Nam là do công ty tái bảo hiểm Munich Re đã xây dựng trên cơ sở kinh nghiệm của họ từ nhiều năm nay và được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Biểu phí này áp dụng cho đơn bảo hiểm máy móc của Munich Re, nếu có khách hàng nào áp dụng đơn bảo hiểm khác thì phải báo cáo tổng công ty trước khi công bố mức phí và cấp giấy chứng nhận bảo hiểm . Khi tính phí cho một loại máy móc thì phải chứa đựng đầy đủ các yếu tố lạm phát, sự thay đổi giá cả (bao gồm cả giá nguyên vật liệu và giá nhân công )... cần tránh bảo hiểm dưới giá trị. Để đưa ra mức phí chính xác phải nắm rõ các thông tin, số liệu về mức đọ rủi ro, khả năng xảy ra rủi ro hay trình tự các rủi ro . Về cơ bản bảo hiểm máy móc chính là bảo hiểm tài sản, phí bảo hiểm gồm các phần: b.1 Phí thuần: Phí thuần là cơ sở hình thành nên quỹ bồi thường, chi trả cho người tham gia bảo hiểm khi có tai nạn xảy ra. Mức phí thuần được xác định dựa vào xác suất rủi r. Xác suất này được xác định theo công thức: ST P = St Trong đó: P là xác suất rủi ro t là số đơn vị tham gia bảo hiểm bị rủi ro T là số vụ tai nạn Sau đó mức phí thuần được tính như sau: M=P*B Trong đó: M là mức phí thuần P là xác suất rủi ro B là số tiền bồi thường bình quân 1 vụ tổn thất b.2 Phụ phí: Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của người bảo hiểm, ngoài phí thuần các công ty bảo hiểm thường tính thêm phụ phí vào phí bảo hiểm. Phụ phí này chiếm khoảng 30% tổng số phí, bao gồm các khoản chi phí quản lý, chi đề phòng và hạn chế tổn thất, chi hoa hồng cho các cộng tác viên môi giới, chi lập quỹ dự phòng bồi thường lớn. Xác định cơ cấu tỷ trọng từng loại phí sao cho thích hợp là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của các công ty bảo hiểm . b.3 Thuế doanh thu : Thuế doanh thu là một phần nghĩa vụ tài chính của các công ty bảo hiểm nộp cho Nhà nước được tính vào giá thành của dịch vụ bảo hiểm (phí bảo hiểm ). ở Việt Nam thuế này thường chiếm khoảng 4% phí bảo hiểm. Và đây chính là thuế gián thu mà khách hàng - người tham gia bảo hiểm - phải chịu. 3.Mức khấu trừ: a. Mức khấu trừ thông thường: Theo đơn bảo hiểm tiêu chuẩn của Munich Re, với mức khấu trừ thông thường cho mỗi hạng mục máy móc riêng lẻ (trừ các máy móc và thiết bị của chủ thầu hay máy móc xây dựng cũng như máy móc được lắp đặt tạm thời tại các công trường) được quy định trong bảng biểu phí bảo hiểm áp dụng chung cho tất cả các công ty bảo hiểm . Mức khấu trừ này được tính bằng phần nghìn của số tiền bảo hiểm. Tuy nhiên, các công ty có thể áp dụng mức khấu trừ lựa chọn, với điều kiện là giá trị phải nằm giữa mức khấu trừ tối thiểu và tối đa tương ứng với mỗi hạng mục. Cũng theo biểu phí cơ bản của Munich Re, các loại khấu trừ thông thường áp dụng được ký tự hoá theo nhóm, từ A đến F, với hạn mức tối đa và tối thiểu quy định như sau: Nhóm máy móc Mức miễn thường tối thiểu Mức miễn thường tối đa A 200 2.000 B 300 3.500 C 500 5.000 D 700 7.000 E 1.100 10.000 F 1.700 17.000 Biểu số2:Mức khấu trừ quy định cho các nhóm máy móc theo MunichRe Chúng ta cần chú ý rằng , nếu đơn bảo hiểm được mở rộng cho ĐKBS 311 và ĐKBS 312 (ĐKBS bảo hiểm thân vỏ máy loại trừ và không loại trừ quá trình vận chuyển) thì mức khấu trừ thường cao hơn . Ví dụ : Một máy biến thế dùng trong lò hồ quang của nhà máy gang thép Thái Nguyên 5Mva , có số tiền bảo hiểm là 50000 $ (bao gồm cả phí vận chuyển, thuế hải quan và chi phí lắp đặt). Theo biểu phí tiêu chuẩn thì máy biến thế này thuộc nhóm B , có tỷ lệ khấu trừ là 20 phần nghìn. Vậy mức khấu trừ thông thường áp dụng cho trường hợp này là : 20%o * 50000$ = 1000$. Mức khấu trừ 1000$ này là do Munich Re quy định nhưng các công ty có thể thay đổi mức khấu trừ này tuỳ vào điều kiện cụ thể miễn sao nó nằm trong khoảng từ 300 đến 3500$. Nếu như áp dụng mức khấu trừ tối thiểu thì phí bảo hiểm phải tăng lên tương ứng và ngược lại. b. Mức khấu trừ đặc biệt : Mức khấu trừ này áp dụng cho máy móc và các thiết bị xây dựng và tại các công trình lắp đặt. Theo đơn tiêu chuẩn của Munich Re mức khấu trừ này được quy định như sau : Số tiền BH (USD) Mức khấu trừ % của tổn thất Mức tối thiểu (USD) Mức khấu trừ tối đa % của STBH Dưới G 200.000 20 1.000 10 Trên G 200.000 15 4.500 10 Trên H 400.000 10 4.500 10 Nếu có nhiều hạng mục cùng bị tổn thất trong cùng một sự cố, người được bảo hiểm sẽ chỉ phải tự gánh chịu mức khấu trừ đơn lẻ cao nhất áp dụng cho các hạng mục bị tổn thất đó . 4. Phí bảo hiểm cơ bản và các mức giảm phí a. Tỷ lệ phí bảo hiểm cơ bản : Tỷ lệ phí bảo hiểm tối thiểu của phạm vi bảo hiểm cơ bản được tính theo phần nghìn (%o) của số tiền bảo hiểm cho mỗi đơn vị và chỉ áp dụng trong trường hợp điều kiện rủi ro thông thường. Nếu trường hợp có mở rộng thêm các ĐKBS thì phí bảo hiểm gồm phí tối thiểu + phí cho các ĐKBS đó. Phí bảo hiểm tối thiểu hàng năm với với một đơn bảo hiểm là 150$. b. Các trường hợp giảm phí : Bảo hiểm ngắn hạn Nhìn chung để đảm bảo cân đối các khả năng xảy ra tổn thất, các công ty bảo hiểm nên tránh cấp các đơn bảo hiểm ngắn hạn. Tuy nhiên nếu khách hàng yêu cầu thì sau khi đánh giá rủi ro cẩn thận , có thể mở rộng bảo hiểm như trường hợp ngoại lệ, tỷ lệ phí được tính bằng cách nhân tỷ lệ phí tính theo đơn bảo hiểm hàng năm với các thông số quy định như sau: Thời hạn của HĐ ( tháng ) 1-4 5 6 7 8 9-12 Thông số 0.5 0.6 0.7 0.8 0.9 1.0 Bảo hiểm có thời hạn trên 1 năm: Trường hợp ngược lại, nếu hợp đồng bảo hiểm có thời hạn trên 1 năm thì phí bảo hiểm sẽ bằng phí bảo hiểm hàng năm cộng với phí bảo hiểm cho thời gian bổ sung đó được tính trên cơ sở theo tỷ lệ giữa số ngày kéo dài và số ngày trong năm Phí BH cho hợp đồng = phí BH hàng năm +phí BH hàng năm* số ngày bổ sung/ số ngày trong năm(365) Giảm phí do mức khấu trừ: - Mức giảm phí thông thường : trường hợp khách hàng yêu cầu tăng mức khấu trừ, các công ty phải thực hiện việc giảm phí cho họ. Mức phí bảo hiểm phải thu sẽ bằng mức phí bảo hiểm hàng năm nhân với tỷ lệ giảm phí tương ứng với mức tăng khấu trừ được quy định như sau: Mức tăng khấu trừ (lần) 3 5 10 20 Tỷ lệ giảm phí (%) 5 10 20 35 - Mức giảm phí với máy móc , thiết bị xây dựng và các máy móc tại các công trình lắp đặt . Tương tự , khi tăng mức khấu trừ tối thiểu được quy định trong bảng biểu phí tiêu chuẩn , thì công ty bảo hiểm tiến hành giảm phí cho khách hàng với tỷ lệ giảm phí được quy định như trên . Giảm phí bảo hiểm cho thời gian máy ngừng hoạt động : Trong trường hợp máy móc, thiết bị như nồi hơi , tua bin , động cơ hơi nước , máy phát điện hoặc động cơ điezen ngừng hoạt động trong một thời gian lớn hơn 3 tháng trong bất kỳ năm bảo hiểm nào (bao gồm cả thời gian thực hiện việc đại tu nhưng loại trừ bất kỳ thời gian sửa chữa nào do những tổn thất hoặc hư hại theo đơn bảo hiểm ) thì người được bảo hiểm sẽ được hưởng một khoản giảm phí bảo hiểm được quy định như sau: Thời gian ngừng hoạt động ( tháng) 3-5 6-8 9-11 12 Tỷ lệ giảm phí (%) 15 25 35 50 c. Điều chỉnh hàng năm với số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm Trong thời gian tham gia bảo hiểm, không phải lúc nào tổng giá trị máy móc, thiết bị được bảo hiểm cũng giữ nguyên mà nó có thể thay đổi . Đặc biệt trong bảo hiểm máy móc, giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm được xác định trên cơ sở giá trị thay thế mới vì vậy khi có những biến động lớn hơn về giá cả, về chi phí tiền công .... sẽ làm cho giá trị bảo hiểm thay đổi, do đó số tiền bảo hiểm cũng thay đổi. Trong trường hợp này, số tiền bảo hiểm và số phí bảo hiểm có thể được điều chỉnh để tránh tình trạng bảo hiểm dưới giá trị. Điều chỉnh số tiền bảo hiểm : Để điều chỉnh số tiền bảo hiểm ta sử dụng phương pháp ước tính chỉ số giá của máy . Với phương pháp này số tiền bảo hiểm được xác định: S = So* E/Eo Trong đó : S là số tiền bảo hiểm năm hiện hành So là số tiền bảo hiểm năm bắt đầu bảo hiểm E là chỉ số giá sản xuất máy năm hiện hành Eo là chỉ số giá sản xuất máy năm bắt đầu bảo hiểm Điều chỉnh phí bảo hiểm : Mức phí bảo hiểm cần phải cho phép có sự gia tăng hợp lý để phù hợp với thực tế là giá công việc sửa chữa hiện đang tăng nhanh hơn so với giá trị thay thế mới của máy móc, vì giá công việc sửa chữa phụ thuộc vào giá tiền công. Cũng bằng phương pháp ước tính giá sản xuất máy và giá thành lao động, ta xác định mức phí bảo hiểm năm hiện hành như sau: P = Po* (0.3* E/Eo+ 0.7*L/Lo) Trong đó: P là phí bảo hiểm năm hiện hành Po là phí bảo hiểm năm bắt đầu bảo hiểm L là chỉ số giá thành lao động năm hiện hành Lo là chỉ số giá thành lao động năm bắt đầu bảo hiểm Các chỉ số 0.3 và 0.7 chỉ là giá trị tương đối trung bình, thường cho rằng trong tổng giá trị sửa chữa có 30% là chi phí cho phần nguyên vật liệu còn 70% là chi phí cho nhân công. Nếu cần thiết, chỉ số này có thể điều chỉnh lại cho phù hợp với giá thành thực tế hiện hành. Nếu ở thời điểm bắt đầu hiệu lực bảo hiểm , máy móc đã hoạt động trên 5 năm tức là giá trị thực của máy tại thời điểm đó thấp hơn nhiều so với số tiền bảo hiểm, do vậy chỉ số áp dụng có thể được dao động để phù hợp với sự tăng lên của giá trị thay thế tính tới thời điểm đó. Chỉ số này sẽ được quyết định theo các chỉ số đã áp dụng những năm trước đó tại quốc gia , nơi máy móc được sản xuất. Để việc điều chỉnh được thực hiện một cách hợp lý cần có sự phối hợp với các nhà chế tạo hoặc nhà cung cấp máy móc , thiết bị. 5. Trách nhiệm và quyền hạn của các bên tham gia trong hợp đồng Trên cơ sở, người được bảo hiểm có tên trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm và giấy yêu cầu bảo hiểm đã gửi cho công ty bảo hiểm thì công ty bảo hiểm sẽ tiến hành cấp đơn bảo hiểm. Một đơn bảo hiểm hoàn chỉnh bao gồm : Bản tóm tắt điều kiện bảo hiểm , như đã trình bày ở trên Bản danh mục máy móc thiết bị được bảo hiểm do khách hàng kê khai dưới sự kiểm tra thực tế của cơ quan bảo hiểm Các ĐKBS (nếu có ) Các hạng mục riêng biệt được bảo hiểm cũng như những thông số kỹ thuật quan trọng phải được nêu rõ trong bản danh mục được bảo hiểm Toàn bộ nội dung của đơn bảo hiểm : Đơn bảo hiểm này gồm các điều kiện , điều khoản chung , quy ước chung cho cả 2 bên tham gia , phạm vi bảo hiểm và các điểm loại trừ , qui định trách nhiệm và quyền hạn của các bên tham gia , cơ sở giải quyết bồi thường. ở những phần trên chúng ta đã nghiên cứu đối tượng , phạm vi , thời hạn và các điều khoản bổ sung . Trong phần này chỉ tập trung nghiên cứu trách nhiệm của các bên tham gia trong hợp đồng bảo hiểm máy móc mà thôi. a. Quyền lợi và trách nhiệm của người bảo hiểm : Người bảo hiểm (NBH) đồng ý với người được bảo hiểm rằng nếu bất kỳ lúc nào trong thời hạn bảo hiểm (được nêu trong bảng tóm tắt điều kiện bảo hiểm ) hay bất kỳ khoảng thời hạn mở rộng tiếp theo nào mà người được bảo hiểm đã trả thêm một khoản phí bảo hiểm mà công ty bảo hiểm có thể nhận phí bảo hiểm đã trả thêm đó để gia hạn cho đơn bảo hiểm, nếu các hạng mục (hay bất kỳ một bộ phận nào của hạng mục đó) được liệt kê trong BTTĐKBH, tại địa điểm được bảo hiểm, bị bất kỳ tổn thất bất ngờ và không lường trước nào do các nguyên nhân gây rủi ro được bảo hiểm gây ra, tới mức mà các hạng mục đó phải được thay thế hoặc sữa chữa thì công ty bảo hiểm sẽ bồi thường cho NĐBH các thiệt hại vật chất đó bằng cách thay thế hoặc sữa chữa( tuỳ công ty Bảo hiểm lựa chọn) với số tiền bồi thường trong mỗi thời hạn bảo hiểm không vượt quá giá trị hạng mục ghi trong BTTĐKBH và tổng cộng lại, không vượt quá số tiền bảo hiểm ghi trong BTTĐKBH. Người bảo hiểm có quyền yêu cầu NĐBH thực hiện các biện pháp phòng ngừa cần thết và có thể điều chỉnh phạm vi bảo hiểm cũng như phí bảo hiểm cho phù hợp. Vào bất kỳ thời gian hợp lý nào trong thời hạn bảo hiểm, đại diện của NBH có quyền xem xét, đánh giá rủi ro được bảo hiểm. Trong bất kỳ trường hợp nào, NBH cũng sẽ không chịu trách nhiệm đối với những tổn thất xảy ra nếu trong vòng 14 ngày kể từ ngày xảy ra sự cố NBH không nhận được giấy thông báo về những tổn thất từ NĐBH gửi tới. Nếu trường hợp nhận được giấy thông báo này thì đại diện của NBH sẽ có mặt để giám định tổn thất trước khi thực hiện việc sửa chữa hay thay thế. Trách nhiêm của NBH trong đơn bảo hiểm này đối với mọi hạng mục sẽ chấm dứt nếu hạng mục đó sau khi bị tổn thất vẫn tiếp tục hoạt động mà không được sửa chữa kịp thời chu đáo đúng như yêu cầu của NBH hoặc nếu việc sửa chữa tạm thời được tiến hành mà không có sự đồng ý của NBH. Nếu có sự tranh chấp về số tiền bồi thường theo đơn bảo hiểm (mặc dù trách nhiệm đã được NBH thừa nhận), thì vấn đề tranh chấp sẽ chuyển cho một trọng tài quyết định. Trọng tài này do hai bên chỉ định bằng văn bản, nếu không nhất trí được trọng tài chung thì vấn đề sẽ được chuyển cho hai trọng tài quyết định - mỗi bên chỉ định một trọng tài. Phán quyết của trọng tài là điều kiện tiên quyết cho việc khiếu nại chống NBH. NBH có quyền hoãn những việc chi trả bồi thường trong các trường hợp: Có sự nghi ngờ về việc NĐBH có quyền được nhận số tiền bồi thường hay không chừng nào mà NBH chưa nhận được đầu đủ các bằng chứng cần thiết; khiếu nại có liên quan tới việc công an hay cơ quan thực thi pháp luật đang điều tra theo luật hình sự đối với NĐBH mà việc điều tra này chưa kết thúc. Nếu trong giấy yêu cầu bảo hiểm hay các khai báo liên quan của NĐBH có những điểm không đúng sự thật hoặc nếu NĐBH đưa ra bất kỳ khiếu nại gian lận nào hoặc mức khiếu nại bị thổi phồng lên quá mức hay có sự khai báo sai lệch nào nhằm bảo vệ cho khiếu nại đó thì đơn bảo hiểm sẽ không có giá trị và NBH sẽ không chịu trách nhiệm thanh toán bất kỳ khoản tiền nào theo đơn bảo hiểm này. Nếu vào thời điểm phát sinh khiếu nại theo đơn bảo hiểm này mà có một đơn bảo hiểm khác cũng bảo hiểm cho những tổn thất đó thì số tiền bồi thường mà NBH có thể chi trả sẽ không vượt quá phần tỷ lệ tương ứng của mình đối với khiếu nại về tổn thất đó. Nếu đơn bảo hiểm chấm dứt hiệu lực vào bất kỳ thời gian nào theo yêu cầu của NĐBH thì NBH có quyền giữ lại một khoản tiền phí bảo hiểm được tính theo biểu phí bảo hiểm ngắn hạn mà NBH đang áp dụng cho thời gian đơn bảo hiểm bảo hiểm này đã có hiệu lực. Nếu đơn bảo hiểm chấm dứt do ý muốn đơn phương của NBH thì hiệu lực của đơn bảo hiểm này sẽ chấm dứt sau 7 ngày kể từ khi NBH gửi thông báo về việc chấm dứt này cho NĐBH và NBH phải hoàn trả lại cho NĐBH khoản phí BH tương ứng với thời gian BH bị huỷ bỏ tính từ ngày tuyên bố bỏ đơn BH, sau khi trừ đi bất cứ khoản chi phí giám định hợp lý nào mà NBH có thể đã chi trả. NBH sẽ không chịu trách nhiệm trả bất cứ khoản lãi nào ngoại trừ lãi phạt do thanh toán chậm. b. Quyền lợi và trách nhiệm của Người được bảo hiểm. NĐBH có nghĩa vụ thanh toán cho NBH số phí BH đã thoả thuận và được ghi trong BTT ĐKBH, đây cũng chính là thời điểm hợp đồng BH có hiệu lực. NĐBH, bằng chi phí riêng của mình, phải thực hiện mọi biện pháp hợp lý và tuân theo mọi kiến nghị hợp lý của NBH để ngăn chặn tổn thất xảy ra và phải tuân thủ mọi qui định pháp luật và khuyến nghị của nhà chế tạo. Trong thời gian NBH xem xét và kiểm tra rủi ro được BH, NĐBH phải cung cấp cho NBH mọi chi tiết, thông tin cần thiết để đánh giá rủi ro được BH. NĐBH phải lập tức thông báo cho NBH bằng điện tín bất cứ thay đổi quan trọng nào đối với các rủi ro được BH và bằng chi phí của mình phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa cần thiết mà hoàn cảnh yêu cầu để đảm bảo an toàn cho quá trình hoạt động của các hạng mục được BH và nếu cần thiết thì phạm vi BH sẽ được điều chỉnh một cách thích hợp. NĐBH không tự ý tiến hành hay chấp nhận bất cứ thay đổi nào làm tăng thêm rủi ro khi NBH có văn bản xác nhận rằng đơn BH vẫn tiếp tục có hiệu lực trong trường hợp đó. Trong trường hợp xảy ra những sự cố có thể dẫn đến việc đòi bồi thường theo đơn BH, NĐBH phải lập tức thông báo ngay cho NBH bằng điện thoại hay điện tín cũng như bằng văn bản, nêu rõ tính chất và mức độ tổn thất, thực hiện mọi biện pháp phù hợp với khả năng của mình để hạn chế tổn thất ở mức thấp nhất; bảo quản các bộ phận bị tổn thất và sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi cho đại diện hay giám định viên của NBH giám định các bộ phận đó; cung cấp mọi thông tin và chứng từ, văn bản theo yêu cầu của NBH. Sau khi NĐBH thông báo tổn thất cho NBH mà NBH không tiến hành giám định trong một thời gian được xem là hợp lý xét theo tình hình thực tế thì NĐBH có quyền xúc tiến việc sữa chữa hay thay thế. NĐBH bằng chi phí do NBH chịu, phải thực hiện, kết hợp và cho phép thực hiện những công việc hoặc hành động xét thấy cần thiết theo yêu cầu của NBH nhằm bảo lưu các quyền lợi hay quyền miễn trách, quyền đòi bồi thường từ bên thứ ba những khoản mà NBH sẽ được hưởng hay có thể được hưởng hoặc được thế quyền. Sau khi đã thanh toán hay bồi thường tổn thất theo đơn BH này, dù cho hành động hay công việc như vậy cần thiét phải thực hiện hoặc được yêu cầu thực hiện trước hay sau khi NBH bồi thương cho NĐBH. - Nếu như trong trường hợp NBH giải quyết bồi thường cho NĐBH mà NĐBH thấy vẫn chưa phù hợp và thoả mãn theo ý nguyện của mình thì NĐBH có quyền khiếu nại NBH. Mọi thủ tục khiếu nại và trọng tài như đã đề cập ở trên. 6. Cơ sở để giải quyết bồi thường. Sau khi nhận được giấy báo tổn thất của NĐBH, NBH hoặc đại diện của họ phải lập tức tới ngay hiện trường để giám định tổn thất và tìm cách hạn chế tổn thất cùng với NĐBH. Nếu tổn thất lớn thì phải thuê giám định bên ngoài và thường do NBH chỉ định. a. Tài liệu cần thiết cho giám định bồi thường : - Đơn BH và các điều khoản bổ sung khác. - Hoá đơn thanh toán phí BH. - Thông báo tổn thất (nêu rõ diễn biến, hậu quả và biện pháp hạn chế tổn thất). - Biên bản giám định. - Báo cáo của công an (trong trường hợp cần thiết). b. Căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường. - Thời hạn BH. - Phạm vi BH (dựa vào nguyên nhân gây tổn thất). c. Giới hạn trách nhiệm cao nhất mà NBH phải chịu. Sau qúa trình giám định tổn thất, việc bồi thường trong BHMM được thực hiện bằng cách NBH thanh toán các chi phí để khắc phục thiệt hại, đôi khi bằng sự sữa chữa trực tiếp những máy móc bị phá huỷ. Tuy nhiên ở đây cần phân biệt giữa thiệt hại có thể sữa chữa được và thiệt hại toàn phần. Nếu thiệt hại của máy móc là tổn thất có thể sữa chữa được, NBH sẽ thanh toán các chi phí cần thiết đã bỏ ra để khôi phục lại hạng mục đó nhằm đưa nó trở lại đúng như hiện trạng ban đầu cộng với các khoản chi phí đã bỏ ra để tháo dỡ và lắp ráp lại nhằm phục vụ cho việc sữa chữa cũng như các chi phí vận chuyển thông thường tới xưởng sữa chữa và từ nơi sữa chữa trở về, các chi phí mời chuyên gia, các khoản lệ phí, thuế hải quan và các chi phí khác trong phạm vi mà các khoản chi phí đó đã được tính đến trong số tiền bảo hiểm. Nếu việc sữa chữa được tiến hành tại xưởng của NĐBH thì NBH sẽ bồi thường các chi phí về nguyên vật liệu, nhân công phải chi cho công việc sữa chữa đó cộng với một tỷ lệ hợp lý chi phí quản lý. Người bảo hiểm máy móc sẽ không thanh toán các chi phí trung, đại tu các máy móc được bảo hiểm. Trường hợp sữa chữa tạm thời thì các chi phí chỉ được thanh toán nếu qua đó không làm cho toàn bộ chi phí sữa chữa tăng lên. Một nguyên tắc bồi thường trong BHMM là không có sự khấu trừ “ mới thay cũ ”, tức là sự làm tăng giá trị do sữa chữa, tuy có làm lợi cho NĐBH song sẽ không vì thế mà mức độ bồi thường bị cắt giảm. Đối với các bộ phận được thay thế, sẽ không có sự khấu trừ hao mòn nhưng sẽ tính đến giá trị thu hồi. Trường hợp thiệt hại của máy móc là thiệt hại toàn phần tức là các chi phí sữa chữa nói trên ngang bằng hay vượt quá giá trị thực tế của hạng mục tài sản được BH ngay trước khi xảy ra tổn thất thì NBH sẽ bồi thường giá trị thực tế của hạng mục đó ngay trước khi xảy ra tổn thất, kể cả chi phí vận chuyển thông thường, chi phí lắp đặt và thuế hải quan (nếu có) trong phạm vi các khoản chi phí đó đã được tính đến trong số tiền bảo hiểm. Giá trị thực tế này được tính bằng cách lấy giá trị thay thế mới trừ đi khấu hao hợp lý của hạng mục đó. NBH cũng sẽ thanh toán khoản chi phí tháo dỡ thông thường các hạng mục bị tổn thất nhưng sẽ khấu trừ giá trị thu hồi được. Bất kỳ khoản chi phí phát sinh nào do việc làm thêm giờ, làm đêm, làm trong ngày lễ và các chi phí vận chuyển nhanh chỉ được thanh toán nếu như có thoả thuận bằng văn bản rõ ràng trong đơn BH. Cần lưu ý rắng NBH chi sẽ bồi thường sau khi đã có đủ các hoá đơn, chứng từ cần thiết để chứng tỏ rằng việc sữa chữa đã được tiến hành hay việc thay thế đã được thực hiện, tuỳ theo từng trường hợp cụ thể. Nếu tổn thất xảy ra dưới mức khấu trừ thì NBH không có trách nhiệm phải thanh toán cho NĐBH. 7. Hoạt động đề phòng và hạn chế tổn thất. Ngày nay một trong những nhiệm vụ cơ bản của nhà bảo hiểm máy móc là bằng những nghiên cứu có tính chất phòng ngừa, kịp thời phát hiện những sai sót trong máy móc và thiết bị, qua đó hạn chế xác suất xảy ra tổn thất ở mức tối thiểu. Các công ty BHMM do vậy còn là nơi tập trung các loại thiệt hạn của máy móc và lĩnh trách nhiệm phân tích chúng. Công tác xử lý thiệt hại mang tính khoa học, kỷ thuật cao cho phép xác định chính xác nguyên nhân gây thiệt hạn trong hầu hết các trường hợp, tại các cơ sở kiểm tra vật liệu của ngành BH, các chuyên gia với trình độ cao đã có những cống hiến quý báu. Nếu như biết được nguyên nhân của tổn thất thì người ta cũng tìm ra được biện pháp ngăn ngừa sự lặp lại của chúng theo dự đoán của con người và không chỉ đối với máy bị thiệt hại đó mà đối với tất cả máy móc khác. Vì vậy, công tác phòng ngừa và hạn chế tổn thất không chỉ đem lại lợi ích cho nhà BHMM mà cho cả NĐBH, bởi lẽ khi có tổn thất, BHMM tuy đã bồi thường thiệt hại xảy ra song sẽ không bù đắp được các chi phí khác như chi phí gia tăng trong xí nghiệp hoặc sự mất thị trường. Trong BHMM, việc đề phòng và hạn chế tổn thất cho một hạng mục cụ thể gồm có các công việc sau : -Tiến hành kiểm tra thực tế và đánh giá rủi ro cho những hạng mục được yêu cầu bảo hiểm trước khi cấp đơn. Đây là công việc quan trọng của NBH nhằm đánh giá khả năng xảy ra tổn thất, là căn cứ đề xuất những biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất cho NĐBH. Qua hoạt động này NĐBH sẽ nắm rõ hơn nguy cơ xảy rủi ro với máy móc và thiết bị của mình từ đó có ý thức tốt hơn trong sử dụng cũng như bảo quản máy. - Kiểm tra rủi ro trong thời kỳ bảo hiểm : Trong thời hạn bảo hiểm, nếu có thể NBH sẽ tiến hành xem xét và kiểm tra rủi ro được bảo hiểm. Nếu thấy khả năng xảy ra tổn thất tăng sẽ có những biện pháp đề phòng thích hợp. - Liên kết với các nhà sản xuất, chế tạo và lắp đặt máy móc để có những hướng dẫn cụ thể cho việc sử dụng an toàn và thường xuyên thúc đẩy người sử dụng thực hiện đầy đủ những quy định cho việc bảo đảm an toàn máy. Chương III tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm máy móc tại công ty bảo hiểm hà nội I. vài nét về công ty Bảo hiểm hà nội và sự ra đời của bảo hiểm máy móc. Như đã nói ở trên, ngành kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu vào năm 1965 khi Nhà nước ra quyết định 179/CP ngày 17/12/64 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập công ty bảo hiểm đầu tiên ở Việt Nam vào ngày 15/01/65 dưới tên giao dịch là Bảo Việt. Như vậy so với lịch sử phát triển của ngành tài chính nước ta thì bảo hiểm ra đời muộn hơn hết nhưng sau hơn 30 năm hoạt động, Bảo Việt đã phát triển và lớn mạnh không ngừng, đóng góp một phần đáng kể vào sự phát triển của xã hội và đem lại sự an tâm lớn cho những người tham gia. Để đáp ứng nhu cầu bảo hiểm ngày càng lớn mạnh, năm 1981 công ty bảo hiểm Việt Nam đã cho thành lập thêm các chi nhánh ở các Tỉnh, địa phương. Hoạt động của các chi nhánh này không những giúp Bảo Việt triển khai bảo hiểm trên cả nước mà còn hình thành một mạng lưới đảm bảo an toàn tài chính cho những người tham gia. Một trong những chi nhánh luôn dẫn đầu trong việc hoàn thành và vượt mức kế hoạch phải kể đến chi nhánh Bảo hiểm Hà Nội, nay là Công ty bảo hiểm Hà Nội (Bảo Việt Hà Nội - BVHN). Được thành lập ngày 17/11/1980 theo quyết định số 1125/BTC của Bộ tài chính với phạm vi kinh doanh trong địa bàn Hà Nội, ban đầu chi nhánh bảo hiểm Hà Nội chỉ được coi là một bộ phận nhỏ của công ty BHVN và dưới sự điều hành tổ chức của công ty. cùng với sự phát triển không ngừng của cả nước nói chung và thủ đô Hà Nội nói riêng, chi nhánh Hà Nội ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động, số nghiệp vụ tăng dần, doanh thu và lợi nhuận ngày càng lớn. Từ các nghiệp vụ ban đầu là trách nhiệm dân sự, tai nạn hành khách, sau đó được mở rộng thêm các nghiệp vụ khác như bảo hiểm học sinh (1986), bảo hiểm tàu sông tàu cá (1987), bảo hiểm hàng hoá XNK, tàu biển (1988) và một số nghiệp vụ khác. Đến ngày 27/04/1989 chi nhánh bảo hiểm Hà Nội được nâng lên thành Công ty bảo hiểm Hà Nội theo quyết định số 27/TC-BTC của Bộ tài chính cho phù hợp với tầm vóc hoạt động của nó. Để xứng đáng là Công ty thành viên của Tổng công ty BHVN, Công ty Bảo Việt Hà Nội đã có những bước chuyển mình, không ngừng phấn đấu vươn lên, luôn hoàn thành và vượt mức kế hoạch trên giao. Số lượng các nghiệp vụ cũng được tăng thêm như bảo hiểm cháy năm 1989, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt 1992, bảo hiểm đầu tư năm 1996 ... nhằm thoả mnhững nhu cầu ngày càng tăng của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước cũng như mọi tầng lớp nhân dân. Trải qua 17 năm hoạt động, dù bất kỳ hoàn cảnh nào bất kỳ điều kiện nào, cán bộ của Công ty luôn đoàn kết nhất trí trên dưới một lòng hoàn thành nhiệm vụ. “Phục vụ khách hàng như phục vụ người thân” là khẩu hiệu được đề ra và ngấm sâu vào mỗi thành viên trong Công ty đồng thời được cụ thể hoá thành những mục tiêu, những công việc cụ thể cho mỗi bộ phận mỗi cán bộ của Công ty. Cho tới nay Công ty đã trở thành một đơn vị kinh tế hùng mạnh với hơn 130 cán bộ,12 văn phòng đại diện ở các quận huyện cùng với mạng lưới đại lý và cộng tác viên phủ kín các địa bàn dân cư của Thành phố, sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu và trở thành một trong bốn đơn vị chủ lực cuả Tổng Công ty BHVN. Trong sự cạnh tranh gay gắt của thị trường bảo hiểm vốn đang sooi động hiện nay, BVHN luôn phải đổi mới phong cách phục vụ, tự mình vươn lên nắm lấy thời cơ và đẩy nhanh tốc độ phát triển. Trước một thực tế khả quan về sự phát triển kinh tế của Việt Nam, số lượng đầu tư ngày càng lớn và nhu cầu về sử dụng máy móc tăng nhanh, BVHN đã biết khai thác và đi sâu vào mảng thị trường này, tiến hành triển khai nghiệp vụ bảo hiểm máy móc. Như vậy nghiệp vụ BHMM ra đời ở BVHN theo yêu cầu củng cố và tăng vị thế của Bảo Việt trên thị trường. Đây là lýdo chính, song cũng phải nói đến vấn đề tăng doanh thu và lợi nhuận cho Công ty. Nhu cầu về sử dụng máy móc cho quá trình Công nghiệp hoá ở Việt Nam đang tăng nhanh hứa hẹn nguồn thu phí lớn và đây chính là sự quan tâm của người làm công tác lãnh đạo. Trên địa bàn Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung nhu cầu về BHMM là rất lớn và không ngừng tăng lên trong tương lai. Điều này cũng dễ hiểu vì Hà Nội là trung tâm của kinh tế và chính trị của cả nước. Với diện tích 920 km2, dân số 3,5 triệu người, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 11% /năm, Hà Nội đã thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể số vốn đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép hoạt động ở Hà Nội như sau : Đơn vị : 1000 USD Năm 1994 1995 1996 1997 Số vốn 2.557.610 3.354.584 4.141.000 951.000 Biểu số 3 : Vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hà Nội. Như vậy mặc dù số vốn đầu tư nước ngoài năm 97 có giảm so với các năm trước nhưng nhìn chung vốn đầu tư vvào Hà Nội vẫn tăng so với cả nước. Trong năm 97 với 80 dự án và 951 triệu USD Hà Nội vẫn đứng thứ ba sau TP.HCM và Đồng Nai, điều này một mặt thể hiện sự lớn mạnh về kinh tế của Hà Nội, mặt khác tạo điều kiện cho nghiệp vụ bảo hiểm có nguồn thu tăng dần. II. thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm máy móc ở công ty bảo hiểm hà nội. 1. Công tác khai thác. Đây là bước đầu tiên và không thể thiếu đối với bất kỳ loại hình bảo hiểm nào, khâu tiếp cận khách hàng để ký kết hợp đồng có ý nghĩa quyết định đến khả năng tồn tại và phát triển của nghiệp vụ. Khai thác chính là sự huy động, tập trung nguồn đóng góp từ các đơn vị, cá nhân muốn tham gia bảo hiểm. Nguồn đóng góp này cùng với một phần lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của Công ty sẽ tạo nên quỹ dự trữ tài chính cần thiết cho Công ty. Nếu quỹ dự trữ này lớn sẽ cho phép Công ty bồi thường những rủi ro lớn và do vậy mức giữ lại sẽ tăng lên. Khâu khai thác này chi phối rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngành bảo hiểm vì quỹ dự trữ có ý nghĩa như là một nguồn vốn đảm bảo cho các Công ty hoạt động có hiệu qủa. Hiện nay công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm máy móc ở BVHN do nhóm bảo hiểm kỹ thuật thuộc phòng cháy và rủi ro kỹ thuật chịu trách nhiệm. Trong khai thác việc đề ra một quy trình khai thác hợp lý là rất cần thiết. Nó bao gồm công việc bám sát tìm hiểu thị trường, hướng dẫn kê khai đơn bảo hiểm, tiến hành xác định và đánh giá rủi ro để tính phí. Sau khi cấp đơn bảo hiểm, NBH phải thông báo thu phí và thu xếp hợp đồng tái bảo hiểm trong trường hợp cần thiết. Để thực hiện tốt quy trình này, Công ty đã có nhiều biện pháp tích cực như đào tạo và tuyển dụng cán bộ có năng lực với công việc thông qua các cơ quan quản lý để nắm bắt các thông tin thị trường. Đánh giá công tác khai thác của Công ty bảo hiểm Hà Nội trong thời gian qua, để có được các kết quả như hiện nay, Công ty có được những thuận lợi về nhiều mặt song cũng không ít khó khăn đòi hỏi phải có biện pháp thích hợp để vượt qua và vươn lên. Với số vốn đầu tư không ngừng tăng lên và với chủ trương “nội địa hoá sản phẩm” của Đảng và Nhà nước ngày càng có nhiều nhà máy xí nghiệp mọc lên ở Hà Nội cũng như các vùng lân cận. Điều này tất nhiên sẽ kéo theo một lượng máy móc lớn cần thiết cho hoạt động sản xuất. Hơn nữa nghị định 332/ HĐBT ngày 25/ 01/91 của Hội đồng Bộ trưởng về việc Nhà nước xoá bỏ hoàn toàn việc bao cấp vốn cho các DNNN kể cả trường hợp bị thiên tai, tai nạn bất ngờ gây cho doanh nghiệp đó, đã buộc các doanh nghiệp quan tâm nhiều đến việc bảo hiểm tài sản cho đơn vị mình. Tất cả những điều này đã tạo điều kiện thuận lợi trong công tác khai thác. Bên cạnh những thuận lợi đã nêu, việc khai thác bảo hiểm máy móc ở BVHN cũng gặp những khó khăn nhất định. Trong khâu khai thác thì việc nắm bắt thông tin ban đầu là rất quan trọng, nó liên quan đến việc có ký được hợp đồng hay không. Để làm việc này công ty đã có những mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan chức năng liên quan như Bộ kế hoạch và đầu tư, Bọ công nghiệp, Bộ tài chính ... thông qua đây công ty có những thông tin chính xác để chủ động quan hệ trực tiếp với chủ doanh nghiệp nhằm đàm phán bảo hiểm. Với các Công ty liên doanh nếu công ty khai thác trực tiếp sẽ có nhiều trở ngại vì trong liên doanh vốn góp của bên Việt Nam thường chiếm tỷ lệ thấp (từ 30 đến 40%) mà chủ yếu lại bằng quyền sử dụng đất và tài sản sẵn có vì vậy quyền điều hành công ty và do đó quyền thu xếp bảo hiểm do bên nước ngoài nắm giữ. Trong lĩnh vực này người nước ngoài thường có nhiều kinh nghiệm hơn các doanh nghiệp trong nước, hơn thế nữa họ có quyền tham gia bảo hiểm ở bất kỳ một công ty nào được phép hoạt động ở Việt Nam chứ không nhất thiết phải tham gia ở BVHN. Trong luật đầu tư nước ngoài ban hành năm 1990 để hấp dẫn các nhà đầu tư, ta không bắt buộc họ phải mua bảo hiểm ở các công ty trong nước. Tại điều 9 chương II của luật này quy định : “... tài sản của xí nghiệp liên doanh được bảo hiểm tại các Công ty bảo hiểm Việt Nam hoặc tại một Công ty bảo hiểm khác do hai bên thoả thuận”, điều này không mang lại thuận lợi cho Công ty. Bên nước ngoài có thể tham khảo phí của nhiều Công ty bảo hiểm khác nhau, cả trong nước và nước ngoài, Công ty nào mà họ cảm thấy có lợi nhất thí họ sẽ tham gia. Trường hợp nếu họ tham gia tại BVHN thì lại thường gây áp lực với công ty về phí và phạm vi bảo hiểm, thậm chí cả về phương thức tái bảo hiểm. Cũng có trường hợp, một phần các nhà đầu tư nước ngoài chưa hoàn toàn tin tưởng vào Công ty, một phần họ lợi dụng sự thiếu hiểu biết của bên Việt Nam trong liên doanh mà tham gia bảo hiểm với các Công ty của nước họ. Khi tổn thất xảy ra họ sẽ giữ lại số tiền được bồi thường trong khi vẫn phân bổ thiệt hại cho hai bên cùng gánh chịu. Đây không phải là trường hợp hiếm thấy trong các liên doanh với nước ngoài ở Việt Nam. Vì vậy để thu hút khách hàng về phía mình Công ty phải có những chính sách, chiến lược cạnh tranh thích hợp. Với các xí nghiệp, nhà máy trong nước - mặc dù Công ty đã có những mối quan hệ với các cơ quan, Bộ chủ quản để thu nhận thông tin và tổ chức tuyên truyền quảng cáo nhưng thực tế cũng rất khó khăn trong ký hợp đồng. Thứ nhất là do các cơ quan này đã quen với sự bảo trợ của nhà nước ở thời ký bao cấp, từ đó nảy sinh tâm lý ỷ lại, trông chờ vào nhà nước. Với mục tiêu lợi nhuận, họ chỉ thấy được cái lợi trước mắt mà quên đi những thiệt hại lớn và lâu dài khi máy móc bị hỏng. Đây một trong những hậu quả của cơ chế bao cấp kéo dài mà không dễ gì mất đi trong ngày một ngày hai. Mặc dù nghị định 233/HĐBT đã ra đời, trong đó quy định rõ không cho phép các DNNN ghi giảm vốn trong trường hợp tài sản bị tổn thất vì những rủi ro mà các công ty bảo hiểm trong nước đã triển khai nhưng nghiệp vụ bảo hiểm tương ứng nhưng thức tế các hoạt động thúc đẩy việc thức hiện nghị định vẫn không có kết quả khả quan. Hơn nữa, hiện nay không có một văn bản pháp lý nào bắt buộc các xí nghiệp nhà máy phải mua bảo hiểm cho tài sản của mình. Thứ hai, do BHMM mới được triển khai ở Việt Nam trong thời gian tương đối ngắn, chưa thực sự đi vào các hoạt động sản xuất, lại mang tính kỷ thuật liên quan đến máy móc nên rất ít người hiểu được nghiệp vụ này. Nếu không có công tác TTQC thích hợp để giới thiệu rõ về nó thì công ty sẽ gặp khó khăn trong thuyết phục khách hàng mua bảo hiểm. Một khó khăn nữa trong qúa trình khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm nói chung và BHMM nói riêng là tập quán bảo hiểm mới được hình thành ở Việt Nam trong thời gian ngắn, chưa tạo thành thói quen thường trực của các tổ chức và đơn vị kinh doanh. Trong khi đó có rất ít các máy móc bị tổn thất trực tiếp do đỗ vỡ từ bên trong mà phần lớn tổn thất xảy ra với máy móc hoạt động ở Việt Nam là do các nguyên nhân từ bên ngoài như hoả hoạn, bão lụt ... Những rủi ro từ bên ngoài này trong một số trường hợp, có vẻ phù hợp với loại hình bảo hiểm khác hơn chẳng hạn như đơn bảo hiểm hoả hoạn- một loại hình bảo hiểm đã được triển ở Việt Nam từ lâu và trở nên rất phổ biến. So với BHHH thì BHMM có phạm vi hẹp hơn, chỉ bảo hiểm cho những tổn thất xảy ra từ nguyên nhân bên trong như chập điện, sai sót trong thiết kế, tính toán chế tạo, vỡ do lực ly tâm, đoản mạch, thiếu nước trong nồi hơi ... và một số tổn thất xảy ra từ nguyên nhân bên ngoài như bão lụt, đóng băng, tan băng. Trong khi đó nếu tham gia BHHH và thêm các ĐKBS thì NĐBH vẫn có thể được bảo hiểm cho một phần những rủi ro này. Như vậy tổn thất xảy ra ít, thiệt hại đêm lại không thường xuyên đủ để các chủ xí nghiệp, nhà máy cảm thấy sự cần thiết quan trọng của BHMM nên trong nhiều trường hợp họ cố tình quên vấn đề bảo hiểm để tiết kiệm được một khoản chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực tế để khắc phục hạn chế này, tổng công ty bảo hiểm Việt Nam đã đưa vào áp dụng một số điều khoản bổ sung nhằm thoả những nhu cầu đa dạng của khách hàng và tổng công ty cũng đã cho phép các công ty thành viên áp dụng các ĐKBS đó. Ví dụ trong đơn cấp cho bệnh viện quốc tế Bạch Mai để bảo hiểm cho các máy móc và thiết bị điện tử, hệ thống chiếu sáng của bệnh viện với giá trị bảo hiểm là 1.975.270USD, công ty đã áp dụng thêm hai ĐKBS là ĐKBS006: ”bảo hiểm cho các chi phí làm thêm giờ, làm đêm, làm ngày lễ chủ nhật” và ĐKBS006: ”bảo hiểm cho cước phí vân chuyển nhanh bằng hàng không”. Ngoài ra còn có một thực trạng ở Việt Nam làm hạn chế quy trình khai thác BHMM đó là phần lớn máy móc đều ở trong trạng thái cũ và điêù kiện hoạt động kém an toàn. Theo thống kê, cả nước chỉ có khoảng 30% máy móc là thay thế mới còn phần lớn có thời gian sử dụng quá dài, công nghệ lạc hậu và điều kiện hoạt động kém an toàn. Nếu chiếu theo đơn tiêu chuẩn của Munich Re mà hiện nay ta đang áp dụng thì công ty chỉ bảo hiểm cho những máy móc có thời gian sử dụng không quá 20 năm, đặt trong điều kiện hoạt động tốt, không bảo hiểm cho những máy quá cũ và giá trị còn lại dưới 40%. Mặc dù ĐKBS có thể bảo hiểm cho những máy móc cũ quá 20 năm nhưng phải có điều kiện là trước đó đã tham gia bảo hiểm trong một thời gian dài với thống kê tổn thất trong quá khứ tốt. Điều kiện này thật là mâu thuẫn với thực tế Việt Nam mới triển khai BHMM hơn 2 năm nên nó hạn chế rất nhiều số đơn được cấp. Tỷ lệ máy mới rất thấp lại nằm chủ yếu ở các công ty liên doanh và công ty 100% vốn nước ngoài, đây chính là đối tượng chủ yếu của công ty do vậy công ty phải có biện pháp nhằm khai thác có hiệu quả đối tượng này. hiện nay công ty liên doanh ôtô HITC ở Từ liêm là một trong những khách hàng lớn với giá trị bảo hiểm lên tới hàng chục triệu USD. Về phía thị trưòng công ty gặp trở ngại lớn đó là sự ra đời của nhiếu công ty bảo hiểm sau Nghị định 100-CP của Chính phủ. Giờ đây, ngoài hệ thống Bảo Việt còn có các công ty lớn khác như PJICO, PVIC, Bảo Minh, Bảo Long.. và gần đây nhất là công ty liên doanh United Insurance Cooperation of Việt Nam được thành lập ngày 11 tháng 3 năm 1998 đẫ làm cho công ty mất phần lớn khách hàng là các liên doanh với Nhật. Thị trường bảo hiểm Việt Nam vốn đã sôi động lại càng trở nên gay gắt vì không chỉ có sự canh tranh giữa các công ty trong nước mà còn có cả nước ngoài. Trên địa bàn Hà nội, ngoài Tổng công ty và BVHN còn có trụ sở chính hoặc văn phòng đại diện của các công ty nêu trên và một số văn phòng bảo hiểm nước ngoài như AIG ( Mỹ), GAN (Pháp).. các văn phòng đại diện nước ngoài này chưa được phép hoạt động kinh doanh tại thị trường Việt nam nhưng trên thực tế, lợi dụng sự sơ hở trong pháp luật của ta họ vẫn chuyển những dịch vụ bảo hiểm trong nước cho các công ty bảo hiểm nước ngoài gây thất thoát cho các công ty trong nước. Công ty bảo hiểm Hà nội cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Đối với các công ty được thành lập sau Nghị định 100-CP thì thực sự công ty đang trong tình trạng cạnh tranh khốc liệt. Ngoài việc hạ phí một cách vô tội vạ nhiều công ty mới ra đời còn nhận bảo hiểm thông qua công ty môi giới nước ngoài và tái bảo hiểm cho họ với tỷ lệ tái rất cao có khi lên tới 70 đến 75% nhưng tỷ lệ hoa hồng lại thấp từ 5-7%. Với tỷ lệ hoa hồng thấp như vậy các công ty gốc không đủ bù đắp chi phí khai thác song vì mới ra đời nên họ vẫn sẵn sàng nhận bảo hiểm để quảng cáo cho công ty mình và chia sẻ thị phần Bảo việt cũng như với BVHN. Ngoài những khó khăn xuất phát từ phía khách hàng và thị trường ở trên thì công tác khai thac của BVHN cũng có một số trở ngại xuất phát từ chủ quan của công ty. Đó là hiện nay số lượng cán bộ chủ chốt, thực sự có năng lực còn thiếu. Bảo hiểm máy móc là loại hình bảo hiểm kỹ thuật nên nó đòi hỏi cán bộ khai thác không những nắm vững nghiệp vụ mà còn phải hiểu biết về máy móc để có những quyết định chính xác về mở rộng hay thu hẹp phạm vi bảo hiểm và cho khách hàng những lời khuyên giá trị về đề phòng và hạn chế tổn thất cũng như bảo quản máy. về vấn đề này công ty đã có một số giải pháp như mở lớp đào tạo nghiệp vụ và tham gia các lớp tập huấn do Tổng công ty tổ chức. Khó khăn thứ hai xuất phát từ phía công ty là việc xác định tỷ lệ phí cho mỗi đơn bảo hiểm. Khi xác định tỷ lệ này cho mỗi đối tượng trên thực tế công ty ít sử dụng biểu tỷ lệ phí thông thường của Munich Rc mà thông qua một chương trình tính phí đã được công ty tái bảo hiểm này xây dựng và cài đặt trong máy vi tính. Khi khách hàng yêu cầu bảo hiểm, họ phải điền vào bảng câu hỏi mà công ty yêu cầu, các dữ liệu từ bảng câu hỏi này được đưa vào máy tính và chương trình xử lý sẽ tính ra số phí cho mỗi máy được bảo hiểm. Khi tính phí theo phương pháp này đòi hỏiNĐBH khi khai báo phải theo nguyên tắc trung thực tuyệt đối, nhưng trên thực tế không phải khách hàng nào cũng thực hiện đúng mà đôi khi vì lợi ích cá nhân họ khai báo sai lệch thực tế nhằm hạ thấp mức phí phải chịu. Thêm vào đó nếu công ty không tiến hành đánh giá rủi ro thì kết quả sẽ cho một mức phí có lợi cho NĐBH nhưng lại không đảm bảo tài chính cho công ty. Trong thực tế với những máy móc đơn giản, ít chi tiết thì công ty tự tiến hành điều tra nhưng với những máy móc lớn, phức tạp thì sẽ phối hợp cùng Tổng công ty hoặc các cơ quan chức năng, những chuyên gia, cán bộ kỹ thuật có chuyên môn như kỹ sư máy móc, các nhà sản xuất. Ngoài cách tính phí trên công ty có thể sử dụng biểu phí thông thường trong đơn bảo hiểm tiêu chuẩn và áp dụng cho tất cả các máy móc cùng loại dù hoạt động ở những địa điểm khác nhau. Dù tính theo cách nào thì so với các loại hình bảo hiểm khác, mức phí này vẫn cao hơn rất nhiều. Đây chính là một trong những nguyên nhân trực tiếp gây khó khăn cho công tác khai thác. Mức phí này do Munich Re xây dựng trên cơ sở thống kê tổn thất thực tế xảy ra ở Đức trong khi đó xác suất rủi ro này không phải ở đâu cũng như nhau. Có thể ở Đức do nổ vật lý, do lực ly tâm gây xé đứt hay do đóng băng tan băng là chính thì ở Việt nam với khí hậu khô hanh, tay nghề công nhân chưa cao, điều kiện làm việc không an toàn những rủi ro về điện, cháy nổ hay thiếu nước trong nồi hơi lại phổ biến. Từ sự khác biệt nhau về xác suất rủi ro chắc chắn biểu phí sát thực và chính xác cho hai khu vực sẽ khác nhau. Biết là vậy nhưng trên thực tế chúng ta vẫn phải áp dụng theo họ vì chưa làm được công tác thống kê tổn thất nên không thể tự mình xây dựng một biểu phí riêng. Hơn nữa Munich Re là công ty nhận tái bảo hiểm trực tiếp từ Việt nam do đó họ sẽ nhận với tỷ lệ tái và tỷ lệ phí trên căn cứ biểu phí của họ được áp dụng cho đơn bảo hiểm gốc. Tuy nhien theo kinh nghiệm thực tế của công ty bảo hiểm Hà nội, để đảm bảo yếu tố cạnh tranh trên thị trường, khi tính phí công ty có thể thay đổi cho phù hợp với từng khách hàng và với phạm vi bảo hiểm cụ thể. Với đơn bảo hiểm cấp cho bệnh viện quốc tế Bạch Mai nói trên tỷ lệ phí được xác định chung cho tất cả các loại máy là 0,424% chứ không tính riêng cho từng máy riêng biệt. Khi tiến hành khai thác vận động khách hàng tham gia bảo hiểm, các cán bộ không thể không quan tâm đến vấn đề ”khấu trừ”. đối với bất kỳ loại hình bảo hiểm tài sản nào thì mức khấu trừ này hết sức cần thiết, nó liên quan đến tỷ lệ phí của hợp đồng bảo hiểm. Như đã nói ở trên, mức miễn thường này một mặt có tác dụng nâng cao trách nhiệm của NĐBH với tài sản của mình, mặt khác tránh cho NBH khỏi phải giải quyết các tổn thất nhỏ tiết kiệm những chi phí không cần thiết. Trong điều kiện thực tế hiện nay khấu trừ còn là một công cụ đắc lực trong việc cạnh tranh, điều đó thể hiện khi hai công ty cùng mời chào một khách hàng với cùng các điều khoảnm, mưc phí, thời hạn bảo hiểm như nhau thì công ty có mức khấu trừ thấp chắc chắn sẽ dành được hợp đồng. Trong một vài trường hợp khi công ty nhận thấy số phí và các điều kiện bảo hiểm chưa thật hợp lý thì cách tốt nhất để tiếp tục hợp đồng là tăng mức khâu trừ. Thực tế khi xác định mức khấu trừ này cho những hạng mục máy móc được bảo hiểm gồm nhiều máy khác nhau thì không nên xác định riêng cho từng máy một mà nên lấy một giá trị trung bình, với các máy hoạt động ngoài trời hay số ca làm việc trong một ngày nhiều thì áp dụng mức khấu trừ cao hơn. Ví dụ đơn bảo hiểm cấp cho công ty xây dựng thi công nhà máy xi măng Nghi Sơn- Thanh hoá với danh mục máy móc được bảo hiểm lên tới hàng chục máy, công ty không thể xác định mức khấu trừ cho mỗi máy mà dùng chung một mức là 1000USD hoặc 10% giá trị cuả mỗi máy, lấy mức nào thấp hơn. Hiện nay công ty bảo hiểm Hà Nội khuyến khích khai thác trực tiếp nhưng vẫn có một số đơn phải thông qua môi giới. Khi khai thác trực tiếp thì công ty không phải trả hoa hồng môi giới nhưng nhiều khi lại gặp khó khăn từ phía khách hàng. Có nhiều khách hàng không tin tưởng công ty và họ chỉ mua bảo hiểm thông qua môi giới mà thôi hoặc cũng có khi công ty không hiểu rõ khách hàng lắm. Điều này dễ khắc phục bằng cách tuyên truyền quảng cáo giới thiệu công ty hoặc thông qua bộ chủ quản. Nếu qua môi giới thì có thuận lợi là họ quan hệ với khách hàng rộng hơn và hiểu rõ nhu cầu của khách hàng. Đối với nhưng đối tượng bảo hiểm phức tạp mà công ty chưa có điền kiện kiểm tra thì cách tốt nhất là qua môi giới. Tuy nhiên khách hàng là người chỉ định môi giới cho mình và môi giới bảo vệ quyền lợi cho khách hàng nên mặt trái của sự am hiểu này là sức ép về phí và điều kiện bảo hiểm mà công ty phải chịu. Ngoài tiền hoa hồng phải trả cho môi giới (thường từ 10 - 15% tuỳ thuộc vào từng đối tượng cấp đơn) thì khi nhận dịch vụ qua môi giới công ty buộc phải tái bảo hiểm cho những công ty tái mà môi giới chỉ định. Về điều này rất bất lợi cho công ty vì khi tái bảo hiểm theo chỉ định công ty họ sẽ ép tỷ lệ tái trong khi mình chưa hiểu rõ về họ nhiều. Hiện nay ở Việt Nam chỉ có một công ty môi giới được phép hoạt động chính thức, dó là công ty Inchinbrock với phạm vi hoạt động chưa rộng nhưng bước đầu cũng tạo điều kiịen cho các công ty bảo hiểm của Việt Nam vốn quen hoạt động trong điều kiện độc quyền tiếp xúc mạnh hơn với cạnh tranh và góp phần thúc đẩu sữ phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam. Như vậy, quy trình ký kết hợp đồng BHMM trải qua rất nhiều giai đoạn nhưng quan trọng nhất vẫn là khâu tiếp xúc với khách hàng để đàmg phán là đi đến ký kết. Công tác khai thác này đang còn nhiều khó khăn đòi hỏi phải có sự nỗ lực của mỗi cá nhân và công ty phải có biện pháp đúng đắn để đạt kết quả tốt hơn. 2. Công tác giám định tổn thất. Khâu giám định tổn thất có vị trí quan trọng đối với công tác bồi thường, nếu giám định đúng nguyên nhân gây tai nạn cũng như xác địng đúng mức độ tổn thất sẽ giúp NBH bồi thươngf chính xác tránh được những bất lợi cho cả hai bên. Trên thực tế, chưa có vụ tổn thất nào xảy ra thuộc tránh nhiệm của công ty nhưng trên cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm của các công ty trong nước cũng như nước ngoài, nếu có tổn thất xảy ra công ty bảo hiểm Hà Nội sẽ tiến hành theo các bước sau: Khi nhận được giấy báo tổn thất từ NĐBH, giám định viên của công ty sẽ xuống ngay hiện trường để nắm tình hình và điều tra tai nạn. Nếu xác định rằng đây là tổn thất nhỏ thì giám định viên của công ty sẽ tiến hành thực hiện, nếu là tổn thất lớn, khó xác định nguyên nhân công ty sẽ mời giám định đã thoả thuận với NĐBH . Muốn thực h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc13117.DOC
Tài liệu liên quan